Sự cần thiết của đề tài 1
Để đạt mục tiêu đưa Việt Nam trở thành nước công nghiệp phát triển vào năm 2020, cần khoảng 15 tỷ USD vốn đầu tư hàng năm cho cơ sở hạ tầng trong giai đoạn 2010 – 2020 Việt Nam cần chính sách huy động mọi nguồn lực tài chính trong và ngoài nước, trong đó thị trường chứng khoán (TTCK) đóng vai trò quan trọng trong việc huy động vốn trung và dài hạn Sau hơn 10 năm hoạt động, TTCK Việt Nam đã trải qua sự tăng trưởng nhanh chóng và những giai đoạn khó khăn, với chỉ số VN-Index có lúc đạt 1.170,67 điểm và có lúc chỉ còn 235,5 điểm Bên cạnh quy luật cung cầu, nhiều yếu tố như tình hình kinh tế xã hội, tâm lý nhà đầu tư và các thị trường khác cũng ảnh hưởng đến TTCK Đặc biệt, hoạt động của nhà đầu tư nước ngoài (NĐTNN) trên TTCK Việt Nam là một yếu tố quan trọng nhưng vẫn còn nhiều ẩn số Việc thống kê và phân tích hoạt động của NĐTNN là cần thiết để hiểu rõ tầm ảnh hưởng của họ, từ đó có biện pháp khai thác và giảm thiểu tác động tiêu cực, giúp TTCK hoạt động chủ yếu dựa trên quy luật cung cầu.
Ý nghĩa khoa học thực tiễn của đề tài 2
- Hệ thống hóa các lý luận và nghiên cứu thực nghiệm trên các thị trường quốc tế về ảnh hưởng của hoạt động NĐTNN đến TTCK
- Nghiên cứu ảnh hưởng của hoạt động NĐTNN đến TTCK Việt Nam
Để khai thác và phát huy các tác động tích cực của đầu tư nước ngoài (NĐTNN) trên thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam, cần đề xuất các giải pháp hiệu quả Đồng thời, việc phòng tránh và giảm thiểu các tác động tiêu cực cũng rất quan trọng Các chính sách cần được xây dựng để tạo môi trường thuận lợi cho NĐTNN, đồng thời tăng cường giám sát và quản lý rủi ro để bảo vệ thị trường và nhà đầu tư nội địa.
Mục tiêu nghiên cứu 2
Phân tích ảnh hưởng của hoạt động đầu tư nước ngoài (NĐTNN) đến thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam qua các giai đoạn phát triển giúp xác định giải pháp tối ưu để tận dụng các tác động tích cực Đồng thời, việc này cũng nhằm giảm thiểu các tác động tiêu cực từ NĐTNN, đảm bảo TTCK vận hành chủ yếu dựa trên quy luật cung cầu của thị trường.
Phương pháp nghiên cứu 2
Sử dụng tổng hợp các phương pháp như:
Phương pháp thu thập số liệu lịch sử bao gồm việc sử dụng các nguồn thông tin từ các phương tiện điện tử, dữ liệu từ các cơ quan chuyên môn và các báo cáo chuyên ngành.
- Phương pháp thống kê mô tả
- Phương pháp phân tích dữ liệu chuỗi thời gian
- Công cụ thống kê mô tả, phân tích tương quan: chương trình phân tích dữ liệu Eview
KHUNG LÝ THUYẾT VỀ ẢNH HƯỞNG CỦA HOẠT ĐỘNG NHÀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI ĐẾN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN 4
Lý luận chung về NĐTNN trên TTCK 4
Trên thị trường chứng khoán (TTCK), các tổ chức và cá nhân có thể được phân loại thành ba nhóm chính: tổ chức phát hành, nhà đầu tư (NĐT) và các tổ chức liên quan đến TTCK.
Tổ chức phát hành là những đơn vị cung cấp chứng khoán và hàng hóa trên thị trường chứng khoán, bao gồm Chính phủ, chính quyền địa phương, các công ty và tổ chức tài chính.
Nhà đầu tư (NĐT) là những người thực hiện giao dịch mua bán chứng khoán trên thị trường chứng khoán (TTCK) NĐT được chia thành hai loại chính: NĐT cá nhân và NĐT tổ chức NĐT tổ chức bao gồm các công ty bảo hiểm, quỹ đầu tư, tổ chức kinh doanh chứng khoán và tổ chức tín dụng, là những tổ chức tài chính chuyên nghiệp có khả năng huy động vốn để thành lập quỹ và đầu tư vào TTCK thay mặt cho khách hàng.
