Trí thức Thủ Dầu Một trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước (1954 – 1965)
Trí thức Thủ Dầu Một từ đấu tranh chính trị đòi thi hành Hiệp định Genève tiến tới “đồng khởi” năm 1960 (1954-1960) .33 1 Tình hình đội ngũ trí thức Thủ Dầu Một sau Hiệp định Genève 33
2.1.1 Tình hình đội ngũ trí thức Thủ Dầu Một sau Hiệp định Genève.
Ngay sau hiệp định Genève được ký kết vào ngày 21-7-1954, cuộc chiến tranh của ba nước Đông Dương (Việt Nam, Lào, Campuchia) kết thúc
Sau khi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ký hiệp định Genève, Mỹ đã tìm mọi cách phá hoại hiệp định này bằng cách loại bỏ Pháp khỏi miền Nam Việt Nam và thiết lập chính quyền Ngô Đình Diệm, nhằm cai trị theo kiểu thực dân mới Âm mưu của Mỹ là chia cắt Việt Nam thành hai miền Nam và Bắc, và để thực hiện điều này, họ đã đổ quân ồ ạt vào miền Nam, biến nơi đây thành "tiền đồn chống cộng bất khả xâm phạm".
Ngay sau khi hiệp định Genève được ký kết, lệnh ngừng bắn được ban hành, và nhân dân tỉnh Thủ Dầu Một đã tổ chức nhiều cuộc mít tinh chào mừng chiến thắng Tại các ấp xã được giải phóng, nhân dân lập ban tự quản và đội dân phòng để bảo vệ an ninh trật tự, trong khi ở các ấp chưa được giải phóng, họ thành lập các ban đại diện tham gia vào chính quyền cách mạng và tổ chức các hội như Hội cày, Hội cấy, Hội văn nghệ để tập hợp quần chúng đấu tranh thực hiện các điều khoản trong hiệp định Ngày 30-7-1954, tỉnh Thủ Dầu Một tổ chức cuộc họp quán triệt chỉ đạo của Đảng về việc thi hành hiệp định, tổ chức lại lực lượng cán bộ và bàn kế hoạch chuyển quân Tỉnh ủy Thủ Biên nhận định rằng nếu Pháp - Mỹ thực hiện hiệp định, Việt Nam sẽ có điều kiện tổng tuyển cử, nhưng nếu họ ngoan cố không thi hành, nhân dân Thủ Biên và ba nước Đông Dương phải tiếp tục chiến đấu đến thắng lợi cuối cùng để giành độc lập, tự do cho Tổ quốc.
Sau khi lật đổ Pháp, Mỹ - Diệm đã tập hợp các trí thức chống cộng và phát triển thuyết Duy nhân vị cùng với các tổ chức như Đảng Cần Lao, Thanh niên cộng hòa và Phụ nữ liên đới Họ thực hiện chính sách “tố cộng diệt cộng” và ban hành luật 10/59 để khủng bố những người yêu nước Đồng thời, Mỹ - Diệm tiến hành các cuộc càn quét khắp Nam Bộ, gây thiệt hại nặng nề cho nhân dân, đặc biệt tại các tỉnh Thủ Dầu Một, Chợ Lớn, Gia Định và Sài Gòn.
Sau khi trở lại miền Nam Việt Nam, Mỹ - Diệm thiết lập chế độ cai trị thực dân mới và thực hiện chính sách đàn áp những người yêu nước Ngô Đình Diệm, với xuất thân từ gia đình quan lại triều đình Huế, nhận thức rõ vai trò quan trọng của lực lượng trí thức tại miền Nam Số lượng trí thức ở đây khá đông đảo, với tổng dân số Nam Bộ năm 1954 đạt 6.068.260 người.
1958 là 8.151.270 người thì những người có bằng cấp lên đến 6 vạn người” 1 Do Nam
Ngô Đình Diệm đã nỗ lực chiêu dụ lực lượng trí thức đông đảo nhằm biến họ thành công cụ hỗ trợ trong việc lôi kéo quần chúng tham gia chống cộng Trong bối cảnh này, trí thức ở Nam Bộ bị phân hóa thành nhiều thành phần khác nhau: một bộ phận theo địch, một bộ phận trung lập, một bộ phận tham gia đấu tranh cho hòa bình và độc lập, và một bộ phận còn lại tiếp tục hoạt động vì mục tiêu xã hội.
Dương Kiều Linh (1999) trong luận án Tiến sĩ của mình đã nghiên cứu về báo chí Sài Gòn trong giai đoạn 1954 - 1963, nhấn mạnh sự kiên định của trí thức cách mạng trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và cuộc chiến chống Mỹ cứu nước.
Sau khi thực dân Pháp thua trận tại Việt Nam, miền Nam, từng là thuộc địa của họ, đã chứng kiến sự nhạy bén của lực lượng trí thức trước tình hình mới Khi Mỹ - Diệm lên nắm quyền, nhiều trí thức theo Pháp đã sẵn sàng hợp tác với chính quyền mới để bảo vệ lợi ích cá nhân Họ hỗ trợ Ngô Đình Diệm trong việc tuyên truyền thuyết Duy linh nhân vị, thành lập Đảng Cần lao và tham gia Hội Nạn nhân Cộng sản Để thu hút nhóm trí thức này, Mỹ - Diệm đã phải chi tiêu nhiều tiền để mua chuộc và lôi kéo họ tham gia, đồng thời cũng sử dụng bạo lực và uy hiếp để khiến họ chấp nhận hoàn cảnh và tiếp tục ủng hộ chính quyền.
Trong giai đoạn này, bên cạnh nhóm trí thức "ôm chân ông chủ mới," xuất hiện một thành phần trí thức mới gọi là "trí thức di cư." Vào tháng 8/1954, trong làn sóng di cư do Mỹ - Diệm khởi xướng, nhiều người dân từ miền Bắc đã di cư vào miền Nam, trong đó có một lượng lớn trí thức tham gia hoạt động cách mạng, trong khi một số khác bị thu hút vào miền Nam theo tôn giáo.
