MỞ ðẦU
Tớnh cấp thiết của ủề tài
Đất ủai là nguồn tài nguyên quốc gia quý giá, đóng vai trò thiết yếu trong nông nghiệp và môi trường sống Việc bảo vệ và sử dụng bền vững đất nông nghiệp là rất quan trọng cho sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh và quốc phòng Nhận thức được tầm quan trọng này, Đảng và Nhà nước đã có những chính sách phù hợp trong công tác quản lý và khai thác tài nguyên đất.
Giao đất nông nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp theo quy hoạch và kế hoạch là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước Chính sách này nhằm gắn lao động với sản xuất, tạo động lực phát triển nông nghiệp, từng bước ổn định và phát triển tình hình kinh tế - xã hội, đồng thời tăng cường an ninh quốc phòng.
Hương Sơn là huyện miền núi thuộc tỉnh Hà Tĩnh, với tổng diện tích tự nhiên lên đến 110.414,78 ha Trong đó, diện tích đất lâm nghiệp chiếm 76,78% (84.779,86 ha) tổng diện tích toàn huyện, trong khi đất sản xuất nông nghiệp chỉ chiếm 9,67% (10.675,98 ha) Kinh tế huyện vẫn đang gặp nhiều khó khăn, vì vậy việc giao đất và rừng cho các hộ gia đình sử dụng ổn định, lâu dài đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế - xã hội của Hương Sơn.
Để đánh giá hiệu quả của công tác giao đất, giao rừng trên địa bàn huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh, nhóm nghiên cứu đã tiến hành khảo sát từ năm 1996 đến 2010 Nghiên cứu này nhằm làm rõ những tác động và kết quả của các chính sách giao đất, giao rừng trong việc phát triển kinh tế xã hội và bảo vệ môi trường tại địa phương.
Mục ủớch
Đánh giá ảnh hưởng của công tác giao đất và giao rừng đến hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp trên địa bàn huyện nhằm đề xuất một số giải pháp nâng cao công tác quản lý Nhà nước về đất đai nói chung và công tác giao đất, sử dụng đất nông nghiệp riêng trên địa bàn huyện.
Yêu cầu
- đánh giá ựược tình hình giao ựất, giao rừng khu vực nghiên cứu
- Xỏc ủịnh ủược những ưu ủiểm, hạn chế của cụng tỏc giao ủất, giao rừng khu vực nghiên cứu
- ðề xuất ủược cỏc giải phỏp cú tớnh khả thi, phự hợp với ủịa bàn nghiên cứu.
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
Chớnh sỏch ủất ủai của một số nước chõu Á
2.1.1 Chớnh sỏch ủấ t ủ ai ở Thỏi Lan
Luật Ruộng Đất tại Thái Lan, được ban hành năm 1954, đã thúc đẩy mạnh mẽ chính sách kinh tế xã hội của đất nước Luật này công nhận quyền sở hữu đất, cho phép người dân mua bán và chuyển nhượng đất hợp pháp Chính phủ nắm giữ toàn bộ đất trồng trọt, và người dân trở thành người làm công trên đất đó Tuy nhiên, trong giai đoạn này, luật quy định chế độ canh tác ngắn hạn và thường xuyên gặp khó khăn do tình trạng thiếu thừa đất Năm 1974, Chính phủ Thái Lan ban hành chính sách cho thuê đất, bảo vệ quyền lợi của người lao động và khuyến khích phát triển kinh tế hộ gia đình Luật cải cách ruộng đất năm 1975 đã chuyển đổi quyền sở hữu đất cho người dân, quy định hạn mức đất trồng trọt và chăn nuôi Đến năm 1979, chương trình giấy chứng nhận quyền hoa lợi trong rừng được thực hiện, giúp người dân có quyền lợi từ đất rừng Đến năm 1976, đã có 600.126 hộ nông dân được cấp giấy chứng nhận quyền hưởng hoa lợi, cùng với chương trình làng nông nghiệp đã thành lập 98 làng với 1 triệu hộ gia đình tham gia.