Các tổ chức liên quan đến thị trường chứng khoán (TTCK) bao gồm: Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN), Sở Giao dịch Chứng khoán (TTGDCK) và Sở Giao dịch Chứng khoán (SGDCK), tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán, các công ty chứng khoán (CTCK), quỹ đầu tư chứng khoán, trung gian tài chính, tổ chức tài trợ chứng khoán, cơ quan kiểm toán độc lập, Hiệp hội các Nhà đầu tư tài chính Việt Nam (VAFI), Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán, Hiệp hội thị trường trái phiếu Việt Nam, công ty dịch vụ máy tính chứng khoán, và công ty đánh giá hệ số tín nhiệm.
1.1.1.2 NĐTNN tại TTCK Việt Nam
Điều 3 Luật Đầu tư Việt Nam, có hiệu lực từ tháng 7/2006, định nghĩa đầu tư gián tiếp là hình thức đầu tư thông qua việc mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác Hình thức này cũng bao gồm việc đầu tư qua quỹ đầu tư chứng khoán và các định chế tài chính trung gian, trong đó nhà đầu tư không trực tiếp quản lý hoạt động đầu tư.
Theo cách xác định này, FII được hiểu là các khoản đầu tư gián tiếp từ nhà đầu tư nước ngoài, nhằm phân biệt với đầu tư trong nước do các nhà đầu tư nội địa thực hiện Các khoản đầu tư này chủ yếu diễn ra qua hai hình thức chính.
Nhà đầu tư trực tiếp có thể mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác từ các doanh nghiệp, Chính phủ và các tổ chức được phép phát hành trên thị trường tài chính.
- NĐT gián tiếp thực hiện đầu tư thông qua quỹ đầu tư chứng khoán hoặc định chế tài chính trung gian khác trên thị trường tài chính
Nhà đầu tư nước ngoài tham gia thị trường chứng khoán Việt Nam có thể được phân thành hai nhóm chính Nhóm đầu tiên bao gồm những nhà đầu tư có mục tiêu đầu tư mạo hiểm, với thời hạn đầu tư dài và nguy cơ rút vốn thấp.
(i) các tổ chức nước ngoài có VPĐD tại Việt Nam;
(ii) các quỹ đầu tư mạo hiểm (venture capital/private equity funds) có mục tiêu đầu tư tại Việt Nam;
(iii) các tổ chức nước ngoài có tham gia đầu tư vào chứng khoán chưa niêm yết
Hiện tại, có hơn 100 tổ chức thường xuyên giao dịch tại thị trường chứng khoán Việt Nam, nắm giữ hơn 50% giá trị tài sản trong tổng danh mục đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài Nhóm thứ hai là các tổ chức đầu tư tài chính toàn cầu, với mục tiêu đầu tư toàn cầu và tiềm ẩn nguy cơ rút vốn cao, đặc biệt khi họ điều chỉnh lại cơ cấu danh mục đầu tư, trong đó thị trường chứng khoán Việt Nam chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ.
Hoạt động đầu tư theo danh mục có tính linh hoạt cao, do đó, nhóm này cần được chú ý đặc biệt Các loại chứng chỉ lưu ký (DR) và chứng chỉ tham gia (P-notes) dựa trên cổ phiếu của thị trường chứng khoán Việt Nam, được phát hành tại nước ngoài bởi các tổ chức lưu ký toàn cầu theo quy định quốc tế, cũng nằm trong nhóm này.
1.1.2 Những nhân tố ảnh hưởng đến động thái của NĐTNN trên TTCK
Tình hình kinh tế khu vực và thế giới: hoà bình, ổn định vĩ mô, các quan hệ ngoại giao và môi trường pháp lý quốc tế thuận lợi,…
Sự tăng trưởng kinh tế của nước tiếp nhận vốn đầu tư từ NĐTNN
Sự phát triển của thị trường chứng khoán (TTCK) được thể hiện qua chất lượng cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp và Chính phủ, cùng với sự gia tăng cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước, tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động hiệu quả Tỷ lệ nắm giữ cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài trong các doanh nghiệp này, cùng với sự đa dạng và hiệu quả của các định chế tài chính trung gian, đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của TTCK Hệ thống thông tin và dịch vụ chứng khoán, bao gồm các tổ chức cung cấp dịch vụ tư vấn và định mức tín nhiệm, cũng góp phần nâng cao chất lượng và tính minh bạch của thị trường.
Mức độ tự do hóa và sức cạnh tranh của môi trường đầu tư trong nước (các biện pháp kiểm soát vốn, các chính sách tiền tệ).