Trong những năm đầu cuộc kháng chiến, trí thức miền Nam, đặc biệt tại Thủ Biên, đã trải qua sự phân hóa do nhiều yếu tố tác động Một số trí thức chưa có tầm hiểu biết sâu rộng đã bị ảnh hưởng bởi các thuyết duy linh nhân vị và tuyên truyền của Đảng cần lao Các tổ chức chống phá cách mạng như Nha chiến tranh tâm lý và Hội Nạn nhân Cộng sản đã tạo ra những rào cản, khiến cho "ánh sáng ý tưởng" từ bên kia chiến khu khó tiếp cận với đa số thanh niên và trí thức miền Nam, chỉ đến được với một số ít người thông qua các kênh bí mật.
1 Hồ Sơn Diệp (2006), Trí thức Nam Bộ trong sự nghiệp kháng chiến chống xâm lược
(1945-1975, NXB Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh , tr 83.
2 Hồ Sơn Diệp (2006), Trí thức Nam Bộ trong sự nghiệp kháng chiến chống xâm lược
3 Hồ Sơn Diệp (2006), Trí thức Nam Bộ trong sự nghiệp kháng chiến chống xâm lược
4 Hồ Sơn Diệp (2006), Trí thức Nam Bộ trong sự nghiệp kháng chiến chống xâm lược
(1945-1975, Sđd, tr 83. không thể biết được” Vì thế, nhóm trí thức này bị Ngô Đình Diệm lợi dụng một cách triệt để.
Trong bối cảnh chiến tranh, một số trí thức đã tình nguyện theo Mĩ - Diệm, trong khi một bộ phận khác bị ép buộc Tuy nhiên, bất kể lý do hay hoàn cảnh, những trí thức này đều bị coi là đồng phạm và không nhận được sự tôn trọng từ nhân dân, mà ngược lại, họ bị xem là phản nước, hại dân Nhận thức rõ điều này, nhiều trí thức đã quyết định không tham gia vào các hành động có hại cho đất nước, một số đứng im quan sát, trong khi những người khác đã chủ động rút lui khỏi sự ủng hộ Mĩ - Diệm khi nhận ra sai lầm của mình.
Sau giai đoạn kháng chiến chống Mỹ, lực lượng trí thức tại Nam Bộ đã có sự phân hóa rõ rệt Mặc dù đội ngũ trí thức Thủ Biên chỉ chiếm một phần nhỏ, nhưng họ đóng vai trò quan trọng trong việc khơi dậy tinh thần yêu nước và đấu tranh của học sinh, sinh viên, góp phần thổi bùng ngọn lửa yêu nước trong toàn dân tộc.
2.1.2 Phong trào đấu tranh chính trị đòi thi hành Hiệp định Genève.
Sau chín năm kháng chiến gian khổ, nhân dân Việt Nam đã đánh bại thực dân Pháp, dẫn đến việc ký kết hiệp định Genève Hiệp định này công nhận độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của ba nước Đông Dương: Việt Nam, Lào và Campuchia.
Khi đất nước Việt Nam chuyển từ chiến tranh sang hòa bình, lãnh thổ tạm thời được chia thành hai vùng tập kết với vĩ tuyến 17 là ranh giới quân sự Theo hiệp định Genève, lực lượng kháng chiến tại Nam Bộ, bao gồm tỉnh Thủ Biên 2, phải tiến hành chuyển quân tập kết từ ngày 25-8-1954 Do đó, việc di chuyển quân ra Bắc và sắp xếp cán bộ được thực hiện khẩn trương, với sự quán triệt rõ ràng trong từng cán bộ Đảng viên.
1 Lý Quý Trung, Chánh Trinh (2004), Hồi ký không tên, NXB Trẻ, tr 123.
2 Tháng 5-1951, do yêu cầu thống nhất chỉ đạo chiến trường, tỉnh Thủ Dầu Một và BiênHòa sát nhập thành tỉnh Thủ Biên.
Tỉnh ủy Thủ Biên đã ban hành chỉ thị số 33/CT-TU, yêu cầu cán bộ ở lại tập trung vào việc củng cố hòa bình, thống nhất, độc lập và dân chủ trên toàn quốc Chỉ thị nhấn mạnh phương pháp đấu tranh chính trị, không sử dụng vũ trang, nhằm đảm bảo thực hiện đúng Hiệp định Ngoài ra, chỉ thị còn đề cập đến công tác dân vận, đối phó với địch ngụy vận và xác định các hình thức, khẩu hiệu đấu tranh trong giai đoạn chính trị dài hơi, phức tạp Đặc biệt, chỉ thị khẳng định rằng trong mọi hoàn cảnh, cần bảo vệ tổ chức, phong trào và lực lượng cách mạng của quần chúng.
Trong bối cảnh hiện tại, cách mạng Miền Nam, đặc biệt tại tỉnh Thủ Biên, áp dụng phương pháp công khai và bí mật Mỗi cán bộ Đảng viên cần hòa mình vào quần chúng, tham gia tổ chức hợp pháp và nửa hợp pháp để gần gũi với nhân dân, nắm bắt nguyện vọng của họ Điều này không chỉ giúp tuyên truyền mà còn vận động tập hợp quần chúng, tạo ra lực lượng quan trọng trong việc tuyên truyền miệng hàng ngày Họ tham gia dán và rải truyền đơn bí mật của Đảng, nhằm khích lệ quần chúng tham gia đấu tranh chính trị, yêu cầu thực hiện Hiệp định Genève.
Trí thức Thủ Dầu Một trong giai đoạn chống chiến lược “Chiến
“Chiến tranh đặc biệt” của Mĩ (1961-1965).
Sau thắng lợi của phong trào “đồng khởi” (1959 – 1960), phong trào cách mạng ở miền Nam tiếp tục phát triển, báo hiệu sự sụp đổ của chính quyền Ngô Đình Diệm Dù bị đàn áp và khủng bố, ngọn lửa cách mạng vẫn bùng cháy trong lòng nhân dân Đặc biệt, những hoạt động đấu tranh mạnh mẽ của nhân dân Thủ Dầu Một đã tạo điều kiện cho sự ra đời của “Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam” vào ngày 20-12-1960, lãnh đạo phong trào đấu tranh trong thời kỳ mới.
