1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Luận văn thạc sĩ nghiên cứu sự phân hoá giàu nghèo ở nông thôn tỉnh bắc ninh

157 55 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Nghiên Cứu Sự Phân Hoá Giàu Nghèo Ở Nông Thôn Tỉnh Bắc Ninh
Tác giả Nguyễn Nhân Chiến
Người hướng dẫn PGS. TS. Lê Hữu Ảnh
Trường học Trường Đại Học Nông Nghiệp Hà Nội
Chuyên ngành Kinh Tế Nông Nghiệp
Thể loại luận án tiến sỹ
Năm xuất bản 2009
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 157
Dung lượng 2,29 MB

Cấu trúc

  • 2. Mục tiêu nghiên cứu (11)
  • 3. Đối t−ợng nghiên cứu (12)
  • 4. Phạm vi nghiên cứu (12)
  • 5. Những đóng góp mới của luận án (12)
  • Chương I một số vấn đề lý luận và thực tiễn về phân hoá giàu nghèo ở nông thôn 1.1. Cơ sở lý luận (0)
    • 1.1.1. Sự cần thiết của việc nghiên cứu phân hoá giàu nghèo (14)
    • 1.1.2. Khái niệm về giàu nghèo và phân hoá giàu nghèo (18)
    • 1.1.3 Bản chất kinh tế - chính trị của phân hoá giàu nghèo (23)
    • 1.1.4. Biểu hiện của sự phân hoá giàu nghèo ở nông thôn (30)
    • 1.1.5. Nhân tố ảnh hưởng đến phân hoá giàu nghèo (32)
    • 1.1.6. Nội dung nghiên cứu phân hoá giàu nghèo (39)
    • 1.1.7. Một số công cụ th−ớc đo phân hoá giàu nghèo 31 1.1.8. Các giải pháp chủ yếu hạn chế phân hoá giàu nghèo (40)
    • 1.2. Cơ sở thực tiễn (45)
      • 1.2.1. Sự phân hoá giàu nghèo trên thế giới (45)
      • 1.2.2. Vấn đề đói nghèo và phân hoá giàu nghèo ở Việt Nam (61)
    • 1.3 Các công trình nghiên cứu có liên quan (71)
  • Chương II Đặc điểm địa bàn và phương pháp nghiên cứu 2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xU hội của tỉnh Bắc Ninh (0)
    • 2.2. Ph−ơng pháp nghiên cứu (86)
    • 2.3. Hệ thống chỉ tiêu nghiên cứu chủ yếu (90)
    • 3.1. Thực trạng hộ giàu, nghèo ở nông thôn Bắc Ninh (92)
      • 3.1.1. Đối với hộ giàu (92)
    • 3.2. Thực trạng phân hoá giàu nghèo ở nông thôn Bắc Ninh (95)
      • 3.2.1. Về việc làm (96)
      • 3.2.2. Về tài sản (100)
      • 3.2.3. VÒ thu nhËp (103)
      • 3.2.4. Về sử dụng đất đai (110)
      • 3.2.5. VÒ tiÕp cËn víi tÝn dông (112)
      • 3.2.6. VÒ tiÕp cËn víi y tÕ (113)
      • 3.2.7. Về tiếp cận với giáo dục (114)
      • 3.2.8. Về trợ cấp xU hội (117)
      • 3.2.9. Về quyền lực, địa vị của các hộ trong xU hội (117)
    • 3.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến phân hoá giàu nghèo (0)
    • 4.2. (132)
      • 4.3.1. Đẩy nhanh đô thị hoá, công nghiệp hoá, góp phần làm (0)
      • 4.3.3. Về cung cấp dịch vụ công (136)
      • 4.3.4. Ban hành các quy định phù hợp của địa phương (138)
      • 4.3.5. Xây dựng và thực hiện tốt các quy định phát triển đồng đều giữa các vùng, khu vực và các huyện trong tỉnh ............................ 131 4.3.6. Khuyến khích làm giàu chính đáng (140)
      • 4.3.7. Đẩy mạnh xoá đói giảm nghèo (143)
      • 4.3.8. Tổ chức triển khai thực hiện các chính sách (143)
      • 4.3.9. Tăng cường vai trò chỉ đạo, quản lý điều hành của chính quyền các cấp trong giải quyết phân hoá giàu nghèo (145)

Nội dung

Mục tiêu nghiên cứu

Bài viết phân tích thực trạng phân hóa giàu nghèo tại nông thôn tỉnh Bắc Ninh, từ đó đề xuất các quan điểm và giải pháp nhằm hạn chế tình trạng này Việc giảm thiểu sự chênh lệch giàu nghèo không chỉ góp phần ổn định xã hội mà còn thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững cho khu vực Các giải pháp cần tập trung vào cải thiện cơ sở hạ tầng, nâng cao chất lượng giáo dục và tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận các nguồn vốn phát triển.

Bài viết này nhằm hệ thống hoá các vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến phân hoá giàu nghèo trong phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn, qua đó cung cấp cái nhìn sâu sắc về những thách thức và cơ hội trong quá trình phát triển bền vững.

- Đánh giá đ−ợc thực trạng phân hoá giàu nghèo trong nông thôn tỉnh Bắc Ninh thời gian qua

Để hạn chế phân hoá giàu nghèo và đảm bảo sự phát triển bền vững cho nông thôn Bắc Ninh, cần đề xuất và hoàn thiện các quan điểm cũng như giải pháp chủ yếu Những biện pháp này nên tập trung vào việc nâng cao chất lượng giáo dục, phát triển hạ tầng nông thôn, khuyến khích các mô hình sản xuất bền vững và tạo điều kiện cho người dân tiếp cận các nguồn vốn vay ưu đãi Đồng thời, cần tăng cường sự tham gia của cộng đồng trong quá trình phát triển, nhằm xây dựng một môi trường sống và làm việc công bằng hơn cho tất cả cư dân nông thôn.

Đối t−ợng nghiên cứu

Nghiên cứu về phân hoá giàu nghèo tại nông thôn tỉnh Bắc Ninh xem xét các yếu tố kinh tế như việc làm, tài sản, thu nhập, và đất đai, cùng với các yếu tố phi kinh tế như tiếp cận giáo dục, y tế, trợ cấp xã hội, và quyền lực xã hội Mục tiêu là phân tích sự khác biệt giữa các nhóm hộ giàu và nghèo, đồng thời đánh giá mối quan hệ của chúng với tình hình phân hoá giàu nghèo chung của toàn tỉnh.

- Chủ thể là hộ gia đình ở nông thôn trong vùng nghiên cứu.

Những đóng góp mới của luận án

Luận án này nhằm hệ thống hóa và làm rõ các vấn đề lý luận cơ bản liên quan đến sự giàu có, nghèo khó và phân hóa giàu nghèo Bên cạnh đó, nó cũng xem xét kinh nghiệm từ một số quốc gia và phân tích chủ trương của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong việc giải quyết vấn đề phân hóa giàu nghèo.

Luận án đánh giá thực trạng phân hoá giàu nghèo tại nông thôn Bắc Ninh, tập trung vào các khía cạnh kinh tế và phi kinh tế Nghiên cứu phân tích các biểu hiện của phân hoá giàu nghèo, đồng thời xác định những nhân tố ảnh hưởng đến tình trạng này Bên cạnh đó, luận án cũng dự báo xu hướng phân hoá giàu nghèo ở khu vực nông thôn và mối quan hệ của nó với các khu vực khác trong tỉnh Bắc Ninh.

Luận án đề xuất các quan điểm và giải pháp nhằm hạn chế phân hóa giàu nghèo, phù hợp với đặc điểm nông thôn Bắc Ninh và sự phát triển chung của tỉnh cũng như cả nước Mục tiêu là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đồng thời giải quyết hiệu quả vấn đề phân hóa giàu nghèo, đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội trong quá trình phát triển.

Kết quả nghiên cứu của luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo hữu ích cho việc lãnh đạo và chỉ đạo công tác xóa đói giảm nghèo, đồng thời giải quyết vấn đề phân hóa giàu nghèo tại nông thôn Bắc Ninh.

một số vấn đề lý luận và thực tiễn về phân hoá giàu nghèo ở nông thôn 1.1 Cơ sở lý luận

Sự cần thiết của việc nghiên cứu phân hoá giàu nghèo

Phân hoá giàu nghèo là hiện tượng kinh tế - xã hội phát sinh khi xã hội chia thành các giai cấp, và sự phát triển của kinh tế thị trường thúc đẩy tăng trưởng nhanh nhưng cũng làm gia tăng sự chênh lệch giàu nghèo Hiện tượng này ảnh hưởng sâu sắc đến các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội, với cả những tác động tích cực lẫn tiêu cực.

Phân hoá giàu nghèo trong nền kinh tế thị trường khơi dậy tính năng động xã hội, kích thích mọi người tìm kiếm cơ hội phát triển Người giàu đầu tư mở rộng sản xuất, trong khi người nghèo nỗ lực thoát khỏi cảnh đói nghèo Quá trình này tạo ra môi trường cạnh tranh quyết liệt, giúp sàng lọc những người tài giỏi, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội Những người "vượt trội" sẽ tiên phong trong việc tiếp thu tiến bộ khoa học kỹ thuật và văn hóa, tác động tích cực đến nông thôn và người nghèo, giúp họ thích ứng với lối sống mới Cần chấp nhận phân hoá giàu nghèo ở mức độ nhất định, với hệ số chênh lệch an toàn từ 4,5 đến 21 lần; nếu thấp hơn 4,5 sẽ dẫn đến trì trệ kinh tế, còn nếu lớn hơn 21 sẽ gây ra xung đột xã hội.