Tác động hai mặt của hoạt động NĐTNN đối với TTCK 6
Các nhà đầu tư nước ngoài (NĐTNN) đóng vai trò quan trọng trên thị trường chứng khoán (TTCK), mặc dù tỷ lệ sở hữu tối đa của họ bị giới hạn Với tiềm lực tài chính vững mạnh, kỹ năng và kinh nghiệm đầu tư, đặc biệt là từ các NĐT tổ chức, họ có khả năng tác động đến diễn biến của TTCK, mang lại cả những ảnh hưởng tích cực lẫn tiêu cực.
1.2.1 Những tác động tích cực:
Việc giải ngân vốn đầu tư vào thị trường chứng khoán (TTCK) không chỉ trực tiếp làm tăng tổng vốn đầu tư gián tiếp mà còn kích thích hoạt động giao dịch của nhà đầu tư trong nước Sự tham gia sôi động của nhà đầu tư nước ngoài (NĐTNN) tạo ra hiệu ứng tích cực, khuyến khích NĐT trong nước gia tăng đầu tư gián tiếp, từ đó nâng cao tổng vốn đầu tư vào TTCK Để thu hút NĐTNN, các tổ chức trung gian tài chính cần cải thiện chất lượng dịch vụ, nâng cao tính cạnh tranh và đổi mới công nghệ Điều này sẽ góp phần hình thành một hệ thống tổ chức trung gian tài chính phát triển, đồng thời đảm bảo TTCK phát triển công khai, minh bạch và bình đẳng, đáp ứng yêu cầu của thị trường hiện đại.
Đầu tư từ các nhà đầu tư nước ngoài (NĐTNN) không chỉ thúc đẩy hoạt động giao dịch trong nước mà còn tăng cường tính sôi động của thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam Sự tham gia của NĐTNN giúp thị trường trở nên đồng bộ, cân đối và hiệu quả hơn, đồng thời nâng cao tính thanh khoản Bên cạnh đó, với kỹ năng và kinh nghiệm đầu tư phong phú, NĐTNN cũng góp phần hình thành một văn hóa đầu tư mới cho các nhà đầu tư trong nước, từ đó hoàn thiện hơn thị trường tài chính và TTCK.
Hoạt động đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài (NĐTNN) trên thị trường chứng khoán (TTCK) giúp doanh nghiệp trong nước tiếp cận nguồn vốn bên ngoài, giảm chi phí vay và mở rộng sản xuất kinh doanh Sự cạnh tranh trong việc thu hút vốn từ NĐTNN thúc đẩy các nhà quản lý nâng cao chất lượng quản trị và hiệu quả hoạt động Khi chất lượng doanh nghiệp có chứng khoán giao dịch được cải thiện, điều này đồng nghĩa với việc nâng cao chất lượng cung, góp phần vào sự phát triển lành mạnh của thị trường thông qua tính công khai và minh bạch thông tin.
Hoạt động của nhà đầu tư nước ngoài (NĐTNN) đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển thị trường chứng khoán (TTCK) và hoàn thiện các thể chế tài chính Sự gia tăng dòng vốn từ NĐTNN đã thúc đẩy sự phát triển của các định chế tài chính như quỹ đầu tư và công ty tài chính, cùng với các dịch vụ tư vấn và hỗ trợ kinh doanh Đồng thời, NĐTNN cũng nâng cao yêu cầu áp dụng các nguyên tắc cạnh tranh trên TTCK, góp phần ổn định thị trường và tạo ra sức cầu, từ đó thúc đẩy hiệu quả lộ trình cổ phần hóa và các hoạt động phát hành trái phiếu.
Hệ thống luật pháp và các cơ quan quản lý nhà nước liên quan đến thị trường tài chính, bao gồm thị trường chứng khoán, cần được hoàn thiện và nâng cao năng lực hoạt động Điều này phải tuân thủ các nguyên tắc, yêu cầu của thị trường tài chính và các cam kết hội nhập quốc tế.