Chương trình làng lõm nghiệp quy định chặt chẽ, mỗi hộ gia đình được cấp từ 2 - 4 ha đất và có quyền sử dụng, thừa kế, nhưng không được bán, mua hay chuyển nhượng diện tích đất này Quy trình sản xuất của làng nhận được sự hỗ trợ từ Nhà nước về cơ sở hạ tầng, tiếp thị và đào tạo nghề Đồng hành với chương trình là sự thành lập các hợp tác xã nông nghiệp hoạt động dưới sự bảo trợ của ban chỉ đạo HTX Cục Lâm nghiệp Hoàng gia sẽ ký hợp đồng giao đất dài hạn cho các HTX yêu cầu và thành lập nhóm chuyên gia đánh giá hiệu quả đầu tư trên đất được giao Thỏi Lan đã tiến hành giao hơn 200.000 ha đất gắn liền với rừng cho cộng đồng dân cư sống gần rừng, với diện tích mỗi hộ gia đình nhận trồng rừng từ 0,8 ha đến 8 ha.
Vào những năm 90, Chính phủ Thái Lan tiếp tục thực hiện chính sách ruộng đất theo dự án mới, nhằm cải thiện tình hình cung cầu ruộng đất và tạo ra việc làm cho nông dân Dự án này được xây dựng trên cơ sở thỏa thuận giữa Chính phủ, chủ đất và nông dân, nhằm chia sẻ quyền lợi trong kinh doanh Chính phủ hỗ trợ tài chính để mua đất và khuyến khích đầu tư vào sản xuất nông nghiệp, từ đó giúp giải quyết vấn đề việc làm cho nông dân nghèo.
2.1.2 Chớnh sỏch ủấ t ủ ai ở In ủ ụnờxia
Nhà nước Inủụnờxia quy định mỗi hộ nông dân gần rừng được nhận khoản 2.500 m² đất để trồng cây, trong đó hai năm đầu được phép trồng lúa, hoa màu trên diện tích này và được hưởng toàn bộ sản phẩm mà không phải nộp thuế Quá trình sản xuất của nông dân được Công ty Lâm nghiệp hỗ trợ giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật dưới hình thức cho vay Sau khi thu hoạch, nông dân phải hoàn trả lại giống đã vay, còn phân bón và thuốc bảo vệ thực vật chỉ cần trả 70%, nếu mất mùa thì không phải trả vốn vay.
Bên cạnh các hoạt động khuyến nông, Nhà nước còn tổ chức hướng dẫn kỹ thuật và tập huấn nghề cho người dân, đồng thời hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng tại địa phương Nhờ những nỗ lực này, việc quản lý và bảo vệ rừng ở Indonesia đã đạt được nhiều kết quả tích cực.
2.1.3 Chớnh sỏch ủấ t ủ ai c ủ a Trung Qu ố c
Trong những năm qua, việc khai thác và sử dụng tài nguyên rừng ở Trung Quốc đã được điều chỉnh bởi nhiều văn bản chính sách pháp luật, giúp cải thiện môi trường sinh thái và nâng cao sản xuất gỗ Nhà nước bảo hộ đất canh tác đặc biệt và kiểm soát nghiêm ngặt việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất Mỗi hộ nông dân chỉ được dựng một nơi làm nhà với diện tích giới hạn theo quy định địa phương, và đất thuộc sở hữu tập thể không được chuyển nhượng cho mục đích phi nông nghiệp Trước những năm 1970, chính phủ chủ yếu khuyến khích nông dân trồng cây bằng biện pháp hành chính, dẫn đến hiệu quả trồng rừng thấp Tuy nhiên, trong giai đoạn cải cách kinh tế, chính phủ đã chú trọng hỗ trợ nông dân kinh doanh lâm nghiệp và áp dụng luật pháp để phát triển lâm nghiệp hiệu quả Hiến pháp Trung Quốc quy định rằng Nhà nước phải tổ chức tuyên truyền để người dân trồng cây bảo vệ rừng Kể từ năm 1984, Luật Lâm nghiệp đã quy định phát triển rừng và mở rộng phong trào bảo vệ rừng Toàn xã hội tham gia vào công tác lâm nghiệp, với chính phủ chỉ đạo và các cấp hoàn thành nhiệm vụ kế hoạch, nếu thực hiện tốt sẽ được khen thưởng, ngược lại sẽ bị xử lý.