- Đối với sự phát triển kinh tế - x hội

Sự chênh lệch về điều kiện kinh tế, thu nhập và mức sống giữa các vùng, khu vực và bộ phận dân cư có thể dẫn đến tình trạng chia rẽ và bất ổn xã hội nếu mức độ chênh lệch quá lớn.

Nhà nước gặp khó khăn trong việc quy hoạch ổn định và cân đối nền kinh tế giữa các ngành tại các vùng khác nhau, đặc biệt là giữa nông thôn và thành thị, giữa miền xuôi và miền ngược, cũng như các hải đảo xa xôi.

Sự không đồng thuận trong các tầng lớp xã hội đã cản trở việc phát huy nội lực của nền kinh tế, đồng thời làm giảm khả năng tiềm tàng trong từng nhóm dân cư tham gia vào các hoạt động sản xuất phù hợp.

Sự phân hoá giàu nghèo làm giảm nguồn lực của Nhà nước trong việc xây dựng giảm nghèo và phân phối lại cho người thu nhập thấp, ảnh hưởng đến mục tiêu công bằng xã hội Điều này dẫn đến việc nguồn lực không được tập trung cho phát triển kinh tế, hạn chế tăng trưởng Ngoài ra, việc phân phối nguồn lực theo kiểu bình quân cũng gây ra sự trì trệ cho nền kinh tế do thiếu động lực phát triển.

- Đối với lĩnh vực chính trị

Sự chênh lệch lớn giữa nhóm người giàu và người nghèo thường dẫn đến mâu thuẫn xã hội Khi mâu thuẫn đạt đến đỉnh điểm, nó có thể gây ra xung đột giữa các nhóm, gây bất ổn chính trị và làm suy yếu hệ thống chính trị hiện tại Điều này có thể khiến đất nước mất đi những cơ hội phát triển quan trọng.

- Đối với lĩnh vực văn hoá

Người nghèo thường có mức độ hưởng thụ văn hóa tinh thần thấp hơn so với người giàu, điều này ảnh hưởng đến việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc ở các nước nghèo Nền văn hóa của một quốc gia phụ thuộc nhiều vào điều kiện kinh tế, và các nước nghèo không chỉ gặp khó khăn về kinh tế mà còn bị ảnh hưởng bởi nền văn hóa ngoại bang Sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội dẫn đến sự khác biệt trong việc tiếp thu và phát huy tinh hoa văn hóa, gây cản trở cho sự phát triển văn hóa Trong bối cảnh quốc tế hóa kinh tế, Nhà nước cần giảm can thiệp vào các dịch vụ công về văn hóa và giáo dục, đồng thời đối phó với sự xâm lăng văn hóa để bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.

- Đối với lĩnh vực x hội

Phân hoá giàu nghèo trong xã hội ảnh hưởng mạnh mẽ đến tâm lý và niềm tin vào công bằng xã hội, tạo ra mầm mống chia rẽ giữa các tầng lớp dân cư Tình trạng này dẫn đến mâu thuẫn và thiếu sự đồng thuận trong cộng đồng.

Các tệ nạn xã hội như tham nhũng, buôn lậu, nghiện hút, trộm cắp, rượu chè và cờ bạc ngày càng gia tăng, đặc biệt khi sự phân hóa giàu nghèo trở nên rõ rệt trong xã hội.

Sự chênh lệch về trình độ học vấn giữa các nhóm dân cư ngày càng gia tăng, với người giàu có nhiều điều kiện thuận lợi hơn để theo đuổi học vấn cao hơn, trong khi người nghèo ngày càng mất đi cơ hội học tập.

- Đối với lĩnh vực môi tr−ờng

Phân hoá giàu nghèo không chỉ ảnh hưởng đến xã hội mà còn gây tác động tiêu cực đến môi trường sinh thái, khi rừng và biển bị tàn phá để khai thác tài nguyên Sự gia tăng số lượng xe hơi và chất thải công nghiệp từ người giàu và nước giàu càng làm trầm trọng thêm tình trạng ô nhiễm, đe doạ đến môi trường sống của con người.

Phân hóa giàu nghèo trong nền kinh tế thị trường có cả ảnh hưởng tích cực và tiêu cực Mặc dù sự phân hóa này có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nhưng nó cũng gây ra nhiều vấn đề trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và môi trường Do đó, việc nghiên cứu sâu sắc về phân hóa giàu nghèo là cần thiết để tìm ra các giải pháp phù hợp nhằm phát huy mặt tích cực và kiểm soát mặt tiêu cực, góp phần vào phát triển bền vững Trong thực tế, chúng ta có thể xóa bỏ nghèo tuyệt đối khi kinh tế phát triển, nhưng nghèo tương đối vẫn tồn tại, bởi luôn có nhóm người có thu nhập thấp Điều này cho thấy không thể xóa bỏ hoàn toàn phân hóa giàu nghèo, mà chỉ có thể hạn chế mức độ của nó thông qua các chính sách hợp lý Theo Tổ chức Lao động quốc tế, vấn đề không phải là xóa bỏ phân hóa giàu nghèo mà là giảm thiểu chênh lệch thu nhập một cách hiệu quả.

Khái niệm về giàu nghèo và phân hoá giàu nghèo

Trên những góc độ nghiên cứu khác nhau, các nhà nghiên cứu đU đ−a ra những quan niệm khác nhau về giàu, nghèo

- Giàu là có nhiều tiền của; giàu là trái ng−ợc với nghèo [6, tr735]

- Giàu là có nhiều hơn mức bình th−ờng cái có giá trị về vật chất hoặc tinh thÇn [6, tr735]

Hộ giàu được định nghĩa là những hộ gia đình có mức thu nhập bình quân từ 1 triệu đồng/người/năm trở lên, cùng với các tiêu chuẩn khác như giá trị tài sản cố định phục vụ sản xuất, tiện nghi sống cho các thành viên trong gia đình (như nhà ở và đồ dùng sinh hoạt), mức chi tiêu cho đời sống vật chất và tinh thần, cũng như mức tích lũy hàng năm của hộ.

Hộ giàu thường sở hữu nhiều tài sản như đất đai, lao động và vốn, có mối quan hệ xã hội tốt và khả năng tiếp cận thông tin, thị trường nhanh chóng Họ có nhà cửa vững chắc, tiện nghi sinh hoạt đầy đủ, đất nông nghiệp và vườn màu mỡ, cùng với trang thiết bị sản xuất và máy móc hiện đại Hộ giàu được cung cấp nước sạch, điện, có thu nhập ổn định và khả năng vay vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh Họ thường có sức khỏe tốt, trình độ học vấn cao, kiến thức về kinh doanh, cùng với khả năng tìm kiếm việc làm ổn định Con cái của họ được học hành đầy đủ, và họ cư trú ở vị trí thuận lợi với phương tiện giao thông tốt, tạo nên một khái niệm rộng và chi tiết về đặc điểm của hộ giàu cả về kinh tế lẫn phi kinh tế.

Theo chúng tôi, người giàu là có đầy đủ các nguồn lực, có cuộc sống vật chất và tinh thần cao hơn mức khá của xU hội

* Quan niệm về nghèo đói

Khái niệm về đói nghèo được định nghĩa tại Hội nghị Xây dựng Giảm Nghèo ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức vào tháng 9 năm 1993 tại Băng Cốc Theo đó, đói nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được đáp ứng và thoả mãn những nhu cầu cơ bản của con người, điều này được xã hội công nhận và phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội cũng như phong tục tập quán của từng địa phương.

Theo khái niệm này, không tồn tại một chuẩn nghèo chung cho tất cả các quốc gia Mức độ nghèo đói, cao hay thấp, phụ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng quốc gia và có thể thay đổi theo thời gian cũng như không gian.

Theo Báo cáo chung của các nhà tài trợ tại Hội nghị tư vấn cho Việt Nam tháng 12/2003, nghèo không chỉ đơn thuần là thiếu thu nhập mà còn là tình trạng thiếu cơ hội tạo thu nhập, thiếu tài sản để đảm bảo tiêu dùng trong những lúc khó khăn, và dễ bị tổn thương trước những biến cố bất lợi Người nghèo thường ít được tham gia vào quá trình ra quyết định, cảm thấy bị xỉ nhục và thiếu tôn trọng từ xã hội Khái niệm này nhấn mạnh rằng, bên cạnh khó khăn về vật chất, người nghèo còn thiếu thốn về đời sống văn hóa tinh thần và vị thế trong xã hội.

Các tiêu chí đánh giá sự nghèo đói phụ thuộc vào từng vùng và điều kiện lịch sử cụ thể, được phân chia thành nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối Sự phân loại này giúp các quốc gia xây dựng giải pháp giảm nghèo phù hợp Thực tế cho thấy, nỗ lực của các quốc gia chỉ có thể xóa bỏ nghèo tuyệt đối, trong khi nghèo tương đối vẫn tồn tại ở mọi quốc gia và trình độ phát triển kinh tế khác nhau.

Nghèo tuyệt đối là tình trạng mà một bộ phận dân cư không thể đáp ứng những nhu cầu cơ bản nhất để duy trì cuộc sống Điều này dẫn đến việc họ không có đủ thức ăn và không nhận được lượng dinh dưỡng tối thiểu cần thiết cho sức khỏe.

