Khái niệm chung
Cán cân thương mại là một phần quan trọng trong tài khoản vãng lai của cán cân thanh toán quốc tế, ghi lại sự thay đổi trong xuất khẩu và nhập khẩu của một quốc gia trong một khoảng thời gian nhất định Mức chênh lệch giữa xuất khẩu và nhập khẩu xác định tình trạng của cán cân thương mại: nếu chênh lệch lớn hơn 0, có thặng dư; nếu nhỏ hơn 0, có thâm hụt; và nếu bằng 0, ở trạng thái cân bằng.
Cán cân thương mại, hay còn gọi là xuất khẩu ròng hoặc thặng dư thương mại, phản ánh tình hình giao thương quốc tế của một quốc gia Khi cán cân thương mại có thặng dư, xuất khẩu ròng có giá trị dương, trong khi thâm hụt thương mại xảy ra khi xuất khẩu ròng mang giá trị âm Cần lưu ý rằng các khái niệm như xuất khẩu, nhập khẩu, xuất khẩu ròng, thặng dư và thâm hụt thương mại trong lý luận thương mại quốc tế bao gồm cả hàng hóa và dịch vụ, không chỉ giới hạn trong bảng biểu cán cân thanh toán quốc tế.
Theo Nghị định số 164/1999/NDD-CP ngày 16/11/2009, Cán cân thương mại của Việt Nam là bảng tổng hợp các chỉ tiêu về giao dịch kinh tế giữa Người cư trú và Người không cư trú trong một khoảng thời gian nhất định Ngân hàng Nhà nước Việt Nam được giao nhiệm vụ chủ trì lập, theo dõi và phân tích cán cân thương mại.
Tác dụng của cán cân thương mại
Bảng cán cân thương mại có 4 tác dụng chính như sau:
Bài viết cung cấp thông tin về cung cầu tiền tệ của một quốc gia, đặc biệt là sự biến động của tỷ giá hối đoái giữa đồng nội tệ và ngoại tệ.
_Phản ánh khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế của một quốc gia.
Cán cân tài khoản vãng lai và nợ nước ngoài phản ánh tình trạng ổn định kinh tế vĩ mô Để đánh giá khả năng chịu đựng của cán cân tài khoản vãng lai, các chuyên gia thường sử dụng chỉ số nợ/xuất khẩu, bên cạnh các chỉ số khác như xuất khẩu/GDP, tỉ lệ tăng trưởng nhập khẩu/tăng trưởng xuất khẩu, và tỉ lệ lãi suất trả nợ trên mức tăng xuất khẩu.
Mối quan hệ giữa cán cân thương mại và tiết kiệm, đầu tư được thể hiện qua công thức X-M=(S-I) + (T-G), cho thấy mức tiết kiệm, đầu tư và thu nhập thực tế.
Các yếu tố ảnh hưởng đến cán cân thương mại
Những yếu tố gây ảnh hưởng đến cán cân thương mại là tỷ giá hối đoái, chính sách tài chính, nhập khẩu, xuất khẩu.
1.3.1 Tỷ giá hối đoái: Đây là yếu tố quan trọng đối với các quốc gia và có ảnh hưởng lên cán cân thương mại khá rõ ràng.
Hình 1.1 Ảnh Minh họa tỷ giá hoái đối
Khi mà tỷ giá đồng tiền tại một quốc gia mà tăng thì giá cả của hàng nhập khẩu cũng sẽ theo đó mà rẻ hơn.
Giá hàng hóa xuất khẩu đang có xu hướng tăng cao hơn so với hàng hóa nhập khẩu, điều này có thể gây bất lợi cho hoạt động xuất khẩu, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho nhập khẩu và ảnh hưởng tiêu cực đến xuất khẩu ròng.
Khi tỷ giá đồng nội tệ giảm, xuất khẩu sẽ được hưởng lợi, trong khi nhập khẩu sẽ gặp bất lợi, dẫn đến sự gia tăng của xuất khẩu ròng.
Nhập khẩu sẽ có xu hướng tăng khi mà GDP tăng và thậm chí còn tăng nhanh hơn.
Ngoài GDP ra thì nhập khẩu còn phụ thuộc giá cả tương đối giữa hàng hóa sản xuất trong nước và hàng hóa sản xuất tại nước ngoài.
Vì nếu mà giá cả trong nước tăng tương đối so với giá thị trường quốc tế thì nhập khẩu sẽ tăng lên và ngược lại.
