TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM VÀ MÔ HÌNH ĐỊNH GIÁ TÀI SẢN VỐN – CAPM
Tổng quan về thị trường chứng khoán Việt Nam
1.1.1 Khái niệm về thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán (TTCK) đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế hiện đại, là một định chế tài chính thiết yếu cho các quốc gia có nền kinh tế phát triển Hầu hết các quốc gia theo cơ chế thị trường đều sở hữu TTCK, thể hiện sự cần thiết của nó trong đời sống kinh tế.
Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các giao dịch mua bán chứng khoán, có thể là thị trường có tổ chức hoặc không, tập trung hay không tập trung Đặc điểm nổi bật của thị trường này là tính tự do, không có sự can thiệp hay độc đoán từ Chính phủ, và giá cả hoàn toàn phụ thuộc vào quan hệ cung cầu.
1.1.2 Chức năng cơ bản của thị trường chứng khoán
Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế thông qua thị trường chứng khoán giúp chuyển đổi số tiền nhàn rỗi của nhà đầu tư thành nguồn lực cho hoạt động sản xuất kinh doanh, từ đó mở rộng sản xuất xã hội Đồng thời, Chính phủ và các chính quyền địa phương cũng có thể thu hút nguồn vốn để phát triển hạ tầng kinh tế, đáp ứng nhu cầu chung của xã hội.
Hoạt động của các doanh nghiệp được đánh giá một cách tổng hợp và chính xác thông qua chứng khoán, giúp nhanh chóng so sánh hiệu suất giữa các doanh nghiệp Điều này không chỉ tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh mà còn nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, khuyến khích áp dụng công nghệ mới và cải tiến sản phẩm.
Thị trường chứng khoán (TTCK) tạo ra một môi trường đầu tư lành mạnh cho công chúng, cung cấp nhiều cơ hội lựa chọn phong phú Các loại chứng khoán đa dạng về tính chất, thời hạn và độ rủi ro, giúp nhà đầu tư dễ dàng tìm ra sản phẩm phù hợp với khả năng, mục tiêu và sở thích cá nhân.
Thị trường chứng khoán (TTCK) tạo ra tính thanh khoản cho các chứng khoán, cho phép nhà đầu tư (NĐT) dễ dàng chuyển đổi tài sản thành tiền mặt hoặc các loại chứng khoán khác khi cần thiết Tính thanh khoản là một yếu tố hấp dẫn đối với NĐT, thể hiện sự linh hoạt và an toàn của vốn đầu tư Khi TTCK hoạt động năng động và hiệu quả, tính thanh khoản của các chứng khoán giao dịch sẽ cao hơn.
Thị trường chứng khoán (TTCK) đóng vai trò quan trọng trong việc giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô, vì các chỉ báo của TTCK phản ánh chính xác động thái của nền kinh tế Sự gia tăng giá chứng khoán cho thấy đầu tư đang mở rộng và nền kinh tế đang phát triển, trong khi sự giảm giá chứng khoán lại cảnh báo về tình trạng kinh tế tiêu cực Chính phủ có thể sử dụng TTCK để mua và bán trái phiếu Chính phủ nhằm tạo nguồn thu bù đắp thâm hụt ngân sách và kiểm soát lạm phát Thêm vào đó, các chính sách và biện pháp tác động vào TTCK cũng giúp định hướng đầu tư, đảm bảo sự phát triển cân đối cho nền kinh tế.
1.1.3 Rủi ro khi tham giao vào thị trường chứng khoán
Rủi ro chia ra làm 2 loại: Rủi ro hệ thống và rủi ro phi hệ thống.
Rủi ro hệ thống, hay còn gọi là rủi ro thị trường, được đo lường bằng hệ số beta (β) và ảnh hưởng đến hầu hết các loại tài sản do các yếu tố kinh tế vĩ mô Đây là loại rủi ro gây biến động lợi nhuận của chứng khoán và danh mục đầu tư, xuất phát từ những thay đổi trên thị trường như tình hình kinh tế, cải cách chính sách thuế, biến động năng lượng toàn cầu, chiến tranh và các sự kiện kinh tế chính trị Rủi ro này là phần chung cho tất cả các loại chứng khoán và không thể được phân tán thông qua đa dạng hóa danh mục đầu tư.