Cuộc đấu tranh chính trị đô thị kết hợp với các hình thức du kích và khởi nghĩa đã giải phóng nhiều vùng nông thôn, giúp người dân ở hàng nghìn xóm ấp từng bị áp bức đứng lên làm chủ, lật đổ chính quyền Ngô Đình Diệm và xây dựng chính quyền tự quản Chính quyền này chỉ kiểm soát dưới 40% đất đai, chủ yếu ở các trục giao thông, thành phố và thị xã, trong khi lực lượng quân sự của Sài Gòn bị suy yếu tới 85%.
Cuối năm 1960, sau khi kế hoạch “Trả đũa ồ ạt” của Tổng thống Dwight D Eisenhower thất bại tại miền Nam Việt Nam, chính quyền Sài Gòn rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng Để đối phó với tình hình thế giới bất lợi và nguy cơ mất Việt Nam, Tổng thống Mỹ John F Kennedy đã đề ra chiến lược toàn cầu mang tên “phản ứng linh hoạt”, bao gồm ba loại hình chiến tranh: chiến tranh đặc biệt, chiến tranh cục bộ và chiến tranh tổng.
1 Đảng ủy Bộ Tư lệnh Quân khu 7 (2011), Lịch sử miền Đông Nam Bộ và Cực nam Trung
Bộ kháng chiến (1945 – 1975), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr 391.
2 George McGovern (1970), Saigon, USA New York: Richard W Baron, p 60. lực Đối với miền Nam Việt Nam, Mĩ thực hiện chiến lược “chiến tranh đặc biệt”.
Chiến tranh đặc biệt là hình thức xâm lược thực dân mới, sử dụng lực lượng quân người bản xứ được Mỹ trang bị và chỉ huy bởi các cố vấn Mỹ Trong loại hình chiến tranh này, việc bình định nông thôn và xây dựng hệ thống ấp chiến lược đóng vai trò quan trọng nhất.
Vào ngày 11/5/1961, Tổng thống J F Kennedy đã thông qua kế hoạch NSAM 52, chính thức triển khai chiến lược "chiến tranh đặc biệt" tại miền Nam Việt Nam, với mục tiêu giành chiến thắng trong vòng 18 tháng Chiến lược này dựa trên sự kết hợp giữa quân lực ngụy, vũ khí từ Mỹ, và sự chỉ huy của các cố vấn quân sự Mỹ Do đó, Đảng bộ và nhân dân tỉnh Thủ Dầu Một cùng toàn miền Nam đã bước vào một cuộc chiến mới chống lại Đế quốc Mỹ.
2.2.1 Cuộc đấu tranh trên mặt trận chính trị của trí thức Thủ Dầu Một.
Vào tháng 9 năm 1960, Xứ ủy Nam Bộ quyết định sát nhập tỉnh Thủ Dầu Một và Biên Hòa thành tỉnh Thủ Biên lần thứ hai, với đồng chí Lê Quang Chữ giữ chức Bí thư Tỉnh ủy và đồng chí Võ Minh Đức (Tư Lợi) làm Phó bí thư Lần sát nhập này đã làm thu hẹp địa bàn tỉnh Thủ Biên, khi khu vực từ Chơn Thành đến Lộc Ninh, Bù Đốp của tỉnh Thủ Dầu Một được tách ra để thành lập tỉnh Bình Long, và hai huyện Bến Cát cùng Dầu Tiếng được giao cho xã Tây Ninh.
Bước vào năm 1961, thực hiện chiến lược “chiến tranh đặc biệt”,
Mỹ có bốn mục tiêu chính trong chiến lược của mình: cô lập cách mạng miền Nam với miền Bắc, giành lại các vùng nông thôn đã mất, tiêu diệt lực lượng vũ trang và cơ sở cách mạng trong nhân dân, và thực hiện các biện pháp nhanh chóng để đạt được những mục tiêu này.
1 Đảng ủy, Bộ tư lệnh quân khu 7 (2011), Lịch sử miền Đông Nam Bộ và Cực nam Trung
Bộ kháng chiến (1945 – 1975), NXB Chính trị quốc gia, tr 393.
Vào tháng 5 năm 1951, trong bối cảnh cuộc kháng chiến chống Pháp, hai lần sát nhập đầu tiên diễn ra nhằm tiêu diệt các vùng căn cứ cách mạng ở miền Nam và phá hoại miền Bắc để ngăn chặn sự chi viện cho miền Nam Giữa tháng 6 năm 1961, phái đoàn Tiến sĩ Staley từ Viện nghiên cứu Stanford đã đến Sài Gòn để hoàn thiện kế hoạch Staley – Taylor, một phần quan trọng trong chiến lược “chiến tranh đặc biệt” Kế hoạch này tập trung vào việc chống lại chiến tranh du kích thông qua việc dồn dân vào các “ấp chiến lược”, tách rời người dân khỏi cách mạng và bao vây kinh tế nhằm tiêu diệt phong trào cách mạng miền Nam Hàng triệu người dân đã bị ép buộc vào các “ấp chiến lược”, dẫn đến các cuộc càn quét quân sự kết hợp với chính sách gom dân, ảnh hưởng sâu sắc đến các lĩnh vực quân sự, chính trị, kinh tế và văn hóa.
Tỉnh Thủ Dầu Một, nằm trong vùng III chiến thuật, đóng vai trò là cửa ngõ bảo vệ phía bắc Sài Gòn, đã chứng kiến sự gia tăng chính sách đàn áp học sinh, sinh viên của chính phủ Ngô Đình Diệm từ đầu những năm 1960 Khi phong trào cách mạng miền Nam chuyển từ việc giữ gìn lực lượng sang tấn công trực tiếp vào chế độ Mĩ – Diệm, chính quyền đã cấm sinh viên tham gia vào chính trị và tăng cường hoạt động “chiến tranh tâm lý” nhằm buộc họ tham gia học tập chính trị Theo đài Sài Gòn, vào ngày 2/12/1960, Diệm giải thích rằng sinh viên, học sinh là những phần tử quan trọng trong xã hội, và chính trị có ảnh hưởng sâu sắc đến hoạt động xã hội, do đó, họ cần thực hiện đúng bổn phận của mình đối với quốc gia.