Xuất khẩu đóng vai trò quan trọng trong việc ảnh hưởng đến cán cân thương mại, và sự biến động này chủ yếu phụ thuộc vào tình hình kinh tế của các quốc gia khác.
Xuất khẩu của một quốc gia chính là nhập khẩu của quốc gia khác, do đó nó phụ thuộc vào sản lượng và thu nhập của các nước đối tác Trong các mô hình kinh tế, xuất khẩu thường được xem là yếu tố tự định, ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế của các quốc gia.
Nguồn: Tổng cục hải quan Việt Nam
Hình 1.2 Biểu đồ về Xuất khẩu – nhập khẩu hàng hóa và cán cân thương mại Việt Nam giai đoạn 2016-2019
1.3.4 Các chính sách của chính phủ:
Các chính sách thương mại, đầu tư, tỉ giá, thuế, lãi suất và tiêu dùng đều đóng vai trò quan trọng trong việc ảnh hưởng đến cán cân thương mại Những chính sách này có thể tác động trực tiếp hoặc gián tiếp, dẫn đến việc cải thiện hoặc xấu đi cán cân thương mại trong cả ngắn hạn và dài hạn.
Cán cân thương mại đối với nền kinh tế
1.4.1 Hai bộ phận quan trọng nhất cấu thành nên cán cân thương mại:
Đây là cách tiếp cận cán cân thương mại và sự thâm hụt cán cân thương mại dưới cách đánh giá về tổng sản phẩm trong nước.
Cả hai cách tiếp cận đều cho thấy mối liên hệ giữa cán cân thương mại và dòng tiền trong nền kinh tế, đặc biệt là lãi suất trong nước Khi cán cân thương mại thâm hụt, đồng ngoại tệ tràn ngập, dẫn đến việc đồng nội tệ tăng giá Trong hệ thống tỷ giá cố định, chính phủ phải phát hành tiền để hấp thụ ngoại tệ dư thừa, gây ra lạm phát và buộc phải tăng lãi suất để cân bằng thị trường tiền tệ Ngoài ra, khi đầu tư quá nóng do nguồn vốn nước ngoài dồi dào, cán cân thương mại cũng thâm hụt, khiến chính phủ phải tăng lãi suất để hạn chế đầu tư và tiêu dùng Trong nền kinh tế mở và nhỏ, lãi suất trong nước luôn được điều chỉnh để tương thích với lãi suất thế giới, do đó cần xem xét các yếu tố tác động đến cán cân thương mại qua chính sách trong và ngoài nước.
1.4.2 Các tác động của cán cân thương mại đối với nền kinh tế:
Xuất khẩu ròng đóng vai trò quan trọng trong việc tăng cường tài sản của nền kinh tế Cán cân thương mại, khi có thặng dư, không chỉ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế mà còn tạo ra nhiều việc làm mới, tăng cường tích lũy quốc gia thông qua dự trữ ngoại hối Điều này cũng góp phần nâng cao uy tín của quốc gia và tạo điều kiện cho đồng nội tệ trở nên tự do chuyển đổi.
Cán cân thương mại thâm hụt kéo dài có thể dẫn đến việc cắt giảm nhập khẩu, ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô, đồng thời gia tăng tỷ lệ thất nghiệp Tuy nhiên, tình trạng thặng dư hay thâm hụt trong ngắn hạn không phản ánh chính xác thực trạng nền kinh tế; điều quan trọng là mức thâm hụt cần phải trong khả năng chịu đựng và quản lý nợ nước ngoài.
Đánh giá chung
Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam đang cải thiện tích cực với quy mô mặt hàng ngày càng mở rộng Đất nước ghi nhận sự tăng trưởng ấn tượng và vững chắc trong quá trình đổi mới và cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao năng lực cạnh tranh Môi trường chính trị và kinh tế vĩ mô ổn định, cùng với những tiến bộ trong việc duy trì tăng trưởng cao, kiểm soát lạm phát và thâm hụt ngân sách, cải thiện dự trữ ngoại hối, nợ xấu và tín nhiệm quốc gia Năm 2019, hạ tầng và chất lượng dịch vụ trong ngành vận tải và viễn thông được nâng cao, tạo động lực cho sự phát triển từ xuất khẩu và khai thác thị trường nội địa.