[22, tr 187] Theo quy định của Ngân hàng Thế giới (WB), nhu cầu dinh d−ỡng đối với các nước Đông Nam á phải đạt số lượng là 2.100 calo/người/ngày [2, tr 5]

Xác định chuẩn nghèo tuyệt đối là cần thiết để so sánh mức độ nghèo đói qua các thời kỳ, đánh giá hiệu quả của các chính sách chống đói nghèo và tác động của các dự án trong lĩnh vực này Ngân hàng Thế giới áp dụng chuẩn nghèo tuyệt đối để so sánh tỷ lệ nghèo giữa các quốc gia, từ đó xác định nơi cần chuyển giao nguồn lực và đánh giá tiến bộ trong cuộc chiến chống đói nghèo.

Nghèo tương đối là tình trạng mà một bộ phận dân cư có mức sống thấp hơn mức trung bình của cộng đồng trong một khoảng thời gian nhất định Hiện tượng này phát triển theo không gian và thời gian, phụ thuộc vào mức sống chung của xã hội Do đó, nghèo tương đối liên quan chặt chẽ đến sự chênh lệch mức sống giữa các nhóm dân cư so với mức sống trung bình của địa phương tại một thời điểm cụ thể.

Hội nghị Thượng đỉnh thế giới về phát triển xã hội tại Copenhagen, Đan Mạch vào tháng 3/1995 đã định nghĩa nghèo đói một cách cụ thể, coi người nghèo là những người có thu nhập dưới 1 USD/ngày, số tiền này được xem là đủ để mua các sản phẩm thiết yếu cho cuộc sống Tuyên bố Thiên niên kỷ cũng xác định chuẩn nghèo trong giai đoạn 1990 - 2015 là mức thu nhập dưới 1 USD/ngày/người Khái niệm này giúp xác định rõ ràng ai là người nghèo dựa trên thu nhập không đạt mức 1 USD/ngày Tại Việt Nam, nhiều nhà nghiên cứu đã đưa ra các khái niệm khác nhau về nghèo đói, với các ý kiến chủ yếu tập trung vào những khía cạnh khác nhau của vấn đề này.

Nghèo là tình trạng mà một bộ phận dân cư không đáp ứng đủ các nhu cầu tối thiểu cần thiết cho cuộc sống, dẫn đến mức sống thấp hơn so với mức sống trung bình của cộng đồng.

Đói là tình trạng của một bộ phận dân cư nghèo, sống dưới mức tối thiểu và không đủ khả năng đáp ứng nhu cầu vật chất cần thiết cho cuộc sống Những hộ gia đình này thường xuyên phải đối mặt với tình trạng thiếu ăn từ 1-2 tháng mỗi năm, thường phải vay nợ từ cộng đồng và gặp khó khăn trong việc chi trả các khoản chi tiêu thiết yếu.

Cách phân chia nghèo tương đối và nghèo tuyệt đối ở Việt Nam cũng t−ơng tự nh− cách phân chia hiện nay của một số n−ớc đang sử dụng

Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng việc xóa bỏ nghèo tuyệt đối là khả thi, trong khi nghèo tương đối là hiện tượng thường thấy trong xã hội và cần chú trọng vào việc hạn chế phân hóa giàu nghèo Nghèo tuyệt đối được xác định bởi mức thu nhập tối thiểu mà mỗi quốc gia quy định, và khi kinh tế phát triển, thu nhập bình quân sẽ vượt qua mức này, dẫn đến việc xóa bỏ nghèo tuyệt đối Tuy nhiên, nghèo tương đối liên quan đến sự so sánh thu nhập giữa các nhóm người trong xã hội, và dù kinh tế có phát triển đến đâu, vẫn sẽ tồn tại nhóm người có thu nhập thấp nhất, do đó không thể hoàn toàn xóa bỏ nghèo tương đối.

* Quan niệm liên quan đến phân hoá giàu nghèo

Phân hoá giàu nghèo là một chủ đề gây tranh cãi với nhiều quan điểm khác nhau Các nhà xã hội học thường dựa vào hai trường phái chính: Mác xít, do C Mác đại diện, và phi Mác xít, do M Weber dẫn dắt Tuy nhiên, trong bối cảnh nền kinh tế thị trường hiện nay, sự đa dạng trong phân tầng xã hội và phân hoá giàu nghèo ngày càng rõ nét, khiến cho các cách tiếp cận truyền thống trở nên hạn chế Để vượt qua những hạn chế này, các nhà nghiên cứu đã đề xuất nhiều khía cạnh mới về phân tầng xã hội và phân hoá giàu nghèo.

Một là, phân hoá là sự phân chia thành các bộ phận khác biệt nhau [6, tr

Hai là, phân hoá giàu nghèo chủ yếu là sự phân cực về kinh tế [40, tr

Quan niệm này chủ yếu tập trung vào khía cạnh kinh tế, nhưng chưa phản ánh đầy đủ sự phân hóa giàu nghèo trong các lĩnh vực phi kinh tế như địa vị, uy tín, văn hóa, giáo dục và y tế.

Bản chất kinh tế - chính trị của phân hoá giàu nghèo

Việc phân hoá giàu nghèo là một vấn đề phức tạp và đa dạng, thường gắn liền với các điều kiện lịch sử cụ thể và bối cảnh kinh tế thị trường hiện đại Trong các xã hội có giai cấp, phân hoá giàu nghèo không chỉ là hiện tượng tất yếu mà còn liên quan chặt chẽ đến bất bình đẳng xã hội Sự phân hoá giai cấp và phân hoá giàu nghèo là hai mặt của cùng một vấn đề, phản ánh những biến đổi trong cấu trúc xã hội.

C.Mác (1818 - 1883), đU phân tích có hệ thống vấn đề phân hoá giai cấp và phân hoá giàu nghèo trong các xU hội có giai cấp C.Mác cho rằng, t− liệu sản xuất hay quyền sở hữu tài sản là nhân tố giữ vai trò quyết định trong phân chia xU hội thành các giai cấp, các tầng lớp khác nhau Quan hệ chiếm hữu t− liệu sản xuất là cơ sở, là yếu tố quyết định trong quan hệ phân phối và do đó làm xuất hiện sự khác nhau về thu nhập và dẫn đến sự phân hoá giàu nghèo Vì vậy, theo C.Mác, thủ tiêu chế độ t− hữu t− nhân về t− liệu sản xuất, xoá bỏ chế độ người bóc lột người là cơ sở để hạn chế sự phân hoá giàu nghÌo [37, tr7]

Trong giai đoạn chuyển từ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh sang chủ nghĩa tư bản độc quyền, hay còn gọi là chủ nghĩa đế quốc, đã diễn ra sự phân hóa xã hội cao độ trên toàn cầu V.I Lênin đã tiếp tục phát triển các quan điểm của C.Mác, nhấn mạnh rằng sự phân tầng xã hội và phân hóa giai cấp xuất phát từ sự khác biệt trong quan hệ đối với tư liệu sản xuất và địa vị trong hệ thống sản xuất, dẫn đến sự chênh lệch trong việc hưởng thụ kết quả lao động.

Nhà xã hội học M Weber (1864 - 1920) cho rằng sự phân tầng xã hội và phân hóa giàu nghèo là hệ quả của bất bình đẳng xã hội, thể hiện qua tài sản, quyền lực và uy tín Ông nhấn mạnh rằng sự phân chia giai cấp không chỉ dựa vào sở hữu mà còn liên quan đến việc hình thành các nhóm xã hội dựa trên tín nhiệm M Weber coi khả năng tiếp cận thị trường là nguyên nhân chính gây ra bất bình đẳng xã hội, hơn là yếu tố tài sản Sự khác biệt trong khả năng tiếp cận thị trường giữa các cá nhân bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, bao gồm tài sản, yếu tố tự nhiên và xã hội, cùng với sự khác nhau về năng lực và trí tuệ, tạo ra nguồn gốc tự nhiên của sự bất bình đẳng và phân hóa giàu nghèo.

[37, tr8] Nh− vậy, trên cơ sở lý luận phân tích cơ cấu xU hội của C.Mác, M.Weber đU bổ sung trong điều kiện mới của t− bản hiện đại

Cùng với lý thuyết về phân tầng xU hội, nhiều nhà xU hội học nh− Parron (1902 - 1979) [27, tr294], đặc biệt là nhà xU hội học Pháp Bourdieu

Vốn kinh tế, văn hóa và xã hội đóng vai trò quan trọng trong việc phân tích mối quan hệ giữa các giai cấp Tài sản, trí tuệ và quyền lực là những yếu tố cơ bản quyết định sự phân tầng xã hội và sự chênh lệch giàu nghèo.

Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, các nhà kinh tế học như Kuznets, Lewis và Oshima đã nêu bật tầm quan trọng của công bằng xã hội và mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội.

- Kuznets, trong tác phẩm Sự tăng tr−ởng kinh tế của các n−ớc (năm

Theo lý thuyết phát triển của Kuznets (1971), phát triển được xem là một quá trình cân bằng, trong đó các quốc gia tiến bộ một cách vững chắc Ông cũng nhấn mạnh mối quan hệ giữa tổng sản phẩm quốc dân bình quân đầu người và sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập.