Tại tỉnh Thủ Dầu Một, chính quyền Mỹ - Diệm không chỉ áp dụng quân đội để thực hiện chiến lược bình định về chính trị, quân sự và kinh tế, mà còn triển khai một chiến lược văn hóa giáo dục mang tính phản động.
1 Nguyễn Minh Giao (chủ biên) (2014), Lịch sử chiến tranh nhân dân tỉnh Bình Dương
(1945-1975), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr 284.
2 Dương Thi, “Bước phát triển mới của phong trào sinh viên, học sinh miền Nam”, Tạp chí
Chiến lược "tranh thủ trái tim, khối óc" của chính quyền Ngô Đình Diệm nhằm triệt phá nền giáo dục tiến bộ, yêu nước của cách mạng Chính quyền này đã áp đặt nền giáo dục thực dân tại các trường học, với mục tiêu đào tạo những con người phục vụ cho chính quyền Sài Gòn, đủ sức đánh bại chủ nghĩa cộng sản.
Ngô Đình Diệm đã lợi dụng giới trí thức như một công cụ phản cách mạng, thông qua các hoạt động văn hóa, nghệ thuật và truyền thông để tuyên truyền cho mục tiêu cải cách chính phủ, xây dựng ấp chiến lược, bình định nông thôn và phát triển cộng đồng.
Chính quyền Ngô Đình Diệm đã cho ra đời nhiều tờ báo và tạp chí nhằm phục vụ cho chính quyền, với nhiều ấn phẩm văn học xuất hiện vào cuối năm 1961 như báo Ánh Sáng, Thời luận, Dân quí, Dân chúng Đồng thời, họ cũng thành lập các hội đoàn để tập hợp trí thức chống cộng sản, như Hội Văn hóa duy linh vào tháng 11/1960, Hội Văn hóa Việt Nam vào tháng 12/1960, và Hội nhà văn Việt Nam vào tháng 5/1962 Đặc biệt, Ngô Đình Diệm đã ban hành luật yêu cầu tất cả thanh niên từ 20 đến 33 tuổi có bằng tú tài trở lên tham gia khóa học tại trường sĩ quan trù bị, dẫn đến việc chính quyền ráo riết bắt lính và thúc ép hàng trăm ngàn thanh niên, phụ nữ tham gia vào tổ chức đoàn.
“thanh niên cộng hòa”, hội “Phụ nữ liên đới” và xây dựng lực lượng bán vũ trang mà nòng cốt là đội dân vệ.
Chính phủ Ngô Đình Diệm không chỉ áp đặt văn hóa mà còn thực hiện các biện pháp quân sự tàn bạo, dẫn đến cái chết của nhiều trí thức yêu nước Hệ quả là một số trí thức đã rời bỏ nội thành để gia nhập các vùng chiến khu giải phóng, trong khi những người ở lại thường im lặng chờ đợi cơ hội hoặc hoạt động một cách thận trọng, không công khai phản đối chính quyền Trong bối cảnh này, trí thức tiểu tư sản đã có những phản ứng và hành động đáng chú ý.
1 Ban chỉ đạo nghiên cứu biên soạn Lịch sử biên niên Trung ương Cục miền Nam (1999),
Lịch sử biên niên Xứ ủy Nam Bộ - Trung ương Cục miền Nam, tập I, Hà Nội, tr 298.
2 Hồ Sơn Diệp (2006), Trí thức Nam Bộ trong sự nghiệp kháng chiến chống xâm lược
Từ năm 1945 đến 1975, vùng đô thị đã trở thành một lực lượng quan trọng trong phong trào đấu tranh chính trị, đòi quyền dân sinh và dân chủ Trong đó, học sinh và sinh viên đóng vai trò là một trong bốn lực lượng chính trị hoạt động tích cực tại tỉnh Thủ Dầu Một và các đô thị miền Nam.
Trí thức Thủ Dầu Một trong đấu tranh trực diện chống đế quốc Mĩ xâm lược (1965-1972)
2.3.1 Trí thức Thủ Dầu Một đấu tranh chống chiến lược
“Chiến tranh cục bộ” của Mĩ.
Trước những thắng lợi lớn của quân và dân miền Nam từ năm 1961 đến đầu năm 1965, chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ đã thất bại Để tiếp tục cuộc chiến xâm lược Việt Nam, chính quyền Lyndon B Johnson đã chuyển sang chiến lược “Chiến tranh cục bộ” nhằm cứu nguy cho chính quyền ngụy quân và dập tắt phong trào cách mạng tại Việt Nam.
Trước âm mưu xâm lược của Mỹ, quân và dân Thủ Dầu Một cùng với Đảng bộ miền Nam đã không bất ngờ trước kế hoạch của đế quốc Mỹ Tại Hội nghị Trung ương Cục miền Nam vào tháng 1/1965, dựa trên phân tích tình hình, nhiệm vụ của quân và dân miền Nam trong năm 1965 đã được xác định là sẵn sàng đánh thắng địch theo hai khả năng.
Đế quốc Mỹ nhận thấy rằng sự can thiệp của họ ngày càng dẫn đến tình trạng bế tắc, do đó đã quyết định từ bỏ ý định can thiệp Hơn nữa, chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" dù có thể kéo dài thêm một thời gian, nhưng quân và dân miền Nam sẽ vẫn có khả năng đánh bại kẻ thù trong cuộc chiến này.
Mỹ đã quyết định chuyển từ chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” sang chiến tranh cục bộ, buộc chúng ta phải đối mặt trực tiếp với quân viễn chinh của họ, được trang bị vũ khí hiện đại.
Ngay sau khi Nghị quyết của Trung ương Cục được ban hành, quân và dân toàn miền đã nhanh chóng chuẩn bị để đánh bại địch trong mọi tình huống Tỉnh ủy Thủ Dầu Một đã tổ chức quán triệt Nghị quyết từ tỉnh đến các chi bộ, khẩn trương triển khai nhiệm vụ xây dựng đảng, lực lượng và thế trận Trong bối cảnh bị địch tấn công ác liệt, đội ngũ trí thức gặp nhiều khó khăn nhưng vẫn kiên trì bám trụ tại các căn cứ chiến đấu ở từng xã, huyện Họ đã đến các huyện xã để động viên nhân dân, kêu gọi mọi tầng lớp từ vùng giải phóng đến vùng địch kiểm soát tham gia đóng góp sức người, sức của cho cách mạng.
