MỞ ðẦU
Tớnh cấp thiết của ủề tài
Thuế là khoản đóng góp bắt buộc của tổ chức và cá nhân cho Nhà nước, không mang tính hoàn trả trực tiếp, nhằm phục vụ mục đích cộng đồng Tại Việt Nam, Luật thuế do Quốc hội ban hành và được thực hiện thông qua các biện pháp giáo dục, thuyết phục và cưỡng chế của bộ máy nhà nước Luật quản lý thuế hiện hành có hiệu lực từ ngày 01/7/2007, góp phần minh bạch hóa công tác quản lý thuế Pháp luật thuế Việt Nam nhận được sự đồng thuận từ đông đảo quần chúng nhân dân và được người dân nghiêm túc thực hiện.
Mặc dù đã có nhiều cải cách trong quản lý thuế, vẫn còn một số người nộp thuế (NNT) không tuân thủ pháp luật thuế, như không đăng ký thuế khi kinh doanh, chậm nộp hồ sơ khai thuế hoặc nộp thiếu thông tin cần thiết Ngoài ra, nhiều NNT cũng báo cáo thông tin không đầy đủ và chính xác, không nộp hoặc nộp muộn tiền thuế vào Ngân sách Nhà nước (NSNN), và có hành vi trốn thuế, gian lận thuế Tình trạng này đang diễn ra khá phổ biến.
Trong những năm qua, mặc dù phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, kinh tế tỉnh Hoà Bình vẫn duy trì ổn định với mức tăng trưởng bình quân trên 10% Sự tăng trưởng này, cùng với ý thức chấp hành pháp luật thuế ngày càng cao của người nộp thuế, đã đóng góp tích cực vào ngân sách nhà nước, với tốc độ tăng trưởng cao hơn mỗi năm Nhờ vào nguồn thu ngân sách gia tăng, tỉnh đã có thêm nguồn lực để đầu tư phát triển, giải quyết nhiều vấn đề như giáo dục, y tế, xóa đói giảm nghèo, phòng chống thiên tai và dịch bệnh Tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận doanh nghiệp và cá nhân kinh doanh chưa tuân thủ tốt các quy định về đăng ký thuế và kê khai thuế, có hành vi chây ỳ và trốn tránh nghĩa vụ nộp thuế Đặc biệt, có những trường hợp vi phạm pháp luật nhằm chiếm đoạt tiền thuế của nhà nước, thể hiện sự tuân thủ pháp luật còn thấp.
Tình trạng không tuân thủ pháp luật thuế đang gây ra nhiều tác động tiêu cực, bao gồm mất kỷ cương, thất thu ngân sách nhà nước, và ảnh hưởng đến cạnh tranh trong kinh doanh Điều này đặt ra câu hỏi về mức độ tuân thủ pháp luật của người nộp thuế và những nguyên nhân liên quan đến hành vi không tuân thủ của họ Để nâng cao tình trạng tuân thủ, cần thực hiện các giải pháp hiệu quả trong công tác quản lý thuế tại tỉnh Hòa Bình Nghiên cứu này sẽ tập trung vào việc tìm kiếm giải pháp nhằm nâng cao tính tuân thủ pháp luật của người nộp thuế theo luật Quản lý thuế hiện hành.
Mục tiờu nghiờn cứu của ủề tài
Dựa trên nghiên cứu về thực trạng chấp hành pháp luật thuế của người nộp thuế tại tỉnh Hòa Bình, bài viết đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao tính tuân thủ pháp luật theo quy định của Luật Quản lý thuế hiện hành.
(1) Hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn về thuế và tính tuân thủ pháp luật của người nộp thuế theo luật Quản lý thuế hiện nay
(2) Phản ỏnh và ủỏnh giỏ thực trạng việc tuõn thủ phỏp luật của người nộp thuế hiện nay ở tỉnh Hoà Bình
(3) ðề xuất các giải pháp nhằm nâng cao tính tuân thủ pháp luật của người nộp thuế áp dụng trong hoàn cảnh thực tế ở tỉnh Hoà Bình.
ðối tượng và phạm vi nghiờn cứu của ủề tài
1.3.1 ðối tượng nghiờn cứu của ủề tài
Luật quản lý thuế hiện hành quy định các yếu tố liên quan đến việc tuân thủ như người nộp thuế, cơ quan quản lý thuế và chính sách thuế Việc hiểu rõ các quy định này là cần thiết để đảm bảo tuân thủ pháp luật và tránh các rủi ro pháp lý Các bên liên quan cần phối hợp chặt chẽ để nâng cao hiệu quả quản lý thuế và đảm bảo quyền lợi hợp pháp của người nộp thuế.
1.3.2 Phạm vi nghiờn cứu của ủề tài
Luận văn này nghiên cứu tính tuân thủ pháp luật của người nộp thuế, tập trung vào hai loại thuế chính là thuế Giá trị gia tăng (GTGT) và thuế Thu nhập doanh nghiệp (TNDN) Nghiên cứu phân tích các yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến việc tuân thủ pháp luật thuế, bao gồm người nộp thuế (không tính cá nhân không kinh doanh do số lượng ít), sự quản lý của cơ quan thuế, và nội dung cơ bản của các Luật thuế GTGT và TNDN Bên cạnh đó, luận văn cũng đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao tính tuân thủ pháp luật của người nộp thuế trong bối cảnh thực hiện Luật Quản lý thuế hiện hành.
Luận văn được nghiên cứu tại tỉnh Hòa Bình, tập trung vào Cục thuế và các khu vực có nhiều người nộp thuế, đặc biệt là thành phố Hòa Bình, huyện Mai Châu và huyện Kỳ Sơn.
Về thời gian: ðề tài tiến hành nghiờn cứu từ năm 2006 ủến năm 2008, do ủú số liệu, thụng tin phản ỏnh trong thời gian 03 năm (2006 ủến 2008)
Luật Quản lý thuế chính thức có hiệu lực từ ngày 01/07/2007, do đó, các số liệu phản ánh việc tuân thủ pháp luật sẽ được ghi nhận trong khoảng thời gian từ tháng 7/2007 đến hết năm 2008.
- Cỏc giải phỏp ủề xuất ủến năm 2010, ủịnh hướng ủến năm 2015.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ THUẾ VÀ TÍNH TUÂN THỦ PHÁP LUẬT CỦA NGƯỜI NỘP THUẾ
Những vấn ủề chung về thuế
Lịch sử phát triển xã hội loài người chứng minh rằng thuế là yếu tố cần thiết gắn liền với sự ra đời, tồn tại và phát triển của Nhà nước Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có quan điểm thống nhất về khái niệm thuế Mặc dù có nhiều khái niệm khác nhau, các nhà kinh tế đều nhất trí rằng để hiểu rõ bản chất của thuế, cần nhấn mạnh các khía cạnh quan trọng liên quan đến nó.
Nội dung kinh tế của thuế được đặc trưng bởi các mối quan hệ tiền tệ giữa Nhà nước và các pháp nhân, cá nhân, mà không có tính hoàn trả trực tiếp.
Thứ hai, các mối quan hệ tiền tệ này phát sinh một cách khách quan và mang ý nghĩa xã hội đặc biệt, thể hiện qua việc chuyển giao thu nhập theo mệnh lệnh bắt buộc của Nhà nước.
Thứ ba, các pháp nhân và thể nhân chỉ phải nộp cho Nhà nước các khoản ủó ủược phỏp luật quy ủịnh
Từ những nội dung trờn, cú thể ủưa ra một khỏi niệm tổng quỏt về thuế phự hợp với giai ủoạn hiện nay như sau:
Thuế là khoản tiền mà cá nhân và tổ chức phải nộp cho nhà nước theo quy định của pháp luật Đây là nghĩa vụ bắt buộc, không mang tính chất hoàn trả trực tiếp cho người nộp thuế, và được sử dụng để đáp ứng các nhu cầu chi tiêu công cộng.
2.1.2 ðặc ủiểm của thuế a) Thuế là một khoản trích nộp bằng tiền [27]
Trong nền kinh tế thị trường, thuế được hiểu là khoản trích nộp bằng tiền, khác với hình thức nộp thuế bằng hiện vật trong quá khứ Sự phát triển của hoạt động giao dịch hàng hóa bằng tiền đã thúc đẩy sự tiến bộ của hệ thống thuế Đồng thời, việc bắt buộc nộp thuế bằng tiền cũng góp phần vào sự phát triển của nền kinh tế thị trường, buộc người nộp thuế phải chuyển đổi tài sản hiện vật thành tiền để thanh toán nghĩa vụ thuế.
Hình thức trả thuế bằng hiện vật vẫn có vai trò trong hệ thống chính sách thuế, thể hiện quyền lực Nhà nước thông qua tính pháp lý tối cao của thuế, được quy định trong Hiến Pháp Quốc Hội là cơ quan duy nhất có thẩm quyền ban hành, sửa đổi hoặc bãi bỏ thuế, đảm bảo rằng việc thu thuế phải tuân theo các quy định pháp luật rõ ràng Thuế gắn liền với thu nhập, là phương thức phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm xã hội, trong đó một phần thu nhập của người nộp thuế được chuyển giao bắt buộc cho Nhà nước mà không kèm theo quyền lợi nào khác Điều này phân biệt thuế với các hình thức huy động tài chính tự nguyện hoặc hình thức phạt tiền Cuối cùng, thuế là hình thức chuyển giao thu nhập không mang tính chất hoàn trả trực tiếp và được sử dụng để đáp ứng chi tiêu công cộng.
Tớnh chất này ủược thể hiện trờn cỏc khớa cạnh:
Sự chuyển giao thu nhập thông qua thuế không mang tính chất ủối giỏ, vì mức thuế mà các tầng lớp trong xã hội nộp cho Nhà nước không hoàn toàn dựa trên mức độ hưởng thụ dịch vụ và hàng hóa công cộng Người nộp thuế không có quyền yêu cầu Nhà nước cung cấp hàng hóa hay dịch vụ công cộng cụ thể cho mình trước khi nộp thuế.
Các khoản thuế nộp cho Nhà nước sẽ không được hoàn trả trực tiếp cho người nộp thuế Người nộp thuế chỉ nhận được một phần hàng hóa, dịch vụ công cộng mà Nhà nước cung cấp cho cộng đồng Giá trị mà người nộp thuế được hưởng không nhất thiết tương ứng với số thuế họ đã nộp Đặc điểm này giúp phân biệt thuế với các khoản phí, lệ phí và giá cả.
Khái niệm chi tiêu công ngày nay không chỉ được hiểu theo nghĩa hẹp mà còn bao gồm nhiều chức năng kinh tế, xã hội và văn hóa Các hoạt động này đều cần được tài trợ bằng nguồn thu từ thuế.
2.1.3 Chức năng của thuế a) Chức năng huy ủộng tập trung nguồn lực tài chớnh hay chức năng phân phối thu nhập ðõy là chức năng cơ bản của thuế, ủặc trưng cho thuế ở tất cả cỏc dạng Nhà nước, trong tiến trình phát triển của xã hội Về mặt lịch sử, chức năng huy ủộng tập trung nguồn lực tài chớnh là chức năng ủầu tiờn, phản ỏnh nguyờn nhõn sự ra ủời của thuế
Thông qua chức năng huy động tập trung nguồn lực tài chính của thuế, các quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước được hình thành nhằm đảm bảo cơ sở vật chất cho sự tồn tại và hoạt động của Nhà nước Chức năng này tạo ra tiền đề để Nhà nước tham gia phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân, vì vậy nó còn được gọi là chức năng phân phối của thuế.
Chức năng huy động tập trung nguồn lực tài chính từ thuế tạo ra cơ sở cho sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế Trong quá trình này, thuế không chỉ huy động tài chính mà còn thực hiện chức năng điều tiết vĩ mô nền kinh tế Nhà nước quản lý và điều tiết kinh tế - xã hội thông qua nhiều biện pháp, trong đó biện pháp kinh tế là chủ yếu Các công cụ tài chính, tiền tệ và tín dụng được sử dụng để điều tiết vĩ mô, trong đó thuế là công cụ quan trọng nhất Bằng cách ban hành hệ thống pháp luật về thuế, Nhà nước quy định mức thuế, có chính sách ưu đãi miễn, giảm thuế, từ đó tác động đến mối quan hệ cung và cầu trên thị trường, góp phần điều tiết vĩ mô nền kinh tế và đảm bảo sự cân đối trong cơ cấu kinh tế giữa các ngành nghề và vùng lãnh thổ.
Nhà nước sử dụng thuế để tác động trực tiếp lên các yếu tố đầu vào của sản xuất như lao động, vật tư và tiền vốn, nhằm điều tiết hoạt động kinh tế trong cả nước Ngoài ra, thuế cũng được áp dụng vào hoạt động xuất nhập khẩu để thực hiện chính sách thương mại quốc tế và hội nhập kinh tế Để điều tiết tiêu dùng, Nhà nước có thể sử dụng nhiều biện pháp khác nhau, nhưng chính sách thuế là giải pháp hiệu quả nhất trong nền kinh tế thị trường Các mức thuế gián thu phân tầng như thuế nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng và thuế tiêu thụ đặc biệt sẽ làm giảm cầu đối với hàng hóa, dịch vụ mà Nhà nước muốn hạn chế hoặc ưu tiên Cần chú ý đến việc phân biệt đối xử giữa hàng hóa, dịch vụ trong và ngoài nước, vì điều này có thể vi phạm các cam kết quốc tế Sự phân hóa giàu nghèo trong nền kinh tế hội nhập có nguy cơ gia tăng, tạo ra những hố ngăn cách xã hội, tuy nhiên, thuế thu nhập đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện công bằng và giảm khoảng cách giàu nghèo.
2.1.4 Các yếu tố cấu thành một sắc thuế a) Tên gọi của sắc thuế
Mỗi sắc thuế đều có một tên gọi riêng để phân biệt các hình thức thuế khác nhau và phản ánh những tính chất chung nhất của chúng Tên gọi của sắc thuế thường chứa đựng nội dung, mục đích và phạm vi điều chỉnh của nó Đối tượng nộp thuế cũng là một yếu tố quan trọng trong việc xác định sắc thuế.
Trong một luật thuế, quy định rõ ràng ai là đối tượng nộp thuế, bao gồm cá nhân hoặc pháp nhân có trách nhiệm nộp thuế cho Nhà nước Người có trách nhiệm trả thuế theo quy định của pháp luật không nhất thiết phải là người chịu thuế Trong nhiều trường hợp, người có trách nhiệm trả thuế cũng chính là người chịu thuế.
Người nộp thuế và tính tuân thủ pháp luật của người nộp thuế
Theo Luật quản lý thuế hiện hành, người nộp thuế (NNT) được định nghĩa là các cá nhân hoặc tổ chức pháp lý có trách nhiệm nộp thuế cho Nhà nước.
Tổ chức, hộ gia đình và cá nhân có trách nhiệm nộp thuế, lệ phí, hoặc các khoản thu khác cho Ngân sách Nhà nước theo quy định của pháp luật về thuế.
- Tổ chức ủược giao nhiệm vụ thu phớ, lệ phớ thuộc Ngõn sỏch nhà nước
Các tổ chức và cá nhân khấu trừ thuế tại Việt Nam bao gồm những bên ký hợp đồng với tổ chức, cá nhân nước ngoài mà không tuân thủ quy định pháp luật về đầu tư và kế toán Việt Nam Họ có trách nhiệm khấu trừ thuế khi chi trả thu nhập cho những người thuộc diện nộp thuế thu nhập cá nhân Ngoài ra, các tổ chức làm đại lý tàu biển và đại lý cho các hãng vận tải nước ngoài cũng có nghĩa vụ khấu trừ thuế thu nhập doanh nghiệp đối với hoạt động kinh doanh vận chuyển hàng hóa bằng tàu biển từ các cảng biển Việt Nam ra nước ngoài hoặc giữa các cảng biển trong nước.
- Tổ chức kinh doanh dịch vụ làm thủ tục về thuế (ủại lý thuế);
Người nộp thuế có trách nhiệm trực tiếp nộp thuế cho Nhà nước, bao gồm việc sử dụng thu nhập của chính mình hoặc thu nhập từ các nguồn khác, hoặc thông qua ủy quyền để thực hiện nghĩa vụ thuế.
Người nộp thuế có thể kê khai và nộp một loại thuế duy nhất, nhưng cũng có thể thực hiện kê khai và nộp nhiều loại thuế khác nhau cùng một lúc.
Người nộp thuế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ thuế đối với nhà nước, và việc tuân thủ pháp luật thuế là rất quan trọng Chúng ta cần tìm hiểu xem người nộp thuế có thực hiện đầy đủ trách nhiệm của mình hay không, từ đó đánh giá tính tuân thủ và sự chấp hành các quy định liên quan đến thuế.
2.2.2 Tính tuân thủ pháp luật của người nộp thuế
Nhà nước ban hành pháp luật để xác định các khả năng hành vi và cách xử sự của cá nhân và tổ chức Những khả năng này chỉ trở thành hiện thực trong đời sống khi các chủ thể pháp luật thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật.
Thực hiện pháp luật là quá trình biến các quy tắc pháp luật thành hành động thực tế của các chủ thể pháp luật Mọi hành vi và hoạt động tuân thủ yêu cầu của quy phạm pháp luật đều được xem là thực hiện pháp luật Dựa trên tính chất của hoạt động này, khoa học pháp lý phân chia các hình thức thực hiện pháp luật thành bốn loại: tuân thủ pháp luật, chấp hành pháp luật, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật.
Tuân thủ pháp luật là việc thực hiện các quy định của pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật kiềm chế thực hiện những hoạt động bị cấm Điều này đòi hỏi mỗi cá nhân phải tự kiềm chế và không thực hiện các hành vi mà pháp luật nghiêm cấm Các chủ thể tuân thủ pháp luật bao gồm công dân, cơ quan nhà nước, tổ chức và các nhà chức trách.
Mục tiêu chính của cơ quan quản lý thuế là thu thuế hợp pháp và củng cố niềm tin của người nộp thuế vào hệ thống thuế Hành vi không tuân thủ pháp luật, dù là do sơ ý hay cố tình, đều cho thấy sự cần thiết phải giảm thiểu tình trạng này Do đó, cơ quan thuế cần có chiến lược và chương trình nhằm nâng cao mức độ tuân thủ của người nộp thuế Trước khi triển khai các chương trình này, cần phải hiểu rõ định nghĩa và các yếu tố ảnh hưởng đến tình trạng tuân thủ, cũng như các phương pháp để đo lường và đánh giá mức độ tuân thủ.
Cơ quan quản lý thuế đóng vai trò trung tâm trong việc đảm bảo người nộp thuế (NNT) và các bên liên quan hiểu rõ nghĩa vụ của họ theo quy định của luật thuế Người nộp thuế cùng các bên liên quan có trách nhiệm quan trọng trong việc thực hiện nghĩa vụ này, vì trong nhiều trường hợp, chỉ có họ mới nhận thức được các nghĩa vụ pháp lý mà mình phải tuân thủ.
Nghĩa vụ của người nộp thuế (NNT) có thể khác nhau tùy theo trách nhiệm thuế và từng cơ quan thuế, nhưng có bốn loại nghĩa vụ cơ bản mà NNT phải thực hiện ở bất kỳ quốc gia nào Vấn đề tuân thủ liên quan chặt chẽ đến việc thực hiện các nghĩa vụ này Bốn loại nghĩa vụ bao gồm: đăng ký thuế; nộp tờ khai và các thông tin cần thiết liên quan đến thuế đúng hạn; báo cáo thông tin đầy đủ và chính xác, kết hợp với việc lưu giữ sổ sách; và nộp nghĩa vụ thuế đúng hạn.
Nếu NNT không thực hiện bất kỳ một trong bốn nghĩa vụ quy định, có thể coi là không tuân thủ Tuy nhiên, mức độ không tuân thủ có sự khác biệt rõ rệt Do đó, việc sắp xếp các rủi ro tuân thủ theo thứ tự ưu tiên là rất quan trọng.
Cơ quan thuế cần xác định rõ các hành vi không tuân thủ, bao gồm cả lỗi vô ý và gian lận cố ý, cũng như trường hợp nộp thừa thuế Ngoài ra, ngay cả khi người nộp thuế thực hiện nghĩa vụ, vẫn có thể xảy ra vấn đề không tuân thủ do cách diễn giải luật khác nhau Tình trạng này cho thấy tính rủi ro trong luật thuế, cần được giải quyết thông qua việc sửa đổi luật hoặc thay đổi phương thức quản lý.
Tính tuân thủ của người nộp thuế được hiểu là việc chấp hành đầy đủ, chính xác và kịp thời các quy định, thủ tục về thuế theo pháp luật Mỗi quốc gia áp dụng các phương pháp và cách thức tiếp cận khác nhau để đo lường và đánh giá mức độ tuân thủ này Việc phân loại tính tuân thủ cũng được thực hiện dựa trên các tiêu chí và mục đích riêng của từng quốc gia.
Thực tiễn về công tác quản lý thuế ở Việt Nam trong thời gian qua
2.4.1 Những thành tựu của công tác quản lý thuế
Cùng với sự đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, công tác quản lý thuế ở nước ta cũng đã có những đổi mới rất quan trọng.
Cơ quan quản lý thuế cần được sắp xếp hợp lý để nâng cao hiệu quả công việc Đội ngũ cán bộ thuế cần được đào tạo chuyên sâu, chú trọng vào việc phát triển chuyên môn và phẩm chất đạo đức, nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao trong ngành thuế.
Thủ tục hành chính thuế đã được cải cách theo hướng đơn giản, rõ ràng và minh bạch, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức và cá nhân thực hiện nghĩa vụ thuế, đồng thời vẫn đảm bảo sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước.
Hệ thống quản lý thuế đang ngày càng được củng cố và hoàn thiện, nâng cao nhận thức về thuế của các tổ chức và cá nhân Tính tuân thủ tự giác trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế cũng ngày càng được cải thiện Hiện nay, có hơn 30.800 tổ chức và cá nhân sản xuất kinh doanh giỏi, nộp thuế đầy đủ và đúng hạn, được các cơ quan Nhà nước tôn vinh.
Các quy trình và biện pháp quản lý thuế đang được hoàn thiện theo hướng hợp lý và khoa học, nhằm nâng cao nhận thức và tuân thủ tự giác của tổ chức, cá nhân nộp thuế Đồng thời, việc phát triển ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý thuế giúp nâng cao năng lực giám sát, kiểm tra và xử lý vi phạm thuế, từ đó hạn chế thất thu ngân sách nhà nước và bảo đảm công bằng xã hội.
Cơ quan Đảng và Nhà nước các cấp đang tăng cường lãnh đạo và chỉ đạo công tác thuế, khuyến khích các tổ chức và cá nhân tích cực phối hợp với cơ quan thuế trong quản lý thuế Dư luận xã hội ngày càng chú ý đến công tác thuế, phản ánh những gương điển hình trong việc nộp thuế tốt và phê phán các hành vi trốn thuế, chiếm đoạt tiền thuế, cũng như chậm trễ trong việc nộp thuế cho ngân sách nhà nước.
Cú ủổi mới quan trọng đã giúp chính sách thuế ngày càng ảnh hưởng tích cực đến cuộc sống, đồng thời hỗ trợ công tác thuế của Đảng và Nhà nước, thúc đẩy kinh tế tăng trưởng Trong nhiều năm qua, tỷ lệ thu ngân sách từ thuế và phí đã liên tục vượt mục tiêu đề ra, với doanh thu thuế năm sau cao hơn năm trước Cụ thể, trong giai đoạn 1996-2000, doanh thu thuế tăng 2,32 lần so với giai đoạn 1991-1995; giai đoạn 2001-2005 tăng 2,1 lần so với giai đoạn 1996-2000 Đặc biệt từ năm 2001 đến nay, tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm đạt trên 15%, khiến thuế và phí trở thành nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước.
2.4.2 Những hạn chế, yếu kém của công tác quản lý thuế
Bờn cạnh những thành tựu ủạt ủược, cụng tỏc quản lý thuế của Việt Nam trong thời kỳ này vẫn còn một số hạn chế, yếu kém:
Một số người nộp thuế vẫn chưa thực sự hiểu rõ về nghĩa vụ thuế của mình, dẫn đến việc nộp thuế không đúng số lượng và thời hạn Nhiều doanh nghiệp và hộ kinh doanh còn có hành vi gian lận thuế ngày càng tinh vi, từ việc thành lập doanh nghiệp ma đến sử dụng hóa đơn bất hợp pháp Họ cũng tiếp tay cho các doanh nghiệp khác trốn thuế và rút tiền từ ngân sách nhà nước Tình trạng nợ thuế và chậm nộp thuế vẫn diễn ra ở nhiều địa phương, gây khó khăn trong việc quản lý thuế.
Các tổ chức và cá nhân liên quan chưa chủ động phối hợp trong việc cung cấp thông tin và chia sẻ trách nhiệm với cơ quan thuế để thu thuế hiệu quả Môi trường quản lý thuế vẫn chưa được cải thiện, việc thanh toán bằng tiền mặt vẫn chiếm ưu thế; người tiêu dùng chưa yêu cầu người bán lập hóa đơn; hàng nhập lậu, hàng nhái, hàng mạo danh và giá rẻ vẫn tràn lan trên thị trường.
Một số cơ quan thuế, đặc biệt là tại các đô thị lớn, chưa có biện pháp theo dõi và giám sát chặt chẽ người nộp thuế, dẫn đến việc họ chưa nắm bắt chính xác các trường hợp ngừng hoạt động, giải thể, phá sản, di chuyển địa bàn, chia tách, sáp nhập do quản lý chưa đầy đủ và chặt chẽ.
Công tác tuyên truyền và hỗ trợ người nộp thuế đã có những bước tiến đáng kể, nhưng vẫn chưa đủ mạnh mẽ để đáp ứng yêu cầu của công tác quản lý thuế mới.
Chưa có quyết định rõ ràng về việc áp dụng các biện pháp xử phạt đối với trường hợp kê khai chậm, không nộp tờ khai hoặc tờ khai có nhiều sai sót Hiện tại, quy trình nhận và nhập tờ khai chủ yếu vẫn được thực hiện thủ công, dẫn đến thiếu chính xác và tốn nhiều nhân lực, làm giảm thời gian dành cho công tác kiểm tra và thanh tra thuế.
Công tác quản lý nợ thuế tại nhiều Cục thuế còn thiếu chặt chẽ và phân tán, dẫn đến việc không kiểm soát chính xác số nợ thuế Việc phân loại các khoản nợ chưa được thực hiện kịp thời, và các biện pháp xử phạt chưa được áp dụng một cách quyết liệt Hơn nữa, tổ chức cưỡng chế nợ vẫn gặp nhiều khó khăn và lúng túng.
Công tác thanh tra và kiểm tra thuế dựa trên việc thu thập và phân tích thông tin, đồng thời đánh giá rủi ro theo quy định của Luật quản lý thuế Tuy nhiên, ở nhiều địa phương, đặc biệt là tại cấp chi cục thuế, công tác này vẫn gặp khó khăn, dẫn đến kết quả chưa đạt hiệu quả như mong muốn.
Cán bộ công chức thuế mặc dù đã chuyển đổi theo mô hình chức năng, nhưng kỹ năng quản lý thuế theo từng chức năng vẫn chưa được đào tạo và cập nhật phù hợp, với chỉ 10% tổng số cán bộ trong ngành được đào tạo kỹ năng mới Hơn nữa, trình độ sử dụng các chương trình ứng dụng công nghệ thông tin của cán bộ thuế, bao gồm cả cán bộ lãnh đạo cơ quan thuế các cấp, vẫn còn thấp và chưa đáp ứng được yêu cầu hiện đại hóa.
Kinh nghiệm một số nước trong việc nâng cao tính tuân thủ pháp luật của người nộp thuế
2.5.1 Kinh nghiệm của Cơ quan thu nội ủịa Vương quốc Anh
Cơ quan Thu nội địa Vương quốc Anh, thuộc Bộ Ngân khố, chịu trách nhiệm quản lý các loại thuế trực thu Từ năm 2000, cơ chế tự kê khai và tự nộp thuế đã được áp dụng bởi cơ quan này.
Vào năm 1996, có hơn 8 triệu người nộp thuế cá nhân, 700.000 tổ chức hợp danh và 300.000 quỹ tín thác Việc áp dụng cơ chế tự khai và tự nộp của cơ quan thuế đã giúp tăng số thu khoảng 350 triệu Bảng trong năm 1999-2000 Đây là kết quả của các giải pháp mà Cơ quan thuế thực hiện nhằm nâng cao tính tuân thủ pháp luật của người nộp thuế.
Công tác tuyên truyền và hỗ trợ người nộp thuế (NNT) được coi là nhiệm vụ cơ bản của cơ quan thuế, cần được tăng cường cả về nhân lực và cơ sở vật chất Hiện có 28% cán bộ toàn ngành thuế và 55% cán bộ của các Cục thuế và Chi cục thuế làm công tác này Tổng chi cho công tác hỗ trợ NNT chiếm khoảng 18% tổng chi phí điều hành thu của cơ quan thuế Các phương tiện hỗ trợ NNT rất thuận tiện, bao gồm nơi tiếp đón, ghế ngồi chờ, tài liệu hướng dẫn và tờ khai đa dạng về nhiều lĩnh vực, vấn đề và ngôn ngữ Ngoài ra, cơ quan thuế cũng trang bị nhiều máy tính kết nối mạng để NNT có thể tìm hiểu chính sách thuế Đến tháng 8/2004, toàn ngành thuế Anh có 76.600 công chức, được trang bị 90.000 máy tính cá nhân và 3.500 máy in, cùng 750 máy chủ để hỗ trợ NNT.
Các hoạt động tuyên truyền và hỗ trợ người nộp thuế được thực hiện đa dạng với mục tiêu phục vụ khách hàng tốt nhất Hệ thống điện thoại hỗ trợ tự kê khai và tự nộp thuế hoạt động hiệu quả, tiếp nhận khoảng 1 triệu cuộc gọi mỗi năm Bên cạnh đó, các chiến dịch tuyên truyền toàn quốc được triển khai nhằm nâng cao ý thức nộp tờ khai đúng hạn và quảng bá các dịch vụ internet cùng dịch vụ hỗ trợ của cơ quan thuế.