Rủi ro thị trường là sự biến động giá chứng khoán do phản ứng của các nhà đầu tư, dẫn đến sự dao động mạnh trong thời gian ngắn mặc dù thu nhập doanh nghiệp không thay đổi Rủi ro này xuất hiện khi nhà đầu tư phản ứng trước các sự kiện, có thể là hữu hình hoặc vô hình, như các sự kiện kinh tế, chính trị và xã hội.
Rủi ro lãi suất là sự biến động giá chứng khoán do ảnh hưởng của lãi suất Khi lãi suất thị trường tăng, các chứng khoán có thu nhập cố định sẽ mất đi cơ hội đầu tư vào tài sản có lợi tức cao hơn Đặc biệt, thời hạn đầu tư càng dài, tác động của lãi suất đến giá thị trường càng lớn, dẫn đến mức độ tổn thất giá trị của nhà đầu tư cũng tăng cao.
Rủi ro sức mua là sự biến động giá trị thực của chứng khoán do thay đổi sức mua của đồng tiền, thường liên quan đến tác động của lạm phát Khi lạm phát vượt qua tỷ lệ dự tính, giá trị thực của đồng tiền giảm, dẫn đến việc giá trị thực của các khoản đầu tư cũng bị suy giảm.
- Rủi ro chính trị là là sự biến động giá chứng khoán do tác động bởi bất ổn chính trị.
Rủi ro phi hệ thống là loại rủi ro chỉ ảnh hưởng đến một tài sản hoặc nhóm tài sản cụ thể, thường liên quan đến điều kiện của nhà phát hành Loại rủi ro này xảy ra đối với một công ty hoặc ngành kinh doanh nhất định, không bị ảnh hưởng bởi các yếu tố kinh tế, chính trị hay các yếu tố hệ thống có tác động đến toàn bộ thị trường Để giảm thiểu rủi ro phi hệ thống, nhà đầu tư có thể áp dụng chiến lược đa dạng hóa, tức là đầu tư vào nhiều tài sản và cơ hội đầu tư khác nhau.
Rủi ro kinh doanh liên quan đến sự biến động giá chứng khoán, thường xuất phát từ những thay đổi trong hoạt động của doanh nghiệp Những tác động này có thể đến từ cả yếu tố bên trong và bên ngoài doanh nghiệp, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu suất và giá trị cổ phiếu.
- Rủi ro tài chính là sự biến động giá chứng khoán liên quan đến sử dụng đòn bẩy tài chính;
- Rủi ro phá sản: có thể loại bỏ thông qua đa dạng hóa danh mục đầu tư.
1.2 Khái quát biến động của chỉ số VnIndex và sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam trong những năm qua
Thị trường chứng khoán Việt Nam chính thức hoạt động từ năm 2000 và đã trải qua gần 20 năm phát triển không ngừng Trong suốt thời gian này, thị trường đã trải qua nhiều biến động, từ những thời điểm thăng hoa đến những lúc lao dốc Để hiểu rõ hơn về sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam và biến động của 196 mã cổ phiếu trên sàn HOSE, việc nghiên cứu chỉ số VnIndex - đại diện cho xu hướng giá của tất cả cổ phiếu niêm yết tại HOSE là rất cần thiết.
Thị trường chứng khoán Việt Nam chính thức ra đời vào ngày 20/7/2000 với sự kiện khai trương trung tâm giao dịch chứng khoán TP.Hồ Chí Minh, và phiên giao dịch đầu tiên diễn ra vào ngày 28/7/2000 với chỉ hai mã cổ phiếu là REE và SAM Vào thời điểm này, chỉ số VnIndex ghi nhận ở mức 100 điểm Đến năm 2001, đặc biệt là vào cuối tháng 7, chỉ số VnIndex đã có sự tăng trưởng đột biến.
100 điểm lên 571 điểm, tức là tăng gấp 5,7 lần so với thời điểm tháng 7/2000.
Từ năm 2001 đến 2003, chỉ số VnIndex giảm dần đều từ 571 điểm xuống còn
130 điểm, tức là giảm khoảng 4,39 lần so với năm 2001.
Từ 2004 đến 2005, chỉ số VnIndex có xu hướng cải thiện hơn, từ mốc 200 điểm lên quanh mốc 300 điểm.