Từ năm 1979 đến 1992, Trung Quốc đã ban hành 26 văn bản pháp luật, nghị định, thông tư và quy định liên quan đến công tác quản lý và bảo vệ tài nguyên rừng Đặc biệt, vào đầu năm 1980, Nghị định về bảo vệ tài nguyên rừng được ban hành, nhấn mạnh việc giao quyền cho các cấp chính quyền từ trung ương đến tỉnh, huyện trong việc cấp chứng nhận quyền sở hữu rừng cho các chủ rừng là tổ chức và cá nhân Luật Lâm nghiệp xác lập các quyền của người sử dụng đất, bao gồm quyền hưởng hoa lợi từ đất trồng và quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của chủ rừng Nếu tổ chức hoặc cá nhân hợp đồng trồng rừng trên đất rừng của Nhà nước hoặc tập thể, cây trồng sẽ thuộc về chủ hợp đồng và được xử lý theo thỏa thuận.
Bên cạnh quá trình quy hoạch nông nghiệp, chăn nuôi và bảo vệ nguồn nước, Trung Quốc đang chú trọng phát triển công nghiệp, dân số và giao thông để sử dụng đất hiệu quả ở miền núi Từ năm 1987, Nhà nước đã triển khai chương trình giúp người dân thoát khỏi nghèo nàn, đặc biệt là ở những huyện có thu nhập bình quân dưới 200 nhân dân tệ Các huyện nghèo ở miền núi là đối tượng quan trọng để phát triển nông nghiệp, nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo.
Trung Quốc đang thực hiện chính sách phát triển trại rừng và kinh doanh rừng sau khi cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất Việc hình thành các trại rừng kinh doanh đã tạo ra bước đà hiệu quả cho ngành lâm nghiệp, được coi là ngành công nghiệp có chu kỳ dài Nhà nước đã đầu tư hỗ trợ nhiều mặt để thúc đẩy sự phát triển này.
- Vốn, khoa học kỹ thuật, tư vấn xây dựng các loại rừng, hỗ trợ dự án chống cát bay
- Mỗi năm Chớnh phủ trớch 10% kinh phớ ủể ủầu tư cho quỏ trỡnh khai khẩn ủất phỏt triển nụng, lõm nghiệp, hỗ trợ cỏc hộ nụng dõn nghốo
- Quy ủịnh trớch 20% tiền bỏn sản phẩm lại ủể làm vốn phỏt triển nụng, lâm nghiệp
2.1.4 Chớnh sỏch ủấ t ủ ai ở Nh ậ t B ả n
Thỏng 12 năm 1945 Nhật Bản ủó ban hành Luật cải cỏch ruộng ủất lần thứ nhất với mục ủớch là xỏc ủịnh quyền sở hữu ruộng ủất cho người dõn và buộc ủịa chủ chuyển nhượng ruộng ủất nếu cú trờn 5 ha
Cải cách ruộng đất lần thứ nhất tại Nhật Bản đạt được một số kết quả nhất định, nhưng vai trò kiểm soát của Nhà nước đối với ruộng đất vẫn chưa chặt chẽ Do đó, Nhật Bản đã tiến hành cải cách ruộng đất lần thứ hai để tăng cường quản lý và hiệu quả trong việc sử dụng đất.
- Nhằm xỏc lập vai trũ kiểm soỏt của Nhà nước ủối với việc thực hiện chuyển nhượng quyền sở hữu ruộng ủất là thuộc thẩm quyền của Chớnh phủ
- Xỏc lập quyền sở hữu ruộng ủất của nụng dõn nhằm giảm ủịa tụ
- Nhà nước ủứng ra mua và bỏn ủất phỏt canh của ủịa chủ nếu vượt quỏ
1 ha Ngay cả với tầng lớp phú nông, có diện tích quá 3 ha nếu sử dụng không hợp lý Nhà nước cũng trưng thu một phần
Qua hai lần cải cách ruộng đất tại Nhật Bản, các chính sách cụ thể đã làm thay đổi mối quan hệ và cấu trúc sở hữu ruộng đất Nhà nước đã khẳng định vai trò kiểm soát trong việc quản lý và sử dụng đất đai, trong khi người dân thực sự trở thành chủ sở hữu đất đai, từ đó yên tâm đầu tư phát triển sản xuất.
2.1.5 Chớnh sỏch ủấ t ủ ai ở ð ài Loan
Chính phủ Đài Loan đã thực hiện cải cách ruộng đất một cách hòa bình, với mục tiêu "người cày có ruộng" Quá trình này được triển khai dần dần theo phương thức thị trường, nhưng vẫn có sự quản lý chặt chẽ từ Nhà nước.
