Phần mở đầu
Lý do chọn đề tài
Trong lịch sử hơn 2000 năm của xã hội phong kiến Trung Quốc, hai nhân vật nữ nổi bật nhất với tài trí và thủ đoạn là Võ Tắc Thiên, người được mệnh danh là “Nữ Hoàng đối vương miến” của triều đại Đường, và Tây Thái hậu Diếp Hách Na Lạp thị, “Nữ Hoàng không vương miến” của triều đại Mãn Thanh.
V-ơng triều Mãn Thanh là v-ơng triều của một tộc ng-ời thiểu số, nh-ng đến giai đoạn cuối thì quyền lực đã tập trung vào tay một ng-ời đó là
Từ Hy Thái hậu, một trong những người phụ nữ tàn bạo nhất Trung Hoa vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, đã nắm quyền trị vì một quốc gia rộng lớn từ khi 27 tuổi Dù không ngồi trên ngai vàng, bà thực sự là vị Hoàng đế độc quyền của triều đại Mãn Thanh, khiến triều đình phải run sợ Trong bối cảnh đất nước bị tấn công bởi sáu cường quốc: Anh, Nga, Mỹ, Đức, Nhật, và Pháp, bà luôn thể hiện mình là một người mưu lược và dũng cảm Cuối triều đại, khi đối mặt với nhiều phong trào đấu tranh như Thái Bình Thiên Quốc, Nghĩa Hoà Đoàn và cuộc vận động Duy Tân Mậu Tuất, Từ Hy Thái hậu đã có những thái độ và cách ứng phó khác nhau với từng phong trào.
Nghiên cứu vai trò của Từ Hy Thái hậu trong giai đoạn cuối của chế độ phong kiến Mãn Thanh không chỉ mang lại những hiểu biết khoa học mà còn có ý nghĩa thực tiễn trong việc xây dựng tổ chức bộ máy Nhà nước Việc đánh giá những quyết định và hành động của bà trong bối cảnh các phong trào đấu tranh cuối thế kỷ XIX giúp rút ra bài học cần thiết để giải quyết các nhu cầu cấp bách của quần chúng nhân dân Do đó, tôi đã chọn đề tài “Từ Hy Thái hậu và thời điểm của bà đối với một số phong trào đấu tranh cuối thế kỷ XIX” cho khóa luận tốt nghiệp của mình.
Lịch sử vấn đề
V-ơng triều Mãn Thanh trong lịch sử Trung Quốc cho đến nay có rất nhiều công trình nghiên cứu của Trung Quốc,Việt Nam và Ph-ơng Tây đề cập đến nh- cuốn: Sử Trung Quốc – Nguyễn Hiến Lê biên soạn Tác phẩm đã khái quát về quá trình ra đời, phát triển và suy tàn của v-ơng triều Mãn Thanh Hay nh- công trình nghiên cứu của tác giả Nguyễn Gia Phu - Nguyễn Huy Quý với nhan đề : Lịch sử Trung Quốc cũng đã đề cập đến v-ơng triều Mãn Thanh kể từ khi thành lập đến lúc khủng hoảng của v-ơng triều…
Các công trình nghiên cứu hiện có đã làm sáng tỏ lịch sử vương triều Mãn Thanh từ khi hình thành đến lúc suy tàn, nhưng vẫn thiếu một nghiên cứu về thái độ của Từ Hy Thái hậu đối với các phong trào chống vương triều Mãn Thanh vào cuối thế kỷ XIX Do đó, tôi đã chọn đề tài này cho khóa luận tốt nghiệp của mình, với hy vọng sẽ mở rộng hiểu biết và củng cố kiến thức cho công tác sau này Tuy nhiên, do hạn chế về ngoại ngữ, tôi chưa có điều kiện tiếp cận tài liệu tiếng Trung Quốc, nên trong khóa luận này, tôi chỉ có thể đánh giá dựa trên tài liệu dịch và các tác phẩm của các tác giả Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu
+ Về nội dung: Tập trung tìm hiểu thái độ của Từ Hy Thái hậu đối với một số phong trào đấu tranh chống v-ơng triều Mãn Thanh
+ Về thời gian: ở thế kỷ XIX trong thời gian chế độ phong kiến khủng hoảng trầm trọng.
Nguồn t- liệu và ph-ơng pháp nghiên cứu
4.1 Nguồn t- liệu chủ yếu slà các tài liệu nh- văn học dịch, lịch sử
Trung Quốc thời cận đại…
4.2 Ph-ơng pháp chủ yếu mà chúng tôi sử dụng là ph-ơng pháp lịch sử và ph-ơng pháp lôgic Ngoài ra còn sử dụng các ph-ơng pháp khác nh- ph-ơng pháp so sánh, ph-ơng pháp thống kê, ph-ơng pháp s-u tầm t- liệu, ph-ơng pháp phân tích…
5 Bố cục đề tài Đề tài kết cấu gồm 3 phần: Phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luËn
Nội dung của đề tài trình bày trong 3 ch-ơng
Ch-ơng 1: Vài nét khái quát về quá trình xác lập, phát triển và suy tàn của v-ơng triều Mãn Thanh
Ch-ơng 2: Vài nét khái quát về tiểu sử của Từ Hy Thái hậu
Ch-ơng 3: Thái độ của Từ Hy Thái hậu đối với một số phong trào đấu tranh chống Mãn Thanh cuối thế kỷ XIX.
Bố cụ của đề tài
Ch-ơng 1: Vài nét khái quát về quá trình xác lập, phát triển và suy tàn của v-ơng triều mãn Thanh
1.1 Quá trình xác lập của v-ơng triều mãn thanh
Triều đại Nhà Mãn Thanh, kéo dài 267 năm từ 1644 đến 1911, là triều đại cuối cùng của nhà nước phong kiến Trung Hoa, với ba triều vương đóng đô ở Bắc Kinh Xuất phát từ "13 đội vua nhà Thanh," triều đại này bắt đầu khi Hậu Kim được thành lập vào năm 1616, nhưng phải đến năm 1636 mới chính thức đổi tên thành Thanh Năm 1644, vua Thanh Thế Tổ Phúc Lâm đã vượt qua Sơn Hải Quan và thiết lập Bắc Kinh làm kinh đô, đánh dấu sự thay thế triều đại Minh và thống trị toàn bộ lãnh thổ Trung Hoa.
Cụm từ “13 đội vua nhà Mãn Thanh” không chính xác, vì thực tế chỉ có 12 vị vua trị vì đất nước Mãn Thanh Trong số đó, Hoàng đế Thanh Thái Tông, tức Hoàng Thái Cực, đã lập hai niên hiệu và trị vì trong hai triều đại: Thiên Thông và Sùng Đức.
Qua 13 v-ơng triều, với 12 vị hoàng đế xuất thân từ dân tộc Mãn, một dân tộc thiểu số của đất n-ớc Trung Hoa – trị vì đất n-ớc này trong 269 năm Triều đại Mãn Thanh đã có hai hoàng đế đ-ợc xếp trong 10 vị hoàng đế nổi tiếng nhất trong lịch sử Trung Quốc (Hai ông cháu: Khang Hy và Càn Long); Những đại thần nổi tiếng hiền tài: Phạm Văn Trình, Lâm Trắc Từ… Những thống soái nổi danh trí dũng: Tăng Quốc Phiên, Tạ Tôn Đ-ờng,… những Thái hậu phù trì nhiều ấu chúa nh- Hiếu Trang Văn, Từ Hy; những gian thần Ngao Bái, Hòa Thân… những v-ơng phi tài sắc đa đoan: H-ơng Phi, Trân Phi; Những danh s- sớm đề x-ớng tân học và tây học: Tr-ơng Chi Động, L-ơng Khải Siêu; Những đại thần quan lại thanh liêm chính trực: Vu Thế Long, L-u Dung, Trịnh Bản Kiều, Kỷ Hiểu Lam,…
PhÇn néi dung
Quá trình xác lập của v-ơng triều Mãn Thanh
Triều đại Nhà Mãn Thanh, kéo dài 267 năm từ 1644 đến 1911, là triều đại cuối cùng của phong kiến Trung Hoa, với ba triều vương đóng đô ở Bắc Kinh Khởi nguồn từ năm 1616, khi người Mãn lập nước Hậu Kim, đến năm 1636, quốc hiệu được đổi thành Thanh Năm 1644, vua Thanh Thế Tổ Phúc Lâm vượt qua sơn Hải Quan và chính thức định đô tại Bắc Kinh, thay thế nhà Minh để thống trị toàn bộ lãnh thổ Trung Hoa.
Cụm từ "13 đội vua nhà Mãn Thanh" không chính xác, vì thực tế chỉ có 12 vị vua trị vì đất nước Mãn Thanh Trong số đó, Hoàng đế Thanh Thái Tông Hoàng Thái Cực đã lập hai niên hiệu và trị vì qua hai vương triều: Thiên Thông và Sùng Đức.
Qua 13 v-ơng triều, với 12 vị hoàng đế xuất thân từ dân tộc Mãn, một dân tộc thiểu số của đất n-ớc Trung Hoa – trị vì đất n-ớc này trong 269 năm Triều đại Mãn Thanh đã có hai hoàng đế đ-ợc xếp trong 10 vị hoàng đế nổi tiếng nhất trong lịch sử Trung Quốc (Hai ông cháu: Khang Hy và Càn Long); Những đại thần nổi tiếng hiền tài: Phạm Văn Trình, Lâm Trắc Từ… Những thống soái nổi danh trí dũng: Tăng Quốc Phiên, Tạ Tôn Đ-ờng,… những Thái hậu phù trì nhiều ấu chúa nh- Hiếu Trang Văn, Từ Hy; những gian thần Ngao Bái, Hòa Thân… những v-ơng phi tài sắc đa đoan: H-ơng Phi, Trân Phi; Những danh s- sớm đề x-ớng tân học và tây học: Tr-ơng Chi Động, L-ơng Khải Siêu; Những đại thần quan lại thanh liêm chính trực: Vu Thế Long, L-u Dung, Trịnh Bản Kiều, Kỷ Hiểu Lam,…
Triều đại Mãn Thanh đã để lại cho kho tàng văn hóa phương Đông và nhân loại những tác phẩm đồ sộ về bách khoa tri thức, nổi bật là bộ sách "Khang".
Hy tữ điền", “Tử khỗ to¯n thư”; nhừng di tích lịch sụ văn hõa tầm cở quỗc tễ: Rừng v-ờn Hoàng gia Thừa Đức, Di Hòa Viên, …
Triều đại Mãn Thanh chứng kiến cuộc khởi nghĩa nông dân lớn lao mang tên "Thời Bệnh Thiên Quốc", do lãnh tụ Họng Tủ To¯n dẫn dắt Ông được Tôn Trung Sơn ca ngợi là "Phân Thanh đề nhất anh hùng", thể hiện tầm quan trọng và ảnh hưởng của cuộc khởi nghĩa trong lịch sử Trung Quốc.
