Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Đối với đề tài Tìm hiểu một số di tích lịch sử - văn hóa tiêu biểu ở huyện
Cần Giuộc, tỉnh Long An, đã tiến hành một số nghiên cứu đa dạng, khám phá nhiều phương diện và khía cạnh khác nhau của khu vực này.
Cuốn "Gia Định thành thông chí" của Trịnh Hoài Đức, được dịch bởi Lý Việt Dũng và Trần Văn Tới, do Nxb Đồng Nai phát hành, là một công trình nghiên cứu sâu sắc về vùng đất Gia Định xưa Tác phẩm ghi chép tỉ mỉ về địa lý, khí hậu, hành chính, thành trì, phong tục tập quán, tính cách và sinh hoạt của cư dân từ năm 1698 đến đầu thế kỷ XIX, cung cấp tư liệu quan trọng về vùng đất Cần Giuộc xưa.
Cuốn “Khai quật khảo cổ học di tích Rạch Núi (Cần Giuộc, Long An)” -
Cuốn sách "Những phát hiện khảo cổ học ở Miền Nam" do Phạm Quang Sơn chủ biên, xuất bản năm 1978 bởi Nxb Viện KHXH, tập trung vào các cuộc khai quật và kết quả tại khu di tích khảo cổ Rạch Núi Nội dung chính của cuốn sách bao gồm việc trình bày các hiện vật khảo cổ, niên đại của chúng và các tầng văn hóa liên quan Tài liệu này có giá trị lớn trong nghiên cứu khảo cổ học tại vùng đất đầm lầy ven biển, giúp tái hiện đời sống vật chất của cư dân bản địa.
Cuốn “Địa chí Long An” do Thạch Phương - Lưu Quang Tuyến Chủ biên
Năm 1989, Nxb Long An và KHXH đã tổng hợp lịch sử hình thành, vị trí địa lý, dân cư, kinh tế, văn hóa và xã hội của tỉnh Long An Bài viết cũng đề cập đến vùng đất Cần Giuộc, bao gồm tên gọi, cương vực địa lý qua các thời kỳ và ghi chép về một số di tích lịch sử nổi bật.
Huyện Cần Giuộc, với những di sản văn hóa như chùa Tôn Thạnh, đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp tư liệu cho nghiên cứu về vùng đất Long An và đặc biệt là huyện Cần Giuộc.
Cuốn sách "Sưu tập về Nguyễn Thái Bình" của Huỳnh Ngọc Trảng và Cao Tự Thanh, xuất bản bởi Nxb Sở Văn hóa và Thông tin Long An năm 1984, là một công trình nghiên cứu công phu về cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Thái Bình Tác phẩm này có giá trị lớn, cung cấp nguồn tài liệu quý báu cho việc tìm hiểu và nghiên cứu sâu hơn về Khu di tích Nguyễn Thái Bình cũng như về cuộc đời và sự nghiệp của nhân vật lịch sử này.
Cuốn sách "Chùa Tôn Thạnh" do Trần Hồng Liên biên soạn và xuất bản năm 2002 bởi Nxb Sở Văn hóa – Thông tin tỉnh Long An, đã tóm tắt lịch sử hình thành và phát triển của ngôi chùa, cùng với các giá trị kiến trúc và tâm linh của nó trong bối cảnh lịch sử dân tộc Tác phẩm này cung cấp tư liệu quý giá cho việc nghiên cứu về chùa Tôn Thạnh trong quá khứ.
Cuốn sách “Sưu tập về Nguyễn Đình Chiểu” của Châu Anh Phụng, xuất bản năm 2004 bởi Nxb Văn hóa Thông tin Long An – Huyện ủy Cần Giuộc, đã cung cấp nhiều tư liệu quý giá giúp độc giả hiểu rõ hơn về cuộc đời và sự nghiệp văn chương của Nguyễn Đình Chiểu, đặc biệt là tác phẩm nổi tiếng “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” được yêu mến trong lòng người dân Nam Bộ.