Quá trình cải cách ruộng đất ở Đài Loan được thực hiện qua các giai đoạn phát triển khác nhau, với những chính sách điều chỉnh cụ thể phù hợp với từng thời kỳ lịch sử.
Bắt đầu từ năm 1949, chính phủ đã thực hiện các biện pháp giảm thuế để giảm gánh nặng kinh tế cho nông dân Cụ thể, mức thuế đã giảm 37,5%, với tính toán rằng 25% sản lượng nông nghiệp sẽ được sử dụng cho chi phí sản xuất, trong khi phần thặng dư 75% sẽ được chia cho người lao động và địa chủ.
Chớnh sỏch giao ủất, giao rừng ở Việt Nam
2.2.1 Chớnh sỏch giao ủấ t th ờ i k ỳ n ă m 1945 - 1975
Chỉ một ngày sau khi tuyên bố độc lập vào ngày 03/09/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh "toàn dân tham gia sản xuất nông nghiệp" Sắc lệnh này bao gồm việc giảm thuế, tịch thu và chia cấp ruộng đất của thực dân Pháp và Việt gian phản động cho dân nghèo, đồng thời chia lại công điền công thổ.
Vào giai đoạn 1952 - 1953, giai cấp nông dân lao động, bao gồm trung nông, bần nông và cố nông, chiếm 92,5% dân số và 70,7% tổng diện tích đất canh tác Thời điểm này đánh dấu sự thay đổi về cơ cấu sở hữu và sử dụng đất Tuy nhiên, chính sách ruộng đất vẫn chưa được giải quyết một cách cơ bản theo yêu cầu.
Trong bối cảnh nhiều hộ nông dân thiếu ruộng hoặc không có ruộng, bất cập trong quan hệ ruộng đất vẫn tồn tại rộng rãi Để đáp ứng nhu cầu nhân lực và tài nguyên cho cuộc chiến tranh, cần dốc toàn lực vào quyết chiến chiến lược Hội nghị Trung ương 5 khóa II diễn ra vào tháng 11/1953 đã thông qua cương lĩnh ruộng đất và quyết định thực hiện cải cách ruộng đất Ngay sau đó, vào tháng 12/1953, Quốc hội đã thông qua Luật cải cách ruộng đất.
Do hoàn cảnh khó khăn, cuộc cải cách ruộng đất chưa thể triển khai rộng rãi Trước khi hòa bình lập lại (tháng 7/1954), chỉ thực hiện được 5 đợt giảm tô và bắt đầu đợt 1 cải cách ruộng đất tại 53 xã thuộc các tỉnh Thái Nguyên, Bắc Giang, Thanh Hóa Trong thời gian này, hàng ngàn hecta ruộng đất và một số tư liệu sản xuất của giai cấp địa chủ đã bị tịch thu, trưng thu hoặc trưng mua, sau đó được chia trực tiếp cho nông dân Thành quả bước đầu đã tác động tích cực đến tinh thần chiến đấu của các chiến sĩ ngoài mặt trận và cải thiện đời sống nông dân ở những nơi thực hiện cải cách ruộng đất.
Trong giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Bắc (1945 - 1954), tổng diện tích ruộng đất được chia cho nông dân đạt 810.000 ha Trong đó, ruộng đất của thực dân Pháp chiếm 30.000 ha, của địa chủ là 380.000 ha, và ruộng đất công và nửa công là 375.700 ha Sau cải cách ruộng đất, chế độ sở hữu ruộng đất của thực dân và phong kiến đã được chuyển đổi thành chế độ sở hữu ruộng đất của nông dân, tạo ra sự công bằng trong phân phối tài nguyên đất đai.
Trong 3 năm khôi phục kinh tế (năm 1955 - 1957) quyền sở hữu và sử dụng ruộng ủất ủược bảo ủảm bằng phỏp luật, hàng loạt cỏc chớnh sỏch mới như khuyến khích chăn nuôi, phát triển nghề cá, hình thành các hình thức tổ ủổi cụng, hợp tỏc ủó tạo ra sự chuyển biến vượt bậc trong sản xuất và ủời sống của nụng dõn, 85% diện tớch ủất bỏ hoang vỡ chiến tranh ở miền Bắc ủó ủược phục húa, sản lượng lương thực năm 1957 ủạt 3,947 triệu tấn (ủõy là sản lượng cao nhất so với trước cỏch mạng), ủời sống nhõn dõn ủược cải thiện rõ rệt
Chính sách ruộng đất của Nhà nước Việt Nam từ năm 1958 đã hình thành một chế độ công hữu bao gồm sở hữu tập thể và sở hữu Nhà nước Quyền sở hữu cá nhân về ruộng đất dần bị thu hẹp và gần như bị xóa bỏ hoàn toàn trong bối cảnh hợp tác hóa và tập thể hóa ngày càng gia tăng, nhưng mọi hoạt động vẫn nằm trong quyền quản lý tối cao của Nhà nước.
Phong trào hợp tác hóa nông nghiệp thực chất là quá trình tập thể hóa các tư liệu sản xuất chủ yếu của nông dân, trong đó ruộng đất và sức lao động đóng vai trò quan trọng.
Cải cách ruộng đất lần thứ hai, hay còn gọi là "cuộc cải cách ruộng ủất", nhằm thiết lập chế độ sở hữu tập thể về ruộng đất trong các tổ chức hợp tác xã (HTX) Từ năm 1957, cả nước chỉ có 45 HTX, nhưng đến năm 1975, số lượng HTX nông nghiệp đã tăng vọt lên 17.000 Trong số này, HTX bậc cao chiếm tới 90% tổng số HTX, cho thấy sự phát triển mạnh mẽ của mô hình hợp tác xã trong lĩnh vực nông nghiệp.
Tại miền Bắc, 95,6% hộ nông dân và 96,4% hộ xã viên thuộc bậc cao, cho thấy sự phát triển mạnh mẽ của các hợp tác xã Mỗi hợp tác xã trung bình có 199 hộ xã viên và 337 lao động trong độ tuổi Diện tích canh tác trung bình của mỗi hợp tác xã đạt 115 ha.
HTX có quy mô lớn và quản lý tập trung thường mang lại hiệu quả kinh tế thấp, khiến thu nhập của các hộ gia đình xã viên giảm dần Trong khi đó, thu nhập từ các hoạt động kinh tế phụ gia đình trở thành nguồn thu quan trọng, chiếm tới hơn 50% tổng thu nhập của hộ gia đình Từ cuối năm 1973 đến đầu năm 1975, đã có 1.098 HTX tan rã, nhiều HTX phải áp dụng các biện pháp nới lỏng cho xã viên vay vốn, cung cấp vật nuôi cho hộ gia đình, hoặc khoán trắng cho sản xuất Đến năm 1975, HTX nông nghiệp ở miền Bắc bộc lộ nhiều hạn chế, mặc dù cơ sở vật chất và mức đầu tư tăng lên, nhưng diện tích gieo trồng giảm, chi phí sản xuất tăng cao, sản lượng lương thực không cải thiện, thu nhập xã viên thấp, và tình trạng tham ô, lãng phí, thất thoát tài sản tập thể trở nên nghiêm trọng.
2.2.2 Chớnh sỏch giao ủấ t th ờ i k ỳ n ă m 1976 - 1986
Sau chiến thắng mùa xuân năm 1975, đất nước thống nhất, Đảng đặc biệt chú trọng xây dựng sự thống nhất về cơ cấu kinh tế - xã hội Năm 1976, nhằm xóa bỏ những tàn tích khiến nông dân không có ruộng hoặc thiếu ruộng, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nông thôn miền Nam, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 188/CP ngày 25/09/1976 về chính sách xóa bỏ triệt để tàn tích chiếm hữu ruộng đất và các hình thức bóc lột phong kiến ở miền Nam Những vấn đề cần được ưu tiên tập trung giải quyết là quốc hữu hóa toàn bộ ruộng đất và chia cấp ruộng cho nông dân lao động.
Quyết định số 272/CP ngày 03/10/1977 của Hội đồng Chính phủ đã đề ra chính sách nhằm mở rộng diện tích phát triển nông, lâm nghiệp, xây dựng vùng kinh tế mới, và thực hiện định canh, định cư cho các hợp tác xã.
Chỉ thị 100/CT-TW ngày 13/1/1981 của Ban chấp hành Trung ương Đảng tập trung vào việc cải tiến công tác khoán, mở rộng các công tác khoán sản phẩm cho nhóm lao động và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp Chỉ thị này nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, khuyến khích sự tham gia tích cực của người lao động và đảm bảo quyền lợi cho họ trong quá trình sản xuất nông nghiệp.