1.1.1 Mãn Châu - nơi phát tích của v-ơng triều Mãn Thanh
Vùng Đông Bắc Trung Quốc nổi bật với hệ thống sông ngòi phong phú và núi non hùng vĩ, bao gồm ba hình nguyên lớn: Tam Giang, Tùng Nộn và Liễu Hà Khu vực này có tài nguyên phong phú và đất đai màu mỡ, từ lâu đã là một phần quan trọng của lãnh thổ Trung Quốc Từ thời xa xưa, nơi đây đã là quê hương của một dân tộc cổ xưa, thuộc tộc Đông Hồ, có mối liên hệ chặt chẽ với vùng Trung Nguyên Dân tộc này, được gọi là Túc Chân trong thời kỳ Thiên Tần, từng đóng góp cho vương triều Tây Chu Qua các triều đại, tên gọi của Túc Chân đã thay đổi, từ Âp Lâu dưới triều Hán đến Vô Cát thời Bắc Ngụy, Mạt Hát thời Đường, và Nữ Chân thời Liêu Trong thời kỳ Nam Tống, nước Kim do tộc Nữ Chân thành lập đã chiếm lĩnh một nửa Trung Quốc, nhưng sau đó bị triều Nguyên lật đổ Thời Minh, tộc Nữ Chân được chia thành ba nhánh: Nữ Chân Đông Hải, Nữ Chân Hải Tây và Nữ Chân Kiến Châu, với Nỗ Nhĩ Cán đô ti được thành lập tại hạ du Hắc Long Giang để quản lý khu vực Đông Bắc Nổ Nhĩ Cáp Xích, tức vua Thanh Thái Tổ, sinh ra trong một gia đình quý tộc thuộc Nữ Chân Kiến Châu.
Vua Thanh đầu tiên của Trung Hoa là Thuận Trị (Thái Tổ), lên ngôi khi mới 7 tuổi và được mẹ đặt lên ngai vàng Ở tuổi 15, ông kết hôn nhưng chỉ yêu một quý phi Sau 8 năm, khi quý phi qua đời, ông rơi vào tình trạng u uất và qua đời chỉ vài tháng sau đó Các sử gia cho rằng ông mắc bệnh thần kinh suy nhược, khiến việc quản lý đất nước phải giao cho thân vương (chú ông), nhờ đó triều chính có kỷ cương hơn.
1.1.2 Quá trình thống nhất và củng cố của v-ơng triều Mãn Thanh
Khi nhà Thanh vào Bắc Kinh, họ ngay lập tức cấm quân lính xâm nhập vào nhà dân và tiến hành cải táng vua Tôn, người đã qua đời tại núi Lôi Sơn Họ tổ chức lễ phát tang và hạ lệnh cho quan dân để tang trong ba ngày, đồng thời chôn cất viên thái giám Vương Thừa Ân bên lăng Tôn Những người tuẫn nạn khác cũng được thờ chung trong một ngôi đền, thể hiện sự tôn trọng đối với những người đã hy sinh Biện pháp này nhằm chứng minh với người Hán rằng nhà Thanh không có ý định chiếm nước Minh mà chỉ muốn dẹp bọn giặc Lý Tự Thành và cứu khổ cho dân Mặc dù nhiều người cho rằng đây là hành động giả dối, nhưng nó lại thể hiện sự văn minh và phù hợp với đạo Nho, cho thấy tâm lý của người Mãn có phần khác biệt so với người Mông.
Nhà Thanh tiếp tục sử dụng các cựu thần của nhà Minh và duy trì cả chữ Hán lẫn chữ Mãn, đồng thời coi trọng văn hóa Hán Tuy nhiên, họ lại tìm cách tiêu diệt hậu duệ của nhà Minh Để lấy lòng người dân Hán, Nhà Thanh đã tha cho một số tội nhân, giảm bớt những loại thuế quá nặng nề và hỗ trợ những người cô quả, không có phương tiện mưu sinh.
Hồi quân Mãn mới vào Trung Quốc, chúng chiếm đất của dân, vạch khu để quản lý, triều đình ra lệnh cấm tuyệt, bắt trả lại cho dân
Họ không khác gì Mông Cổ, lập lại khoa cử để lung lạc các sĩ phu Một số người đỗ đạt được bổ dụng, nhưng họ vẫn thận trọng và chỉ tin tưởng vào người Hán làm phụ tá, trong khi người Mãn không cần thi vẫn được làm quan Chính sách ân huệ được áp dụng để vỗ về, nhưng cũng đi kèm với sự đàn áp tàn nhẫn Người Mãn cấm hai dân tộc kết hôn, bắt người Hán phải mặc y phục của Mãn và cạo đầu dắt bím tóc như họ Thời Nguyên, người Hán phải để hai bím tóc thẳng xuống giữa lưng, và ai không tuân lệnh sẽ bị chặt đầu Điều này khiến người Hán cảm thấy nhục nhã và đã dẫn đến sự phản kháng ban đầu.
Ngoài ra còn lệnh cấm lập làng xã (đoàn thể), lập hội, kẻ nào có giọng phản Thanh trong sách vở thì bị chặt đầu
Trong bốn mươi năm đầu, nhiều đại địa chủ và kẻ sĩ đã thể hiện thái độ bất hợp tác, một số chọn cách ẩn mình trong rừng, trong khi những người khác rời quê hương để ra nước ngoài làm ăn.
Qua các triều đại Khang Hy và Càn Long, tinh thần phản Thanh đã giảm sút khi người Mãn bắt đầu coi trọng văn minh Trung Hoa và hòa nhập với người Hán Đến thế kỷ XIX, sự kỳ thị giữa người Hán và người Mãn gần như biến mất, với nhiều nhân vật nổi bật như Tăng Quốc Phiên và Lý Hồng Chương đã hỗ trợ triều đình Thanh củng cố quyền lực.
Sau khi quân Mãn Thanh chiếm Nam Kinh, Phúc Vương tự sát, kháng chiến của Tôn Thất nhà Minh tiếp tục dù yếu ớt Ba vương tiếp theo gồm Lỗ Vương Nội ở Chiết Giang, Đường Vương ở Phúc Kiến và Quế Vương ở Quảng Đông, Quảng Tây, đều dũng cảm và được dân ủng hộ, nhưng thực lực yếu kém Chỉ sau vài năm, một người chết vì bệnh, một người bị Thanh bắt, và lực lượng nghĩa quân phải rút dần về phía nam Quế Vương chống cự lâu nhất, nhưng cuối cùng Mãn Thanh đã phải điều động quân đội tấn công toàn diện Ông rút về Quảng Châu, rồi Vân Nam, và cuối cùng sang Miến Điện Tam quốc bị tiêu diệt vào năm 1862, đầu triều đại Khang Hy.
Trịnh Thành Công, một viên tướng của Đường Vương, là người cuối cùng dẫn dắt bộ hạ qua Đài Loan để tiếp tục cuộc kháng chiến Ông kêu gọi các chí sĩ ở miền duyên hải, từ Chiết Giang đến Phúc Kiến, tham gia phong trào phản Thanh phục Minh.
Năm 1624, nhà Minh cho phép người Hà Lan thiết lập căn cứ buôn bán nhằm kiểm soát hải tặc Nhật Bản Tuy nhiên, Trịnh Thành Công đã đuổi người Hà Lan và chiếm lấy đảo, nhưng sau khi ông qua đời, con trai còn nhỏ kế vị Nhà Thanh lợi dụng cơ hội này, buộc dân ven biển Phúc Kiến phải rời vào lục địa để không tiếp tế cho họ Trịnh, đồng thời nhờ hải quân Hà Lan chiếm Đài Loan năm 1683 Sau khi Mãn Thanh bình định Trung Hoa, mỗi lần có nhóm phản Thanh bị tiêu diệt, lại có hàng trăm người tuẫn quốc, thể hiện tinh thần kiên cường của dân tộc Đầu thời Thuận Trị, nhà Thanh sử dụng ba nhân vật Hán gian để dẹp loạn, trong đó Ngô Tam Quế được phong làm Bình Tây Vương ở Tứ Xuyên, cùng hai người khác được phong làm Bình Nam Vương và Tĩnh Nam Vương để bình định miền Nam.
Giai đoạn phát triển của v-ơng triều Mãn Thanh
Giống như triều đại Nguyên, nhà Mãn Thanh ban đầu không kỳ vọng vào sự ủng hộ từ người Hán, mà chủ yếu dựa vào bộ tộc của mình và một số bộ tộc anh em như Mông Cổ Tuy nhiên, nhà Thanh đã khéo léo sử dụng cả người Hán, Mãn và Mông để củng cố quyền lực, nhưng vẫn có những giới hạn nhất định trong việc này.
Trong triều đình, các chức vụ quan trọng thường được phân chia cho hai người, một người Mãn và một người Hán Mỗi bộ trong sáu bộ đều có một Thượng thư người Hán và hai Thị lang người Mông.
2 thị lang ng-ời Hán
Trong thời kỳ này, việc sử dụng thông ngôn trong nội các và lục bộ là rất cần thiết, với cả hai ngôn ngữ Hán và Mãn được áp dụng Các sĩ tử Hán thi đậu tiến sĩ được khuyến khích học tiếng Mãn tại viện Hàn Lâm, trong khi người Mãn cũng được khuyến khích học chữ Hán Đến khoảng năm 1670, nhiều cơ quan không còn cần thông ngôn nữa, và đến năm 1883, không còn Tiến sĩ Trung Hoa cũng như việc học tiếng Mãn Vua Khang Hy đã cho biên soạn một cuốn tự điển mang tên ông (Khang Hy tự điển) để hỗ trợ người Mãn, nhưng sau khi hoàn thành, cuốn từ điển này ít được sử dụng.
Thời kỳ Thanh theo chính sách Trung ương tập quyền, vua nắm giữ toàn bộ quyền lực, khiến các đại học sĩ và đại thần chỉ là những người thi hành mệnh lệnh của Hoàng đế Các quan thượng thư không thể trực tiếp ra lệnh cho cấp dưới, và 12 thượng thư cùng 24 thị lang chỉ có thể tâu riêng với vua mà không biết thông tin của nhau, dẫn đến việc họ không chịu trách nhiệm Trong thời kỳ đầu của các vua Khang Hy, Ung Chính và Càn Long, chính sách này có thể áp dụng hiệu quả do tình hình đất nước ổn định, nhưng về sau cần phải điều chỉnh nhiều hơn.