Cuốn sách "Cơ sở văn hóa Việt Nam" do Trần Quốc Vượng chủ biên, xuất bản năm 2009, cung cấp những phân tích khoa học về nền văn hóa Việt Nam, đặc biệt là những yếu tố văn hóa đặc trưng của vùng đất Nam.
Bộ tác phẩm này không chỉ thể hiện nét riêng mà còn giữ tính thống nhất trong văn hóa Việt Nam, đặc biệt là qua việc giới thiệu tín ngưỡng thờ Thành hoàng, nhân vật trung tâm trong sinh hoạt văn hóa tại các đình làng Đây là một cơ sở quan trọng cho việc nghiên cứu văn hóa ở khu vực Nam Bộ.
Các công trình nghiên cứu đã đề cập đến nhiều khía cạnh của đề tài, nhưng chủ yếu chỉ ở mức độ khái quát và khảo tả riêng lẻ Chưa có công trình nào đi sâu vào nghiên cứu các di tích lịch sử văn hóa ở huyện, điều này cho thấy sự cần thiết phải thực hiện một nghiên cứu chi tiết hơn về vấn đề này.
Bài viết này tập trung vào việc nghiên cứu một cách hệ thống và toàn diện về các di tích lịch sử, văn hóa tại huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An, nhằm làm rõ ý nghĩa của chúng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội địa phương Dựa trên các công trình nghiên cứu trước đó, chúng tôi sẽ đưa ra những đánh giá về giá trị lịch sử, văn hóa của các di tích và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả khai thác các di tích trong bối cảnh hiện nay.
Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
Nguồn tài liệu thành văn bao gồm các tác phẩm chính sử, tác phẩm sử học, và các công trình nghiên cứu về lịch sử, văn hóa và tín ngưỡng Ngoài ra, lịch sử địa phương và các bài viết trên tạp chí chuyên ngành cũng là những nguồn quan trọng Các nghị quyết, chủ trương, và chính sách của Đảng và Nhà nước liên quan đến công tác bảo tồn và phát huy giá trị của các di tích cũng đóng vai trò thiết yếu trong việc nghiên cứu và phát triển di sản văn hóa.
Chúng tôi đã tiến hành nhiều chuyến khảo sát thực tế tại huyện Cần Giuộc nhằm tìm hiểu hiện trạng các di tích lịch sử và văn hóa Qua các cuộc điều tra, chúng tôi đã thu thập được nhiều thông tin quý báu về các di tích và hiện vật hiện có, góp phần làm rõ hơn tình hình bảo tồn di sản văn hóa tại địa phương.
- Phương pháp luận: chúng tôi chủ yếu dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác
- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về công tác nghiên cứu khoa học
- Phương pháp cụ thể: để thực hiện đề tài thuộc lĩnh vực khoa học lịch sử, chúng tôi vận dụng các phương pháp chuyên ngành như:
+ Phương pháp lịch sử để tìm hiểu khái quát quá trình hình thành và phát triển các di tích lịch sử - văn hóa
+ Phương pháp logic: tìm hiểu kiến trúc, thực trạng, biện pháp bảo tồn và phát huy các giá trị di tích lịch sử
Bên cạnh đó còn sử dụng các phương pháp liên ngành để nghiên cứu như: phương pháp điền dã kết hợp với phân tích, tổng hợp, so sánh
Đóng góp của đề tài
Quá trình xây dựng, trùng tu và tôn tạo các di tích lịch sử, văn hóa tiêu biểu tại huyện Cần Giuộc được thực hiện một cách hệ thống, nhằm bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa địa phương Các dự án này không chỉ góp phần gìn giữ di sản mà còn nâng cao nhận thức cộng đồng về tầm quan trọng của lịch sử và văn hóa trong đời sống hiện đại.