1.2.2 Một số tác động tiêu cực:
Các nhà đầu tư nước ngoài (NĐTNN) tham gia vào thị trường chứng khoán (TTCK) chủ yếu thực hiện đầu tư tài chính với các chứng khoán có tính thanh khoản cao, điều này giúp họ dễ dàng điều chỉnh vốn đầu tư khi có dấu hiệu bất ổn Tuy nhiên, sự hiện diện của NĐTNN có thể làm gia tăng độ nhạy cảm và tính bất ổn của TTCK, đặc biệt khi cơ sở đầu tư trong nước còn yếu kém và chưa đủ khả năng ứng phó với tình huống khủng hoảng tài chính Hơn nữa, với tiềm lực tài chính và kinh nghiệm, NĐTNN có thể gây ra nguy cơ mua lại, sáp nhập và kiểm soát các doanh nghiệp, khi tỷ lệ nắm giữ chứng khoán của họ vượt ngưỡng nhất định, cho phép họ can thiệp vào hoạt động sản xuất – kinh doanh và các quyết định quan trọng của doanh nghiệp.
Gia tăng sự phụ thuộc vào thị trường vốn quốc tế có thể xảy ra khi quy mô đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài (NĐTNN) lớn, trong khi chính sách kiểm soát hoạt động của họ trên thị trường chứng khoán (TTCK) vẫn chưa hoàn thiện Điều này dẫn đến việc tồn tại những kẽ hở trong các quy định liên quan đến đầu tư của NĐTNN trên TTCK.
Nhà đầu tư nước ngoài (NĐTNN) với kỹ năng, kinh nghiệm và khả năng đầu tư có thể thao túng thị trường, ảnh hưởng đến hoạt động giao dịch và sự phát triển ổn định của thị trường chứng khoán (TTCK) Điều này đặc biệt nghiêm trọng khi kiến thức và kỹ năng đầu tư của nhà đầu tư trong nước còn hạn chế, khiến họ xem giao dịch của NĐTNN như một “chỉ báo” đầu tư Hơn nữa, nếu chức năng của các cơ quan quản lý thị trường yếu kém, việc phát hiện và giám sát các hoạt động bất thường của NĐTNN sẽ không hiệu quả, dẫn đến những tác động tiêu cực đến TTCK.
Các nhà quản lý thị trường chứng khoán cần tăng cường quy mô, tính chất và sự cấp thiết trong cuộc đấu tranh chống lại tội phạm kinh tế quốc tế, bao gồm lừa đảo, rửa tiền và tiếp vốn cho các hoạt động phi pháp Sự kết hợp của các hoạt động tội phạm và tác động tiêu cực từ đầu tư nước ngoài, đặc biệt khi diễn ra một cách có tổ chức, có thể gây tổn hại nghiêm trọng đến hoạt động kinh tế lành mạnh và làm tăng tính dễ tổn thương của thị trường chứng khoán, đặc biệt là ở các thị trường mới nổi trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay.
Kết quả thực nghiệm về ảnh hưởng hoạt động của NĐTNN đến TTCK một số nước trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho TTCK Việt Nam 10
số nước trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho TTCK Việt Nam 1.3.1 TTCK Ấn Độ
Bài nghiên cứu mối quan hệ giữa giá trị đầu tư ròng của NĐTNN có tổ chức (đặt là chuỗi F t
) và chỉ số chứng khoán Nifty (đã chuyển sang dạng log trong nghiên cứu
Chỉ số S&P CNX Nifty, thường được gọi là Nifty, là chỉ số đại diện cho 50 công ty lớn thuộc 24 ngành nghề của nền kinh tế Ấn Độ, chiếm khoảng 47% giá trị chứng khoán giao dịch trên Sàn Giao dịch Chứng khoán Quốc gia Nghiên cứu của các tác giả Mohd.Aamir Khan, Rohit, Siddharth Goyal, Vinit Ranjan và Gaurav Agrawal đã phân tích chuỗi N t trong giai đoạn từ tháng 1/1999 đến tháng 2/2009.
Sau năm 1991, các nhà đầu tư nước ngoài (NĐTNN) có tổ chức được phép đầu tư vào thị trường chứng khoán Ấn Độ sau khi đăng ký với Ủy ban Chứng khoán và Giao dịch Ấn Độ (SEBI) Số lượng tổ chức nước ngoài đăng ký với SEBI đã tăng từ 492 năm 1999 lên 1618 năm 2009, nắm giữ khoảng 30% cổ phiếu trên thị trường Chỉ riêng trong tháng 5 năm 2009, giá trị mua chứng khoán của các nhà đầu tư nước ngoài là 55,001.10 crores Rs, trong khi giá trị bán là 39,719.30 crores Rs, dẫn đến giá trị ròng đầu tư đạt 15,281.60 crores Rs (khoảng 3,3 tỷ USD) Với sự gia tăng ảnh hưởng của NĐTNN, các nhà đầu tư nội địa coi giao dịch của họ như một chỉ báo đầu tư, do đó SEBI quyết định cung cấp thông tin giao dịch của NĐTNN sau một ngày giao dịch Vào đầu năm 2009, chỉ số Instanex FII ra đời, cạnh tranh với Nifty và Sensex, bao gồm 15 loại chứng khoán nắm giữ 55% giá trị vốn hóa toàn thị trường từ các tổ chức nước ngoài.