Giới thiệu về mô hình định giá tài sản vốn – CAPM
1.3.1 Tổng quan mô hình CAPM
Mô hình định giá tài sản vốn (CAPM) mô tả mối quan hệ giữa lợi nhuận kỳ vọng và rủi ro Theo mô hình này, lợi nhuận kỳ vọng được tính bằng lợi nhuận phi rủi ro cộng với khoản bù đắp rủi ro dựa trên rủi ro toàn hệ thống của chứng khoán Rủi ro không hệ thống không được xem xét, vì nhà đầu tư có thể xây dựng danh mục đầu tư đa dạng hóa để loại bỏ loại rủi ro này.
Mô hình CAPM, được phát triển bởi ba nhà kinh tế William Sharpe (1964), John Lintner (1965) và Jack Treynor (1961), đã được ứng dụng từ những năm 1960 cho đến nay Mô hình này dựa trên nghiên cứu của Harry Markowitz về lý thuyết đa dạng hóa và danh mục đầu tư hiện đại, giới thiệu khái niệm về rủi ro hệ thống và rủi ro không hệ thống.
Mô hình CAPM, mặc dù không phải là mô hình duy nhất giải thích động thái thị trường, nhưng nổi bật nhờ sự đơn giản trong khái niệm và khả năng ứng dụng thực tiễn Mô hình này chỉ sử dụng một yếu tố duy nhất, đó là beta (β), để so sánh hiệu suất của một danh mục đầu tư với toàn bộ thị trường.
Mô hình này, giống như các mô hình khác, dựa trên những giả định để đơn giản hóa thực tế, nhưng vẫn mang lại những ứng dụng hữu ích Điều này thể hiện sự đánh đổi giữa tính đơn giản và tính thực tế trong quá trình phát triển mô hình.
(Nguồn: Nguyễn Minh Kiều (2010), Tài chính Doanh nghiệp căn bản, Nhà xuất bản Thống kê, trang 174 –175)
1.3.2 Các giả định của mô hình
Mô hình bắt đầu với những giả định cần thiết để đơn giản hóa vấn đề nghiên cứu mà không làm thay đổi bản chất của nó Trong mô hình CAPM, có một số giả định quan trọng cần được lưu ý.
Những giả định vềhành vi của nhà đầu tư:
(1) Các NĐT e ngại rủi ro;
Các nhà đầu tư trong quá trình đầu tư chấp nhận giá cả trên thị trường tài chính, nơi mà họ hoạt động trong một môi trường cạnh tranh hoàn hảo Điều này có nghĩa là giá tài sản trên thị trường tài chính được coi là biến ngoại sinh đối với các nhà đầu tư.
(3) Các NĐT đồng nhất với nhau trong dựtính vềlợi suất của các tài sản.
Những giả định vềthị trường và các tài sản trên thị trường:
Trên thị trường, có hai loại tài sản chính: tài sản có số lượng cố định và tài sản có thể chia nhỏ tùy ý Tất cả các tài sản này đều được giao dịch trên thị trường.
(2) Lợi suất của các tài sản là các biến ngẫu nhiên có phân phối chuẩn;
Trên thị trường tài chính, tồn tại các tài sản phi rủi ro mà nhà đầu tư có thể thực hiện các giao dịch vay hoặc cho vay với lãi suất phi rủi ro, đồng thời không bị giới hạn về số lượng giao dịch.
(4) Các thị trường tài chính là thị trường hoàn hảo theo nghĩa sau:
- Mọi thông tin liên quan đến thị trường đối với các NĐT đều có thểtiếp cận được;
- Không có các hạn chế, quy định ràng buộc về khối lượng các loại tài sản giao dịch cũng như việc bán khống các loại tài sản;
- Không có các chi phí liên quan đến việc giao dịch tài sản, không đề cập đến thuế, môi giới, phí giao dịch.
1.3.3 Lý thuyết thị trường vốn và mô hình định giá tài sản vốn
1.3.3.1 Đư ờ ng thị trư ờ ng vố n (Capital Market Line – CML)
Lý thuyết thị trường vốn phân tích danh mục đầu tư bao gồm tài sản phi rủi ro và danh mục đầu tư hiệu quả M theo định nghĩa của Markowitz Các kết hợp của danh mục này nằm trên đường thẳng từ trục tung tại điểm lợi nhuận phi rủi ro đến điểm tiếp xúc với đường giới hạn danh mục đầu tư hiệu quả Đường thị trường vốn thể hiện mối quan hệ giữa lợi nhuận kỳ vọng và độ lệch chuẩn của danh mục đầu tư bao gồm tài sản phi rủi ro và chứng khoán rủi ro.