Nhiều mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam giữ vị trí quan trọng trong xếp hạng toàn cầu, như dệt may, đứng thứ 7 thế giới với kim ngạch khoảng 33 tỷ USD; da giày, đứng thứ 3 về sản xuất và thứ 2 về xuất khẩu với 17 tỷ USD; và điện tử, đứng thứ 12 toàn cầu, trong đó điện thoại di động chiếm vị trí thứ 2 với kim ngạch đáng kể.
Việt Nam đứng thứ tư thế giới về xuất khẩu thủy sản với kim ngạch khoảng 9 tỷ USD, và cũng đứng thứ năm thế giới trong xuất khẩu đồ gỗ với giá trị tương tự Ngoài ra, các mặt hàng nông sản như cà phê, hồ tiêu, và gạo cũng nằm trong nhóm các quốc gia xuất khẩu lớn nhất thế giới Nhiều sản phẩm của Việt Nam, đặc biệt là cá basa và tôm, tiếp tục được xuất khẩu sang các thị trường lớn như Hoa Kỳ và EU với thuế suất bằng 0% hoặc rất thấp.
-Đồng thời, thu nhập của người dân được cải thiện với bình quân GDP đầu người năm
Năm 2019, thu nhập bình quân đầu người tại Việt Nam đạt gần 2.800 USD, tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 1,45% Trong suốt 10 năm qua, thị trường nội địa duy trì tăng trưởng ổn định với tốc độ tăng tổng mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ và dịch vụ xã hội đạt khoảng 17,5%, gấp ba lần mức tăng trưởng GDP Việt Nam đã trở thành một trong những thị trường bán lẻ hấp dẫn nhất thế giới, đứng thứ 6 trong số 30 quốc gia có tiềm năng và sức hấp dẫn đầu tư trong lĩnh vực bán lẻ toàn cầu theo đánh giá của Công ty tư vấn A.T Kearney.
Các thương hiệu bán lẻ trong nước Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ, với nhiều thương hiệu lớn có tốc độ tăng trưởng nhanh Việt Nam đã ghi dấu ấn trong công cuộc giảm nghèo, nằm trong nhóm các quốc gia có chỉ số HDI tăng trưởng cao nhất thế giới, với chỉ số HDI đạt 0,63 vào năm 2019, xếp thứ 118 trong tổng số 189 quốc gia Hiện tại, Việt Nam gần đạt mức trần của nhóm các nước có HDI trung bình và chỉ cần thêm 0,007 điểm để gia nhập nhóm các nước có HDI cao.
Cách mạng Công nghiệp 4.0 và sự xuất hiện của các FTA như CPTPP và EVFTA dự kiến sẽ mang lại nhiều cơ hội phát triển cho nền kinh tế Việt Nam thông qua việc mở rộng xuất khẩu, thu hút đầu tư và ứng dụng khoa học công nghệ, từ đó cải thiện chuỗi cung ứng Các FTA này sẽ tác động tích cực đến lao động, đặc biệt là trong các ngành thâm dụng lao động như dệt may và da giày Hơn nữa, CPTPP và EVFTA còn tạo sức ép cải thiện thể chế và môi trường kinh doanh, với tác động tích cực trong trung và dài hạn Ngoài ra, tiềm năng cũng nằm ở các lĩnh vực mới nổi như kinh tế xanh, kinh tế sáng tạo, kinh tế số và phát triển đô thị thông minh Các lĩnh vực kết cấu hạ tầng và bất động sản cũng mở ra nhiều cơ hội cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
2.2.2 Khó khăn Ở nước ta hiện nay "công ty phụ trợ hết sức đơn giản, quy mô sx nhỏ chủ yếu sản xuất các chi tiết đơn giản giá trị gia tăng thấp và có sự chênh lệch về năng lực phụ trợ giữa các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam với các yêu cầu của các hãng sản xuất toàn cầu.
Cơ cấu kinh tế của Việt Nam nhìn chung còn yếu so với các nước khác, cần chú trọng hai yếu tố chính là chỉ số lan tỏa nội dung và chỉ số kích thích nhập khẩu Mặc dù một số ngành như công nghiệp và xây dựng thu hút tỷ trọng vốn đầu tư lớn, nhưng chỉ số lan tỏa nội dung lại thấp Đặc biệt, chỉ số kích thích nhập khẩu đang ở mức cao bất thường, điều này cho thấy sự mất cân đối trong cơ cấu kinh tế.