Các tác giả đã chia thời gian nghiên cứu thành 4 giai đoạn nhỏ, dựa trên các sự kiện kinh tế toàn cầu quan trọng: vụ khủng bố tòa tháp đôi WTC tại Mỹ vào ngày 11/9/2001, dịch SARS toàn cầu vào tháng 5/2003, và khủng hoảng tài chính thế giới bắt đầu từ tháng 1/2008 Nghiên cứu được thực hiện qua các bước cụ thể và đã đạt được những kết quả thực nghiệm đáng chú ý.
- Xem xét phân phối chuẩn của các chuỗi dữ liệu
Cả 2 chuỗi N t và F t đều không có phân phối chuẩn ở trong 4 giai đoạn
- Kiểm định nghiệm đơn vị xem xét tính dừng của các chuỗi dữ liệu bằng các kiểm định ADF và kiểm định PP (Phillips-Perron 1988)
Trong các giai đoạn, F t là chuỗi dừng và N t là chuỗi không dừng
- Hệ số tương quan giữa 2 chuỗi:
Hai chuỗi có hệ số tương quan cao nhất vào giai đoạn 4 sau cuộc khủng hoảng tài chính thế giới
- Kiểm định nhân quả Granger
Chuỗi F t là chuỗi dừng, trong khi chuỗi N t là chuỗi không dừng, nên không thể xác định mối quan hệ dài hạn giữa hai chuỗi này Do đó, chỉ có thể phân tích mối quan hệ ngắn hạn thông qua kiểm định Granger tại sai phân bậc 1 của hai chuỗi Kết quả kiểm định cho thấy N t có tác động gây nhân quả Granger một chiều lên F t.
Thực hiện thủ tục VAR, chúng ta áp dụng phương pháp phân tích sự giải thích của biến này trong sự thay đổi của biến khác thông qua hàm phân rã phương sai (variance decomposition function) Đồng thời, cần xem xét đồ thị phản ứng của biến này đối với sự thay đổi của biến khác thông qua đồ thị phản ứng xung (impulse response graph).
Phân tích phương sai cho thấy Nifty giải thích biến động của FII nhiều hơn so với FII giải thích biến động của Nifty, đặc biệt ở giai đoạn 4 với tỷ lệ giải thích hơn 30%, gấp đôi tỷ lệ 13% ở giai đoạn 3 Điều này chỉ ra rằng trong những thời điểm khó khăn, các tổ chức nước ngoài thường nhanh chóng rút vốn khỏi thị trường chứng khoán Ấn Độ.
Xem xét đồ thị impulse response qua 4 giai đoạn cho thấy rằng Nifty có sự đáp ứng yếu và nhanh chóng tắt trước 10 độ trễ khi chịu cú sốc từ FII Ngược lại, FII phản ứng mạnh mẽ và kéo dài sau 10 độ trễ khi gặp cú sốc từ Nifty, ngoại trừ giai đoạn 2, nơi sự đáp ứng tắt tại độ trễ 7 Đặc biệt, trong giai đoạn 4, sự đáp ứng của FII với cú sốc từ Nifty mạnh mẽ và kéo dài hơn so với các giai đoạn khác, khẳng định mối liên hệ chặt chẽ giữa FII và Nifty trong giai đoạn này.
Giai đoạn 3 của thị trường chứng khoán Ấn Độ được xác định là giai đoạn tăng trưởng, tuy nhiên, ảnh hưởng của chỉ số Nifty lên các nhà đầu tư nước ngoài (FII) trở nên mạnh mẽ hơn trong giai đoạn 4 Các tác giả giải thích rằng trong giai đoạn 3, vai trò của các nhà tạo lập thị trường đã gia tăng nhằm giảm thiểu tác động của FII lên thị trường Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng có mối quan hệ ngắn hạn giữa Nifty và FII, với kết quả cho thấy Nifty có tác động nhân quả một chiều Granger lên FII.