Điểm A trên đường thị trường vốn tương ứng với một điểm trên đường cong danh mục đầu tư hiệu quả, cho thấy rằng mặc dù có cùng mức độ rủi ro, nhưng điểm A mang lại lợi nhuận kỳ vọng cao hơn, khiến nhà đầu tư ngại rủi ro chọn điểm này Ngược lại, điểm B trên đường thị trường vốn có lợi nhuận kỳ vọng tương đương với một điểm trên đường danh mục đầu tư hiệu quả nhưng lại có mức rủi ro thấp hơn, vì vậy nhà đầu tư cũng sẽ ưu tiên chọn điểm trên đường thị trường vốn.
(Nguồn: Nguyễn Minh Kiều, 2010, Tài chính doanh nghiệp căn bản, Nhà xuất bản Thống kế, trang 185–187)
Công thức biểu diễn đường thị trường vốn (CML):
: Lợi nhuận kỳ vọng của danh mục đầu tư;
: Lợi nhuận phi rủi ro;
: Lợi nhuận kỳ vọng của danh mục thị trường;
: Độ lệch chuẩn của danh mục đầu tư;
: Độ lệch chuẩn của danh mục thị trường.
1.3.4.1 Quan hệ giữ a lợ i nhuậ n cá biệ t và lợ i nhuậ n thị trư ờ ng – đư ờ ng đặ c thù chứ ng khoán (The Security Characteristic Line) Đường đặc thù chứng khoán là đường mô tả mối quan hệ giữa lợi nhuận của một chứng khoán cá biệt với lợi nhuận của danh mục đầu tư thị trường Danh mục đầu tư thị trường (market portfolio) là danh mục đại diện cho các cơ hội đầu tư trên thị trường vốn Danh mục đầu tư thị trường được lựa chọn tùy theo từng loại thị trường Chẳng hạn, ở Mỹ người ta chọn S&P 500 Index (S&P 500) làm thành danh mục thị trường, trong khi ở Canada người ta chọn Toronto Stock Exchange 300 Index (TSE 300) Ở Việt Nam, nếu có thể xem tập hợp các cơ hội đầu tư vào các công ty niêm yết như là đại diện cho tất cả các cơ hội đầu tư trên thị trường vốn thì có thể xem tập hợp các công ty dùng làm cơ sở để tính chỉ số VnIndex là danh mục đầu tư thị trường.
Bài viết này trình bày một ví dụ minh họa về đường đặc thù chứng khoán của cổ phiếu Remico, Ltd so với danh mục thị trường TSE 300 Chúng ta sẽ xem xét lợi nhuận của cổ phiếu Remico và danh mục TSE 300 trong bốn tình huống khác nhau, phụ thuộc vào hai dạng nền kinh tế khác nhau.
Bả ng 1.1 Ví dụ đư ờ ng đặ c thù chứ ng khoán
Tình huống Nền kinh tế Lợi nhuận thị trường Lợi nhuận của Remico
(Nguồn: Nguyễn Minh Kiều, 2010, Tài chính doanh nghiệp căn bản, Nhà xuất bản Thống kế, trang 176)
Trong tình huống nền kinh tế tăng trưởng và suy thoái, lợi nhuận thị trường lần lượt đạt 15% và 5% Tuy nhiên, lợi nhuận của Remico có thể dao động trong bốn trường hợp: 25%, 15%, -5% và -15% Nếu giả định xác suất cho cả hai tình huống kinh tế này là như nhau, chúng ta sẽ có những kết quả đáng lưu ý.
2 ễn Minh Kiều, 2007, Mô hình định giá tài sản vốn CAPM –Chương trình giảng dạy kinh tếFulbright)
Hệ số β = 1,5 cho thấy lợi nhuận cổ phiếu Remico biến động gấp 1,5 lần so với lợi nhuận thị trường Điều này có nghĩa là trong thời kỳ kinh tế thuận lợi, lợi nhuận của Remico tăng nhanh hơn thị trường, trong khi trong thời kỳ kinh tế khó khăn, lợi nhuận của Remico giảm mạnh hơn β được định nghĩa là hệ số đo lường sự biến động lợi nhuận của cổ phiếu so với biến động của danh mục đầu tư thị trường, và do đó, β cũng được coi là chỉ số đo lường rủi ro của chứng khoán.