Tái hiện diện mạo vật chất của các di tích lịch sử và văn hóa bao gồm nhiều khía cạnh như kiến trúc, điêu khắc, cũng như các hoạt động tín ngưỡng và lễ hội văn hóa liên quan đến những di tích này.
Các di tích lịch sử, văn hóa và nghệ thuật tại huyện Cần Giuộc không chỉ mang giá trị to lớn về mặt lịch sử mà còn đóng góp đáng kể vào ngành du lịch địa phương Việc phân tích giá trị của những di tích này giúp nhận diện rõ hơn tác động tích cực của chúng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của huyện Những di tích này không chỉ thu hút khách du lịch mà còn góp phần nâng cao nhận thức cộng đồng về di sản văn hóa, từ đó thúc đẩy các hoạt động kinh tế và tạo cơ hội việc làm cho người dân.
Tài liệu này nhằm tổng hợp nguồn tư liệu phục vụ cho nghiên cứu và giảng dạy lịch sử địa phương, đồng thời đề xuất các giải pháp để phát huy và bảo tồn giá trị của các di tích lịch sử - văn hóa tại huyện Cần Giuộc hiện nay.
Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục Nội dung chính của luận văn có kết cấu 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về các di tích lịch sử - văn hóa trên địa bàn huyện Cần Giuộc
Chương 2: Khảo tả một số di tích lịch sử - văn hóa tiêu biểu
Chương 3: Giá trị lịch sử - văn hóa và một số biện pháp bảo tồn, tôn tạo, phát huy giá trị các di tích
TỔNG QUAN VỀ CÁC DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN CẦN GIUỘC
VÀI NÉT VỀ ĐỊA BÀN HUYỆN CẦN GIUỘC
1.1.1 Điều kiện tự nhiên và dân cư
Cần Giuộc, huyện thuộc vùng hạ của tỉnh Long An, tọa lạc ở phía Đông với tọa độ 10°34’43” vĩ độ Bắc và 106°38’35” kinh độ Đông Huyện có diện tích 210.198 km² và dân số trung bình khoảng 207.305 người vào tháng 6 năm 2018, đạt mật độ dân số 986 người/km².
Huyện Cần Giuộc nằm ở phía Đông giáp huyện Nhà Bè và huyện Cần Giờ thuộc Thành phố Hồ Chí Minh, phía Tây giáp huyện Bến Lức, phía Nam giáp huyện Cần Đước, và phía Bắc giáp huyện Bình Chánh Là một phần của vành đai vòng ngoài vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, Cần Giuộc còn được xem là cửa ngõ kết nối các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long với Thành phố Hồ Chí Minh qua quốc lộ 50.
Cảng Quốc tế Long An, nằm tại xã Tân Tập, huyện Cần Giuộc, có vị trí chiến lược quan trọng trên trục giao thông đường thủy, kết nối Đông và Tây Nam Bộ Cảng cách Thành phố Hồ Chí Minh 38 km qua Quốc lộ 50, đóng vai trò quan trọng trong việc giảm tải cho cụm cảng tại Thành phố.
Hồ Chí Minh đóng vai trò quan trọng trong việc giảm chi phí vận chuyển cho doanh nghiệp tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao lưu hàng hóa cả trong và ngoài nước.
Diện tích tự nhiên của huyện là 210,198 km² Về đơn vị hành chính toàn huyện có 1 thị trấn và 16 xã, chia làm 2 vùng: thượng và hạ
Vùng thượng của huyện bao gồm thị trấn Cần Giuộc và 9 xã: Phước Lý, Long Thượng, Phước Hậu, Mỹ Lộc, Phước Lâm, Thuận Thành, Long An, Tân Kim, và Trường Bình Khu vực này có nguồn nước ngầm với trữ lượng khá, cho phép khai thác nước từ các giếng khoan ở độ sâu 100 – 120m, đáp ứng nhu cầu sản xuất và sinh hoạt của cộng đồng dân cư.