Nghiên cứu của S Ghon Rhee và Jianxin Wang phân tích mối quan hệ giữa tỷ lệ sở hữu cổ phiếu của các tổ chức nước ngoài (FIO) và tính thanh khoản của thị trường chứng khoán Indonesia Kết quả cho thấy rằng sự gia tăng tỷ lệ sở hữu FIO có ảnh hưởng tích cực đến tính thanh khoản, góp phần nâng cao sự ổn định và phát triển của thị trường Nghiên cứu này cung cấp cái nhìn sâu sắc về vai trò của nhà đầu tư nước ngoài trong việc thúc đẩy sự phát triển của thị trường chứng khoán Indonesia.
Indonesia đã mở cửa thị trường chứng khoán (TTCK) để thu hút nhà đầu tư nước ngoài từ năm 1989, với phần lớn giá trị thị trường thuộc về các tổ chức Chỉ có dưới 5% giá trị thị trường được nắm giữ bởi các nhà đầu tư cá nhân, trong đó nhà đầu tư cá nhân nước ngoài chỉ chiếm khoảng 0.22% Từ tháng 1/2002 đến tháng 8/2007, các tổ chức nước ngoài đã nắm giữ gần 70% giá trị cổ phiếu lưu hành, tương đương 41% giá trị vốn hóa thị trường Trong cùng thời gian này, tính thanh khoản của thị trường tại Sở Giao dịch Chứng khoán Jakarta (JSX) đã được cải thiện đáng kể, với chênh lệch giá đặt mua/bán trung bình giảm hơn một nửa và độ sâu trung bình của thị trường tăng gấp đôi.
Dữ liệu phân tích được thu thập từ ngày giao dịch trên JSX từ tháng 1/2002 đến tháng 8/2007, bao gồm hai loại: tỷ lệ sở hữu cổ phiếu của các nhà đầu tư khác nhau và tính thanh khoản của thị trường chứng khoán, được đo qua ba yếu tố: chênh lệch giá mua/bán, độ sâu thị trường và mức độ nhạy cảm của giá chứng khoán Phân tích được thực hiện dựa trên mối quan hệ nhân quả giữa các dữ liệu theo ngày và tháng, đồng thời xem xét độ trễ của từng dữ liệu trong các giai đoạn khác nhau.
Sau khi điều chỉnh các yếu tố của thị trường chứng khoán (TTCK) và hoạt động giao dịch, các tác giả kết luận rằng FIO có ảnh hưởng tiêu cực đến tính thanh khoản của TTCK trong tương lai Cụ thể, một mức tăng 10% trong FIO của tháng này liên quan đến mức tăng khoảng 2% trong chênh lệch giá mua/bán, giảm 3% độ sâu thị trường và tăng 4% độ nhạy giá chứng khoán trong tháng tiếp theo Kết luận này bác bỏ lợi ích mong đợi từ tự do hóa tài chính, đó là giảm bất đối xứng thông tin và tăng tính thanh khoản của TTCK.
Theo các tác giả, mối quan hệ ngược chiều giữa FIO và tính thanh khoản TTCK xuất phát từ hai lý do chính Thứ nhất, các tổ chức nước ngoài sở hữu nhiều kinh nghiệm và thông tin hơn, dẫn đến sự bất cân xứng trong cung cấp thông tin giữa NĐTNN và NĐT trong nước, khiến NĐT trong nước e dè khi quyết định đầu tư vào các công ty có FIO chiếm tỷ lệ lớn Thứ hai, với tiềm lực vốn mạnh, các tổ chức nước ngoài tạo ra sự bất bình đẳng trong đầu tư, và khi họ tập trung vào chiến lược mua và nắm giữ một số cổ phiếu tiềm năng, điều này làm giảm sự sôi động trong giao dịch trên thị trường chứng khoán Tác động này phản ánh sự tự do hóa tài chính, thu hút sự tham gia của các NĐTNN có tổ chức với vốn mạnh và kinh nghiệm đầu tư toàn cầu.
Kết luận của các tác giả cho thấy có sự ảnh hưởng tích cực giữa FIO và tính thanh khoản của thị trường, điều này phù hợp với các nghiên cứu trước đây Đặc biệt, nghiên cứu này bao gồm cả giai đoạn từ khi thị trường chứng khoán mở cửa để thu hút nhà đầu tư nước ngoài.
Nghiên cứu cho thấy rằng sự mở cửa của thị trường chứng khoán Indonesia để thu hút nhà đầu tư nước ngoài đã dẫn đến sự gia tăng tính thanh khoản hàng năm trong suốt thời gian nghiên cứu.