Hệ số β = 1 thể hiện sự biến động lợi nhuận của danh mục đầu tư thị trường so với chính nó, và được xác định là hệ số β của danh mục thị trường.
(Nguồn: Nguyễn Minh Kiều, 2010, Tài chính doanh nghiệp căn bản, Nhà xuất bản Thống kế, trang 175-177)
1.3.4.2 Mố i quan hệ giữ a rủ i ro và lợ i nhuậ n – đư ờ ng thị trư ờ ng chứ ng khoán
Những bất thường khi áp dụng mô hình CAPM
Một số học giả đã phát hiện ra những điểm bất thường khi áp dụng mô hình CAPM, khiến cho mô hình này không còn chính xác trong các trường hợp bình thường Những điểm bất thường này bao gồm nhiều yếu tố ảnh hưởng đến kết quả dự đoán của CAPM.
Quy mô công ty ảnh hưởng đáng kể đến lợi nhuận cổ phiếu, với những công ty có giá trị thị trường nhỏ thường mang lại lợi nhuận cao hơn so với các công ty có giá trị thị trường lớn, khi các yếu tố khác được giữ ổn định.
Cổ phiếu của những công ty có tỷ số PE (tỷ lệ giá trên lợi nhuận) và tỷ số MB (tỷ lệ giá trị thị trường trên giá trị sổ sách) thấp thường mang lại lợi nhuận cao hơn so với cổ phiếu của các công ty có tỷ số PE và MB cao.
Ảnh hưởng tháng Giêng là hiện tượng mà những người nắm giữ cổ phiếu từ tháng 12 đến tháng 1 thường đạt được lợi nhuận cao hơn so với các tháng khác Tuy nhiên, cần lưu ý rằng mặc dù ảnh hưởng này đã được quan sát trong nhiều năm, nhưng không phải năm nào cũng xảy ra.
(Nguồn: Nguyễn Minh Kiều (2010), Tài chính Doanh nghiệp căn bản, Nhà xuất bản Thống kê, trang 183)
Mô hình nghiên cứu
: Lợi nhuận kỳ vọng của tài sản i khi loại bỏ lợi nhuận phi rủi ro là biến phụ thuộc;
: Phần bù rủi ro thị trường là biến độc lập;
: Hệ số ước lượng của biến độc lập.
Trong mô hình này, cần tính toán các biến số bao gồm tỷ suất sinh lợi của cổ phiếu i, lợi nhuận kỳ vọng của danh mục thị trường và lợi nhuận phi rủi ro.
Tỷ suất sinh lợi của cổ phiếu được tính toán hàng tháng dựa trên giá đóng cửa vào những ngày cuối tháng Trong trường hợp ngày cuối tháng không phải là ngày giao dịch, giá sử dụng sẽ là giá đóng cửa của ngày giao dịch cuối cùng trong tháng Thông tin về giá cổ phiếu được lấy từ trang web Vietstock.vn.
Công thức tính toán tỷsuất sinh lợi theo tháng của từng cổphiếu như sau:
: Tỷ suất sinh lợi trong tháng t của cổ phiếu i;
: Giá cổ phiếu i vào ngày cuối tháng t;
: Giá cổ phiếu i vào ngày cuối tháng t –1.
Tỷ suất sinh lợi của danh mục thị trường thường được xác định qua chỉ số giá thị trường nơi cổ phiếu được niêm yết, như FTSE ở Anh, Nikkei ở Nhật Bản và S&P 500 ở Mỹ Tại Việt Nam, chỉ số VnIndex là đại diện phù hợp để tính toán tỷ suất sinh lợi của danh mục thị trường, và thông tin này có thể được tìm thấy trên trang web Vietstock.vn Công thức tính tỷ suất sinh lợi của danh mục thị trường tương tự như tỷ suất sinh lợi của cổ phiếu.
: Tỷ suất sinh lợi thị trường trong tháng t;
: Số liệu VnIndex ngày cuối cùng của tháng;
: Số liệu VnIndex ngày cuối cùng của thángt–1.