Theo số liệu từ các quốc gia có mức thu nhập khác nhau, mối quan hệ giữa tổng sản phẩm quốc dân bình quân đầu người và sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập có hình dạng chữ U ngược Điều này cho thấy rằng trong giai đoạn đầu của tăng trưởng kinh tế, tình trạng bất bình đẳng trong phân phối thu nhập gia tăng Tuy nhiên, khi đạt đến một mức độ phát triển nhất định, sự bất bình đẳng này sẽ giảm dần.

Mô hình của Kuznets chỉ ra xu hướng quy luật giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội, nhưng ông chưa giải thích rõ nguyên nhân của quy luật này cũng như vai trò của Nhà nước trong mối quan hệ đó Để phát triển bền vững, cần tìm cách hạ thấp đỉnh của đường chữ U ngược.

Hình 1.1: Sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập

Nhà kinh tế học Lewis đồng tình với Kuznets về xu hướng thay đổi theo hình chữ U ngược, nhưng ông tập trung vào việc lý giải nguyên nhân của mô hình này Trong tác phẩm "Lý thuyết và phát triển kinh tế" (1955), Lewis trình bày mô hình dư thừa lao động của mình, nghiên cứu mối quan hệ giữa hai khu vực công nghiệp và nông nghiệp.

Lewis phát triển lý luận dựa trên quan điểm của Ricardo, cho rằng lợi nhuận trong nông nghiệp có xu hướng giảm do việc mở rộng sản xuất buộc nông nghiệp phải sử dụng đất đai kém màu mỡ hơn, dẫn đến chi phí sản xuất lương thực tăng cao Điều này cũng tạo ra tình trạng lao động dư thừa ở nông thôn Ricardo cho rằng khi đất đai trở thành giới hạn cho sự phát triển nông nghiệp, cần thiết phải chuyển bớt lao động dư thừa từ nông nghiệp sang ngành công nghiệp.

Theo luận điểm của Ricardo, Lewis cho rằng để thu hút lao động dư thừa từ nông nghiệp sang công nghiệp, các doanh nghiệp công nghiệp cần trả mức lương tương đương với thu nhập tối thiểu mà lao động kiếm được ở nông thôn Tuy nhiên, việc chuyển đổi lao động này sẽ ảnh hưởng đến nông nghiệp, làm tăng chi phí lao động Do đó, các chủ doanh nghiệp phải nâng cao mức lương để đủ sức lôi kéo lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp Quan điểm của Lewis được minh họa trong hình 1.2.

Mối quan hệ giữa lao động và tiền lương được thể hiện qua đường MP L (S L), phản ánh cung lao động trong ngành công nghiệp theo mô hình của Lewis Điểm E trên đường cung lao động cho công nghiệp được xác định là điểm ngoặt, cho thấy sự chuyển biến khi lao động trực tiếp rút khỏi khu vực nông nghiệp sau mức L O.

Theo Lewis, trong giai đoạn đầu của quá trình tăng trưởng, bất bình đẳng gia tăng do sự mở rộng quy mô sản xuất công nghiệp, khi lao động từ nông nghiệp chuyển sang công nghiệp nhưng tiền công vẫn giữ ở mức tối thiểu Điều này dẫn đến việc thu nhập của các nhà tư bản tăng lên trong khi đa số công nhân vẫn nghèo khổ Tuy nhiên, trong giai đoạn sau, bất bình đẳng giảm bớt khi lao động dư thừa được hấp thụ vào khu vực công nghiệp, khiến lao động trở thành yếu tố khan hiếm Sự gia tăng nhu cầu lao động kéo theo tiền lương tăng lên, từ đó làm giảm bất bình đẳng.

Theo Lewis, tăng trưởng kinh tế diễn ra trước, trong khi bình đẳng xã hội xảy ra sau Tăng trưởng là yếu tố quan trọng giúp giảm thiểu bất công trong xã hội Những người có thu nhập cao thường dành một phần lớn thu nhập của họ cho tích lũy, điều này dẫn đến tăng đầu tư và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh hơn Do đó, việc phân phối lại thu nhập một cách vội vàng và không hợp lý có thể làm giảm khả năng tăng trưởng kinh tế.

Biểu hiện của sự phân hoá giàu nghèo ở nông thôn

Sự phân hoá giàu nghèo ở nông thôn thể hiện rõ qua sự chênh lệch giữa hai nhóm hộ giàu và nghèo về nhiều lĩnh vực như việc làm, đất đai, thu nhập, mức sống, tài sản, và khả năng tiếp cận giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao, vui chơi giải trí, tham quan du lịch, cũng như các khoản trợ cấp xã hội và quyền lực trong xã hội Để thuận tiện cho việc so sánh, chúng tôi đã trình bày thông tin này qua bảng 1.1.

Bảng 1.1: Biểu hiện của sự phân hoá giàu nghèo ở Việt Nam

Lĩnh vực Biểu hiện của hộ giàu Biểu hiện của hộ nghèo

- Trong hộ có nhiều lao động

- Lao động có trình độ học vấn cao

(63% có trình độ cấp II và cấp III)

- Lao động có trí tuệ, kinh nghiệm, sức khoẻ nên có thể tự giải quyết đ−ợc mọi công việc

- Có thể thuê thêm lao động trong đó chủ yếu là nông dân nghèo ít ruộng

- Có đủ việc làm trong năm

- Trong hộ có ít lao động, nhiều con, đông người ăn theo

- Lao động không có hoặc trình độ học vấn thấp (53,6% chủ hộ văn hoá cấp I)

- Lao động không biết kinh nghiệm sản xuÊt kinh doanh

- Thiếu việc làm, đi làm thuê cho ng−ời khác §Êt ®ai

- Diện tích đất vườn và đất nông nghiệp bình quân /hộ cao (đất vườn 1.286m 2 , đất nông nghiệp 12.537m 2 )

- Muốn có nhu cầu tăng thêm đất đai để sản xuất kinh doanh (thuê hoặc chuyển nh−ợng, đấu thầu )

- Diện tích đất vườn và đất nông nghiệp bình quân/hộ rất thấp (đất vườn 771m 2 , đất nông nghiệp 2.771m 2 )

- Hệ số sử dụng đất thấp (1,2lần/năm)

Thu nhập - Có thu nhập cao trong xU hội - Có thu nhập thấp, không đủ ăn, phải đi vay m−ợn Chi tiêu

- Mức chi tiêu cao so với mức sống chung của xU hội

- Cơ cấu chi: tỷ trọng chi cho ăn uống thấp hơn chi ngoài ăn uống

- Mức thi tiêu thấp, phải đi vay m−ợn mới đủ ăn

- Cơ cấu chi tiêu: tỷ trọng chi chủ yếu dành cho ăn uống

- Chi nhiều tiền cho mua sắm tài sản

- Có nhiều tài sản, tài sản có giá trị lớn, đắt tiền, ”hàng hiệu”

- Có nhiều vốn đầu t− cho sản xuất kinh doanh hoặc cho vay lấy lUi

- Có rất ít tài sản

- Tài sản quá đơn sơ, thiếu thốn, giá trị thÊp

- Không có vốn sản xuất kinh doanh, phải đi vay nặng lUi

TiÕp cËn với giáo dôc, y tÕ, văn hoá, thể thao

- Bản thân chủ hộ và ng−ời thân của họ tích cực học tập nâng cao trình độ, hiểu biết mọi mặt

- Chú ý nhiều hơn đến sức khoẻ, thường xuyên khám bệnh

- Tích cực tham gia các hoạt động văn hoá, thể thao, vui chơi giải trí, tham quan du lịch

- Chủ hộ và ng−ời thân ngại học tập, trình độ học vấn thấp

- Nhận thức xU hội kém

- ít chú ý đến sức khoẻ, sống trong môi tr−ờng dễ ô nhiễm, hay bị ốm, thiếu thuốc chữa bệnh

- Rất ít hoặc không tham gia các hoạt động xU hội, văn hoá, thể thao, vui chơi giải trí, tham quan du lịch

- Không phải nhận trợ cấp xU hội

- Có thể ủng hộ đóng góp kinh phí nhiều hơn cho các hoạt động xU hội từ thiện

- Phải nhận trợ cấp xU hội

- Đ−ợc miễn một số khoản đóng góp

- Tham gia các chức vụ lUnh đạo ở địa phương nhiều hơn; địa vị cao hơn trong xU hội; hoạt động xU hội tích cực hơn

- Địa vị xU hội thấp; tự ti, ngại tiếp xúc, ít hoạt động xU hội

Nhân tố ảnh hưởng đến phân hoá giàu nghèo

Trong quá trình phát triển của xã hội, có nhiều yếu tố tác động đến sự phân hóa giàu nghèo, bao gồm cả yếu tố ngoại sinh (khách quan) và yếu tố nội sinh (chủ quan của từng hộ gia đình).

Hình 1.3: Tổng hợp các nhân tố ảnh hưởng ủến phõn hoỏ giàu nghốo ở nụng thụn

1.1.5.1 Nhóm nhân tố ngoại sinh

Quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa, do áp lực tăng trưởng kinh tế, đã khiến nhiều chính phủ tích cực phát triển công nghiệp và đô thị Điều này thu hút một bộ phận dân cư từ nông thôn đến thành phố để học tập và tìm kiếm việc làm với thu nhập cao hơn, dẫn đến chênh lệch thu nhập giữa khu vực thành thị và nông thôn.