Vùng hạ bao gồm 7 xã: Long Hậu, Phước Lại, Phước Vĩnh Tây, Long Phụng, Đông Thạnh, Tân Tập và Phước Vĩnh Đông Khu vực này đang đối mặt với tình trạng nước nhiễm phèn nặng, gây ra nhiều khó khăn cho sinh hoạt, sản xuất và đời sống của người dân.
Địa hình Cần Giuộc đặc trưng bởi sự thấp và bằng phẳng, với độ cao từ 0,5 đến 1,2m so với mực nước biển Khu vực này bị chia cắt mạnh bởi các sông rạch, có độ dốc nhỏ và nghiêng dần từ Tây Bắc sang Đông Nam Sông Cần Giuộc chảy theo hướng Bắc - Nam, tạo thành hai vùng thượng và hạ cho huyện Cần Giuộc.
- Vùng thượng có cao độ so với mặt biển 0,8 – 1,2 m, địa hình tương đối cao ráo
- Vùng hạ có cao độ so với mặt nước biển 0,5 – 0,8 m, có mật độ sông rạch tự nhiên dày đặc
Thổ nhưỡng của huyện chia thành 4 nhóm đất chính như sau:
Đất phù sa ngọt tại khu vực này có tổng diện tích 6.594 ha, chiếm 34,45% tổng diện tích tự nhiên, chủ yếu phân bố ở phía Tây và Bắc, bao gồm các xã như Phước Lý, Phước Hậu, Phước Lâm, Mỹ Lộc, Trường Bình và Thị trấn Cần Giuộc Với hàm lượng dinh dưỡng cao và địa hình tương đối cao, loại đất này rất thích hợp cho việc trồng lúa, rau màu và hoa quả.
Đất phù sa nhiễm mặn tại huyện có diện tích 3.329 ha, chiếm 17,4% tổng diện tích tự nhiên, phân bổ chủ yếu ở phía Đông sông Cần Giuộc, bao gồm các xã Long Hậu, Phước Lại, Phước Vĩnh Tây, Long Phụng và Đông Thạnh Loại đất này có hàm lượng dinh dưỡng khá và thích hợp cho việc trồng cây lúa.
Đất phèn không nhiễm mặn tại huyện có tổng diện tích 1.039 ha, chiếm 5,4% tổng diện tích tự nhiên, bao gồm các xã Thuận Thành, Long An và Trường Bình, là loại đất thích hợp cho việc trồng cây lúa.
Đất phèn nhiễm mặn tại huyện Cần Giuộc có diện tích 6.049 ha, chiếm 31,6% tổng diện tích tự nhiên của huyện và 60,2% diện tích đất phèn mặn của tỉnh Khu vực này chủ yếu phân bố ở phía Đông huyện, bao gồm các xã Long Hậu, Phước Lại, Phước Vĩnh Đông và Tân Tập.
Long Phụng và Đông Thạnh Đất có hàm lượng dinh dưỡng khá, thích hợp cây lúa và nhất là nuôi trồng thủy sản
Huyện Cần Giuộc có khí hậu nhiệt đới gió mùa với nhiệt độ trung bình hàng năm đạt 26,7°C và độ ẩm trung bình là 82,8% Nhiệt độ không khí hàng năm khá cao, trong đó nhiệt độ trung bình mùa khô là 26,5°C và mùa mưa là 27,3°C Tháng nóng nhất là tháng 4 và 5 với nhiệt độ lên tới 29°C, trong khi tháng mát nhất thường là tháng 12.
12 và tháng 1 (24,7 o C) Nhiệt độ cao nhất trong năm có thể đạt 40 o C và thấp nhất
Nhiệt độ trung bình là 14 độ C, với nắng gần như quanh năm và tổng số giờ nắng đạt khoảng 2.700 giờ mỗi năm Khu vực này có hai mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 4 đến tháng 10 và mùa nắng từ tháng 11 năm trước đến tháng 3 năm sau.