Lãi suất phi rủi ro là suất sinh lợi mà nhà đầu tư có thể chắc chắn nhận được trong một khoảng thời gian nhất định Có nhiều phương pháp để xác định lãi suất phi rủi ro, bao gồm lãi suất tiền gửi và lãi suất trái phiếu Chính phủ Trong bài viết này, tỷ suất sinh lợi của trái phiếu được chọn làm lãi suất phi rủi ro, được lấy từ trang web Investing.com trong giai đoạn 2012 – 2018 Lãi suất phi rủi ro được thể hiện bằng %/năm, và để tính lãi suất theo tháng, ta sẽ chia số liệu thu thập được cho 12.
Các nghiên cứu thực nghiệm trước đây
Mô hình CAPM đã thu hút sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu trên toàn cầu từ khi ra đời Tại Ấn Độ, các tác giả Gregory Connor và Sanjay Sehgal đã nghiên cứu mô hình CAPM và Fama & French trong bài viết "Kiểm định mô hình hình Fama và French ở Ấn Độ", sử dụng dữ liệu từ tỷ suất sinh lợi cuối tháng.
Nghiên cứu về 364 cổ phiếu từ tháng 6/1989 đến tháng 3/1999 cho thấy mô hình CAPM đạt kết quả 75% Việc áp dụng mô hình hồi quy tuyến tính cho phép giải thích và dự đoán tỷ suất sinh lợi của các chứng khoán cũng như danh mục đầu tư tại thị trường chứng khoán Ấn Độ Với mức ý nghĩa này, nhà đầu tư có thể cân nhắc và áp dụng hai mô hình để nâng cao hiệu quả trong kinh doanh chứng khoán.
Trong nghiên cứu "Kiểm định mô hình CAPM và mô hình ba nhân tố Fama French" năm 2004, Nima Billou đã phân tích dữ liệu từ 7/1963 đến 12/2003, cho thấy độ tin cậy của mô hình CAPM đạt 72% và của Fama French là 89% Khi mở rộng thời gian nghiên cứu từ 7/1926 đến 12/2003, kết quả cho thấy CAPM có độ tin cậy 77% trong khi Fama French là 88% Những kết quả này chỉ ra rằng hai nhân tố quy mô và giá trị có ảnh hưởng đáng kể đến thị trường chứng khoán Mỹ, khẳng định rằng mô hình Fama French hiệu quả hơn CAPM trong việc giải thích tỷ suất sinh lợi của chứng khoán.
Năm 2010, Thạc sỹ quản trị kinh doanh Chun-Wei Huang đã nghiên cứu "Áp dụng mô hình ba nhân tố CAPM và Fama French vào thị trường chứng khoán Đài Loan" Nghiên cứu cho thấy mô hình CAPM có thể áp dụng hiệu quả tại thị trường chứng khoán Đài Loan, với rủi ro thị trường ảnh hưởng mạnh mẽ đến tỷ suất sinh lợi Trong khi đó, mô hình Fama French chỉ có hai biến là rủi ro thị trường và quy mô có ý nghĩa thống kê, còn biến giá trị không có tác động đáng kể, do đó không thể áp dụng hoàn toàn Kết quả hồi quy cho thấy mô hình CAPM đạt 55.8% độ tin cậy 99%, trong khi mô hình Fama French đạt 69.9% với độ tin cậy 95%.
Vào năm 2012, Nguyễn Thị Tiến đã thực hiện luận văn Thạc sĩ với đề tài “Vận dụng mô hình CAPM trong đo lường rủi ro hệ thống cổ phiếu ngành xây dựng trên HOSE” Nghiên cứu sử dụng dữ liệu từ 13 công ty trong ngành xây dựng trên sàn HOSE, thu thập từ ngày 20/12/2010 đến 6/03/2012, với VNIndex làm chỉ số thị trường Kết quả kiểm định cho thấy hệ số β đạt giá trị 1.