Phân hoá giàu nghèo Đô thị hoá - CNH §Çu t− công

Tiềm lực của hộ rủi ro

Khả năng phản ứng víi thị tr−ờng

Khả năng thích ứng víi

Cơ chế quản lý chính sách

N¨ng lùc tổ chức thực hiện

Tăng trưởng kinh tế ở nông thôn và sự chênh lệch giữa các tầng lớp dân cư thành thị chủ yếu xuất phát từ việc nhiều lao động nông thôn di cư ra thành phố mà chưa được đào tạo, có kỹ năng lao động thấp, dẫn đến tình trạng việc làm không ổn định và thu nhập không cao.

Chính phủ các nước đang thực hiện chính sách "thiên về thành phố", dẫn đến việc tập trung nguồn lực đầu tư nhiều hơn cho khu công nghiệp và đô thị Điều này bao gồm việc xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, hỗ trợ thu hút đầu tư cho lĩnh vực và sản phẩm mới theo định hướng của cấp lãnh đạo, cùng với việc áp dụng các chính sách bảo hộ thuế quan, ưu đãi, miễn giảm thuế và hoàn thuế Hơn nữa, đầu tư cho giáo dục, đào tạo, y tế và các dịch vụ công cộng cũng được ưu tiên hơn so với vùng nông thôn, tạo ra sự phát triển kinh tế mạnh mẽ hơn ở đô thị và khu công nghiệp, làm gia tăng thu nhập của người dân so với khu vực nông thôn.

Dịch vụ công cộng là các hoạt động nhằm phục vụ lợi ích chung của cộng đồng, bao gồm nhiều loại dịch vụ do Nhà nước hoặc các tổ chức sự nghiệp công thực hiện Các dịch vụ này có thể chia thành ba nhóm chính: dịch vụ sự nghiệp công như y tế, giáo dục, văn hóa và thể dục thể thao; dịch vụ công ích như vệ sinh môi trường và giao thông công cộng; và dịch vụ phục vụ sản xuất bao gồm khuyến nông, khuyến lâm, cung cấp giống, thuỷ lợi, cũng như thông tin về thị trường và môi trường.

Trong nền kinh tế thị trường, sự can thiệp của Chính phủ vào nền kinh tế là cần thiết để nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội, đặc biệt khi thị trường gặp thất bại Chính phủ sử dụng nguồn thu từ thuế và phí để cung cấp hàng hóa công cộng, đảm bảo công bằng xã hội và phát triển Tuy nhiên, người giàu thường nhanh nhạy hơn trong việc tận dụng thông tin và cơ hội, do đó họ hưởng lợi nhiều hơn từ các dịch vụ công Ngược lại, người nghèo thường tự ti và chậm chạp, dẫn đến việc họ gặp khó khăn trong việc tiếp cận các dịch vụ công, làm gia tăng khoảng cách giàu nghèo trong xã hội.

Nguồn lực tổ chức xoá đói giảm nghèo là yếu tố then chốt trong việc hạn chế phân hoá giàu nghèo và giảm sự gia tăng bất bình đẳng Để chương trình XĐGN được thực hiện hiệu quả, việc phân bổ nguồn lực hợp lý là cần thiết Nguồn lực cho XĐGN bao gồm nhiều lĩnh vực, đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo thành công của chương trình này.

Nguồn lực con người đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện chương trình XĐGN, bao gồm lãnh đạo các cấp và thành viên Ban chỉ đạo Họ có nhiệm vụ chỉ đạo và tổ chức thực hiện các hoạt động Bên cạnh đó, nguồn lực từ chính người nghèo cũng rất cần thiết, bao gồm sức khỏe, trình độ văn hóa, học vấn, hiểu biết và kinh nghiệm thị trường của họ.

+ Nguồn lực về vốn, tài sản, t− liệu sản xuất, đất đai của chính hộ nghÌo

Nguồn lực hỗ trợ cho người nghèo đến từ cơ chế chính sách của Nhà nước, các tổ chức đoàn thể, doanh nghiệp, tổ chức phi Chính phủ và cộng đồng, cũng như dòng họ.

Để chương trình XĐGN đạt hiệu quả cao, cần đảm bảo nguồn lực đầy đủ và kịp thời, giúp người nghèo tăng thu nhập và nâng cao mức sống, từ đó thoát nghèo và giảm phân hóa giàu nghèo Ngược lại, nếu thiếu nguồn lực, chương trình sẽ kém hiệu quả, người nghèo vẫn duy trì thu nhập thấp và không thể thoát nghèo, dẫn đến gia tăng phân hóa giàu nghèo.

Tăng trưởng kinh tế và phân hoá giàu nghèo có mối quan hệ chặt chẽ, ảnh hưởng lẫn nhau và là điều kiện cần thiết cho sự phát triển công bằng xã hội Tăng trưởng kinh tế không chỉ là tiền đề để giảm bớt bất bình đẳng mà còn là yếu tố quan trọng giúp hạn chế phân hoá giàu nghèo Tuy nhiên, sự phát triển kinh tế cũng có thể tạo ra những bất bình đẳng mới, làm gia tăng phân hoá giàu nghèo do sự khác biệt về trí tuệ, năng lực và nguồn lực giữa các cá nhân trong xã hội Để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cần có sự tham gia của những cá nhân và tập thể có tiềm năng về lao động, vốn và kinh nghiệm thị trường, từ đó tập trung nguồn lực đầu tư cho sản xuất kinh doanh Quá trình này không chỉ giúp cải thiện thu nhập của họ mà còn làm gia tăng sự phân hoá giàu nghèo trong xã hội.

Chính sách kinh tế - xã hội đóng vai trò quan trọng trong phát triển quốc gia, là công cụ thiết yếu để Nhà nước quản lý hoạt động kinh tế theo mục tiêu cụ thể Tuy nhiên, chính sách cũng có thể gây bất lợi cho một số nhóm trong xã hội, như việc ưu tiên đầu tư cho đô thị hóa và phát triển khu công nghiệp, dẫn đến nguồn lực hạn chế cho vùng nông thôn và người nghèo Chính sách vay vốn ngân hàng cũng thiên lệch, khi người giàu dễ dàng tiếp cận vốn nhờ tài sản thế chấp, trong khi người nghèo gặp khó khăn Tại Việt Nam, chính sách bù lỗ cho giá xăng dầu và điện khiến người giàu được hưởng lợi nhiều hơn do sử dụng nhiều phương tiện, trong khi người nghèo không có điều kiện để sử dụng Sự bất công này cần được khắc phục bằng cách điều chỉnh chính sách giá theo cơ chế thị trường, đảm bảo hỗ trợ đúng đối tượng người nghèo và tạo sự công bằng xã hội.

Chính sách đền bù đất đai của chính phủ quy định mức bồi thường khi thu hồi đất, nhưng mỗi địa phương áp dụng mức đền bù khác nhau, dẫn đến chênh lệch thu nhập giữa các hộ dân Trong cùng một địa phương, sự khác biệt về giá đất giữa bồi thường cho nông dân và giá đất mà nhà đầu tư mua có thể rất lớn, thậm chí lên đến hàng trăm lần, tạo ra sự phân hóa thu nhập rõ rệt giữa các đối tượng.

Chính phủ các nước sử dụng nguồn lực tài chính công để thực hiện các chương trình phát triển, nhằm điều chỉnh hoạt động xã hội và phục vụ lợi ích chung Trong nền kinh tế thị trường, nhiều doanh nghiệp và hộ cá thể không đủ khả năng hoặc không muốn tham gia vào một số lĩnh vực, do đó, cần có sự can thiệp của Nhà nước để khuyến khích phát triển những lĩnh vực quan trọng, mới mẻ hoặc hỗ trợ các vùng sâu, vùng xa.

Nhà nước cần đầu tư mạnh mẽ vào việc xây dựng kết cấu hạ tầng như giao thông, thủy lợi, hệ thống cung cấp điện, nước, và vệ sinh môi trường Đồng thời, cần phát triển các công trình văn hóa, thể thao, công viên, khu vui chơi giải trí và chợ nông thôn để khắc phục những bất cập của cơ chế thị trường Mục tiêu là tạo ra sự công bằng trong việc tiếp cận các dịch vụ cho mọi đối tượng Tuy nhiên, thực tế cho thấy người giàu thường hưởng lợi nhiều hơn từ các khoản đầu tư này do nhu cầu cao hơn, dẫn đến sự chênh lệch về mức sống giữa người giàu và người nghèo.

Nội dung nghiên cứu phân hoá giàu nghèo

Phân hoá giàu nghèo thể hiện rõ rệt qua nhiều lĩnh vực và khía cạnh khác nhau Trong luận án này, tác giả sẽ tập trung nghiên cứu một số nội dung chính liên quan đến phân hoá giàu nghèo.

Thứ nhất, nghiên cứu phân hoá giàu nghèo về kinh tế: việc làm, tài sản, thu nhập, đất đai

Nghiên cứu tập trung vào sự khác biệt trong khả năng và nhu cầu làm việc của những người từ 15 tuổi trở lên, phân loại theo các nhóm hộ dựa trên trình độ học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật, tình trạng việc làm, bao gồm có việc làm, thiếu việc làm và thất nghiệp.

Nghiên cứu sự khác biệt giữa các nhóm hộ gia đình về mức độ sở hữu và mua sắm tài sản trong năm, bao gồm nhà ở, tài sản cố định, đồ dùng lâu bền và vốn, là rất quan trọng để hiểu rõ hơn về tình hình kinh tế và nhu cầu tiêu dùng của từng nhóm Phân tích này giúp xác định các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sở hữu tài sản và xu hướng chi tiêu, từ đó đưa ra những giải pháp phù hợp nhằm nâng cao đời sống của các hộ gia đình.