Trong bối cảnh các lực lượng vũ trang tỉnh đang tích cực tấn công địch, Thị ủy đã chỉ đạo các ngành và trí thức yêu nước, bao gồm giáo viên, sinh viên, học sinh, tổ chức vận động quần chúng tham gia vào cuộc đấu tranh chính trị Phong trào này đặc biệt phát triển mạnh mẽ nhờ vào hoạt động của Hội nhà giáo yêu nước với sự tham gia của nhiều giáo viên tiêu biểu như Nguyễn Xuân Vinh, Võ Văn Nhân, và Phạm Thế Hà Họ đã hướng dẫn các tầng lớp trí thức, giáo viên, thanh niên, học sinh đấu tranh chống quân sự hóa học đường, phản đối việc tăng học phí, và vận động binh lính ngụy trở về với gia đình hoặc tham gia cách mạng Một số đảng viên cũng đã tham gia xây dựng cơ sở trong các nghiệp đoàn tiểu thương nhằm tẩy chay lực lượng cảnh sát, mật vụ, đồng thời đấu tranh chống lại các quỹ chống Cộng Năm 1965, lực lượng biệt động thị xã đã thực hiện thành công một số trận đánh quan trọng ngay giữa trung tâm thị xã, gây thiệt hại cho địch và tạo động lực cho phong trào đấu tranh chính trị của nhân dân.
Phong trào Trí giáo vận tại Sài Gòn - Gia Định - Thủ Dầu Một đã thể hiện sự phối hợp chặt chẽ và tập trung sức lực vào cuộc đấu tranh chính trị tại Sài Gòn - Chợ Lớn.
Năm 1965, một số nhà giáo yêu nước đã công khai hoạt động cho Hội ái hữu giáo chức công lập bậc tiểu học Miền Nam tại Sài Gòn, trong đó có Đồng chí Lưu Văn Lê, Tổng thư ký và là chủ sự phòng kế toán Nha tiểu học và Bình dân học vụ, Trần Văn Đẩu, Phó tổng thư ký, cùng với Trần Bửu Hoàng Châu, giáo viên tại Thủ Dầu Một, cũng giữ vị trí Phó tổng thư ký.
Cuối năm 1965, Mỹ triển khai kế hoạch phản công mùa khô lần thứ nhất (1965 - 1966) tại miền Nam, nhằm đánh bại bộ đội chủ lực và phá hoại căn cứ kháng chiến Mục tiêu của kế hoạch này là thu hẹp vùng giải phóng, củng cố ngụy quân và ngụy quyền Trước những thách thức mới, Đảng bộ, quân và dân tỉnh Thủ Dầu Một đã phối hợp với bộ đội chủ lực để đánh bại các cuộc hành quân “tìm diệt” của quân Mỹ.
Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Dương đã ghi nhận lịch sử phát triển của Đảng bộ từ năm 1930 đến 1975, nhấn mạnh sự kiên cường trong chiến đấu và quyết tâm thất bại các âm mưu “bình định”, đồng thời bảo vệ các căn cứ kháng chiến.
Theo chỉ đạo của Tỉnh ủy, các huyện và xã đã tích cực thúc đẩy phong trào du kích chiến tranh và đấu tranh chính trị, đồng thời tăng cường công tác xây dựng Đảng Các đảng viên trí thức đã bám sát địa bàn và cộng đồng, lãnh đạo nhân dân trong cuộc đấu tranh chống lại kẻ thù Tại các ấp chiến lược, các chi bộ mật được củng cố và phát triển, nhằm vận động thanh niên tham gia vào lực lượng bảo an và dân vệ, tạo cơ sở mật trong lòng địch, qua đó phát triển lực lượng và thế trận để tiêu diệt kẻ thù.
Mặc dù sở hữu ưu thế về không quân, hỏa lực và số lượng bộ binh, cuộc phản công mùa khô lần thứ nhất của Mỹ đã bị quân và dân miền Nam đánh bại Đại sứ Mỹ Henry Cabot Lodge đã thừa nhận rằng cuộc phản công không làm suy yếu lực lượng Việt Cộng, không tiêu diệt được đơn vị chính quy nào và không ngăn chặn được sự phát triển của du kích Quân đội Sài Gòn nhanh chóng giảm chất lượng, trong khi lực lượng Mỹ không kịp thời bổ sung và khả năng tiếp vận bị hạn chế, tạo điều kiện cho quân chính quy Việt Cộng hoạt động linh hoạt.
Trên chiến trường Thủ Dầu Một, cả quân Mỹ và quân ngụy đều bị đánh bại tại các khu vực như Chiến khu Đ, Phú Lợi, Dầu Tiếng và Bông Trang Hai kế hoạch "tìm diệt" không đạt được mục tiêu đề ra.
Quân và dân Bình Định đã kiên cường đánh bại lực lượng Mỹ - ngụy, nhờ sự phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng vũ trang, du kích và trí thức Dù hệ thống căn cứ kháng chiến bị bom đạn tàn phá, nhưng tinh thần yêu nước và lòng căm thù giặc của nhân dân không ngừng gia tăng Từ các vùng giải phóng đến thị trấn, thị xã, đồng bào cùng cán bộ trí thức và lực lượng vũ trang đã mạnh mẽ đấu tranh chống lại Mỹ - ngụy và sẵn sàng đóng góp sức người cho sự nghiệp cách mạng.
Sau chiến thắng quan trọng trong cuộc kháng chiến chống giặc, Đảng bộ, quân và dân tỉnh Thủ Dầu Một trở nên vững vàng và tin tưởng hơn vào tương lai.
Trí thức Thủ Dầu Một trong việc góp phần đánh bại đế quốc Mĩ, hoàn thành thống nhất đất nước (1973-1975)
2.4.1 Tình hình đội ngũ trí thức Thủ Dầu Một sau Hiệp định Paris.
Sự đấu tranh kiên cường của toàn đảng và nhân dân trong việc xây dựng và bảo vệ đất nước đã mang lại nhiều thắng lợi, đặc biệt là ở miền Nam dưới sự lãnh đạo của đảng Tầng lớp trí thức yêu nước đã đóng vai trò tiên phong trong các phong trào yêu nước và góp phần quan trọng vào quá trình đàm phán ký kết hiệp định Paris vào ngày 27/3/1973 Cuộc tổng tiến công Tết Mậu Thân năm 1968 đã dẫn đến việc Tổng thống Mỹ Lyndon B Johnson chấp nhận tham gia đàm phán tại Paris Để đạt được hiệp định Paris, nhân dân đã trải qua một quá trình đấu tranh lâu dài, với sự tham gia của đoàn cố vấn Việt Nam, trong đó có Lê Đức Thọ, người đã tham gia nhiều cuộc họp công khai và bí mật, cũng như các cuộc biểu tình ủng hộ Việt Nam Lê Đức Thọ đã lãnh đạo phái đoàn đàm phán và đạt được thành công trong việc ký kết hiệp định, đồng thời được đề nghị nhận giải Nobel hòa bình Tuy nhiên, hòa bình tại Việt Nam vẫn chưa thật sự được lập lại khi Mỹ tiếp tục thực hiện các hành động chống phá cách mạng Việt Nam.
Vào ngày 27-1-1973, sau nhiều hội nghị kéo dài tại trung tâm hội nghị quốc tế ở Paris, các bộ trưởng ngoại giao của bốn bên gồm Chính Phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, Chính Phủ Lâm Thời Cộng Hòa miền Nam Việt Nam, Chính Phủ Hoa Kỳ và Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa đã chính thức ký kết "Hiệp định về việc chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở miền Nam Việt Nam", có hiệu lực từ 7 giờ sáng ngày 28-1-1973.
1 Trung tâm lưu trữ Quốc Gia II, Hiệp định Paris về Việt Nam năm 1937 qua tư liệu của chính quyền Sài Gòn, tập 1-2, Nxb, Chính trị quốc gia.
2 Đảng bộ chỉ huy tỉnh Bình Dương, Lực lượng vũ trang nhân dân tỉnh Bình Dương(1945-2005), Nxb Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh.
Việc Mĩ đồng ý tham gia đàm phán Hiệp định Paris đã khơi dậy phong trào đấu tranh chính trị mạnh mẽ tại Nam Bộ, đặc biệt ở các trung tâm lớn như Sài Gòn và Bình Dương Dưới sự lãnh đạo của các trí thức trẻ như Luật sư Trần Ngọc Liễng và Giáo sư Nguyễn Văn Dưỡng, nhân dân đã tích cực dựa vào các điều khoản của Hiệp định Paris để tổ chức mít tinh và biểu tình, nhằm phản đối chính quyền Mĩ-Ngụy và kêu gọi sự tham gia của quần chúng.
Mỹ chấp nhận ký hiệp định Paris nhưng vẫn tiếp tục thực hiện chiến lược bình định miền Nam bằng cách viện trợ vũ khí, phương tiện chiến tranh và tài chính cho chính quyền tay sai nhằm kéo dài cuộc chiến Sau khi ký hiệp định, Đảng ta không chủ quan mà nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, xác định các phương hướng và nhiệm vụ phát triển cách mạng miền Nam thông qua đấu tranh chính trị và vũ trang Lực lượng tham gia bao gồm đông đảo công nhân, nông dân và trí thức, đóng vai trò quan trọng trong cuộc chiến.
Ngày 14-2-1974 “Mặt trận nhân dân đòi thi hành Hiệp định Paris”, là một tổ chức rộng rãi gồm nhiều tầng lớp nhân sĩ trí thức, nhà báo, tu sĩ…họ điều có khuynh hướng chống Thiệu đòi hòa bình và độc lập, tự do dân chủ.Chính quyền tay sai của Mĩ không thi hành theo đúng điều khoản trong hiệp định Paris(27-1-1973) tạo nên làn sống phản đối tiếp tục cuộc chiến tranh miền Nam Việt Nam Các phong trào biểu tình, mít tin với sự tham gia nhiều học sinh sinh viên, văn nghệ sĩ hưởng ứng tích cực. Chiến trường miền Nam luôn được sự quan tâm của hậu phương miền Bắc, không chỉ cung cấp cho chiến trường lương thực, vũ khí, quần áo … đông đảo các anh em thanh niên xung phong lòng nhiệt huyết tuổi trẻ sinh viên, nhà văn, giáo viên, nhà báo, sẵn sang tham gia đấu tranh chống Mĩ
Sau khi hiệp định Paris được ký kết, Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa nhận được sự viện trợ toàn diện từ Mỹ nhằm kéo dài chiến tranh và làm thất bại cuộc Cách mạng Trong khi đó, Cách mạng miền Nam đang chuẩn bị cho cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975 để giành độc lập, không chỉ tập trung vào chiến tranh trên chiến trường mà còn đấu tranh trên mọi lĩnh vực Đoàn kết toàn dân và đẩy mạnh cuộc đấu tranh trên ba mặt trận chính trị, quân sự và ngoại giao là những nhiệm vụ quan trọng trong từng thời điểm.
Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam và trí thức Việt Nam thời xưa đã kết hợp các biện pháp hòa bình, độc lập và liên hiệp dân tộc nhằm kiên quyết đánh bại mọi âm mưu cũng như hành động phá hoại việc thực hiện Hiệp định Paris.
Từ năm 1973, phong trào đấu tranh chính trị ở Nam Bộ đã diễn ra mạnh mẽ, với sự tham gia của trí thức, thương nhân, quan chức Chính phủ Sài Gòn và những người yêu nước, nhằm gây áp lực lên chính quyền Mỹ-Thiệu không thực hiện các điều khoản của hiệp định Paris Từ ngày 28-4 đến 12-5-1973, Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Thủ Dầu Một đã đánh giá tình hình địch để xác định nhiệm vụ đấu tranh phù hợp Đồng thời, Ban chấp hành Trung Ương Đảng (khóa III) kêu gọi nhân dân cả nước cần cảnh giác trước những thủ đoạn lừa bịp và nhận thức rõ bản chất của chủ nghĩa đế quốc.