Năm 2015, T.S Trần Thị Bích Ngọc đã thực hiện nghiên cứu về kiểm định mô hình định giá tài sản vốn (CAPM) cho 10 cổ phiếu niêm yết tại Sở Giao Dịch Chứng Khoán Thành phố Hồ Chí Minh, sử dụng dữ liệu tỷ suất sinh lợi tháng từ 01/2007 đến 05/2013 Nghiên cứu áp dụng mô hình hồi quy đơn và phương pháp bình phương nhỏ nhất, đồng thời sử dụng các quy trình Cochrane-Orutt và Hildreth-Lu để khắc phục vấn đề tự tương quan nếu có, theo kiểm định Durbin-Watson Kết quả cho thấy mô hình CAPM hỗ trợ cho các cổ phiếu nghiên cứu, với mối quan hệ tuyến tính giữa mức bù rủi ro thị trường và mức bù rủi ro của cổ phiếu, cho thấy rủi ro cao hơn dẫn đến tỷ suất sinh lợi cao hơn Tuy nhiên, hệ số beta không giải thích tốt mối quan hệ giữa tỷ suất sinh lợi và rủi ro hệ thống, với hệ số xác định tương đối thấp cho các cổ phiếu trên Sở Giao Dịch Chứng Khoán Thành phố Hồ Chí Minh.
KIỂM ĐỊNH MÔ HÌNH CAPM TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
Kiểm định mô hình CAPM với thị trường chứng khoán Việt Nam
Mô hình nghiên cứu có dạng: R R α β R R U 10
Trong đó: là tỷ suất sinh lợi của cổ phiếu i; là lãi suất phi rủi ro; là lợi nhuận kỳ vọng của danh mục thị trường;
Lợi nhuận kỳ vọng của tài sản i, sau khi loại bỏ lợi nhuận phi rủi ro, được xem là biến phụ thuộc; hệ số chặn đóng vai trò quan trọng trong phân tích; β là hệ số ước lượng thể hiện mối quan hệ giữa biến độc lập và lợi nhuận kỳ vọng.
:Phần bù rủi ro thị trường là biến độc lập;
, : Tính theo công thức (8) và (9), số liếu giá cổ phiếu và giá của VnIndex được thu thập và tổng hợp lại từ trang web Vietstock.vn
Giá được xác định là giá đóng cửa vào ngày cuối cùng của tháng Lãi suất phi rủi ro được tính dựa trên tỷ suất sinh lợi hàng tháng của trái phiếu, thông tin này được lấy từ trang web.
Trên sàn HOSE hiện có hơn 360 cổ phiếu được niêm yết, nhưng bài viết này chỉ sử dụng dữ liệu của 196 cổ phiếu Những công ty có thời gian giao dịch không liên tục (trên 1 tháng) và các công ty mới niêm yết đã bị loại khỏi bộ dữ liệu Chúng tôi chỉ giữ lại những công ty có giao dịch liên tục, với ít ngày nghỉ, và trong trường hợp có ngày nghỉ, giá sẽ được tính dựa trên giá của ngày giao dịch trước đó.
Phân chia danh mục đầu tư: Danh mục cổ phiếu được xây dựng dựa trên cơ sở 2 yếu tố là quy mô công ty và tỷ số BE/ME.
Để phân loại quy mô công ty dựa trên giá trị vốn hóa, số liệu được tính từ số lượng cổ phiếu phổ thông đang lưu hành và giá thị trường Nếu giá trị vốn hóa nhỏ hơn hoặc bằng 50% mức vốn hóa trung bình của thị trường, công ty sẽ được xếp vào nhóm quy mô nhỏ (danh mục S - Small); ngược lại, nếu lớn hơn, công ty sẽ thuộc nhóm quy mô lớn (danh mục B - Big).
Bước đầu tiên là lọc dữ liệu giá của 196 cổ phiếu trong khoảng thời gian 14 ngày, bao gồm các ngày 2/7/2012, 31/12/2012, 1/1 và 31/12 của các năm 2013, 2014, 2015, 2016, 2017, cùng với ngày 1/1/2018 và 2/7/2018 Việc này sẽ giúp thuận tiện cho các bước tiếp theo trong quá trình phân tích.
Bước 2: Truy cập vào trang web Cafef.vn để tìm kiếm số lượng cổ phiếu đang lưu hành của 196 công ty qua mục “lịch sử trả cổ tức và chia thưởng” Để tính toán số lượng cổ phiếu cần thiết, hãy lấy số lượng cổ phiếu hiện tại chia cho tỷ lệ thưởng bằng cổ phiếu, sau đó trừ đi phần thưởng cho cán bộ, công nhân viên Số lượng cổ phiếu của 196 công ty này sẽ được ghi nhận trong 14 ngày.