Nghiên cứu về thu nhập hộ gia đình tập trung vào sự khác biệt giữa các nhóm hộ, bao gồm tổng thu nhập từ tiền và hiện vật mà các thành viên trong hộ nhận được trong một khoảng thời gian nhất định Thu nhập này bao gồm: thu từ sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản sau khi trừ chi phí sản xuất và thuế; thu từ các ngành nghề phi nông, lâm nghiệp và thủy sản cũng sau khi trừ chi phí và thuế; tiền công và tiền lương; cùng các loại thu nhập khác, không bao gồm tiền rút từ tiết kiệm, bán tài sản, vay thuần túy, thu nợ và các khoản chuyển nhượng vốn nhận được.

- Đất đai: nghiên cứu quy mô, mức độ sử dụng đất đai vào sản xuất kinh doanh của hộ giàu và hộ nghèo

Nghiên cứu phân hoá giàu nghèo không chỉ dựa trên yếu tố kinh tế mà còn bao gồm các khía cạnh phi kinh tế như tiếp cận giáo dục, y tế, các khoản trợ cấp xã hội, cũng như quyền lực và địa vị xã hội.

Nghiên cứu về tiếp cận giáo dục phân tích sự khác biệt trong việc thụ hưởng giáo dục giữa các nhóm hộ gia đình, dựa trên đầu tư của Nhà nước và chi phí mà các hộ gia đình chi cho các hoạt động giáo dục trong một khoảng thời gian nhất định.

Nghiên cứu về sự thụ hưởng y tế cho thấy sự khác biệt giữa các nhóm hộ gia đình, được thể hiện qua đầu tư công của Nhà nước và chi phí mà các hộ phải chi cho các hoạt động y tế trong một khoảng thời gian nhất định.

Nghiên cứu về các khoản trợ cấp xã hội cho thấy sự khác biệt trong mức thụ hưởng giữa các nhóm hộ, bao gồm trợ cấp khó khăn và trợ cấp thường xuyên cho những đối tượng như người già cô đơn, trẻ mồ côi, người tàn tật, người tâm thần, người đơn thân nuôi con nhỏ, gia đình có hai người tàn tật nặng, người nhiễm HIV/AIDS, và người già từ 80 tuổi trở lên Ngoài ra, cũng cần xem xét trợ cấp cho những người bị nhiễm chất độc hóa học.

Nghiên cứu về quyền lực và địa vị xã hội tập trung vào sự khác biệt trong mức độ tham gia của chủ hộ vào các chức vụ lãnh đạo và hoạt động xã hội tại địa phương Việc này giúp hiểu rõ hơn về vai trò của các chủ hộ trong việc định hình cộng đồng và ảnh hưởng đến sự phát triển xã hội.

Một số công cụ th−ớc đo phân hoá giàu nghèo 31 1.1.8 Các giải pháp chủ yếu hạn chế phân hoá giàu nghèo

Các thước đo nghèo đói tập trung vào tình trạng thu nhập hoặc chi tiêu thấp của cá nhân hay hộ gia đình, trong khi phân hoá giàu nghèo là khái niệm rộng hơn, xem xét toàn bộ dân cư Phương pháp đo phân hoá giàu nghèo có thể áp dụng cho bất kỳ phân phối nào, không chỉ giới hạn ở chi tiêu hay thu nhập, mà còn liên quan đến đất đai và các biến liên tục khác giữa các quốc gia, vùng miền hay nhóm dân cư Điều này cũng cho phép so sánh mức độ phân hoá giàu nghèo theo thời gian Các chỉ tiêu thường được sử dụng để đo lường phân hoá giàu nghèo bao gồm nhiều yếu tố khác nhau.

- Hệ số chênh lệch thu nhập (H)

Thu nhập bình quân của 20% dân c− giàu nhất

H Thu nhập bình quân của 20% dân c− nghèo nhất

Phương pháp tính hệ số chênh lệch thu nhập giữa nhóm hộ giàu và hộ nghèo bao gồm việc điều tra ngẫu nhiên một số lượng người, sau đó phân loại 20% người có thu nhập cao nhất vào một nhóm để tính thu nhập bình quân đầu người, từ đó xác định thu nhập bình quân của nhóm giàu nhất Tương tự, 20% người có thu nhập thấp nhất cũng được phân loại để tính thu nhập bình quân đầu người của nhóm nghèo nhất Hệ số chênh lệch thu nhập được tính bằng cách chia thu nhập bình quân của nhóm giàu cho thu nhập bình quân của nhóm nghèo Tại Việt Nam, phương pháp này được áp dụng theo Quyết định số 69/QĐ - TCTK - XHMT ngày 12/12/2003 của Tổng cục Thống kê Các chỉ số thống kê cho thấy hệ số chênh lệch thu nhập giữa nhóm giàu và nhóm nghèo ở Việt Nam đã tăng từ 4,1 lần vào năm 1990 lên 8,1 lần vào năm 2002.

Năm 2004, hệ số chênh lệch thu nhập giữa khu vực thành thị và nông thôn là 8,4 lần, trong đó khu vực thành thị có hệ số cao hơn (8,1 lần so với 6,4 lần ở nông thôn) Theo từng vùng lãnh thổ, chênh lệch thu nhập cao nhất ghi nhận ở Đông Nam Bộ với 8,7 lần, tiếp theo là Tây Nguyên với 7,6 lần và Đông Bắc với 7 lần.

So với 126 quốc gia và vùng lãnh thổ, hệ số chênh lệch giàu nghèo của Việt Nam đứng thứ 50, cao hơn 76 nước, bao gồm nhiều quốc gia đã trải qua hàng trăm năm phát triển tư bản chủ nghĩa.

Tỷ trọng tổng thu nhập của 40% dân số có thu nhập thấp nhất được phân chia thành 5 nhóm theo mức thu nhập, mỗi nhóm chiếm 20% từ nghèo nhất đến giàu nhất, lần lượt là nhóm 1, nhóm 2, nhóm 3, nhóm 4 và nhóm 5.

5) Sau đó so sánh thu nhập của 40% dân c− nghèo nhất (tức nhóm 1 và nhóm

2) trong tổng thu nhập của cả 5 nhóm Nếu tỷ trọng này thấp hơn 12% có nghĩa là có sự bất bình đẳng cao, nếu nằm trong khoảng 12- 17% là có sự bất bình đẳng vừa; nếu lớn hơn 17% là có sự tương đối bình đẳng Các chỉ số thống kê của Việt Nam từ cuộc khảo sát mức sống qua các năm cho thấy, tỷ trọng này của n−ớc ta năm 1995 là 21,1%, năm 2002 là 18%, năm 2004 là 17,4% Theo đó, sự chênh lệch về thu nhập giữa các nhóm tuy còn thấp và vẫn còn thuộc loại tương đối bình đẳng, nhưng đang có xu hướng tăng lên

- Hệ số Gini và đ−ờng cong Lorenz: Th−ớc đo phân hoá giàu nghèo (bất bình đẳng) đ−ợc sử dụng rộng rUi nhất là hệ số Gini

Hệ số Gini đ−ợc tính toán trên cơ sở đ−ờng cong Lorenz (Hình 1.4)

Khi nghiên cứu mức độ bình đẳng xã hội và kinh tế, cần đánh giá khoảng cách thu nhập giữa 20% người có thu nhập cao nhất (lớp người giàu) và 20% người có thu nhập thấp nhất (lớp người nghèo) để xác định sự bất bình đẳng hay công bằng trong xã hội.

Hệ số Gini, được tính bằng diện tích A chia cho tổng diện tích A và B, phản ánh mức độ bất bình đẳng trong phân phối thu nhập Khi A bằng 0, hệ số Gini sẽ là 0, cho thấy sự bình đẳng tuyệt đối với đường cong trùng với đường chéo Ngược lại, nếu B bằng 0, hệ số Gini sẽ đạt giá trị 1, biểu thị tình trạng bất bình đẳng tuyệt đối.

Ngoài ra, hệ số Gini còn đ−ợc tính theo nhiều công thức khác nhau, sau đây là một trong nhiều công thức đó:

Công thức tính hệ số Gini (Theo Brown M, 1994) [53]

Trong bài viết này, x i đại diện cho tỷ lệ cộng dồn của các nhóm dân cư trong tổng dân số, trong khi y i thể hiện tỷ lệ cộng dồn về thu nhập của các nhóm dân cư trong mẫu điều tra.

Hệ số Gini là thước đo quan trọng nhất về phân hoá giàu nghèo, tuy nhiên, nó không hoàn toàn đủ để đánh giá mức độ bất bình đẳng Do đó, cần kết hợp với các chỉ số khác để có cái nhìn toàn diện hơn về tình hình phân hoá giàu nghèo.

Theo các chuyên gia kinh tế, hệ số Gini của Việt Nam đã có sự biến động trong những năm qua, cụ thể năm 1994 là 0,373, năm 1996 là 0,3671, năm 1999 tăng lên 0,39, và tiếp tục gia tăng lên 0,420 vào năm 2002 và 0,423 vào năm 2004 Điều này cho thấy sự bất bình đẳng về thu nhập giữa các nhóm dân cư tại Việt Nam đang ở mức tương đối bình đẳng nhưng có xu hướng gia tăng.