Sông Cần Giuộc, còn gọi là sông Rạch Cát hay sông Phước Lộc, dài 38km, chảy từ rạch Chợ Đệm đến cửa Soài Rạp, chia huyện Cần Giuộc thành hai vùng thượng và hạ Hai bên bờ sông có nhiều rạch nhỏ, như rạch Bà Lão, rạch Dứa, rạch Ông Chuồng, rạch Ông Hiếu, rạch Chà Là, và rạch Núi ở phía tả ngạn, cùng với rạch Cầu Tràm, rạch Mồng Gà, rạch Nha Ràm, rạch Nước Mặn, và rạch Đào ở phía hữu ngạn, tạo nên một hệ thống thủy lợi phong phú cho vùng.
Cần Giuộc sở hữu một hệ thống sông ngòi và kênh rạch phong phú, bao gồm sông Cần Giuộc, Cầu Tràm, Mồng Gà, Kinh Hàn, Soài Rạp cùng hơn 180 kênh lớn nhỏ khác Vùng đông bắc tỉnh chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của nước mặn, đặc biệt là từ sông Cần Giuộc, với độ mặn dao động từ 3g/lít đầu tháng 1 đến 11g/lít vào đầu tháng 3 Mặc dù độ mặn cao (từ 7 – 15% vào mùa khô) gây khó khăn cho sản xuất và sinh hoạt của người dân, nhưng lại tạo điều kiện thuận lợi cho nuôi thủy sản nước lợ Để cải thiện tình hình, chính quyền và người dân đã xây dựng các công trình thủy lợi như Đập Ông Hiếu nhằm ngăn mặn và trữ ngọt.
Gà, Trị Yên, hàng trăm km kênh nội đồng, nhiều cống đầu mối, đáp ứng một phần nhu cầu nước cho sản xuất và đời sống của nhân dân
KHÁI QUÁT VỀ HỆ THỐNG CÁC DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA
Di sản văn hóa Việt Nam, theo Luật Di sản văn hóa được Quốc hội thông qua vào năm 2001, được coi là tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam và là một phần của di sản văn hóa nhân loại Di sản này đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của nhân dân Việt Nam.
Di sản văn hóa bao gồm hai loại chính: di sản văn hóa vật thể và di sản văn hóa phi vật thể Đây là những sản phẩm có giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, góp phần bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Tỉnh Long An hiện có 109 di tích lịch sử - văn hóa, bao gồm 20 di tích cấp quốc gia và 86 di tích cấp tỉnh, cùng với 9 cơ sở tôn giáo được xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa, trong đó có 3 di tích cấp quốc gia và 6 di tích cấp tỉnh Trong những năm gần đây, Long An đã chú trọng đến việc quản lý, trùng tu, tôn tạo và phát huy giá trị các di tích lịch sử - văn hóa tại địa phương.
Huyện Cần Giuộc thuộc tỉnh có 15 di tích lịch sử - văn hóa, trong đó bao gồm 3 di tích cấp quốc gia: chùa Tôn Thạnh, di chỉ Khảo cổ học Rạch Núi và di sản văn hóa phi vật thể quốc gia Miếu Bà Ngũ Hành Ngoài ra, còn có 12 di tích cấp tỉnh, thành phố như Khu lưu niệm Nguyễn Thái Bình, di tích đình Chánh Tân Kim và di tích Rạch Bà Kiểu.
Di tích là những bằng chứng vô giá cho quốc gia dân tộc, giúp con người nhận thức cội nguồn, truyền thống lịch sử và văn hóa đặc trưng của từng vùng miền Đặc biệt, đất Long An và huyện Cần Giuộc đã trở thành một vùng đất mới trong quá trình phát triển lịch sử, nơi hội tụ đa dạng các loại hình di tích như di tích khảo cổ học và di tích lịch sử - văn hóa.