Bước 3: Từ tính được ở Bước 2, tính giá trị vốn hóa (MC) của 196 cổ phiếu trong 14 ngày đó theo công thức:
Bước 4: Tính giá trị trung bình của MC ( theo năm trong giai đoạn 2012 - 2018.
Bước 5: Tính giá trị trung bình MC của 196 cổ phiếu theo năm theo công thức dưới đây Sau đó, lấy giá trị vừa tính được chia 2.
Bước 6: So sánh MC của từng cổ phiếu theo từng năm Nếu MC lớn hơn, công ty đó được coi là có quy mô lớn (B) Ngược lại, nếu MC nhỏ hơn, công ty đó có quy mô nhỏ (S).
Giá trị sổ sách (BE) và giá trị thị trường (ME) được xác định dựa trên vốn chủ sở hữu, khối lượng cổ phiếu đang lưu hành và giá trị thị trường của cổ phiếu Tỷ số BE/ME được tính bằng cách chia vốn chủ sở hữu cho quy mô công ty, hay còn gọi là giá trị vốn hóa.
Các cổ phiếu có tỷ số BE/ME nằm trong 30% giá trị thấp nhất sẽ được phân loại vào danh mục L (Thấp), 40% tiếp theo vào danh mục M (Trung bình), và 30% còn lại với tỷ số BE/ME cao nhất sẽ được xếp vào danh mục H (Cao) Quy trình xử lý số liệu được thực hiện theo các bước cụ thể.
Để tra cứu vốn chủ sở hữu (VCSH) của 196 công ty trong 14 ngày, bạn cần truy cập trang web Cafef.vn và vào phần báo cáo tài chính Sau khi có VCSH, hãy chia giá trị vốn hóa (MC) của các công ty trong cùng khoảng thời gian 14 ngày theo công thức đã hướng dẫn.
Bước 2: Tính theo năm trong giai đoạn 2012 – 2018 Ví dụ năm 2012 tương tự với các năm còn lại.
Bước 3: Tiến hành tổng hợp và so sánh tỷ lệ BE/ME Nếu tỷ lệ BE/ME của công ty nằm trong top 30% đầu tiên, công ty sẽ được xếp vào danh mục H Các công ty nằm trong 40% tiếp theo sẽ thuộc danh mục M, trong khi 30% thấp nhất sẽ được phân loại vào danh mục L.
Như vậy, từ hai yếu tố dùng để phân chiadanh mục ở trên, ngoài 5 danh mục là
S, B, H, M, L ta sẽ xây dựng được 6 danh mục nữa, ký hiệu như sau: SH, SM, SL,
BH, BM, BL.Cách tính như sau:
Danh mục BL bao gồm cổ phiếu của các công ty lớn với tỷ số BE/ME thấp Để xác định giá trị này, trước tiên, ta kết hợp các cổ phiếu lớn (thuộc danh mục B) và có tỷ số BE/ME thấp (thuộc danh mục L) trong cùng một năm Sau đó, ta tính TSSL trung bình theo tháng của các cổ phiếu này để xác định giá trị BL theo tháng.
BM là danh mục cổ phiếu bao gồm các công ty có quy mô lớn và tỷ số BE/ME trung bình Để xác định giá trị BM, trước tiên cần gộp các cổ phiếu lớn thuộc danh mục B và có tỷ số BE/ME trung bình thuộc danh mục M trong cùng một năm Sau đó, tính toán TSSL trung bình theo tháng của những cổ phiếu này để có được giá trị BM theo tháng.
Danh mục BH bao gồm cổ phiếu của các công ty lớn với tỷ số BE/ME cao Để xác định giá trị BH, trước tiên cần kết hợp các cổ phiếu có quy mô lớn (thuộc danh mục B) và tỷ số BE/ME cao (thuộc danh mục H) trong cùng một năm Sau đó, tính toán TSSL trung bình hàng tháng của các cổ phiếu này để xác định giá trị BH theo tháng.
Danh mục SL bao gồm cổ phiếu của các công ty có quy mô nhỏ và tỷ số BE/ME thấp Để xác định giá trị này, trước tiên, cần gộp các cổ phiếu thuộc danh mục S (có quy mô nhỏ) và danh mục L (tỷ số BE/ME thấp) trong cùng một năm Sau đó, tính toán TSSL trung bình theo tháng cho các cổ phiếu này để thu được giá trị SL theo tháng.