1.1.8 Các giải pháp chủ yếu hạn chế phân hoá giầu nghèo

Trên toàn cầu, nhiều quốc gia đã áp dụng các giải pháp đa dạng nhằm giảm thiểu tình trạng phân hóa giàu nghèo Dưới đây là một số biện pháp chủ yếu đã được nhiều nước triển khai thành công trong thời gian gần đây.

Tăng trưởng kinh tế và nâng cao thu nhập cho mọi tầng lớp nhân dân là biện pháp quan trọng nhất để xóa nghèo tuyệt đối.

Tăng trưởng kinh tế cần phải gắn liền với việc xóa đói giảm nghèo, đồng thời chú trọng đến các vấn đề văn hóa và xã hội để đảm bảo phát triển bền vững.

Ba là, thực hiện cải cách nông nghiệp bằng cách phân phối lại ruộng đất cho nông dân, khuyến khích họ tăng cường đầu tư thâm canh và cải tạo đất đai Đồng thời, cần sử dụng lao động hiệu quả và ứng dụng công nghệ mới vào sản xuất nông nghiệp.

Cơ sở thực tiễn

1.2.1 Sự phân hoá giàu nghèo trên thế giới

Phân hoá giàu nghèo là hiện tượng kinh tế - xã hội gắn liền với sự phân tầng xã hội và phân hoá giai cấp Hiện tượng này trở nên rõ rệt hơn khi nền kinh tế phát triển Nghiên cứu của chúng tôi tập trung vào hai thời kỳ trước và sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai để minh chứng cho sự gia tăng của phân hoá giàu nghèo.

- Phân hoá giàu nghèo tr−ớc chiến tranh thế giới thứ II

Mỗi quốc gia và thời kỳ có sự phát triển riêng, chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố tự nhiên và xã hội Trong đó, nhân tố con người đóng vai trò quyết định trong việc xác định mức độ phát triển của mỗi quốc gia.

Tr−ớc thời kỳ t− bản chủ nghĩa, sự phân hoá giàu nghèo ch−a thực sự gay gắt và phức tạp

Thế kỷ XVI đánh dấu sự khởi đầu của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa tại Tây Âu, nhờ vào những phát minh và phát hiện trong nhiều lĩnh vực, cùng với các cuộc khám phá địa lý Sự phát triển này đã tạo ra nền tảng cho các quốc gia như Hà Lan, Anh, Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha trở nên giàu có hơn, nhờ vào vị trí thuận lợi của họ trên các tuyến đường hàng hải mới, đóng vai trò quan trọng trong thương mại thế giới Đặc biệt, vào năm 1948, sản lượng công nghiệp của Anh chiếm tới 45% tổng giá trị sản lượng công nghiệp toàn cầu.

Vào năm 1870, khi chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh chuyển sang chủ nghĩa tư bản độc quyền, nền kinh tế thế giới đã có nhiều biến đổi lớn Các quốc gia tư bản như Anh, Mỹ, Đức, Pháp, Nga và Nhật Bản, với lợi thế về địa lý và sự phát triển công nghiệp, trở nên cực kỳ giàu có, trong đó Anh dẫn đầu về sức mạnh kinh tế Thời kỳ này chứng kiến sự thống trị của tư bản tài chính, khi các tập đoàn độc quyền cạnh tranh quyết liệt để giành giật thị trường Trước Thế chiến I, tám nước đế quốc như Anh, Pháp, Nga, Đức, Áo, Mỹ, Ý và Nhật Bản đã thiết lập được những vùng đất thuộc địa rộng lớn, với 90% lãnh thổ châu Phi trở thành thuộc địa của các cường quốc như Anh, Pháp và Đức.

Sự phân chia không đồng đều về thuộc địa cùng với những mâu thuẫn sâu sắc giữa Anh, Pháp và Đức đã tạo ra những căng thẳng không thể tránh khỏi, dẫn đến cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất.

Giữa các khối nước đế quốc châu Âu từ năm 1914 đến 1918, cuộc chiến tranh diễn ra nhằm giành giật thị trường giữa Anh, Pháp, Nga, Đức, Áo và Ý Hậu quả của cuộc chiến tranh đế quốc lần thứ nhất là khủng hoảng kinh tế, chính trị và xã hội bao trùm châu Âu Tuy nhiên, chỉ có Mỹ và Nhật Bản là hai quốc gia phát triển nhanh chóng sau chiến tranh, với thu nhập của Mỹ tăng 40% và Nhật Bản tăng 25% nhờ vào việc bán vũ khí.

Chủ nghĩa phát xít của Đức, Ý và Nhật Bản đã dẫn đến cuộc chiến tranh thế giới thứ hai (1939 - 1945), thu hút 61 quốc gia với tổng dân số 1,7 tỷ người Cuộc chiến này gây ra tổn thất vật chất khoảng 4.000 tỷ USD, khiến hàng triệu người rơi vào cảnh nghèo đói và nhiều quốc gia bị tàn phá Trong khi đó, chỉ có Mỹ là quốc gia thu lợi và trở nên giàu có hơn nhờ vào cuộc chiến.

Trong thời kỳ này, sự mâu thuẫn trong phát triển trở nên rõ rệt, khi các nước bị tàn phá bởi chiến tranh và thuộc địa rơi vào cảnh nghèo đói, trong khi các nước chiến thắng, đặc biệt là những nước phát triển mạnh ngành công nghiệp vũ khí, lại trở nên giàu có Điều này cho thấy quy luật rằng càng nhiều chiến tranh thì sự phân hóa giàu nghèo càng gia tăng Do đó, việc hạn chế chiến tranh giữa các dân tộc và sắc tộc là cần thiết để thúc đẩy sự công bằng xã hội.

- Phân hoá giàu nghèo sau chiến tranh thế giới thứ II

Sau Chiến tranh Thế giới thứ II, nhiều nước tư bản Tây Âu rơi vào khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng và không thể tự khôi phục Trong khi đó, Mỹ, ít bị ảnh hưởng bởi chiến tranh, đã trở thành trung tâm của chủ nghĩa tư bản với 56,6% công nghiệp, 32,5% ngoại thương và 73,3% trữ lượng vàng thế giới Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba (1913 - 1960) và cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư từ sau năm 1960 đã thúc đẩy sự phát triển của ngành vi điện tử, thông tin viễn thông, tự động hóa và công nghệ sinh học Những thay đổi này đã làm biến đổi nhanh chóng cơ cấu kinh tế toàn cầu, đưa nhân loại tiến vào một nền văn minh mới và tăng cường xu thế quốc tế hóa trong nhiều lĩnh vực.

Các nước G7, với nền công nghiệp hiện đại và thu nhập bình quân đầu người cao nhất thế giới, thể hiện sức mạnh chi phối toàn cầu, trong khi các nước nghèo ngày càng phụ thuộc và chênh lệch giàu nghèo gia tăng Trong giai đoạn đầu, kinh tế của Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu đã tăng trưởng nhanh, cải thiện mức sống và giảm bớt chênh lệch thu nhập Hiện nay, các nước đang phát triển được chia thành nhiều nhóm: 100 nước chậm phát triển, 60 nước đang công nghiệp hóa, 13 nước xuất khẩu dầu OPEC và 7 nước công nghiệp mới Kể từ năm 1991, các nước này được phân loại là đang phát triển để phân biệt với các nước tư bản phát triển thuộc OECD.

Trước năm 1990, nhiều nước đang phát triển trải qua giai đoạn tăng trưởng kinh tế chậm chạp, với tốc độ trung bình chỉ 4,2% mỗi năm từ 1960 đến 1987, dẫn đến sự phân hóa giàu nghèo nghiêm trọng hơn so với các nước tư bản phát triển Tình trạng nghèo đói tuyệt đối vẫn tiếp tục trầm trọng, nhiều quốc gia ghi nhận tăng trưởng âm trong khi dân số gia tăng, khiến GDP bình quân đầu người giảm liên tục và đời sống của người dân trở nên khổ cực Đến cuối những năm 1980, các nước đang phát triển chiếm 77% dân số toàn cầu nhưng chỉ nắm giữ 21% thu nhập thế giới.

Kinh tế phát triển đang dẫn đến sự gia tăng chênh lệch giàu nghèo và phân hóa thu nhập giữa các tầng lớp dân cư và giữa các quốc gia phát triển và đang phát triển Vào năm 1980, thu nhập bình quân đầu người của Mỹ cao hơn 160 lần so với Ethiopia, một trong những quốc gia nghèo nhất thế giới, và gấp 60 lần so với Ấn Độ Các quốc gia thuộc OECD có thu nhập bình quân đầu người cao gấp gần 58 lần so với các nước thu nhập thấp Để minh họa rõ hơn về vấn đề này, chúng tôi đã hệ thống hóa sự phân hóa giàu nghèo trong từng nhóm quốc gia giai đoạn trước năm 1990.

Bảng 1.2: Mức GDP và GDP bình quân đầu ng−ời ở các nhóm n−ớc

Các n−ớc đang phát triển

Các n−ớc thu nhập thÊp

Các n−ớc đang phát triển khác

Các n−ớc t− bản phát triển (OECD) N¨m

Từ năm 1990, quá trình khu vực hóa và quốc tế hóa kinh tế toàn cầu đã diễn ra mạnh mẽ, nhờ vào sự phát triển của kinh tế tri thức và công nghệ thông tin Sự phân công lao động quốc tế đã thúc đẩy thương mại và dịch vụ phát triển trên toàn cầu, dẫn đến sự hình thành nền kinh tế thị trường Tuy nhiên, sự phân hóa giàu nghèo ngày càng gia tăng, với khoảng cách giữa các tầng lớp xã hội trở nên sâu sắc hơn Theo số liệu của Liên hợp quốc, mức thu nhập của 20% dân số giàu có đã tăng từ 30 lần so với các nước nghèo nhất vào năm 1960 lên 74 lần vào năm 1997.