Mỹ và chính quyền tay sai đang đối mặt với sự phản kháng mạnh mẽ Đảng ta kêu gọi sự đoàn kết giữa các tầng lớp trong xã hội, bao gồm công nhân, nông dân và trí thức, nhằm tạo ra sức mạnh chung để lãnh đạo cuộc kháng chiến, đưa đến thành công cuối cùng.
Lực lượng trí thức tại Nam Bộ, đặc biệt ở Bình Dương, Tây Ninh và Thành phố Hồ Chí Minh, đã liên kết chặt chẽ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, trở thành nòng cốt trong phong trào đấu tranh Sau hiệp định Paris, các hoạt động của trí thức và quan chức yêu nước tại Sài Gòn diễn ra sôi nổi, đặc biệt là việc chống lại "chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh" của Mỹ Từ 1973 đến 1975, phong trào đấu tranh của trí thức gia tăng mạnh mẽ, khiến nhiều quan chức chính quyền Sài Gòn quay về với cách mạng, trong bối cảnh chính quyền này suy yếu Cách mạng miền Nam Việt Nam nhận được sự ủng hộ từ bạn bè quốc tế, tạo niềm tin cho quân và dân vào hòa bình và độc lập dân tộc Thủ Dầu Một trở thành điểm nóng cho các phong trào chống chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, với các hoạt động mít tinh, biểu tình và thông qua các tờ báo của Đảng Cộng sản.
2.4.2 Trí thức Thủ Dầu Một đấu tranh chính trị đòi thi hành Hiệp định Paris sau năm 1973.
1 Nguyễn Minh Giao, Lịch sử chiến tranh nhân dân tỉnh Bình Dương (1945-1975), NXB Chính trị Quốc Gia, sđd,tr.267
Thủ Dầu Một, nằm trong vùng căn cứ giải phóng từ chiến khu D đến Phú Giáo qua Bắc Bến Cát và Dầu Tiếng, là khu vực chiến trường quan trọng mà Mỹ-Ngụy xác định có thể uy hiếp trực tiếp Sài Gòn từ hướng bắc Tại đây, lực lượng cách mạng đã chiếm ưu thế, sẵn sàng tiến công địch.
Trong giai đoạn thực hiện hiệp định Paris 1973, các phong trào mạnh mẽ đã diễn ra dưới sự lãnh đạo của Đảng, thu hút sự tham gia của nhiều tầng lớp nhân dân, tạo thành một làn sóng quyết liệt làm lung lay tinh thần chiến đấu của kẻ thù.
Nguyễn Ái Quốc khẳng định rằng mọi người đều có quyền bình đẳng, và những quyền này không ai có thể xâm phạm, bao gồm quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc Cuộc đấu tranh của nhân dân ta nhằm bảo vệ tiếng nói dân tộc và quyền bình đẳng là rất quan trọng trong việc xây dựng một xã hội công bằng và văn minh.
Lực lượng trí thức đóng vai trò quan trọng trong phong trào giành lại quyền lực cho nhân dân, với sự tham gia của họ trong nhiều lĩnh vực như chính trị, ngoại giao, quân sự và báo chí Họ đã tích cực hoạt động nhằm thúc đẩy tinh thần yêu nước và lan tỏa thông điệp đấu tranh trong giai đoạn trước.
Năm 1945, tầng lớp tham gia đấu tranh công-nông-binh đã có sự phát triển mạnh mẽ Sau giai đoạn 1954, chính quyền thực dân mở trường tiếp thu tư tưởng phương Tây, dẫn đến sự gia tăng về số lượng và chất lượng của trí thức Giai cấp lãnh đạo kháng chiến công-nông-binh-trí đã đóng vai trò nòng cốt trong cuộc cách mạng.
Vai trò của trí thức Thủ Dầu Một trong phong trào giải phóng dân tộc
Lực lượng trí thức đại diện cho tri thức và trí tuệ của dân tộc, đóng vai trò quan trọng trong kháng chiến và kiến quốc Sự tham gia của họ là yếu tố quyết định cho thành công của các cuộc cách mạng và kháng chiến trên toàn quốc Giới trí thức không chỉ góp mặt trong mặt trận tư tưởng, văn hóa, giáo dục và khoa học mà còn tham gia vào công tác lãnh đạo và quản lý Họ đã cùng các tầng lớp khác trong xã hội góp phần vào những thắng lợi vĩ đại của dân tộc, để lại những tấm gương sáng cho các thế hệ sau.
Ngay sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã khẩn trương chống nạn mù chữ do chính sách ngu dân của thực dân để lại Để đạt được điều này, cần kết hợp đấu tranh vũ trang với các lĩnh vực chính trị, tư tưởng, văn hóa và giáo dục nhằm chống lại chính sách cai trị của thực dân Đội ngũ trí thức đã đóng vai trò quan trọng trong việc này, họ cùng nhân dân chiến đấu chống xâm lược, không ngại gian khổ và hy sinh Phong trào bình dân học vụ đã thể hiện rõ vai trò của trí thức trong việc dạy chữ và truyền đạt thông tin, chính sách của chính quyền Người dân tích cực học tập và tham gia bảo vệ an ninh, xây dựng đời sống mới Phong trào du kích và bình dân học vụ đã phát triển mạnh mẽ, góp phần xóa nạn mù chữ và làm thất bại âm mưu của kẻ thù, với sự tham gia tích cực của các đoàn thể như Cứu quốc, Đoàn Thanh niên Cứu quốc và Hội phụ nữ Cứu quốc.
Trong suốt quá trình đấu tranh gian khổ, đội ngũ trí thức đã sáng tạo nhiều hình thức đấu tranh mới, như gửi thư kiến nghị và tổ chức mít tinh, biểu tình đòi dân sinh, dân chủ Họ luôn đoàn kết với quần chúng nhân dân, cùng với công nhân, viên chức và tiểu thương tạo nên những cuộc tuần hành đông đảo, thể hiện sức mạnh của khối đoàn kết công - nông - trí Niềm tin vào sức mạnh của quần chúng và khả năng của chính mình đã góp phần vào những thắng lợi vĩ đại của dân tộc.
Trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, nhiều trí thức có học vị cao đã từ bỏ cuộc sống tiện nghi để tham gia cách mạng và kháng chiến, cùng với nhân dân chống kẻ thù Dưới sự lãnh đạo của Đảng do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, khối liên minh giữa giai cấp công nhân, nông dân và trí thức đã đóng vai trò quan trọng trong cuộc đấu tranh giành độc lập Dưới sự cai trị của thực dân Pháp, một đội ngũ trí thức mới đã hình thành, với một phần làm việc trong bộ máy thống trị và một phần tiếp thu tư tưởng dân chủ để canh tân đất nước Họ không chỉ hoàn thiện và phổ biến chữ Quốc ngữ mà còn giáo dục lòng yêu nước trong quần chúng, đồng thời sử dụng báo chí để kêu gọi đấu tranh cho dân sinh, dân quyền và độc lập dân tộc.
1 Hồ Hữu Nhựt (2001), Trí thức Sài Gòn – Gia Định (1945-1975), Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội, tr 11-12.
2 Tham khảo: Bùi Minh Hiền (2014), Lịch sử giáo dục Việt Nam, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội, tr 226.
Trí thức, nhà báo và sinh viên Thủ Dầu Một đã đối đầu với các tác phẩm văn học phản động của kẻ thù bằng cách sử dụng văn nghệ và báo chí để giáo dục lòng yêu nước và đấu tranh cho độc lập dân tộc Họ đã góp phần làm thất bại những âm mưu của địch, giúp quần chúng nhân dân không bị tác động bởi luận điệu xuyên tạc Đồng thời, họ chống lại chính sách ngu dân của kẻ thù và thúc đẩy phong trào truyền bá chữ Quốc ngữ Mặc dù hoạt động tuyên truyền yêu nước bị theo dõi chặt chẽ, đội ngũ cán bộ vẫn kiên trì chỉ đạo phong trào cách mạng, sử dụng nhiều hình thức tuyên truyền để vận động quần chúng Trí thức Thủ Dầu Một đã tham gia vào cuộc đấu tranh giáo dục, xây dựng nền giáo dục dân tộc và tiến bộ, đồng thời chống lại các chính sách nô dịch của đế quốc Mỹ Dưới sự lãnh đạo của Đảng, họ đã vận động quần chúng về đường lối kháng chiến và kết hợp với lực lượng công - nông để đánh bại các vùng bình định của địch Thông qua các tổ chức văn hóa, giáo dục bí mật và công khai, trí thức địa phương đã từng bước chuyển ngữ Việt và thay thế đội ngũ giảng dạy nước ngoài tại các trường đại học.
1 Hồng Chương (1987), Tìm hiểu lịch sử báo chí Việt Nam, Nxb Sách giáo khoa Mác – Lênin, Hà Nội, tr 215.
2 Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương (2010), Địa chí Bình Dương, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội, t.2. tr 248.
Cuộc đấu tranh của đội ngũ trí thức trong các lĩnh vực văn hóa và giáo dục đã góp phần quan trọng vào việc làm thất bại những âm mưu chính trị của chủ nghĩa thực dân Tại Thủ Dầu Một, nhiều trí thức giữ các vị trí quan trọng trong Đảng và chính quyền, như thầy giáo Võ Minh Đức, Lê Văn Chương, và Phạm Văn Thuấn Nguyễn Minh Chương, cử nhân luật và Tỉnh trưởng chính quyền thân Nhật, đã tình nguyện tham gia Việt Minh và được bầu làm Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Huỳnh Kinh Trương, viên chức chỉ huy lực lượng cộng hòa vệ sinh, cũng tham gia kháng chiến với vai trò Chi đội trưởng Những trí thức này đã trở thành lực lượng nòng cốt, lãnh đạo các tổ chức và phong trào đấu tranh chính trị, góp phần phát huy truyền thống yêu nước và sự kiên cường của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ.
Hoạt động của trí thức Thủ Dầu Một ngày càng phát triển mạnh mẽ, không chỉ trong công tác thông tin tuyên truyền mà còn trong việc chuẩn bị cho việc tiếp quản vùng tạm chiến Họ tích cực tuyên truyền, vận động quần chúng đấu tranh chống lại những hành động phá hoại Hiệp định Paris và chống bắt lính Phong trào đấu tranh của trí thức luôn gắn liền với sinh viên, học sinh, tạo nên sức mạnh cho lực lượng xung kích Đội ngũ trí thức đã góp phần quan trọng vào việc xóa mù chữ, truyền bá chữ Quốc ngữ, nâng cao hiểu biết cách mạng và khơi dậy tinh thần yêu nước trong nhân dân Họ không chỉ tham gia vào sự nghiệp giải phóng tỉnh Bình Dương mà còn hỗ trợ giải phóng các vùng lân cận như Sài Gòn, tạo niềm tin cho nhân dân trong cuộc kháng chiến chống xâm lược.
Gia Định, Biên Hòa, Mĩ Tho, Họ vừa là một cán bộ, vừa là một chiến sĩ trên mặt trận chiến đấu chống kẻ thù.
Trí thức Thủ Dầu Một đã có vai trò quan trọng trong việc tập hợp và kêu gọi nhân dân chống giặc Trong quá trình kháng chiến, đội ngũ trí thức tại đây đã phải đối mặt với nhiều khó khăn, gian khổ và nguy hiểm, nhưng tinh thần yêu nước của họ không hề suy giảm Họ đã cùng với nhân dân đấu tranh kiên cường, giành nhiều thắng lợi, góp phần giải phóng Bình Dương và khu vực Đông Nam Bộ trong cuộc kháng chiến từ 1954 đến 1975.
Trí thức Thủ Dầu Một đã đóng góp quan trọng vào sự nghiệp kiến quốc và kháng chiến giải phóng dân tộc miền Nam Việt Nam Kể từ khi có Đảng, đặc biệt sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, cộng đồng dân tộc Bình Dương và nhân dân Nam Bộ đã kiên cường đấu tranh chống giặc ngoại xâm trong suốt 30 năm chiến tranh Dù trải qua những năm tháng gian khổ và hy sinh, nhân dân Bình Dương và đội ngũ trí thức đã góp phần quan trọng vào những chiến công và thắng lợi cuối cùng trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.