- Quyết ủịnh số 184/HðBT ngày 06/11/1982 của Hội ủồng Bộ trưởng
"Về ủẩy mạnh giao ủất, giao rừng cho tập thể nụng dõn trồng cõy rừng"
Chỉ thị 29/CT-TW ngày 12/11/1983 của Ban chấp hành Trung ương Đảng nhấn mạnh việc đẩy mạnh công tác giao đất, giao rừng và tổ chức kinh doanh theo phương thức nông lâm kết hợp Chỉ thị này nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế nông thôn, bảo vệ tài nguyên rừng và nâng cao đời sống của người dân thông qua việc áp dụng các phương thức sản xuất bền vững.
Kết quả giao ủất nụng, lõm nghiệp ở nước ta
2.3.1 K ế t qu ả giao ủấ t nụng nghi ệ p cho h ộ gia ủ ỡnh
Theo Nghị định 64-CP ngày 27/9/1993 và Nghị định 85/1999/NĐ-CP ngày 28/8/1999 của Chính phủ, việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình và cá nhân đã được thực hiện nhằm sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích nông nghiệp Tính đến tháng 12/2009, trên toàn quốc đã có hơn 8000 xã thực hiện giao đất nông nghiệp, phục vụ cho gần 11 triệu hộ nông dân, chiếm hơn 80% tổng số hộ dân.
Việt Nam hiện có 46 triệu nhân khẩu và khoảng 9,60 triệu ha đất nông nghiệp Trong đó, diện tích đất giao trực tiếp cho các hộ gia đình và cá nhân quản lý là 8,46 triệu ha, chiếm 88,13% Chỉ có khoảng 1 triệu ha đất được giao hoặc cho thuê cho các đối tượng khác.
- Giao cho các tổ chức kinh tế 707.934,70 ha (7,38%)
- Cho nước ngoài và liên doanh với nước ngoài thuê 8.974,39 ha (0,09%)
- UBND xã quản lý sử dụng 16.697,66 ha (2,14%)
- Cỏc ủối tượng khỏc sử dụng 88.770,96 ha (0,92%)
Các địa phương căn cứ vào tình hình và điều kiện cụ thể để lựa chọn phương án giao đất thích hợp, nhằm đảm bảo yêu cầu vừa ổn định, vừa phát triển sản xuất Ở các tỉnh, thành phố phía Bắc (trừ một số tỉnh miền núi) và duyên hải miền Trung, đều kế thừa kết quả giao khoán đất cho hộ nông dân theo Nghị quyết 10-NQ/TW ngày 5/4/1988 của Bộ Chính trị Cách giao khoán này phù hợp với tinh thần giao đất theo Nghị định 64-CP của Chính phủ, nên các địa phương không phải điều chỉnh nhiều.
Các tỉnh miền núi phía Bắc, Tây Nguyên và Nam Bộ trong quá trình giải quyết tranh chấp đất đai đã tổ chức các hộ nông dân thương lượng với nhau dưới sự chỉ đạo của chính quyền địa phương Do đó, khi thực hiện giao đất nông nghiệp, chủ yếu căn cứ vào hiện trạng sử dụng đất để giao đất cho hộ gia đình và cá nhân.
2.3.2 K ế t qu ả giao ủấ t lõm nghi ệ p cho h ộ gia ủ ỡnh ðối tượng ủược giao ủất lõm nghiệp gồm tổ chức, hộ gia ủỡnh và cỏ nhõn Khỏc với ủất nụng nghiệp, việc xỏc ủịnh ủối tượng ủược giao ủất lõm nghiệp ở từng ủịa phương là hoàn toàn phụ thuộc vào mục ủớch sử dụng rừng ủó ủược quy hoạch
Theo Nghị định 02/CP ngày 15/1/1994 và Nghị định 163/1999/NĐ-CP ngày 16/11/1999, việc giao đất, cho thuê đất nông nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích nông nghiệp đã được thực hiện Kết quả giao đất nông nghiệp tính đến tháng 12/2009 trên toàn quốc, theo số liệu báo cáo của Bộ Tài nguyên và Môi trường năm 2009, cho thấy sự phát triển trong quản lý và sử dụng đất nông nghiệp.