Năm 2006, dữ liệu từ Ngân hàng Thế giới (WB) cho thấy mức thu nhập bình quân đầu người của Lúc-xăm-bua cao gấp 76,5 lần so với Việt Nam.

Bảng 1.3: GDP bình quân đầu ng−ời năm 2006 của một số n−ớc Đơn vị tính: USD

Tên n−ớc Số l−ợng Tên n−ớc Số l−ợng

2 Na Uy 37.900 7 Ni-giê-ria 800

4 Thuþ Sü 32.700 9 B¨ng-la-®Ðt 520

5 Thuỵ Điển 26.800 10 Đông-ti-mo 500

Theo Bách khoa toàn thư mở - Wikipedia 2008, người nghèo không phân bố đều ở các khu vực trên thế giới, với châu Á có khoảng 800 triệu người nghèo, châu Phi gần 500 triệu và châu Mỹ La tinh khoảng 75 triệu Dự báo rằng vào năm 2025, số người nghèo toàn cầu có thể tăng lên tới 1,5 tỷ Sự chênh lệch giàu nghèo ngày càng gia tăng giữa các quốc gia, khiến các nước nghèo trở nên phụ thuộc vào các nước giàu, dẫn đến bất bình đẳng trong quan hệ quốc tế Mỹ hiện là quốc gia giàu nhất thế giới, mặc dù chỉ chiếm 5% tổng dân số toàn cầu.

Mỹ tiêu thụ 23% năng l−ợng, ăn 15% thịt, sử dụng đến 37% ô tô của thế giới

Các công trình nghiên cứu có liên quan

Trong những năm gần đây, vấn đề phân hóa giàu nghèo đã thu hút sự chú ý của nhiều nhà khoa học cả trong và ngoài nước Nhiều nghiên cứu và tài liệu đã được công bố để phân tích và làm rõ thực trạng này.

GS.TS Đỗ Nguyên Phương, Hà Nội, 1996, đã thực hiện chương trình khoa học công nghệ cấp Nhà nước KX.07 với đề tài KX 07 - 05, nghiên cứu về những đặc trưng và xu hướng biến đổi cơ cấu xã hội Việt Nam trong bối cảnh đổi mới.

Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường cùng với Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn quốc gia đã công bố báo cáo tổng kết chương trình khoa học công nghệ cấp Nhà nước KX.04 Báo cáo này đưa ra luận cứ khoa học nhằm hỗ trợ việc đổi mới chính sách xã hội và cơ chế quản lý thực hiện các chính sách xã hội.

Nhiều công trình nghiên cứu đã đề cập đến phân tầng xã hội và cơ cấu xã hội trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tuy nhiên, chỉ một số ít tập trung vào nguyên nhân và thực trạng phân hoá giàu nghèo tại Việt Nam Vấn đề phân hoá giàu nghèo vẫn chưa được phân tích một cách toàn diện, cần có thêm nghiên cứu để làm rõ các yếu tố liên quan.

Nhiều tác giả đã nghiên cứu sâu về vấn đề xóa đói giảm nghèo (XĐGN), tập trung vào các lý luận, kinh nghiệm từ các quốc gia có chế độ chính trị khác nhau, thực trạng đói nghèo, nguyên nhân và biện pháp XĐGN ở Việt Nam Họ cũng giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, mặc dù vấn đề phân hóa giàu nghèo chưa được nghiên cứu nhiều Một số tác phẩm tiêu biểu bao gồm "Vấn đề xoá đói giảm nghèo ở nông thôn nước ta hiện nay" của Nguyễn Thị Hằng (NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997) và "Tăng trưởng kinh tế gắn với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội Việt Nam 20 năm đổi mới" của GS.TS Đỗ Nguyên Phương (NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006).

Một số tác giả đã đưa ra cái nhìn mới về phân hóa giàu nghèo, nghiên cứu sâu về lý luận và thực tiễn của vấn đề này ở nhiều quốc gia, cũng như ở tầm vĩ mô tại Việt Nam Nguyễn Thị Mai Hồng, trong luận án tiến sĩ triết học mang tên "Phân hóa giàu nghèo trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường ở nước ta - thực trạng xu hướng biến động và giải pháp", đã đề xuất các biện pháp giải quyết chung nhằm ứng phó với tình trạng phân hóa giàu nghèo Luận án được hoàn thành tại Hà Nội vào năm 2000.

Nhiều nghiên cứu đã tập trung phân tích các khía cạnh và góc nhìn khác nhau về các vấn đề lý luận cơ bản liên quan đến đói nghèo, phân tầng xã hội và phân hoá giàu nghèo Bài viết này sẽ đề cập đến thực trạng, nguyên nhân và bài học kinh nghiệm từ các quốc gia trong việc giải quyết vấn đề phân hoá giàu nghèo.

- PGS.TS Phan Thúc Huân, Kinh tế phát triển, Tr−ờng Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, NXB Thống kê, Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2006

- PGS.TS Lê Du Phong và các tác giả, Giải quyết vấn đề phân hoá giàu nghèo ở các n−ớc và Việt Nam NXB Nông nghiệp Hà Nội 2000

Gần đây, một số tác giả, như PGS.TS Lê Hữu ảnh, đã đưa ra những quan điểm mới về thước đo, nguyên nhân của sự giàu nghèo và sự phân hóa giàu nghèo tại Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế Những nghiên cứu này được trình bày trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học và thực tiễn diễn ra tại Bắc Ninh vào tháng 10/2006.

Công trình của Đỗ Thiên Kính, "Phân hoá giàu nghèo và tác động của yếu tố học vấn đến nâng cao mức sống cho người dân Việt Nam" (NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2003), nghiên cứu sâu về vai trò của học vấn trong việc cải thiện mức sống của người dân Việt Nam Tuy nhiên, nghiên cứu này chưa bao quát toàn diện các khía cạnh của phân hoá giàu nghèo.

Mặc dù nhiều công trình đã nghiên cứu sâu về lý luận phân hóa giàu nghèo ở tầm vĩ mô cả trong và ngoài nước, nhưng vẫn chưa có nghiên cứu nào đề cập một cách hệ thống và toàn diện về lý luận và thực tiễn phân hóa giàu nghèo tại nông thôn tỉnh Bắc Ninh.

Nghiên cứu và làm rõ các vấn đề lý luận về giàu nghèo và phân hoá giàu nghèo là rất cần thiết, đóng vai trò quan trọng trong việc chỉ đạo thực tiễn Điều này giúp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đồng thời kiềm chế sự gia tăng phân hoá giàu nghèo.

Nghiên cứu sự phân hoá giàu nghèo toàn cầu và tại Việt Nam qua các thời kỳ giúp cung cấp cái nhìn toàn diện về vấn đề này Không thể giải quyết ngay phân hoá giàu nghèo trong thời gian ngắn, đặc biệt trong nền kinh tế thị trường Thay vào đó, cần khuyến khích tăng trưởng kinh tế nhanh, chấp nhận sự phân hoá giàu nghèo trong giới hạn hợp lý và áp dụng các giải pháp nhằm hạn chế sự gia tăng của nó, đồng thời phát huy mặt tích cực và giảm thiểu mặt tiêu cực của phân hoá giàu nghèo.

Kinh nghiệm giải quyết phân hóa giàu nghèo từ một số quốc gia có thể mang lại bài học quý giá cho tỉnh Bắc Ninh Việc áp dụng những chiến lược này sẽ giúp kiểm soát và hạn chế sự phân hóa giàu nghèo, từ đó góp phần vào sự phát triển bền vững của địa phương.

Ch−ơng ii đặc điểm địa bàn và phương pháp nghiên cứu

2.1 Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh Bắc Ninh

Bắc Ninh, với vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên thuận lợi, đang phát triển mạnh mẽ nhờ vào sự hiện diện của nhiều làng nghề truyền thống và lễ hội lớn Gần Thủ đô Hà Nội và các đô thị lớn, tỉnh này chịu ảnh hưởng của quá trình đô thị hóa nhanh chóng, tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn, thu hút nhiều dự án lớn vào các khu công nghiệp Điều này không chỉ góp phần vào tăng trưởng kinh tế cao mà còn giúp giải quyết việc làm và xóa đói giảm nghèo, đồng thời ảnh hưởng lớn đến sự phân hóa giàu nghèo trong tỉnh.

Bắc Ninh là tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, giáp Bắc Giang ở phía Bắc, H−ng Yên và một phần Hà Nội ở phía Nam, Hải D−ơng ở phía Đông và Hà Nội ở phía Tây Tỉnh có hệ thống giao thông thuận lợi bao gồm đường bộ, đường thuỷ và đường sắt, kết nối Bắc Ninh với các tỉnh lân cận thông qua quốc lộ 1A (Hà Nội - Bắc Ninh - Lạng Sơn).

Đặc điểm địa bàn và phương pháp nghiên cứu 2.1 Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xU hội của tỉnh Bắc Ninh

Ngày đăng: 23/07/2021, 09:27

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w