1989 đến tháng 8/2007 thì NĐTNN đã và đang góp phần nâng cao tính thanh khoản của TTCK
Phân tích ảnh hưởng hoạt động NĐTNN đến TTCK Việt Nam 25
Các nhân t ố ảnh hưởng đế n TTCK Vi ệ t Nam o Các nhân tố nội tại của TTCK Việt Nam:
Tổ chức phát hành cần chú trọng vào các yếu tố kỹ thuật sản xuất như trang thiết bị, công nghệ và tiềm năng nghiên cứu phát triển Bên cạnh đó, yếu tố thị trường tiêu thụ cũng rất quan trọng, bao gồm khả năng cạnh tranh và mở rộng thị trường Cuối cùng, chất lượng ban lãnh đạo, trình độ nghề nghiệp của công nhân và tình trạng tài chính của doanh nghiệp là những yếu tố con người không thể bỏ qua.
Nhà đầu tư cần có trình độ, kiến thức vững vàng, tâm lý ổn định, sở thích rõ ràng và mục tiêu lợi nhuận cụ thể Họ cũng cần cảnh giác với các hành động lũng đoạn thị trường, tin đồn sai lệch và giao dịch nội gián để bảo vệ lợi ích cá nhân và đảm bảo sự minh bạch trong đầu tư.
Các tổ chức liên quan đến thị trường chứng khoán bao gồm các biện pháp kỹ thuật do nhà điều hành thị trường thực hiện và ý kiến của các nhà phân tích Bên cạnh đó, các nhân tố ngoại tác cũng đóng vai trò quan trọng trong việc ảnh hưởng đến diễn biến của thị trường.
Sự tiến triển của nền kinh tế quốc dân: tăng trưởng kinh tế và nguồn vốn cho tăng trưởng kinh tế, tình hình lạm phát
Thị trường tiền tệ tín dụng, tình hình biến động của lãi suất, ngoại tệ và vàng
Thị trường bất động sản
Hệ thống pháp luật và các quy định liên quan đến TTCK (chính sách thuế của Nhà nước đối với thu nhập từ chứng khoán)
Các nhân tố phi kinh tế: những biến động về chính trị quân sự, tự nhiên xã hội
Tình hình kinh tế khu vực và thế giới
Do hạn chế về thời gian nghiên cứu và khả năng thu thập dữ liệu, bài viết chỉ tập trung vào ảnh hưởng của hoạt động đầu tư nước ngoài (NĐTNN) đối với thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam, mà không xem xét các yếu tố khác Để đánh giá tác động của NĐTNN lên TTCK Việt Nam, nghiên cứu thực hiện hai quá trình phân tích.
Phân tích tác động của giá trị giao dịch chứng khoán của nhà đầu tư nước ngoài (NĐTNN) đến tổng giá trị giao dịch trên sàn HOSE, bao gồm cả giao dịch thỏa thuận và giao dịch khớp lệnh, là một vấn đề quan trọng Việc hiểu rõ ảnh hưởng này giúp các nhà đầu tư và nhà quản lý thị trường có cái nhìn sâu sắc hơn về xu hướng và sự biến động của thị trường chứng khoán Việt Nam.
Phân tích ảnh hưởng giá trị chứng khoán giao dịch mua và giao dịch bán của NĐTNN (1.000 VND) đến chỉ số VN-Index tại HOSE (điểm)
Các chuỗi dữ liệu được thu thập trong giai đoạn từ đầu năm 2005 đến cuối năm
2009 (dữ liệu được quan sát theo ngày làm việc, 5 ngày/tuần, trừ các ngày ngừng giao dịch do trùng ngày nghỉ hoặc do sự cố phát sinh)
Eviews (Econometrics Views) là phần mềm mạnh mẽ cung cấp công cụ phân tích dữ liệu phức tạp, hồi quy và dự báo trên nền tảng Windows Phần mềm này cho phép người dùng nhanh chóng xây dựng mối quan hệ thống kê từ dữ liệu có sẵn và sử dụng những mối quan hệ đó để dự báo giá trị tương lai Eviews rất hữu ích trong nhiều lĩnh vực, bao gồm phân tích và đánh giá dữ liệu khoa học, phân tích tài chính và dự báo kinh tế vĩ mô.
Eviews là một phần mềm rất mạnh cho các nghiên cứu dữ liệu thời gian và dữ liệu chéo với cỡ mẫu lớn
Khoảng thời gian từ 2005 đến 2009 được chia thành ba giai đoạn nhỏ để phân tích hoạt động của nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng khoán Việt Nam Hai mốc thời gian quan trọng trong nghiên cứu này là ngày Việt Nam chính thức gia nhập WTO và cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu bắt đầu từ tháng 5 năm 2008, ảnh hưởng sâu sắc đến thị trường chứng khoán.