1.2.1 Di sản văn hóa phi vật thể
Di sản văn hóa phi vật thể, theo Luật di sản văn hóa năm 2001, được định nghĩa là sản phẩm tinh thần có giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học, được truyền đạt qua các hình thức như truyền miệng, trình diễn, và lưu giữ khác Nó bao gồm các yếu tố như tiếng nói, chữ viết, tác phẩm văn học, nghệ thuật, ngữ văn truyền miệng, diễn xướng dân gian, lối sống, nếp sống, lễ hội, bí quyết nghề thủ công truyền thống, tri thức về y dược học cổ truyền, văn hóa ẩm thực, trang phục truyền thống dân tộc và các tri thức dân gian khác.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 1 của Luật số 32/2009/Quốc hội 12, sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật di sản văn hóa, luật này có hiệu lực từ ngày 01 tháng.
Vào năm 2010, khái niệm di sản văn hóa phi vật thể đã được sửa đổi và bổ sung, định nghĩa rằng đây là sản phẩm tinh thần gắn liền với cộng đồng hoặc cá nhân, bao gồm các vật thể và không gian văn hóa có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, thể hiện bản sắc của cộng đồng Di sản này không ngừng được tái tạo và truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua các hình thức như truyền miệng, truyền nghề và trình diễn.
Lễ hội vía bà Ngũ Hành Nương diễn ra hàng năm tại xã Long Thượng, huyện Cần Giuộc, thể hiện ước vọng về cuộc sống ấm no và mùa màng bội thu của cư dân địa phương Lễ hội không chỉ lưu giữ nhiều hoạt động văn hóa dân gian mà còn tạo sự kết nối cộng đồng, diễn ra từ ngày 18 đến 21 tháng Giêng âm lịch Đây là cơ hội để người dân giao lưu, gìn giữ và phát huy các giá trị văn hóa nghệ thuật thông qua các hoạt động như Lễ Cầu An, trình diễn nhạc lễ, múa bóng rỗi, múa lân, và nhiều hoạt động khác, thu hút hàng nghìn lượt khách tham gia.
Lễ hội vía tại miếu Bà Ngũ Hành, trải qua nhiều năm và biến đổi, vẫn giữ được vẻ đẹp nguyên thủy và truyền thống Đây là một Di sản văn hóa phi vật thể quý giá.
Vào tháng 12/2014, Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch đã tiến hành xếp hạng các loại hình nghệ thuật, trong đó múa bóng rỗi và hát địa nàng nổi bật với sức hấp dẫn lớn đối với du khách Những nghệ thuật này không chỉ là nghi thức trang trọng mà còn là biểu tượng của nghệ thuật dân gian độc đáo, đặc trưng cho vùng đất Cần Giuộc và Nam Bộ.
1.2.2 Di sản văn hóa vật thể
Di sản văn hóa vật thể, theo Luật di sản văn hóa năm 2001, được định nghĩa là các sản phẩm vật chất mang giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học Điều này bao gồm các di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật và bảo vật quốc gia.
Về cơ bản, di sản văn hóa vật thể ở Cần Giuộc được chia thành các nhóm cơ bản sau:
* Di tích khảo cổ học:
Cần Giuộc, thuộc tỉnh Long An, nổi bật với nhiều di tích khảo cổ quý giá Những di tích và di vật này đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp tư liệu lịch sử, hỗ trợ việc nghiên cứu và biên soạn lịch sử từ thời kỳ tiền sử cho đến các giai đoạn lịch sử sau này.
Các di tích khảo cổ học đóng vai trò quan trọng trong việc nghiên cứu mối quan hệ giữa con người và môi trường sống Di tích khảo cổ học Rạch Núi, với các hiện vật được tìm thấy trên gò cao khu vực chùa Núi, đã được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là Di tích cấp quốc gia theo quyết định số 38/1999.
Di tích khảo cổ học Rạch Núi, nằm ở ấp Tây, xã Đông Thạnh, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An, là một di tích đặc biệt, thể hiện rõ nét lịch sử và văn hóa của cư dân vùng đất Cần Giuộc từ xưa đến nay.
* Di tích lịch sử - văn hóa: