ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Trẻ sơ sinh sống tại bệnh viện Đa khoa Tỉnh Xiêng Khoảng và 6 bệnh viện huyện thuộc tỉnh Xiêng Khoảng từ 01/03/2020 – 31/05/2020.
Tiêu chuẩn lựa chọn: Tất cả các trẻ sinh sống tại bệnh viện tỉnh Xiêng Khoảng và 6 bệnh viện huyện thuộc tỉnh Xiêng Khoảng.
Tiêu chuẩn loại trừ: Con của các sản phụ bị bệnh cấp tính hoặc các rối loạn tâm thần không có khả năng thu thập số liệu.
THỜI GIAN VÀ ĐỊA ĐIỂM NGHIÊN CỨU
Thời gian: Từ tháng 01/03/2020 – 31/05/2020 Địa điểm: Bệnh viện đa khoa tỉnh Xiêng Khoảng và 6 bệnh viện huyện thuộc tỉnh Xiêng Khoảng.
THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU
Mô tả cắt ngang có phân tích
CỠ MẪU VÀ PHƯƠNG PHÁP CHỌN MẪU
Cỡ mẫu nhằm ước lượng tỷ lệ trẻ sinh nhẹ cân, nghiên cứu sử dụng công thức ước lượng tỷ lệ như sau:
- n là số trẻ trong nghiên cứu.
- P là tỷ lệ trẻ sinh nhẹ cân ước tính, p = 0,082 (tỉ lệ sơ sinh nhẹ cân cao nhất năm
2018 trong các bệnh viện thuộc tỉnh Xiêng Khoảng theo thống kê tại Lào
- d là sai số chuẩn được lựa chọn là 0,02
- α là mức ý nghĩa thống kê, được lựa chọn là 0.05 với độ tin cậy là 95%
Tính được n= 723 trẻ sơ sinh.
Thực tế trong nghiên cứu chúng tôi thu thập được 925 trẻ đủ tiêu chuẩn lựa chọn
Khi chọn bệnh viện tại tỉnh Xiêng, bạn có thể tham khảo bệnh viện Tỉnh và sáu bệnh viện huyện gồm huyện Khoun, huyện Khăm, huyện Nong Het, huyện Moc, huyện Phoukhut và huyện Phaxay Bệnh viện tại thị xã Pea tương đương với bệnh viện tuyến huyện, nhưng do vị trí gần bệnh viện Tỉnh, nơi này hầu như không tiếp nhận sản phụ, vì vậy chúng tôi không đưa vào nghiên cứu.
Nghiên cứu được thực hiện trên tất cả trẻ sơ sinh sinh ra tại các bệnh viện trong khoảng thời gian từ ngày 01/03/2020 đến 31/05/2020 Chúng tôi đã thu thập được dữ liệu từ 899 bà mẹ và 925 trẻ sơ sinh, với số lượng trẻ nhiều hơn so với mẫu ước tính ban đầu, và toàn bộ số trẻ này đã được sử dụng để phân tích trong nghiên cứu.
BIẾN SỐ NGHIÊN CỨU
Tỷ lệ trẻ đẻ sống có cân nặng dưới 2500 gram đủ tháng và thiếu tháng
- Yếu tố nhân khẩu học với các đặc điểm cá nhân của người mẹ: nhóm tuổi, trình độ học vấn,BMI trước mang thai; nghề nghiệp
- Yếu tố nhân trắc của sản phụ: chiều cao, cân nặng.
- Đặc điểm của trẻ sơ sinh: thứ tự sinh, tuổi thai khi sinh, giới, sinh đôi, phương pháp sinh, tình trạng lúc sinh
- Yếu tố về gia đình : kinh tế gia đình
- Quá trình khám thai, bất thường trong mang thai.
- Sử dụng sắt và có dùng acid forlic trong thời gian mang thai.
- Tăng cân trong mang thai.
- Lao động trong thai kỳ
- Tâm lý trong thai kỳ
CÔNG CỤ, PHƯƠNG PHÁP THU THẬP SỐ LIỆU
- Nghiên cứu sử dụng bộ công cụ phỏng vấn trực tiếp (Phụ lục 1)
Bộ công cụ phỏng vấn được phát triển dựa trên nghiên cứu của Viengsakhone tại Lào và đã được thử nghiệm với 10 bà mẹ tại bệnh viện Tỉnh nhằm đánh giá tính phù hợp của các câu hỏi Để đảm bảo các câu hỏi dễ hiểu và dễ trả lời, học viên đã xin ý kiến từ lãnh đạo và các chuyên gia để chỉnh sửa nội dung cho phù hợp với đối tượng mục tiêu.
- Bộ câu hỏi chính thức để thu thập số liệu bao gồm nội dung chính sau đây:
+ Yếu tố nhân khẩu học với các đặc điểm cá nhân của người mẹ
+ Yếu tố nhân trắc của sản phụ
+ Đặc điểm của trẻ sơ sinh
+ Yếu tố về gia đình
+ Quá trình khám thai, bất thường trong mang thai.
+ Sử dụng sắt và có dùng acid forlic trong thời gian mang thai.
+Tăng cân trong mang thai.
+ Lao động trong thai kỳ
+ Tâm lý trong thai kỳ
- Phỏng vấn trực tiếp bà mẹ sinh con dựa vào bộ câu hỏi đã chuẩn bị sẵn.
- Tập huấn cho các Điều tra viên; chọn 2 nhân viên trong mỗi bệnh viện để thực hiện thu thập số liệu
-Tổng hợp số liệu các bà mẹ 899 và 925 trẻ sơ sinh trong bệnh án tại các bệnh viện của tỉnh Xiêng khảng.
BIẾN NGHIÊN CỨU VÀ TIÊU CHUẨN ĐÁNH GIÁ SỬ DỤNG TRONG NGHIÊN CỨU
- Trẻ sinh nhẹ cân là trẻ có cân năng < 2500g.
Trong nghiên cứu này, cân nặng của trẻ khi sinh được thu thập từ bệnh án Tuổi của mẹ được tính bằng cách lấy năm sinh của trẻ trừ năm sinh của mẹ, và được chia thành ba nhóm: dưới 20 tuổi, từ 21 đến 34 tuổi, và từ 35 tuổi trở lên Mục tiêu là tìm hiểu mối liên quan giữa tuổi mẹ và cân nặng sơ sinh của trẻ.
Trình độ học vấn được phân chia theo các cấp học mà mỗi cá nhân đã hoàn thành, bao gồm hai nhóm chính: nhóm đầu tiên là từ trình độ trung học cơ sở trở xuống, tức là những người mù chữ đến lớp 9; nhóm thứ hai là từ trung học phổ thông trở lên, bao gồm những người đã hoàn thành lớp 10 cho đến bậc sau đại học.
Nghề nghiệp của mẹ được ghi nhận dựa trên lời khai, bao gồm các biến như học sinh, sinh viên, nông dân, công nhân, thợ thủ công, dịch vụ, buôn bán, làm thuê, thất nghiệp, nội trợ, công viên chức, nhân viên văn phòng, bộ đội, và công an Các nghề này được chia thành hai nhóm: dịch vụ và buôn bán, cùng với các nghề khác, nhằm tìm hiểu mối liên quan giữa nghề nghiệp của mẹ và cân nặng sơ sinh của trẻ.
- Mức kinh tế gia đình: tình trạng kinh tế gia đình của bà mẹ (trong thời kỳ mang thai) được chia thành 3 mức độ:
Trên trung bình, người dân có mức sống cao với chế độ ăn uống đầy đủ, các tiện nghi sinh hoạt hiện đại trong gia đình, sở hữu nhiều phương tiện cá nhân đắt tiền và có thu nhập kinh tế ổn định.
+ Trung bình: đủ ăn, các phương tiện sinh hoạt thông thường đủ dùng, thu nhập kinh tế thấp nhưng ổn định
+ Dưới trung bình: thiếu ăn, thiếu nhiều phương tiện sinh hoạt gia đình thông thường, thu nhập kinh tế không ổn định
- Sinh non: theo lời khai của bà mẹ, chia thành 2 nhóm: có (thời gian mang thai < 37 tuần), không (thời gian mang thai từ 37 tuần trở lên).
- Lưu/nạo/sẩy thai: thu nhận theo lời khai của bà mẹ, chia thành 2 nhóm: có, không.
Tiền sử sinh con nhẹ cân được phân loại dựa trên lời khai của bà mẹ thành hai nhóm: nhóm có, trong đó trẻ sinh lần trước có cân nặng sơ sinh dưới 2500g, và nhóm không, tức là không có trẻ nào sinh trước đó có cân nặng sơ sinh dưới 2500g.
- Chiều cao mẹ: ghi nhận theo lời khai của bà mẹ, chia thành 2 nhóm: dưới
145 cm và từ 145 cm trở lên.
Trong thai kỳ, việc tăng cân của mẹ được ghi nhận dựa trên lời khai của bà mẹ, và được phân chia thành bốn nhóm: dưới 5kg, từ 5 đến dưới 10kg, từ 10 đến dưới 12kg, và trên 12kg Cân nặng của mẹ khi chuyển dạ cũng được so sánh với cân nặng trước khi mang thai để đánh giá sự thay đổi trong suốt thời gian thai kỳ.
Chỉ số khối cơ thể (BMI) là một chỉ số quan trọng được tính bằng công thức cân nặng (kg) chia cho chiều cao (m) bình phương Đối với người châu Á, BMI được phân thành bốn nhóm: bình thường (18,5 – 22,9), suy dinh dưỡng (< 18,5), thừa cân (23 – 24,9) và béo phì (≥ 25) Việc hiểu rõ về BMI giúp theo dõi tình trạng sức khỏe và có kế hoạch dinh dưỡng hợp lý.
Các bất thường về nhau thai như nhau thắt nút, dây nhau ngắn, dây nhau dính máng và dây nhau quấn cổ thường được ghi nhận thông qua lời khai của mẹ hoặc từ phiếu khám thai.
Trong quá trình mang thai, bệnh lý của mẹ được xác định thông qua lời khai của bà mẹ Đối với những trường hợp có hồ sơ khám bệnh hoặc bằng chứng liên quan, cần yêu cầu xem xét để xác định tình trạng sức khỏe, đặc biệt là các bệnh lý như tim, thận, tăng huyết áp, thiếu máu, nhiễm độc thai nghén và nhiễm trùng.
Số lần khám thai được phân loại theo lời khai của bà mẹ thành hai nhóm: khám đủ (≥3 lần) và không khám đủ ( 0,05 Nông dân, công nhân (ny1) 74 717 1
Trình độ học vấn và nghề nghiệp của bà mẹ không liên quan có ý nghĩa thống kê với tình trạng sinh nhẹ cân.
3.3.2 Đặc điểm sản khoa của mẹ
Bảng 3.12 Liên quan giữa đặc điểm sản khoa của mẹ và sinh nhẹ cân (n9)
Tình trạng trẻ Đặc điểm Nhẹ cân (n) Không nhẹ cân
Khoảng cách sinh và số lần sinh không có liên quan có ý nghĩa thống kế với tình trạng sinh nhẹ cân ở trẻ.
3.3.3 Liên quan đến chăm sóc trong thai kỳ và sơ sinh nhẹ cân
Bảng 3.13 Liên quan đến số lần khám thai và sinh nhẹ cân (n9)
Tình trạng trẻ Đặc điểm Nhẹ cân (n) Không nhẹ cân (n)
Bà mẹ không khám thai trong thai kỳ tăng nguy cơ sinh con nhẹ cân 1,7 lần (CI: 1,6-13,2, p< 0,05)
Bảng 3.14 Liên quan đến sử dụng viên sắt, tiêm phòng uốn ván và sinh nhẹ cân (n9)
Tình trạng trẻ Đặc điểm Nhẹ cân (n) Không nhẹ cân (n)
Không có mối liên quan giữa sử dụng viên sắt và tiêm phòng uốn ván và tình trạng sinh nhẹ cân.
Bảng 3.15 Liên quan đến tăng cân trong thai kỳ và sinh nhẹ cân (n9)
Tình trạng trẻ Đặc điểm Nhẹ cân (n) Không nhẹ cân (n)
Tăng cân trong thai kỳ
Bà mẹ tăng cân trong thai kỳ dưới 10 kg hoặc trên 12 kg đều tăng nguy có sinh con nhẹ cân, p < 0,05.
Bảng 3.16 Liên quan giữa tình trạng tâm lý - lao động của bà mẹ trong thai kỳ và cân nặng sơ sinh của trẻ (n9)
Tình trạng trẻ Đặc điểm Nhẹ cân (n) Không nhẹ cân (n)
Nghỉ công việc trước khi sinh
Bà mẹ lao động nhẹ trong thai kỳ có nguy cơ sinh nhẹ cân tăng 1,8 lần so với bà mẹ lao động bình thường (CI: 1,2-3,0, p < 0,05).
3.3.4 Liên quan giữa đặc điểm của trẻ và cân nặng sơ sinh
Bảng 3.17 Liên quan giữa đặc điểm của trẻ và cân nặng sơ sinh (n5) Tình trạng trẻ Đặc điểm Nhẹ cân (n) Không nhẹ cân (n)
Cách sinh trẻ Đẻ mổ
Trẻ sinh non có nguy cơ nhẹ cân cao gấp 4,3 lần so với trẻ sinh đủ tháng (CI: 2,1-7,5, p < 0,001) Ngoài ra, trẻ gái có nguy cơ sinh nhẹ cân cao hơn trẻ trai 1,3 lần (CI: 1,0-2,4, p < 0,05) Trẻ sinh đôi có nguy cơ nhẹ cân tăng cao gấp 5,5 lần (CI: 2,8-13,9, p < 0,001), trong khi con so có nguy cơ sinh nhẹ cân gấp 2 lần so với con rạ (CI: 1,2-2,8, p < 0,05).
3.3.5 Yếu tố từ người bố
Bảng 3.18 Liên quan giữa yếu tố cá nhân người bố và cân nặng sơ sinh
Tình trạng trẻ Đặc điểm Nhẹ cân (n) Không nhẹ cân
(1,2-4,5) < 0,05 Trung học, đại học, sau đại học (nw5)
(0,3-3,2) > 0,05 Nông dân, công nhân, lao động tự do (nc7)
Trẻ em có bố mù chữ hoặc chỉ học tiểu học có nguy cơ nhẹ cân cao gấp 1,8 lần so với trẻ có bố có trình độ học vấn trung học, đại học và sau đại học (CI: 1,2-4,5, p < 0,05) Ngoài ra, các yếu tố như tuổi tác và nghề nghiệp của bố không ảnh hưởng đến nguy cơ sinh trẻ nhẹ cân.
Bảng 3.19 Liên quan giữa kinh tế gia đình và cân nặng sơ sinh (n9) Tình trạng trẻ Đặc điểm Nhẹ cân (n) Không nhẹ cân
OR (CI 95%) p Điều kiện kinh tế
Nguy cơ sinh con nhẹ cân ở các bà mẹ thuộc gia đình giàu giảm một nửa (OR=0,5) so với các bà mẹ có điều kiện kinh tế nghèo và trung bình, tuy nhiên sự khác biệt này không đạt ý nghĩa thống kê.
BÀN LUẬN
Hạn chế của nghiên cứu
Nghiên cứu này là lần đầu tiên khảo sát hiện trạng và các yếu tố liên quan đến trẻ sinh nhẹ cân tại khu vực nghiên cứu, với các học viên thực hiện công việc này lần đầu Một trong những hạn chế lớn nhất là sai số trong việc thu thập thông tin từ các bà mẹ, đặc biệt là về cân nặng trước khi mang thai và tình trạng sức khỏe, kinh tế gia đình Mặc dù học viên đã áp dụng các biện pháp như chỉ hỏi về các sự kiện trong vòng một năm và tham khảo từ các nguồn khác như phiếu khám thai và bệnh án, nhưng độ chính xác vẫn không đạt được như các nghiên cứu theo dõi từ khi mang thai đến khi sinh.
Học viên thường gặp khó khăn trong việc phân tích đa biến, trong khi các yếu tố liên quan đến trẻ em có nhu cầu đặc biệt (SNC) thường có sự tương tác phức tạp Để can thiệp hiệu quả hơn, cần xác định các yếu tố tác động độc lập.
Một hạn chế của nghiên cứu này là thời gian thu thập dữ liệu chỉ kéo dài 3 tháng, do đó không thể xác định tỷ lệ và các yếu tố liên quan một cách toàn diện Theo các nghiên cứu khác, tỷ lệ SNC có sự biến động rõ rệt theo mùa và thời gian trong năm Vì vậy, cần thiết phải tiến hành nghiên cứu tiếp theo về đề tài này trong suốt một năm để có cái nhìn đầy đủ hơn.