Nhà Thanh có đặc điểm nổi bật là không lập Thái Tử như các triều đại trước Vua Thuận Trị được tôn lên một cách lâm thời, trong khi Vua Khang Hy lên ngôi theo di chiếu Ông có tới 35 Hoàng tử và không rõ số lượng công chúa Khi Khang Hy quyết định lập Thái Tử theo truyền thống Trung Hoa, các Hoàng tử đã ghen ghét, hình thành bè phái và thậm chí có ý định mưu hại ông Một lần, Hoàng Tử Jun Jeng (Doãn Dung) đã tính kế sát hại vua cha, khiến Khang Hy phải kể tội với các quan và lăn xuống đất khóc lóc, khi đó ông đã trị vì được 50 năm.
Thấy chế độ lập Thái tử tai hại, hai lần ông lập Thái tử rồi phế đi Khi ông chết, Ung Chính lên ngôi nhờ sự ủng hộ của quân đội, dẫn đến loạn lạc giữa các anh em Ông phải tiêu diệt những kẻ tranh giành ngôi vua và quyết định lập Thái tử bằng cách chọn một người kế vị, ghi tên vào hộp phong kín Người kế vị ông là Càn Long, và các vua sau cũng theo cách này, ngoại trừ vua Đồng Trị Lệ lập Thái tử dựa vào con lớn của dòng họ chính đã tồn tại hơn 2500 năm từ đời Chu đến đầu Thanh, chỉ có một vua Mãn dám hủy bỏ Cải cách này được xem là tiến bộ, giúp đời Thanh có ít vua bất tài hơn so với các triều đại trước, mặc dù chế độ truyền tử vẫn còn nặng nề.
Chính chế ở các địa ph-ơng (18 tỉnh) thì theo nhà Minh không có gì thay đổi
* Khoa cử: vẫn theo nhà Minh, dùng văn bát cổ để tuyển nhân tài
Quân đội Binh chế phân chia thành hai hạng: kì binh và doanh binh Kì binh, với biểu tượng là cờ, bao gồm các thành viên từ nhiều dân tộc như Mãn, Mông và Hán, có nhiệm vụ bảo vệ kinh đô và thực hiện các nhiệm vụ chính trị Họ được đào tạo bài bản và chuyên sâu hơn so với các hạng khác trong quân đội.
Doanh binh thường được sử dụng để kiểm soát nội loạn, với các viên đô thống và tướng đều là người Mãn trong giai đoạn đầu Đến gần cuối triều đại, người Hán mới bắt đầu được sử dụng trong các vị trí này.
Thời kỳ Thanh đại, pháp luật được xây dựng dựa trên nền tảng của thời Minh, nhưng vẫn mang tính bất bình đẳng giống như thời Nguyên Trong hệ thống này, người Mãn hưởng nhiều đặc quyền nhất, trong khi người Hán lại bị đối xử thấp kém nhất.
+ Tông thất và kĩ nhân (ng-ời Mãn) do những cơ quan riêng xét xử và đ-ợc đổi hình phạt
+ Thuế: Cũng nh- đời Minh, phân bệt hai thứ: thuế điền và thuế đinh, sau đem thuế đinh san ra ruộng đất mà dùng chung
Năm 1712, Khang Hy đã ra chỉ thị rằng mức thuế sẽ dựa trên số liệu dân số được ghi trong sử sách năm 1711, với số đinh là 24.620.000 Dù dân số có tăng lên, mức thuế vẫn giữ nguyên Theo Eberhard, dân số năm 1710 ước tính khoảng 116.000.000 người, cho thấy cứ khoảng 5 người dân, bao gồm cả nam, nữ, người già và trẻ em, thì sẽ có một đinh.
Ngoài các loại thuế truyền thống như muối, đánh cá, trâu, ngựa, còn có thuế "li kim" áp dụng cho hàng hóa nhập khẩu và thuế "quan" đánh vào hàng hóa qua các cửa quan Những loại thuế này được áp dụng nhằm kiểm soát và quản lý hàng hóa từ nước ngoài vào, đồng thời tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước.
Nhà Mãn Thanh may mắn đ-ợc 3 ông vua giỏi nối tiếp nhau cầm quyền, tạo nên một thời thịnh trị dài trên 130 năm
Khang Hy lên ngôi khi mới 8 tuổi và trị vì trong 61 năm, nhưng đến 13 tuổi ông mới thực sự nắm quyền Ông được biết đến với trí thông minh, tài năng, kiến thức rộng rãi và tính cách cẩn thận Khang Hy sống giản dị, có tính tình khoan hòa, nhưng cũng rất can đảm và là một nhà lãnh đạo quân sự xuất sắc.
Lí Thế Dân, hay Đ-ờng Thái Tôn, được các học giả Ph-ơng Tây so sánh với triều đại Louis XIV về sự rực rỡ Ông sống cùng thời kỳ với Louis XIV (1638 – 1715) và rất coi trọng văn minh Trung Hoa, nhận được nhiều cảm tình từ sĩ phu Trung Quốc Bên cạnh đó, ông cũng có khả năng giỏi chữ Hán.
Ngoài việc biên soạn bộ Khang Hy tự điển, ông còn thu thập và biên soạn thêm ba chục loại sách khác, đặc biệt là toàn bộ tác phẩm của Chu Hy mà ông ngưỡng mộ Ông đã bố trí "Khai định đọ thù đ³i tập th¯nh" gồm 1 ván quyền và 100 triếu chữ, nhưng phải đến sau khi ông qua đời vào năm 1828, tác phẩm mới được in xong và chia thành 5000 tập Chưa có một vị vua Hán nào đạt được điều này Đối với người châu Âu, ông không có tâm lý kỳ thị; ngược lại, ông đã nhờ Verbiest giảng dạy về toán học, thiên văn học và nghệ thuật phương Tây.
Các tu sĩ Dòng Tên đã đến Trung Hoa để nghiên cứu văn hóa và truyền bá đạo Kitô Họ mang theo kiến thức khoa học để hỗ trợ triều đình, từ đó nhận được sự tín nhiệm từ vua và các đại thần Bằng cách tôn trọng các phong tục tập quán của Trung Hoa, họ cho phép tín đồ tiếp tục thờ Khổng Tử, coi ông như một nhân vật đại diện cho đạo đức chứ không phải là một vị thần.
Giai đoạn suy tàn và khủng hoảng của v-ơng triều Mãn Thanh
Dân quê ở nhiều nơi thường không chấp nhận thay đổi Bản chất con người giống như đất sét, có thể uốn nắn nhưng cần thời gian và sự kiên nhẫn Một chính quyền muốn tồn tại lâu dài, có thể lên tới hàng trăm năm, cần phải kiên quyết và vững vàng trong quyết định của mình.
“nặn” dân ra sao tợy ý, muỗn th¯nh lo¯i chọn, lo¯i c²o, hay lo¯i kiễn, lo¯i ông cũng đ-ợc hết Đó là một bài học lịch sử chăng?
1.3 Giai đoạn suy tàn và khủng hoảng của v-ơng triều mãn thanh
1.3.1 Nguyên nhân suy tàn và khủng hoảng của v-ơng triều Mãn Thanh
Cuối thế kỷ XIX, chế độ phong kiến Mãn Thanh rơi vào khủng hoảng và suy tàn do nhiều nguyên nhân Sự yếu kém trong quản lý nhà nước, áp lực từ các thế lực bên ngoài, cùng với các phong trào nổi dậy của nhân dân đã làm cho vương triều Mãn Thanh không còn khả năng duy trì quyền lực Những yếu tố này đã góp phần quan trọng vào sự sụp đổ của triều đại này.
* Nguyên nhân có tính chất chủ quan:
Kinh tế phong kiến đang đối mặt với khủng hoảng do quan hệ sản xuất lạc hậu và nền kinh tế tự nhiên tự cấp tự túc Sự lỗi thời của hệ thống này đã dẫn đến những bất cập trong xã hội phong kiến, gây ra những thách thức lớn cho sự phát triển kinh tế.
Chính quyền Mãn Thanh là một chế độ phong kiến chuyên chế, nơi mọi quyền lực tập trung vào tay quý tộc người Mãn Mặc dù triều đình thường tuyên bố về sự hòa hợp giữa Hán và Mãn, nhưng thực tế lại cho thấy họ thực hiện chính sách phân biệt và thù hằn giữa các dân tộc.
Tr-ớc khi chủ nghĩa t- bản ph-ơng Tây xâm nhập, trong xã hội Trung Quốc có hai mâu thuẫn chủ yếu:
- Mâu thuẫn giữa nhân dân Trung Quốc với triều đình Mãn Thanh
- Mâu thuẫn giữa nông dân với địa chủ
Vào thời điểm này, vua quan đã tìm mọi cách để cướp bóc và chiếm đoạt ruộng đất, dẫn đến tình trạng tham nhũng tràn lan trong nước Dân nghèo phải gánh chịu thuế nặng nề, trong khi quốc gia ngày càng lâm vào cảnh nghèo khó.
Hai nguyên nhân kinh tế và chính trị đã kích thích các cuộc đấu tranh liên tiếp tại Trung Quốc, nổi bật nhất là phong trào Thái Bình Thiên Quốc, Nghĩa Hòa Đoàn và Duy Tân Mậu Tuất Những phong trào này đã góp phần làm suy yếu vương triều Mãn Thanh, một triều đại tồn tại hơn 200 năm trong lịch sử Trung Quốc.
* Nguyên nhân có tính chất khách quan:
Chủ nghĩa tư bản đã chuyển sang giai đoạn đế quốc, dẫn đến việc các nước phương Tây gia tăng xâm lược thuộc địa tại châu Á, châu Phi và châu Mỹ, trong đó Trung Quốc trở thành mục tiêu hấp dẫn Anh là nước đi đầu trong việc xâm lược Trung Quốc, với cuộc chiến tranh thuốc phiện lần thứ nhất (1840 - 1842) buộc triều đình Mãn Thanh ký hiệp ước Nam Kinh (1842), đánh dấu hiệp ước bất bình đẳng đầu tiên mà Trung Quốc phải chấp nhận Sự kiện này mở đầu cho một loạt hiệp ước bất bình đẳng khác, khiến Trung Quốc rơi vào tình trạng nô dịch dưới sự kiểm soát của các nước phương Tây.