Tổng diện tớch ủất lõm nghiệp cú rừng ủó giao là: 14.757.817,85 ha
- Giao cho hộ gia ủỡnh cỏ nhõn là: 3.826.040,21 ha
- Nước ngoài và liên doanh nước ngoài thuê: 11.311,41 ha
- UBND xã quản lý sử dụng: 288.766,66 ha
- Các tổ chức kinh tế: 2.969.259,29 ha
- Cỏc ủối tượng khỏc: 2.171.729,97 ha
Tiến độ giao đất nông nghiệp hiện nay còn chậm, nhiều địa phương chưa chú trọng đến việc thực hiện đúng mức công tác này Cơ chế giao khoán cho các hộ nông dân, hộ gia đình và cá nhân vẫn chưa rõ ràng Hơn nữa, tài liệu hồ sơ quản lý đất rừng còn thiếu và chưa đồng bộ, theo báo cáo của Bộ Tài nguyên và Môi trường năm 2009.
2.3.3 Tỡnh hỡnh s ử d ụ ng ủấ t sau khi giao ủấ t
Chủ trương giao đất nông nghiệp cho các hộ gia đình và cá nhân nhằm sử dụng ổn định lâu dài, cùng với việc mở rộng quyền sử dụng đất, là một chiến lược quan trọng của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn hiện nay Chính sách này có tác động tích cực đến việc quản lý và sử dụng đất đai bền vững.
Sau khi giao đất nông nghiệp cho các hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài, người nông dân thực sự làm chủ trên đất được giao Họ yên tâm đầu tư lao động và vốn vào phát triển sản xuất nông nghiệp.
Chủ trương phát triển lâm nghiệp xã hội đã đạt được kết quả khả quan nhờ chính sách giao đất, giao rừng và khoán rừng cho hộ nông dân Nhiều mô hình trang trại rừng, vườn rừng, và kinh doanh nông nghiệp tổng hợp đã được hình thành và phát triển tại các khu vực Trung du, miền núi phía Bắc, vùng Đông Nam Bộ và Tây Nguyên, với quy mô ngày càng lớn và hoạt động kinh doanh hiệu quả.
Tình hình kinh tế - xã hội nông thôn sau năm 1993 đã có nhiều khởi sắc và phát triển đa dạng, đặc biệt trong lĩnh vực trồng trọt và chăn nuôi Diện tích đất nông nghiệp liên tục tăng, với 2.352.104 ha vào năm 2000 so với năm 1990; trong giai đoạn 1995 - 2000, mặc dù gần 4.000 ha đất nông nghiệp được chuyển đổi mục đích, nhưng vẫn ghi nhận thêm 1.351.597 ha, trung bình mỗi năm tăng 270.000 ha Sự gia tăng chủ yếu đến từ cây lâu năm, chiếm 56,5% tổng diện tích tăng Sản lượng lương thực cũng tăng nhanh và ổn định, với tốc độ tăng bình quân 5% hàng năm, trong khi tốc độ tăng dân số chỉ đạt 2%, dẫn đến lượng lương thực bình quân đầu người tăng dần qua các năm, từ 300 kg.
Từ năm 1986 đến nay, sản lượng gạo của Việt Nam đã tăng từ 324 kg lên 552 kg, cho thấy sự phát triển vượt bậc trong ngành nông nghiệp Việt Nam không chỉ đảm bảo đủ lương thực cho nhu cầu trong nước mà còn trở thành một trong ba quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới, với khối lượng xuất khẩu trên 3 triệu tấn mỗi năm.
Cây công nghiệp, cây ăn quả và rau màu đang phát triển mạnh mẽ, nhờ vào việc áp dụng phương châm "mật nào cây ấy" trong trồng trọt, nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất.
Trong giai đoạn 1995-2000, diện tích đất nông nghiệp có rừng đã tăng thêm 754.600 ha, nâng độ che phủ rừng từ 32,61% lên 35,08% Sự gia tăng này góp phần bảo vệ, phục hồi và trồng mới rừng, đồng thời giúp giải quyết vấn đề lương thực, thực phẩm, từ đó hạn chế nạn phá rừng Việc trồng rừng, phủ xanh đất trống, đồi núi trọc và trồng rừng phân tán trong khu dân cư ngày càng được quan tâm và phát triển.
Chính sách giao đất nông nghiệp ổn định lâu dài cho hộ nông dân là một bước đổi mới tích cực, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội và góp phần bảo vệ môi trường bền vững cho tương lai.