Chính sách hỗ trợ của Việt Nam thường mang tính cảm tính, dẫn đến hiệu quả bảo hộ sản xuất ngày càng giảm Các ngành có khả năng cạnh tranh nhận được sự bảo hộ ít hơn, trong khi đó, những ngành không thể cạnh tranh lại chứng kiến số lượng chủ sở hữu sản xuất tăng lên.
Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vẫn còn khiêm tốn, với mức bình quân chỉ đạt 473 USD/người, thấp hơn so với nhiều quốc gia trong khu vực và trên thế giới.
Xuất khẩu đang có sự tăng trưởng nhanh chóng, tuy nhiên, nó rất dễ bị ảnh hưởng bởi sự biến động giá cả trên thị trường toàn cầu cũng như sự xuất hiện của các rào cản thương mại mới từ các quốc gia khác.
Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam hiện chưa hợp lý, thể hiện qua ba vấn đề chính: chủng loại hàng hóa đơn điệu, thiếu sự xuất hiện của các mặt hàng mới có giá trị kim ngạch cao; giá trị gia tăng của các sản phẩm xuất khẩu còn thấp, chủ yếu phụ thuộc vào khoáng sản và nông, lâm, thủy, hải sản; và các mặt hàng công nghiệp như dệt may, da giày, điện tử vẫn chủ yếu mang tính chất gia công Quá trình chuyển dịch cơ cấu hàng hóa xuất khẩu theo hướng công nghiệp hóa diễn ra chậm và chưa có giải pháp triệt để.
Cơ cấu hàng xuất khẩu trong thời gian qua chủ yếu chuyển dịch theo chiều rộng, chưa đi sâu vào phát triển bền vững Xuất khẩu hiện tại chủ yếu dựa vào việc khai thác lợi thế sẵn có, mà chưa tận dụng được lợi thế cạnh tranh thông qua việc xây dựng các ngành công nghiệp liên kết chặt chẽ, nhằm hình thành chuỗi giá trị gia tăng xuất khẩu lớn.
Việt Nam vẫn còn hạn chế trong việc chủ động nắm bắt cơ hội để thâm nhập và khai thác thị trường xuất khẩu Việc tận dụng lợi ích từ gia nhập WTO cũng như các hiệp định thương mại song phương và khu vực chưa được phát huy tối đa, dẫn đến việc chưa khai thác hết tiềm năng từ các thị trường lớn như Hoa Kỳ, EU và Trung Quốc.
Mạng lưới đại diện thương mại ở nước ngoài còn yếu kém, chưa hỗ trợ hiệu quả cho hoạt động xuất khẩu Các chương trình xúc tiến thương mại hiện tại còn nhỏ lẻ và không đồng bộ, dẫn đến hiệu quả thấp trong việc thúc đẩy xuất khẩu.
- Thị trường xuất khẩu tăng trưởng không đều, trong khi thị trường ASEAN, EU, Hoa
Kỳ tăng trưởng khá cao thì một số thị trường quan trọng khác tăng chậm hoặc giảm như Trung Quốc, Nhật Bản và Australia.
MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ CÁN CÂN THƯƠNG MẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2016 – 2019
Đề xuất một số định hướng về giải pháp trong thời gian tới:
Để phát triển kinh tế bền vững, cần củng cố nền tảng kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát và nâng cao khả năng ứng phó với biến động thị trường, đặc biệt là thị trường quốc tế Việc duy trì đà tăng trưởng và cải thiện chất lượng tăng trưởng thông qua cải thiện môi trường kinh doanh là rất quan trọng Ứng dụng công nghệ công nghiệp 4.0 trong phát triển kinh tế sẽ giúp tiết kiệm thời gian, công sức và không bị giới hạn bởi không gian, đồng thời tăng cường khả năng cạnh tranh và hiệu quả Điều này cũng giúp doanh nghiệp tiếp cận hệ thống kiểm toán quốc tế dễ dàng hơn, giảm áp lực cạnh tranh từ các doanh nghiệp kiểm toán nước ngoài, và hạn chế nguy cơ phá sản hoặc thu hẹp quy mô hoạt động.
Chủ động và linh hoạt trong điều hành chính sách tiền tệ, lãi suất, và tỉ lệ dự trữ bắt buộc là cần thiết để phù hợp với diễn biến thị trường trong nước và quốc tế, nhằm hỗ trợ sản xuất kinh doanh và tăng trưởng kinh tế Cần nâng cao chất lượng tín dụng, tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên như nông nghiệp, nông thôn, công nghiệp hỗ trợ, xuất khẩu, doanh nghiệp công nghệ cao, doanh nghiệp nhỏ và vừa, cũng như hỗ trợ khởi nghiệp, đồng thời kiểm soát tín dụng ở những ngành có rủi ro tiềm ẩn.