Tiếp theo Anh là Nhật Bản đã m-ợn sự kiện Quảng Đông Học Triều Tiên chính thức không tuyên mà chiến với Trung Quốc ngày 25/07/1894
Ngày 01/08/1894 Trung - Nhật chính thức tuyên chiến
Chiến tranh Giáp Ngọ đã dẫn đến sự thất bại thảm hại của triều đình nhà Nguyễn, với việc Từ Hy Thái hậu buộc phải ký kết "Điều ước Mã Quan Trung - Nhật", đánh mất quyền lực và chủ quyền quốc gia Trung Quốc trở thành vùng bán thực dân, đặt đất nước trước nguy cơ phân chia dân tộc và chia sẻ cho các vương quốc khác.
Việc ký kết "Điều ước Mã Quan" đã gây ra sự phản đối mạnh mẽ từ nhân dân và các tầng lớp xã hội trên toàn quốc, tạo điều kiện cho các nước đế quốc như Nga, Đức, Anh, Pháp, Mỹ và Tây Ban Nha xâu xé Trung Quốc Chính sách này thể hiện sự nô dịch Trung Quốc trong bối cảnh mới, dẫn đến việc đế quốc Đại Thanh liên tục mất thầy, mất đất, và từ đó, vương triều Mãn Thanh rơi vào tình trạng suy tàn và khủng hoảng.
1.3.2 Quá trình suy tàn và khủng hoảng của v-ơng triều Mãn Thanh
Sau khi Nhật Bản thua trong chiến tranh với các cường quốc, nhiều trí thức Trung Quốc đã nhận ra rằng nỗ lực tự cường trong hơn hai mươi năm qua không đủ để cứu đất nước Họ hiểu rằng cần phải cải cách từ gốc, thay đổi chế độ cũ và tổ chức lại triều đình Nếu không tiến hành cải cách chính trị, giảm bớt lãng phí trong xã hội và thay đổi cách tuyển quân, Trung Quốc sẽ không thể chống lại các cường quốc Điều này đã dẫn đến phong trào Duy Tân diễn ra trên toàn quốc.
Ng-ời đề x-ớng là Khang Hữu Vi và L-ơng Khải Siêu, đ-a ra khẩu hiếu l¯ “to¯n biễn, tỗc biễn” (thay đồi triết đề v¯ nhanh chõng)
Năm 1896, Khang dâng thỉnh nguyện thư cải cách và được Quang Tự chấp nhận Tất cả các đề xuất của ông đều được nhà vua đồng ý, bao gồm cải cách triều đình, thay thế văn bát cổ trong các kỳ thi bằng môn luật theo thời vụ, thành lập học hiệu, khuyến khích viết sách và phát minh, giảm bớt các nha thự ít việc, cải cách quân đội, lập ngân hàng, xây dựng đường sắt, khai thác mỏ, phát triển nông nghiệp và công nghiệp, thành lập hội buôn, mở rộng tự do ngôn luận và tìm kiếm nhân tài.
Trong chưa đầy ba tháng, hơn một trăm đạo chiếu được ban hành, gây xôn xao cả trong triều và ngoài xã hội Sự kiện này khiến mọi người bàn tán sôi nổi, từ những vấn đề lớn đến những chi tiết nhỏ.
Ngày 21 tháng 9 năm 1898, phái phong kiến do Từ Hy Thái hậu đứng đầu làm chính biến Bà ban lệnh cấm dâng th-, phế bỏ cục Quan Báo, đình chỉ việc lập học hiệu trung triều ở các tỉnh, các huyện; dùng lại lối văn tám vế để lựa kẻ sĩ, bỏ khoa thi dặc biệt về kinh tế; bỏ các tổng cục công nông, th-ơng, cấm báo quán, truy nã chủ bút …
Trong vòng hai tuần, toàn bộ các cải cách của Quang Tử đã bị hủy bỏ, bao gồm gói cải cách "Chính biến Mậu Tuất" (1898) và gói "Duy Tân 100 ngày" Đây là một sự thất bại lớn.
Cuối thế kỷ XIX, phong trào Nghĩa Hòa Đoàn bùng nổ với khẩu hiệu "Phù Thanh diệt D-ơng," nhằm tiêu diệt người Tây và bảo vệ đại Thanh Họ tổ chức luyện võ hàng ngày và đã đổi tên cơ quan sứ quán nước ngoài ở hẻm dân Đông.
Vài nét về tiểu sử của Từ Hy Thái hậu
Ngày 29 tháng 11 năm 1835 (tức ngày 10 tháng 10 năm Đạo
Quang thứ 15) Sáng sớm trong một dinh thự của một bộ tộc Mãn Thanh là Diệp Hách Na Lạp ở ph-ơng Gia Viên phía đông thành Bắc Kinh
Phú Sát thị, phu nhân của Diệp Hách Na Lạp Hụê Chinh, đang trong giai đoạn chuyển dạ, khi tuổi đời chỉ mới đôi mươi Tiếng kêu thất thanh của bà vang lên: “Ôi đau quá, đau chết mất thôi”, thể hiện nỗi đau đớn ngày càng tăng lên.
Bọn a hoàn xung quanh nhao nhao:
- Kính chúc lão gia may mắn, phu nhân sinh thiên kim tiểu th- (đứa trẻ đó chính là Từ Hy Thái hậu về sau)
Theo truyền thống của người Mãn Thanh, khi trẻ được 7 tháng tuổi, cha mẹ sẽ bày ra nhiều đồ vật xung quanh để trẻ tự do khám phá và cầm nắm, ngay cả khi trẻ chưa biết bò.
Trong các đồ vật ấy trẻ cầm vật nào thì sau này có thiên h-ớng về vật đó
Ví dụ: Nếu đứa trẻ cầm cái kéo thì sau này sẻ giỏi việc thêu thùa may vá
Hôm đó, Phú Sát thị để trên bếp một giỏ đầy kim chỉ, bút sách, son phấn, đồ trang sức quý, tiền và một bó hoa lan cho bé gái tự chọn Khi được đặt lên bếp, bé gái lập tức bò về phía những món đồ, nắm chặt hộp son phấn bằng một tay và bó hoa lan bằng tay còn lại.
Huệ Chinh nói: con a đầu này về sau chắc thích làm duyên, làm đẹp, chắc chắn sẽ yêu quý cái đẹp !
Và Phú Sát thị nói thêm: Ông xem nó nắm chặt bó hoa lan rồi Sau này chung ta sẽ gọi nó là Lan Nhi nhé !
Bọn a hoàn bên cạnh cũng đồng thanh nói :
- Tên là Lan Nhi hay lắm !
Nhũ danh của Từ Hy Thái hậu là Lan Nhi, và bà thường được mọi người gọi là Na Lạp thị Do bà sống ở tây cung, nên còn được biết đến với tên gọi Tây Thái hậu.
Trước khi Từ Hy Thái hậu lên nhiếp chính triều Thanh, bà đã được phong tặng danh hiệu cao quý "Hoàng Thái Hậu." Theo di chiếu, bà được miêu tả là hiền từ, hạnh phúc, công minh, ngay thẳng, khỏe mạnh, và có tính cách trang trọng, trung thực Sau khi qua đời, bà còn được ban thêm thụy hiệu "hiếu khâm" và "phối thiên hằng thánh hiển Hoàng hậu." Tuy nhiên, do danh hiệu quá dài và khó đọc, mọi người thường gọi bà đơn giản là Từ Hy Thái hậu.
Từ Hy Thái hậu đã ra lệnh cấm tất cả thị tòng và cung nữ trong cung không được gói b¯ l¯ Th²i hậu bằng hai kiểu gói “L±o tồ tông” hoặc “L±o phật gia” Điều này phản ánh sự nghiêm ngặt trong quy tắc của triều đại Thanh.
Ngoài ra bà không cho hoàng đế Quang tự gọi b¯ l¯ “mẫu hậu” m¯ ph°i gãi l¯ “phò ho¯ng”
Từ Hy Thái hậu, được biết đến với nhiều tên gọi khác nhau, là một trong những mỹ nhân tàn bạo nhất của Trung Hoa vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX.
Từ Hy, thuộc họ Na Lạp và dân tộc Diệp Hách, là một trong những dân tộc cổ nhất ở Mãn Châu Dân tộc này cư trú tại núi Trường Bạch, hiện nay thuộc tỉnh Cát Lâm, gần biên giới Triều Tiên, nơi được coi là cái nôi của Mãn Châu.
Từ nhỏ, Lan Nhi lớn lên ở vùng sông nước miền Nam, nơi có cảnh đẹp tuyệt vời Sự ảnh hưởng của thiên nhiên và văn hóa nơi đây đã hình thành nên một Lan Nhi không chỉ xinh đẹp như hoa mà còn thông minh xuất chúng Cô có khả năng làm thơ, viết từ, vẽ tranh, và tinh thông âm luật Bên cạnh đó, Lan Nhi cũng thành thạo Mãn văn, thuộc lòng kinh dịch, nho gia, và nhị thập tứ sử.
Là một thiếu nữ đa tài lại đẹp đẻ xinh t-ơi
Lan Nhi không chỉ sở hữu giọng hát trong trẻo và ấm áp, mà còn thể hiện tài năng xuất sắc qua những ca khúc miền Nam và các làn điệu dân ca, mang đến sự ngọt ngào và quyến rũ cho người nghe.
Chính điều đó là điều kiện quyết định để Lan Nhi tiến thân về sau
Từ Hy xuất thân từ dòng quý tộc Kỳ Tr-ơng Hoàng của người Mãn ở Mãn Châu, là con gái của Hoàng hậu Thanh Thái Tổ Nỗ Nhĩ Cáp Xích và mẹ của Hoàng Thái Cực, người kế thừa ngôi Hãn và trở thành Thanh Thái Tông, hoàng đế đầu tiên của vương triều Mãn Thanh Dòng họ Diệp Hách Na Lạp, nơi Từ Hy thuộc về, đã trở thành một trong những dòng họ hiển hách của dân tộc Mãn Từ Hy Thái hậu là thành viên của kỳ đứng đầu trong bát kỳ Mãn Châu, khẳng định vị thế của gia tộc bà trong vương triều Đại Thanh.
Tằng Tổ (cụ ông) là Cát Lang A đã từng làm quan viên ngoại bộ Hộ
Tổ Phu (ông) Cảnh Thủy đã từng là quan viên ngoại lang bộ Hình
Bố Huệ Chinh từng đảm nhận nhiều vị trí quan trọng trong chính quyền địa phương ở một số nơi và sau đó được bổ nhiệm làm Hữu bộ đạo viên tại Quảng Trị, Ninh Thuận, tỉnh An Hưng.
Từ Hy là con thứ ba trong gia đình, với hai anh trai là Chiếu T-ờng, người sau này trở thành Thống lãnh hộ quân, và Quế T-ờng, giữ chức Đô Thống và là cha của hoàng hậu Long Dụ, vợ vua Quang Tự Em gái của Từ Hy, Linh Nhi, kết hôn với Thuần Thân vương, là mẹ của vua Quang Tự.