Công tác thanh tra trong ngành thuế rất quan trọng, với khoảng 31% tổng số cán bộ tham gia Việc thanh tra được thực hiện theo kế hoạch, trong đó 40% khối lượng công việc từ cơ quan thuế trung ương, 10% đối tượng thanh tra được lựa chọn ngẫu nhiên, và 50% theo kế hoạch của Cục và Chi cục Các đối tượng thanh tra được các chuyên gia đánh giá rủi ro và lựa chọn dựa trên dữ liệu từ tờ khai thuế hàng năm, hệ thống báo cáo tài chính, thông tin từ máy tính, và kho dữ liệu lịch sử hoạt động kinh doanh trong 6 năm, cũng như thông tin từ các bên thứ ba, nhằm phân tích dữ liệu liên quan đến số thuế thu được từ các trường hợp thanh tra.
Đội ngũ thanh tra thuế tại Anh phải có trình độ đại học với hai bằng cấp: một bằng kinh tế hoặc thuế và một bằng luật Hàng năm, các khóa đào tạo chuyên môn được tổ chức cho các vị trí thanh tra viên, thanh tra chính và thanh tra cao cấp.
Công tác thu nợ được thực hiện theo phương pháp rủi ro với các tiêu chí tuân thủ như thời gian kê khai, mức nợ thuế và mức thuế năm trước Nếu số tiền nợ nhỏ hơn 100 bảng, có thể tự động bỏ ra khỏi hệ thống thu nợ để tránh chi phí thu Các biện pháp thu nợ mạnh mẽ như tịch biên tài sản hoặc thực hiện tố tụng cũng được áp dụng.
Mục tiêu của cơ quan thuế là thông qua các hoạt động thu nợ để tạo điều kiện cho người nộp thuế (NNT) thực hiện nghĩa vụ tài chính, đồng thời tránh việc khởi kiện hoặc các thủ tục tố tụng pháp lý.
Do vậy, cơ quan thuế cho phép NNT có những thoả thuận trả dần các khoản nợ thuế
2.5.2 Kinh nghiệm của Cục thu nội ủịa Singapo (IRAS)
Singapore là một quốc đảo ở Đông Nam Á, nổi bật với hệ thống quản lý thuế hiện đại và hiệu quả sau hơn 10 năm đổi mới Hệ thống này áp dụng công nghệ thông tin tiên tiến, giúp Singapore trở thành một trong những quốc gia hàng đầu trong lĩnh vực này Cơ quan Quản lý Thuế Nội địa Singapore (IRAS) luôn dẫn đầu trong việc cung cấp dịch vụ thuế và được người nộp thuế (NNT) đánh giá cao về hiệu quả hoạt động Theo một cuộc khảo sát năm 2000, 95% NNT cá nhân và 83% NNT doanh nghiệp cho biết họ hài lòng với dịch vụ của IRAS.
Cú ủược những thành công của IRAS đến từ chiến lược cải thiện hoạt động của cơ quan thuế, tập trung vào việc hỗ trợ người nộp thuế (NNT) Điều này giúp NNT có được hiểu biết về thuế và cung cấp các công cụ để đơn giản hóa nghĩa vụ thuế Một trong những bước đầu tiên mà IRAS thực hiện là tăng cường việc kê khai thuế thông qua hệ thống điện thoại và kê khai điện tử.
Nhờ vào những nỗ lực cải thiện chất lượng dịch vụ và tăng cường truyền thông về các hình thức kê khai mới, đến năm 2000, có tới 1/3 người nộp thuế thực hiện kê khai thuế điện tử, trong khi phần còn lại chủ yếu sử dụng hệ thống điện thoại để kê khai.
Một bước quan trọng mà IRAS thực hiện là xây dựng hệ thống phân tích thông tin tích hợp nhằm phục vụ cho công tác tư vấn và hỗ trợ người nộp thuế.
Hệ thống này cung cấp dịch vụ trả lời điện thoại tự động và dịch vụ tư vấn thuế một cửa Theo thống kê, 43% các vấn đề vướng mắc về thuế được giải quyết thông qua dịch vụ điện thoại tự động, cho phép người nộp thuế sử dụng dịch vụ một cửa để giải quyết tất cả các vấn đề liên quan đến thuế.
Thông qua chương trình phối hợp cung cấp thông tin với các cơ quan của Chính phủ, IRAS đang xây dựng chiến lược phát triển nhằm mục tiêu dài hạn là xóa bỏ mọi hình thức yêu cầu người nộp thuế phải kê khai thuế.
IRAS, cùng với các cơ quan của Chính phủ, sẽ giám sát tất cả các trường hợp đăng ký kinh doanh, kiểm tra các luồng tiền và thu nhập, từ đó tự xác định nghĩa vụ thuế cho từng người nộp thuế.