Giai đoạn 1: từ đầu năm 2005 đến 6/11/2006, là giai đoạn trước ngày Việt Nam chính thức gia nhập WTO
Giai đoạn 2, kéo dài từ ngày 7/11/2006 đến cuối tháng 4/2008, đánh dấu thời kỳ Việt Nam chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) cho đến trước khi khủng hoảng tài chính toàn cầu bùng phát vào đầu năm 2008.
Giai đoạn 3: từ đầu tháng 5/2008 đến cuối năm 2009, là giai đoạn diễn ra khủng hoảng tài chính thế giới năm 2008 và thời gian sau khủng hoảng đến cuối năm 2009
2.2.1 Phân tích ảnh hưởng giá trị chứng khoán giao dịch của NĐTNN đến giá trị chứng khoán giao dịch toàn thị trường tại HOSE
Trong phần phân tích này, mỗi giai đoạn nghiên cứu sử dụng hai biến chuỗi thời gian: giá trị chứng khoán giao dịch toàn thị trường (toanthitruong) và giá trị chứng khoán giao dịch của NĐTNN (gttcnn) Để giảm thiểu ảnh hưởng của những biến động lớn trong dữ liệu, các biến sẽ được “làm trơn” bằng cách áp dụng hàm log, cụ thể là TT=log(toanthitruong) và NN=log(gttcnn).
2.2.1.1 Tóm tắt thống kê mô tả các biến chuỗi thời gian
(Xem bảng 2.1 Tóm tắt thống kê mô tả dữ liệu của các cặp biến trong từng giai đoạn – phụ lục 2 trang 102)
Các chuỗi đều có phân phối không chuẩn do sự chênh lệch lớn giữa các giá trị quan sát, đặc biệt là chuỗi NN, nơi một số ngày không có giao dịch của NĐTNN dẫn đến giá trị bằng 0 Giai đoạn 3 cho thấy độ lệch chuẩn gần 1, cho thấy sự giảm bớt biến động trong giá trị giao dịch so với các giai đoạn khác.
TT thì các chuỗi NN có hệ số bất đối xứng gần bằng 0 hơn và hệ số nhọn gần bằng
Trong giai đoạn 2, khi xem xét mức ý nghĩa 1%, chuỗi dữ liệu của nhà đầu tư nước ngoài (NĐTNN) cho thấy phân phối chuẩn Điều này chỉ ra rằng giá trị giao dịch của NĐTNN trong các giai đoạn không có sự biến động cao so với toàn thị trường.
2.2.1.2 Kiểm định tính dừng của từng chuỗi thời gian
Biến chuỗi thời gian là số liệu của một biến được quan sát theo trình tự thời gian Một giả định quan trọng trong phân tích hồi quy với dữ liệu chuỗi thời gian là các dữ liệu này phải là dừng Nếu không, các phương pháp kiểm định giả thuyết thông thường như t, F, và kiểm định Chi bình phương có thể trở nên không đáng tin cậy.
Do đó, bước đầu tiên của quá trình phân tích có liên quan đến các biến chuỗi thời gian là kiểm định tính dừng của từng chuỗi thời gian
Nếu là một chuỗi thời gian dừng thì có các tính chất sau:
- Đồng phương sai tại độ trễ k: γ k
Có 2 phương pháp để kiểm định tính dừng của chuỗi thời gian bao gồm kết luận trực quan từ biểu đồ tự tương quan (ACF – autoregressive correlation function) và một thủ tục kiểm định chuẩn tắc là kiểm định nghiệm đơn vị:
D ự a vào bi ểu đồ t ự tương quan
(Xem biểu đồ 2.2 Biểu đồ tự tương quan của từng chuỗi trong từng giai đoạn – phụ lục 2 trang 102)
Trong giai đoạn 1, cả hai chuỗi dữ liệu đều có PAC không tắt nhanh, và từ k=6 trở đi, hầu hết các ρ k đều nằm trong khoảng tin cậy 95% Điều này cho thấy không có bước ngẫu nhiên nào trong từng chuỗi, đồng thời khẳng định rằng cả hai chuỗi đều là chuỗi dừng.
Giai đoạn 2 cho thấy cả hai chuỗi đều có PAC không tắt nhanh, và từ k=4, hầu hết các ρ_k nằm trong khoảng tin cậy 95% Điều này minh họa rằng không có bước ngẫu nhiên trong từng chuỗi, đồng thời xác nhận rằng cả hai chuỗi đều là chuỗi dừng.