Hy xuất thân từ một gia đình quan lại th-ờng th-ờng bậc trung
Từ khi còn nhỏ, Lan Nhi đã theo cha đi khắp Bắc Nam, tích lũy nhiều kiến thức và hiểu biết về các mánh khóe, thủ thuật nịnh bợ và gian trá trong môi trường quan trường.
Không lâu sau, cha của Lan Nhi, Huệ Chinh, qua đời khi còn đang làm việc, để lại mẹ Lan Nhi một mình nuôi dạy hai con trai và hai con gái Mẹ Lan Nhi đã phải gánh vác trách nhiệm nặng nề trong việc chăm sóc cả bốn người con, đồng thời lo liệu tang lễ cho Huệ Chinh.
An Huy về Bắc Kinh.
Quá trình tiến thân của Từ Hy Thái hậu
2.2.1 Quá trình xác lập vị trí trong cung của Từ Hy Thái hậu
Hơn 10 tuổi, Lan Nhi đã nổi tiếng tuyệt mỹ Từ bé nàng đã theo phụ thân vào chốn quan tr-ờng nên biết nhiều hiểu rộng Nàng thích đọc sách sử và ngâm vịnh, tuy không thể so tài với Tạ Đạo Uẫn (smột nữ sĩ nổi tiếng về thơ văn cổ Trung Quốc) nh-ng cũng thể nói là nữ nhân hiếm có Lan Nhi lại có tài ăn nói lanh lợi, đặc biệt giỏi các khúc ca ph-ơng nam, phàm có bài nào mới thịnh hành đều thuộc lòng hễt, cất tiễng h²t tuyết hay” Nhộ t¯i m³o song toàn nàng ôm mộng một ngày đ-ợc hiển vinh nơi quyền quý
Ngày ấy rồi cũng đến!
Năm 20 tuổi, Dịch chủ lên ngôi vua với niên hiệu Hàm Phong, được gọi là Hàm Phong Hoàng đế Ông lập Nữu Hữu Hộ lộc thị làm Hoàng hậu và tuyển chọn nhiều mỹ nữ vào cung Trong số đó, Lan Nhi, 17 tuổi, xinh đẹp như hoa, nổi bật với vẻ đẹp tựa ngọc Theo quy định của triều đình nhà Thanh, cung nữ không được tuyển người Hán, và Lan Nhi là con gái của một gia đình quan lại thuộc Bát.
Kỳ (Mãn tộc) nên đủ t- c²ch v¯ nghĩa vũ đi dữ “tuyền tủ nừ”
Trong 60 ng-ời con gái Bát Kỳ đ-ợc sơ tuyển vào cung, Hoàng th-ợng dùng bút đỏ khuyên tròn tên 28 ng-ời, Lan Nhi là một mỹ nữ đ-ợc nhà vua lựa chọn.Địa vị cung nữ chỉ là ng-ời hầu trong cung, phi tần mới là cơ thiếp (vợ bé) của Hoàng đế, Lan Nhi đ-ợc chọn là tú nữ
Quả nhiên ngày 2 tháng 2, Lan Nhi đ-ợc báo trúng tuyển, đ-ợc Hoàng th-ợng lập tức phong là Lan quý nhân
Theo tài liệu từ phủ nội vụ Triều Thanh, vào ngày 28 tháng 2 năm Hàm Phong thứ 2, có bản tấu ghi nhận rằng vào ngày 11 tháng 2, Hoàng đế đã tuyên bố rằng Lan quý nhân sẽ được vào đại nội vào ngày 9 tháng 5.
Ngày nhập cung cũng đ-ợc xác định là ngày mồng 8, mồng 9 tháng hai năm Hàm Phong thứ 2
Lan Nhi, với tài năng trang điểm thiên bẩm, càng trở nên xinh đẹp lộng lẫy hơn khi vào cung Ban đầu, nàng chỉ là một kẻ hầu ở Khôn Ninh Cung, nơi ở của Hoàng hậu Nữu Hộ Lộc thị Nàng chăm chỉ thức khuya dậy sớm, làm việc với thái độ khiêm tốn, nói năng cẩn thận và nhanh nhẹn, trong lòng luôn ấp ủ giấc mơ được Hoàng đế chú ý Nhờ sự nỗ lực này, Lan Nhi dần nổi bật trong số các khuê tú trong cung, hiểu rằng để vượt lên trên người khác, nàng cần phải được Hoàng thượng sủng ái.
Trong bối cảnh rối ren của cuộc khởi nghĩa Thái Bình Thiên Quốc, vua Hàm Phong lo lắng và không còn tâm trí để chú ý đến vẻ đẹp của Lan Nhi Dù cảm thấy đau khổ và thất vọng vì tình cảm không được đáp lại, Lan Nhi vẫn quyết tâm kiên trì theo đuổi tình yêu của mình.
S²ch “ thanh cung di v¨n “ câ ®o³n viÔt:
Trong bối cảnh quân đồng minh Anh – Pháp chưa đến, vườn viên Minh vẫn thịnh vượng với sự xuất hiện của nhiều cung nữ, trong đó có Na Lạp thị Tuy nhiên, tình hình ngày càng nguy cấp khi quân Thanh liên tục thay đổi binh lực Hoàng đế Hàm Phong không còn chú tâm vào việc quốc gia, mà chỉ mải mê vui chơi cùng các cung nữ Một lần, khi đi qua “đọng âm thâm sử”, ông nghe thấy tiếng hát trong trẻo của Lan Nhi, khiến ông dừng lại lắng nghe Lan Nhi, với vẻ đẹp mảnh mai và giọng hát ngọt ngào, đã thu hút sự chú ý của Hàm Phong, dẫn đến việc cô được phong làm quý nhân và trở thành người được sủng ái.
Cuối đội Tú Hy Thái hậu từng chia sẻ: “Khi mới vào cung, mọi người đều ghen tị với sắc đẹp của ta Cuối cùng, ta đã chiến thắng tất cả, Hoàng đế chỉ sủng ái ta, không để ý đến ai khác.” Lan Nhi, với sự khéo léo của mình, đã nỗ lực lấy lòng mọi người, đồng thời nhờ cậy viên thái giám chỉ lo “quan tâm chiếu cố”, từ đó nàng đã có cơ hội gặp gỡ Hoàng hậu và cũng được Hoàng Thái hậu yêu mến.
Lan Nhi, với nhiều thủ đoạn và mưu kế, đã chiếm được lòng Hàm Phong Bắt đầu từ năm thứ hai của triều Hàm Phong, Từ Hy được phong làm Lan quý nhân, và chỉ ba năm sau, cô được thăng cấp thành Tần và được Hoàng đế yêu thương Thời gian trôi qua, Lan Nhi mang thai và sinh ra một Hoàng tử, Tải Thuần, con trai duy nhất của Hàm Phong, sau này trở thành Mục Tông Hoàng đế Đồng Trị Nhờ con trai, Lan Nhi được phong lên quý phi, và từ đó, cô ngày càng trở nên kiêu ngạo Khi Hàm Phong yếu đuối, Lan Nhi thường ở bên cạnh và đọc tấu chương, giúp cô nắm bắt tình hình triều chính và học hỏi cách xử lý công việc, tạo nền tảng cho việc nắm quyền sau này.
2.2.2 Từ Hy Thái hậu với việc buông rèm nhiếp chính lần thứ nhất
Sau chiến tranh thuốc phiện lần thứ nhất năm 1840, Trung Quốc đã bị mở cửa bởi chủ nghĩa đế quốc Cách mạng nông dân đã làm rung chuyển nền tảng thống trị của triều đại Mãn Thanh Năm 1854, Mỹ, Anh và Pháp đề nghị nhà Thanh sửa đổi hiệp ước Nam Kinh Đến tháng 9 năm 1856, quân Anh tấn công Quảng Châu, và năm sau, quân Anh, Pháp liên minh với sự xúi giục của Nga và Mỹ đã đánh chiếm Mãn Châu.
Tháng 4 năm Hàm Phong thứ 8 (1858) quân xâm l-ợc tấn công pháo đ¯i Đ³i Cô, ²p s²t tỡi Thiên Tânv¯ bãt ký “ Điẹu ưỡc Thiên Tân “vỡi Nga Tháng 5 (Tây lịch l¯ th²ng) Trung Quỗc ph°i ký “ Điẹu ưỡc Thiên Tân “ vỡi Nga, ng¯y 11 (Tây lịch l¯ ng¯y 24 th²ng 10) v¯ ng¯y 12 th²ng 9 ký “Bãc Kinh điẹu ưỡc “vỡi Anh, Ph²p đọng thội phê chuẩn c°“Thiên Tân điẹu ưỡc“ Nối dung chù yễu cùa “Bãc kinh điẹu ưỡc“ l¯ mở cửa thông th-ơng ở cửa Thiên T©n
Chính phủ Trung Quốc đã chấp nhận chiêu mộ công nhân người Hoa ra nước ngoài và cắt một phần đất Cửu Long giao cho nước Anh, đồng thời trao trả tài sản và nhà thờ Thiên Chúa, bồi thường chiến phí 800 vạn lượng cho Anh và Pháp Nước Nga cũng tham gia vào việc này, buộc triều đình Mãn Thanh phải ký "Trung Nga điệu ước", cắt một phần lãnh thổ giao cho họ Cuộc chiến tranh nha phiến lần thứ hai đã khiến Trung Quốc mất thêm chủ quyền lãnh thổ, với liên quân Anh - Pháp bạo ngược hoành hành tại Bắc Kinh, đặc biệt là hành động thiêu hủy Viên Minh.
Tin tức từ hành cung Nhiệt Hà cho biết, Hoàng Đế Hàm Phong, do sức khỏe yếu kém và tâm trạng buồn bã, đã bị cơn đau tim và thổ huyết, dẫn đến tình trạng liệt giường.
Bệnh tình của Hàm Phong ngày càng nặng, khiến triều đình Đại Thanh phải đối mặt với vấn đề kế vị Con trai độc nhất của Hàm Phong mới chỉ 6 tuổi, rõ ràng không đủ khả năng làm Hoàng đế Hai nhân vật có khả năng kế vị cao nhất là cung thân Vương Dịch Hân, em cùng cha khác mẹ của Hàm Phong, hiện đang ở Bắc Kinh Dịch Hân không chỉ thông minh và dũng cảm mà còn là con trai thứ 6 của hoàng đế Đạo Quang, người từng có ý định lập Dịch Hân làm Hoàng đế nhưng sau đó lại chọn lập thành Hoàng Thái tử do tính nhân từ của Dịch Hân.
Dịch Ninh lên ngôi tức Hoàng đế Hàm Phong Hàm Phong cạnh giác không tín nhiệm Dịch Hân Nh-ng Dịch Hân t-ơng đối có thế lực
Túc Thuận, em họ của hoàng đế Hàm Phong, là người được hoàng đế tín nhiệm trong thời điểm khó khăn Trong lúc nằm trên giường bệnh tại hành cung Nhiệt, Hàm Phong phải quyết định ai sẽ được trao quyền lực.
Những năm cuối đời của Từ Hy Thái hậu
Cuối thế kỷ XIX, phong trào Nghĩa Hòa Đoàn bùng nổ với khẩu hiệu "Pháo Thanh diệt Dương", nhằm chống lại sự xâm lược của phương Tây Từ Hy Thái hậu đã lợi dụng phong trào này để trừng trị các lực lượng ngoại bang Bà triệu tập bốn cuộc Hội nghị ngự tiền và vào ngày 21 tháng 6 năm 1900, chính thức tuyên chiến với các quốc gia phương Tây.
Quyết tâm tấn công sứ quán các nước phương Tây, Đoàn Dân Nghĩa Hòa Đoàn đã trở về Bắc Kinh Tuy nhiên, do thiếu vũ khí tốt, họ không thể thực hiện kế hoạch tấn công hiệu quả vào các sứ quan này.
Chỉ vì nôn nóng, muốn chỉ trong vòng mấy ngày đánh bại bọn tây dương đ²ng ghẽt m¯ b¯ “ L±o Phật Gia thanh minh” đ± mãc lúa th°m hại –
Bà thấy rỏ nếu cứ nh- vậy thì vô cùng nguy hiểm
Từ Hy Thái hậu đã ra lệnh ngay lập tức ngừng cuộc tấn công vào các sứ quán của các nước phương Tây Tuy nhiên, quyết định này đã đến quá muộn khi liên quân 8 nước, bao gồm Anh, Pháp, và Mỹ, đã bắt đầu hành động.
Nga, Nhật, Đức, Ý và Áo đã tiến quân vào Thiên Tân, hướng về Bắc Kinh Từ Hy Thái hậu đã dẫn vua Quang Tự cùng các cung tần, thái giám, thị tùng và các đại thần văn võ rời khỏi Bắc Kinh.
Sau khi Bát quốc liên quân tấn công Bắc Kinh và yêu cầu bồi thường chiến phí, Từ Hy Thái hậu đã hoàn toàn khuất phục trước sức ép của các cường quốc phương Tây.
Bài học lịch sử đau thương đã giúp nhân dân Trung Quốc nhận thức rõ về Từ Hy Thái hậu Dưới sự lãnh đạo của Tôn Trung Sơn, phong trào cách mạng tư sản và phong trào yêu nước chống đế quốc đã mạnh mẽ tấn công vào nền tảng thống trị phong kiến của triều đình Mãn Thanh Các nhà cách mạng thuộc giai cấp tư sản đã thành lập nhiều tổ chức như Hội Hồng Trung, Hội Hoa Hồng, và Hội Quang Phục, sau này liên hiệp thành Hội Đồng Minh Cương lĩnh của Hội Đồng Minh nhấn mạnh mục tiêu "đánh đuổi giặc Thát, khôi phục Trung Hoa, xây dựng quốc gia độc lập, bệnh quân địa quyền", thể hiện rõ chủ trương lật đổ vương triều Mãn Thanh và diệt trừ đế chế.
Trước tình hình căng thẳng, Từ Hy Thái hậu đã triệu tập hội nghị đại thần nhằm chuẩn bị cho việc áp dụng chế độ quân chủ lập hiến Bà phái năm đại thần, gồm Tại Trạch, Đồng Tự, Đoan Phương, Từ Thế Xương, và Thiệu Anh, đi Phương Tây để khảo sát Mục tiêu của Từ Hy là đưa ra ý tưởng “quân chủ lập hiến” nhằm xoa dịu phong trào cách mạng đang dâng cao, nhưng có vẻ như đã quá muộn.
Những người cách mạng không để mình bị lừa dối lần nữa Mục tiêu của cuộc cách mạng Tân Hợi là lật đổ Từ Hy Thái Hậu và chấm dứt sự thống trị của triều đại Mãn Thanh.
Trong bối cảnh cách mạng đang diễn ra sôi sục, Từ Hy Thái hậu rơi vào trạng thái hoảng loạn và đau buồn, dẫn đến tình trạng sức khỏe suy yếu Nhận thức được thời gian sống của mình không còn nhiều, bà đã quyết tâm gây áp lực lên vua Quang Tự, không muốn để ông chết trước mình Do đó, Từ Hy ra lệnh nhằm kiểm soát tình hình.
Vào tháng 11 năm 1908, bệnh tình của vua Quang Tự ngày càng trở nặng và không còn cách nào cứu chữa Một ngày trước khi qua đời, Từ Hy đã sai người cho thuốc độc vào thức ăn của ông Cuối cùng, vào ngày 14 tháng 11, vua Quang Tự đã qua đời ở tuổi 38.
Ngày 15 tháng 11 Từ Hy Thái hậu tranh thủ thời gian lập Phổ Nghi, con trai của Tại Bảng mới lên 3 tuổi lên ngôi Hoàng đế Mẹ đẻ của Phổ Nghi là thân tín của Từ Hy, con gái lên hung thủ đã đàn áp dã man phong trào Duy Tân Vinh Lộc Từ Hy muốn đền đáp công lao mà Vinh Lộc đã lập đ-ợc cho mình Chu đáo đến nh- vậy! Từ Hy đã chỉ định cha đẻ của Tại Bảng làm Nhiễp chính Vương, nhưng l³i h³ th²nh dũ: “Nhiễp chính vương ph°i tuân theo huấn thị cùa ta m¯ xụ lý viếc nưỡc”[21, 423] Tú Hy vẫn muỗn vĩnh viển khống chế v-ơng triều Mãn Thanh, bất cứ ai khác cũng phải chỉ có cái danh hão! Nh-ng vị thần số mệnh không để lại cho ng-ời đàn bà nanh ác ấy một cơ hối n¯o nừa Chiẹu ng¯y 15 th²ng 11, Tú Hy hấp hỗi, vối h³ th²nh dũ: “Tú nay, viếc n-ớc hoàn toàn giao cho giám quốc nhiếp chính v-ơng xử lý Nếu có việc quan tróng, ph°i bẩm c²o vỡi long dũ Th²i hậu rọi định đo³t”[21, 423] Long dũ Th²i hậu tức là Hoàng hậu của vua Quang Tự, là cháu gọi Từ Hy bằng cô, là tai mắt nội tuyến mà Từ Hy đã bố trí để giám sát Quang Tự Cho mãi đến lúc chết Từ Hy vẫn không quên quyền lực
Từ Hy Thái hậu đã hoàn tất mọi công việc và qua đời vào chiều ngày 15 tháng 11, đánh dấu sự kết thúc của 48 năm thống trị Tang lễ của bà được tổ chức theo nghi thức dành cho Hoàng đế Trong những năm cuối đời, bà còn chú trọng xây dựng phần mộ của mình, với thị vệ và cung nữ canh giữ ngày đêm sau khi an táng.
Ba năm sau khi bà chết, khởi nghĩa Võ X-ơng tuyền báo cáo, v-ơng triều phong kiến cuối cùng của Trung Quốc kết thúc
Ch-ơng 3: thái độ của từ hy thái hậu đối với một số phong trào yêu n-ớc ở trung quốc cuối thế kỷ xix
Từ Hy Thái Hậu, quý phi của Hoàng đế Hàm Phong Văn Tông triều Thanh, là mẹ của Hoàng đế Đồng Trị và dì của Hoàng đế Quang Tự.
Bà đã sử dụng thủ đoạn để phát động chính biến Tân Tây, từ đó lén lút theo dõi chính sự và thao túng quyền lực trong hai triều đại Đồng Trị và Quang Tự, kéo dài thời gian cầm quyền.
Trong suốt 48 năm nắm quyền, Tây Thái hậu trở thành một nhân vật lịch sử quan trọng, không chỉ đối với Trung Quốc mà còn ảnh hưởng đến các quốc gia xung quanh Bà đã lãnh đạo triều đình trong bối cảnh diễn ra ba cuộc chiến tranh lớn: Chiến tranh Trung - Pháp, Chiến tranh Trung - Nhật và cuộc xâm lược của tám nước liên quân, dẫn đến việc triều Thanh ký kết những hiệp ước nhục nhã, mất quyền lợi và lãnh thổ Dù phải đối mặt với nhiều khó khăn khi đã ở tuổi 50, 60, và 70, Tây Thái hậu vẫn tổ chức các lễ chúc thọ để thể hiện quyền lực và danh vọng cá nhân Cuộc đời bà nổi bật với những biến động chính trị và lối sống xa hoa, nhưng vẫn luôn tôn vinh chủ quyền của đất nước.
Bà ngồi lên ngai vàng, lúc ẩn lúc hiện về sau khi nắm thực quyền đã dẫm lên hàng triệu xác chết
Ch-ơng Thái Viêm, nhân sĩ cách mạng giai cấp t- sản đã từng làm một câu liễn đối:
"Kim nhật đáo Nam uyển, minh nhật đáo Bắc hải, hà nhật tái đáo cổ Tr-êng An?
Thán lê dân cốt huyết toàn khô chỉ vi nhất nhân ca khánh hữu
Ngũ thập cắt L-u Cầu, lục thập cắt Đài loan, nhi kim hữu cắt Đông tam tinh!
Thống Xích huyện bang kỳ ích thích, mỗi phùng vạn thọ chúc c-ơng vô"
Thái độ của Từ Hy Thái hậu đối với phong trào Thái Bình Thiên Quèc
Cuộc cách mạng Thái Bình Thiên Quốc là một cuộc chiến tranh nông dân vĩ đại diễn ra vào giữa thế kỷ XIX, nhằm chống lại phong kiến và xâm lược Sau chiến tranh Nha Phiến, mâu thuẫn xã hội Trung Quốc trở nên sâu sắc hơn bao giờ hết, khi toàn bộ chi phí quân sự lên tới 70 triệu đồng và bồi thường cho nước ngoài 20 triệu đồng đều đè nặng lên vai nông dân và người lao động.
Sự bóc lột nặng nề từ nhiều cấp quan lại và giai cấp địa chủ đã khiến gánh nặng của người nông dân vượt xa mức thuế quy định Thêm vào đó, tình trạng lạm phát và thiên tai liên tục gây mất mùa đã đẩy phần lớn người dân vào cảnh nghèo đói, sống trong điều kiện bi thảm.
Nông dân đã đồng loạt đứng lên phản kháng, tạo nên làn sóng mạnh mẽ lan rộng khắp cả nước, với cuộc đấu tranh ở Lưỡng Quảng và Hồ Nam diễn ra quyết liệt nhất Trong bối cảnh đó, cuộc cách mạng Thái Bình Thiên Quốc đã bùng nổ tại Quảng Tây.
Ngày 11 tháng Giêng năm 1851, Hồng Tú Toàn lãnh đạo hơn hai vạn quần chúng đứng lên khởi nghĩa ở thôn Kim Điền, huyện Quế Bình Hiệu là
"Thái Bình Thiên Quốc" quân đội gọi là "Thái Bình quân", Hồng Tú Toàn đ-ợc lập làm" Thiên V-ơng"
Vào tháng 9, Thái Bình quân đã tiến công Vĩnh An (hiện nay là huyện Mộng Sơn) Hồng Tú Toàn đã bổ nhiệm Dương Tú Thanh làm Đông Vương, Tiêu Triều Quý làm Tây Vương, Phùng Vân Sơn làm Nam Vương, Vi Xương Huy làm Bắc Vương, và Thạch Đạt Khai làm Dực Vương Đồng thời, lực lượng đã xác định kỷ luật và chỉnh đốn đội ngũ, chuyển đổi âm lịch sang Thiên lịch, đánh dấu bước đầu trong việc thành lập chính quyền cách mạng.
Quân cách mạng Thái Bình đã công bố các cáo văn với nội dung quan trọng như "phụng thiên tru yêu cứu thế an dân dụ", thể hiện sứ mệnh trừ khử yêu quái và bảo vệ dân chúng Đồng thời, họ cũng tuyên bố "phụng thiên thạo hồ hịch bố tứ phương dụ", nhằm hỏi tội quân giặc Thanh và truyền đạt thông điệp đến bốn phương Qua đó, họ khẳng định quyết tâm "Dụ cứu nhất thiết Thiên sinh, thiên dưỡng", thể hiện lòng yêu nước và trách nhiệm với nhân dân.
Cứu lấy mọi người đã kêu gọi nhân dân chiến đấu lật đổ vương triều nhà Thanh và nhận được sự ủng hộ đông đảo Nhiều người đã xin gia nhập và đóng góp sức lực, với hàng nghìn người tham gia mỗi ngày Thái Bình quân nhanh chóng lớn mạnh ở vùng Ích Dương Nhạc Châu, thu được nhiều thuyền bè của Pháp và thành lập thuỷ quân Đại quân tiến lên theo hai đường thuỷ, tạo thế mạnh như chẻ tre.
Vào tháng Giêng năm 1853, quân Thái Bình chiếm hạ thành Vĩnh X-ơng và vào tháng 3 cùng năm, họ chiếm Nam Kinh, đổi tên thành Thiên Kinh và thiết lập nơi đây làm Đô Thành Ngay sau khi xây dựng kinh đô, Thái Bình quân đã ban hành "Chế độ điền mẫu của Thiên Triều", xóa bỏ chế độ sở hữu ruộng đất phong kiến và phân chia ruộng đất đồng đều cho mọi người Họ cũng thực hiện chính sách bình đẳng giới, cấm mua bán phụ nữ và nữ tỳ.
Trong lĩnh vực đối ngoại, chúng ta cần duy trì chính sách độc lập và tự chủ, bác bỏ mọi thỏa hiệp bất bình đẳng, cấm buôn bán thuốc phiện và kiên quyết phản đối sự xâm lược từ nước ngoài Những biện pháp này sẽ góp phần thúc đẩy mạnh mẽ ý chí chiến đấu của nhân dân.
Mùa hè năm 1856 đánh dấu thời kỳ hưng thịnh quân sự của Thái Bình Thiên Quốc Tuy nhiên, trong bối cảnh thuận lợi đó, "sự biến Thiên Kinh" đã diễn ra, dẫn đến những cuộc tàn sát lẫn nhau.
"Sự biến Thiên Kinh" đã gây ra hậu quả nghiêm trọng đối với sự nghiệp cách mạng của Thái Bình Thiên Quốc, dẫn đến việc chuyển sang giai đoạn phòng ngự Trong giai đoạn này, chiến lược bảo vệ gặp nhiều khó khăn và thách thức.
Ngày 3 tháng 6 năm 1864, Hồng Tú Toàn ốm chết Ngày 19 tháng 7, Thiên Kinh bị vây khốn, Thái Bình Thiên Quốc thất bại
Trước tình hình khủng hoảng, triều đình nhà Thanh dưới sự lãnh đạo của Từ Hy Thái hậu đã thực hiện nhiều chính sách nhằm đàn áp phong trào nông dân Thái Bình Thiên Quốc Mặc dù cuộc cách mạng này bắt đầu vào năm 1851 dưới triều vua Hàm Phong, nhưng chỉ đến năm 1861, sau sự kiện chính biến Thừa Đức, Từ Hy Thái hậu mới nắm quyền thực sự Cuộc cách mạng thất bại vào năm 1864, nhưng trong khoảng thời gian ngắn ngủi đó, Từ Hy Thái hậu đã thể hiện sự tàn bạo trong chính sách đối nội và đối ngoại, sử dụng quân đội kết hợp với sự can thiệp của nước ngoài để dập tắt phong trào.
Vào khoảng tháng 7 và tháng 8 năm 1860, quân xâm lược nước ngoài đã bắt đầu can thiệp vũ trang vào cuộc cách mạng Thái Bình Thiên Quốc tại vùng Thượng Hải Thời điểm đó, quân Anh và Pháp đang tiến hành chiến tranh xâm lược ở Hoa Bắc, và "Điều ước Thiên Tân" vẫn chưa được thực hiện, dẫn đến sự nghi kỵ giữa họ và chính phủ triều Thanh Đến tháng 10 năm đó, "Điều ước Bắc Kinh" đã được ký kết, chính thức chấm dứt cuộc chiến tranh thuốc phiện lần 2, đồng nghĩa với việc quân xâm lược đã kiểm soát chính phủ triều Thanh và coi những đặc quyền mở cửa khẩu ở Trường Giang là lợi ích đạt được, khiến cho sự can thiệp vào cuộc cách mạng Thái Bình Thiên Quốc càng trở nên mạnh mẽ hơn.
Cung Thân Vương Dịch Hân, em ruột của vua Hàm Phong, đã chủ trì việc ký kết "Điều ước Bắc Kinh" với các lực lượng xâm lược nước ngoài Sau khi vua Hàm Phong qua đời, ông trở thành Nghị chính vương và cho rằng kẻ xâm lược chỉ là "thương tật ở tay chân", trong khi Thái Bình Thiên Quốc mới thực sự là mối đe dọa chính.
Bệnh hoạn trong phủ tạng đã khiến cho những kẻ xâm lược phải tìm cách "ngầm tỏ liên lạc" để thiết lập mối quan hệ, nhằm cùng nhau đối phó với tình trạng này Do đó, bọn xâm lược đã nhận được sự tán thưởng từ những người đồng minh trong cuộc chiến này.
Tăng Quốc Phiên đã nhấn mạnh rằng việc người phương Tây tình nguyện giúp đỡ trong việc đối phó với tiểu phỉ là điều nên được trân trọng, và phía Trung Quốc không nên làm phật lòng họ Âm mưu "mượn quân đánh bộ" thể hiện sự liên kết giữa việc mượn lực lượng nước ngoài để tàn sát nhân dân Trung Quốc dưới sự thống trị của nhà Thanh, đồng thời phản ánh sự can thiệp của các nước phương Tây vào công việc nội bộ của Trung Quốc.
Thái độ của Từ Hy Thái hậu đối với phong trào Nghĩa Hoà Đoàn
Vào những năm 90 của thế kỷ XIX, phong trào chống đế quốc phong kiến tại Trung Quốc tiếp tục phát triển mạnh mẽ, với điểm nhấn là phong trào Nghĩa Hoà Đoàn.
Cuối thế kỷ XIX, các nước đế quốc hung hăng xâm lược Trung Quốc và các quốc gia lân cận, đặc biệt sau chiến tranh Giáp Ngọ Về kinh tế, các nước này đầu tư mạnh vào Trung Quốc, trong khi về chính trị, chúng cường chiếm các khu tô giới và phân chia phạm vi thế lực Văn hóa cũng bị xâm nhập qua các giáo hội, ảnh hưởng đến cả nông thôn lẫn thành phố, đe dọa sự độc lập của dân tộc Nhiều lần, ngoại nhân đã cắt xẻo những vùng đất màu mỡ mà tổ tiên để lại.
Từ Hi Thái hậu cảm thấy đau xót khi bị can thiệp vào việc trị nước của mình và bị xúi giục bởi những kẻ thù địch khiến thần dân nổi loạn Sự tức giận của bà ngày càng gia tăng, dẫn đến những quyết định sai lầm Bà quyết tâm tiêu diệt tất cả những kẻ "bạch quỉ" trên toàn cõi Trung Hoa.
Một cơ may đ-a tới, ở phía bắc sông D-ơng Tử, vẫn có một hội kín của nông dân: Bạch liên giáo, Bát qoái giáo ngấm ngầm hoạt động
Một d- phái của Bạch liên giáo dấy lên ở Sơn Đông tự x-ng là Nghĩa Hoà Đoàn
Phong trào Nghĩa Hoà Đoàn phát triển từ Nghĩa Hoà Quyền, một hội kín trong dân gian có xu hướng chống triều đình Mãn Thanh thời Càn Long, bị coi là "tà giáo" và cấm hoạt động Năm 1898, chính quyền nhà Thanh đã gọi Nghĩa Hoà Quyền là Nghĩa Hoà Đoàn Thực chất, Nghĩa Hoà Đoàn là phong trào quần chúng chống đế quốc và phong kiến, tập trung xung quanh Nghĩa Hoà Quyền.
Nghĩa Hoà Đoàn thực hiện các nghi lễ như đeo bùa, đọc chú, và lập đoàn cầu nguyện, đồng thời luyện tập côn quyền Họ còn sử dụng một lớp giấy dày "hai ngón tay" để độn ngực và bụng, với niềm tin rằng điều này sẽ tạo ra sự che chở, giúp súng đạn không xuyên thủng Dân chúng rất tin tưởng vào những phương pháp này.