Vào thứ ba, cần tiếp tục củng cố và tái cấu trúc hệ thống tài chính, các tổ chức tín dụng nhằm huy động và phân bổ nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội Cần đẩy mạnh hoàn thiện hệ thống pháp luật cho thị trường tài chính và thị trường bảo hiểm, đồng thời thúc đẩy sự phát triển của các thị trường tài chính Việc tái cấu trúc các tập đoàn và tổng công ty nhà nước cần được thực hiện một cách quyết liệt Ngoài ra, cần tăng cường hiệu quả huy động nguồn lực, cải cách chính sách thu và cơ cấu lại ngân sách nhà nước Cuối cùng, cần nâng cao vai trò của nguồn lực tài chính nhà nước trong việc đầu tư phát triển kinh tế - xã hội và khuyến khích sự tham gia của khu vực tư nhân.
Thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa cần tập trung vào phát triển hạ tầng cơ sở và nguồn nhân lực khoa học công nghệ Đồng thời, cần chú trọng phát triển nông nghiệp và nông thôn theo các mục tiêu của quá trình này, nhằm thực hiện hiệu quả chương trình xây dựng nông thôn mới.
Vào thứ năm, cần nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước trong phát triển kinh tế - xã hội bằng cách đổi mới các công cụ quản lý vĩ mô; cải thiện chất lượng xây dựng chính sách và tăng cường phối hợp trong quản lý kinh tế vĩ mô Đồng thời, tiếp tục thực hiện chính sách tài khóa và tiền tệ một cách thận trọng và linh hoạt, đồng thời tăng cường tính minh bạch và trách nhiệm giải trình, thúc đẩy cải cách hành chính.
Vào ngày thứ sáu, chúng ta sẽ tiếp tục tăng cường cải cách thể chế, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế, nhằm hướng tới một thị trường phục vụ nhu cầu phát triển của xã hội Điều này cần được thực hiện bởi một nhà nước kiến tạo phát triển, trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư diễn ra ngày càng mạnh mẽ và không thể đảo ngược.
Khi ngân hàng trung ương thực hiện các biện pháp như giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, hạ lãi suất chiết khấu hoặc mua trái phiếu chính phủ, cung tiền sẽ tăng và lãi suất sẽ giảm Sự giảm lãi suất này kích thích đầu tư và sản lượng, dẫn đến sự gia tăng quy mô hoạt động kinh tế Do đó, chính sách này có tác động tích cực đến nền kinh tế.
28 tiền tệ trong trường hợp này được gọi là chính sách tiền tệ lỏng, chính sách nới lỏng tiền tệ hay chính sách tiền tệ mở rộng.
Khi ngân hàng trung ương tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất chiết khấu hoặc bán trái phiếu, cung tiền sẽ giảm và lãi suất tăng Sự gia tăng lãi suất này sẽ dẫn đến việc giảm đầu tư và sản lượng, làm cho quy mô hoạt động kinh tế bị thu hẹp.
Trong giai đoạn 2016-2019, xuất khẩu của Việt Nam đạt mức tăng trưởng ấn tượng, đặc biệt là trong năm 2018 và 2019, góp phần lớn vào tăng trưởng GDP, giảm tỉ lệ thất nghiệp và thúc đẩy tiêu thụ hàng hóa trong nước Cán cân thương mại hàng hóa duy trì xuất siêu khoảng 10 tỷ USD, với kim ngạch xuất khẩu ước đạt 264 tỷ USD và nhập khẩu khoảng 254 tỷ USD, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu lần đầu tiên vượt 500 tỷ USD Năm 2019 ghi nhận nhiều kết quả tích cực trong giao thương quốc tế, thể hiện nỗ lực của doanh nghiệp và địa phương trong việc thúc đẩy sản xuất và xuất khẩu Tuy nhiên, nền kinh tế đang đối mặt với nhiều thách thức như chiến tranh thương mại Mỹ-Trung, dịch Covid-19 và áp lực từ các cam kết FTA, cần tìm giải pháp duy trì đà xuất siêu và đạt mục tiêu tăng trưởng 9-10%.