Vào mùa thu năm 1898, sông Hoàng Hà đã vỡ đê, gây ra lũ lụt lớn ở miền Sơn Đông, khiến người dân rơi vào cảnh đói khổ Trong bối cảnh đó, Nghĩa Hoà Đoàn đã kéo lên phía Bắc Kinh và Sơn Tây, hành động như những băng nhóm giang hồ, biểu diễn múa kiếm và đấu quyền để gây quỹ giúp đỡ dân chúng.
Trước Thế chiến vừa rồi, ở Nam Việt, các chợ tỉnh thường có bọn "Sơn Đông mãi võ" biểu diễn và bán thuốc hoàn để trị gãy tay, trật gân, thể hiện sức mạnh và truyền thống tổ tiên Nghĩa Hoà Đoàn đi khắp nơi, thấy nhiều giáo dân được cha cố bảo vệ, sống no đủ nhưng lại ức hiếp dân lành, cùng với sự khinh thị của một số dương nhân đối với người Trung Hoa khiến họ phát sinh lòng thù ghét KiTô giáo và người da trắng Họ tuyên truyền rằng võ tướng Quan Công đã báo mộng về sự diệt vong của dương nhân, khiến dân chúng tin tưởng vào điều này, ngay cả một số quan lớn trong triều đình cũng bị thuyết phục Từ Hy, mặc dù có một số triều thần sáng suốt, nhưng không dám lên tiếng vì sợ sự trừng phạt của "Phật bà", đã nghe theo lời Thái giám Lý Liên Anh, lợi dụng Nghĩa Hoà Đoàn để hứa hợp tác tiêu diệt dương nhân.
Đoàn Nghĩa Hoà, sau 10 năm phát triển từ Sơn Đông đến Hà Bắc, thu hút sự tham gia của cả nam và nữ với khẩu hiệu "Nam luyện đoàn Nghĩa Hoà, nữ luyện đèn chiếu đỏ" Đến giữa tháng 4 và tháng 5 năm 1900, khu vực Thiên Tân và Bắc Kinh trở thành căn cứ của đoàn Nghĩa Hoà, với hơn 50.000 người ở Thiên Tân và 100.000 người ở Bắc Kinh tham gia Họ luyện võ hàng ngày, đổi tên các địa danh để thể hiện quyết tâm chống lại quân xâm lược, treo cờ và hô vang khẩu hiệu "giết Giặc Tây", khiến kẻ thù khiếp sợ Đoan quận vương Tải Y, với mong muốn con trai lên ngôi Hoàng đế, đã lợi dụng sức mạnh của đoàn Nghĩa Hoà để bảo vệ Hoàng đế Quang Tự và đạt được mục đích chính trị của mình.
Lý Liên Anh đã khuyên Tây Thái hậu công khai thừa nhận đoàn Nghĩa Hoà là nghĩa quân để lợi dụng họ chống lại người Tây Từ Hy Thái hậu nhận thấy người Tây không còn là đồng minh, họ đã bảo vệ hoàng đế Quang Tự trong việc sửa đổi pháp chế nhưng lại phản đối việc phế truất bà Dù trong lòng lo lắng về sự hỗn loạn có thể xảy ra, bà vẫn cố gắng đối phó với họ Để thúc đẩy Từ Hy Thái hậu khai chiến, Tải Y đã giả mạo một công sứ nước ngoài để gây áp lực, yêu cầu bà trả lại chính sự cho Hoàng thượng và phế bỏ Đại a ca, hứa hẹn sẽ cung cấp một vạn lính Tây Từ Hy Thái hậu không nhận ra sự giả dối, nổi giận và ban hành chỉ dụ bất chấp lời khuyên của Hoàng đế Quang Tự và đại thần Vinh Lộc.
Vào ngày 21 tháng 6 năm 1900, đoàn Nghĩa Hoà được công nhận là "nghĩa dân" và chính thức tuyên chiến với các nước phương Tây Nhóm Nghĩa Hoà Đoàn, với khăn đỏ trên đầu, đã tấn công các nhà giáo dân, giết hại hàng trăm người, đốt phá nhà thờ và sát hại các giáo sĩ Tất cả những gì do người ngoại quốc xây dựng, như đường sắt, dây điện, máy móc và bưu điện, đều bị phá hủy và thiêu rụi.
Phong trào lan rộng không thể kiểm soát, khiến Từ Hy rất vui và ra lệnh "giết hết bọn dương nhân trong nước" Sự giao thông giữa Bắc Kinh và Thiên Tân bị cắt đứt Công sứ gửi thư kháng nghị tới tổng lý nha môn, nhưng Từ Hy càng quyết liệt hơn, sai các vương công đại thần huy động đại quân phối hợp với Nghĩa Hoà Đoàn để vây đánh các sứ quán nước ngoài Khi họ bác bỏ tối hậu thư, Từ Hy buộc họ phải rời khỏi Trung Quốc trong vòng 24 giờ.
Trong vòng tám tuần, các sứ quán ở Bắc Kinh đã bị bao vây, dẫn đến cái chết của công sứ Đức và thư ký sứ quán Nhật Bản trên đường di chuyển Đô đốc Anh đã huy động hai nghìn quân từ Thiên Tân để giải cứu các sứ quán, nhưng giữa đường, họ đã bị quân Nghĩa Hoà tấn công và buộc phải rút lui.
Thanh đình lại xuống chiếu chiêu mộ thêm quân Cần V-ơng, truyền hịch cách"đuổi giết ngoại nhân " các n-ớc Nhật, Nga, Đức, Pháp, áo, ý
Liên quân tám nước, dưới sự lãnh đạo của Wadsi, tổng tư lệnh người Đức, đã nhanh chóng tấn công chiếm cửa Đại Cô và thành Thiên Tân Các lực lượng của triều đình nhà Thanh bị đánh bại hoàn toàn, với một tướng tử trận và hai tướng tự sát Sau đó, liên quân tiến vào Bắc Kinh.
Trước tình thế nguy kịch, triều đình Thanh do Từ Hi Thái hậu lãnh đạo đã có những quyết định quan trọng trong chính sách đối ngoại Bà chủ trương thoả hiệp và đầu hàng trước áp lực từ các thế lực bên ngoài, không theo đuổi chủ nghĩa chống đối đế quốc như trước đây Quyết định này phản ánh sự thay đổi trong chiến lược đối ngoại của triều đình Thanh dưới sự lãnh đạo của Từ Hi.
"tuyên chiến " với các n-ớc chỉ vì giận mà ra Khi đoàn Nghĩa Hoà chiến đấu với liên quân tám n-ớc bà lại lo sợ
Tám ngày sau khi tuyên chiến, Từ Hy Thái hậu ra lệnh cho triều thần điện báo cho công sứ các nước, khẳng định rằng bà sẽ tiêu diệt đoàn Nghĩa Hoà, do lo ngại về sức mạnh đông đảo của họ có thể gây loạn Trong thời điểm quan trọng của cuộc chiến đẫm máu, bà bất ngờ hạ độc thủ từ phía sau đoàn Nghĩa Hoà, cho phép quân Thanh nổ súng vào họ Đồng thời, bà cũng gửi thực phẩm như bột mì, gạo, rau cải và nước trái cây đến cho công sứ quán các nước, và phái đội quân tinh nhuệ của Vinh Lộc bảo vệ khu công sứ Bà còn chỉ định Lý Hồng Chương làm đại thần toàn quyền đi cùng Nghĩa Hoà xâm lược nước ngoài.
Dịch Khuông, Lý Hông Ch-ơng ở Bắc Kinh nghị hoà cung ng-ời Tây 12 khoản Nội dung chủ yếu nh- sau:
- Đối với công sứ , quan viên các n-ớc bị giết, phái ng-ời xin lỗi dựng bia t-ợng niệm
- Những nơi giết hại ng-ời ngoại quốc thì phải đình chỉ các khoa thi văn vâ trong 5 n¨m
Nhận xét chung về thái độ của Từ Hy Thái hậu đối với các phong trào đấu tranh
Cuối thế kỷ XIX, phong trào yêu nước diễn ra mạnh mẽ với các cuộc cách mạng như Thái Bình Thiên Quốc, Nghĩa Hoà Đoàn và Duy Tân Mậu Tuất, nhưng tất cả đều thất bại.
Thái Hậu Từ Hy đã sử dụng cả lực lượng nội bộ và liên minh với các thế lực nước ngoài để đàn áp các phong trào đấu tranh, nhằm bảo vệ quyền lực của mình.
Từ Hy Thái hậu, với sự tham lam và cầm quyền độc tài, đã không nhường nhịn quyền lợi cho dân chúng, dẫn đến việc mất đi lòng ngưỡng mộ và sự biết ơn từ nhân dân.
Khi hợp tác với người Tây để đàn áp phong trào yêu nước, triều Thanh đã thể hiện sự vụng về và tự mãn, dẫn đến thất bại nặng nề và chịu nhiều nhục nhã, mất quyền lợi kinh tế và gần như mất chủ quyền Việc củng cố bộ máy thống trị nhà nước trở thành vấn đề sống còn đối với triều đại này.
Từ năm 1901 đến 1905, chính phủ Mãn Thanh đã ban hành nhiều đạo dụ nhằm thực hiện cải cách để giảm bớt mâu thuẫn nội bộ và củng cố quyền lực, đồng thời thích ứng với yêu cầu của các thế lực xâm lược Mặc dù mục tiêu là thu hút tầng lớp trí thức tư sản, nhưng kết quả lại dẫn đến sự phản kháng từ các thế lực cũ, làm gia tăng mâu thuẫn giữa kẻ thống trị và kẻ bị trị Nội bộ giai cấp thống trị cũng phân chia thành nhiều bè phái, cho thấy sự bất ổn trong chính quyền Từ Hy Thái Hậu đã cố gắng sử dụng các thủ đoạn để duy trì quyền lực trong bối cảnh này.
"quân chủ lập hiến" để xoa dịu phong trào cách mạng đang cuồn cuộn dâng lên nh- triều dâng thác đổ, nh-ng đã quá muộn
Mục đích của cách mạng t- sản là đánh đuổi Từ Hy, lật đổ nền thống trị của ng-ời Mãn Thanh
Ngày 22 tháng 10 năm Quang Tự thứ 34 (tức ngày 15 tháng 11 d-ơng lịch) Từ Hy Thái hậu băng hà tại điện Nghi Loan ở Trung Nam Hải
Ng-ời sau làm một bài cung từ (bài từ cho ng-ời trong cung), thuật lại tình cảnh khi băng hà của Từ Hy Thái hậu:
Bệ ngọc rèm báu 75 xuân, Lâm triều ba lần ôm vào ng-ời
Vịn gi-ờng vừa thấy con cháu lạy, Định tỉnh Nghi Loan sáng lìa hồn
Bài cung từ này tóm tắt cuộc đời của Tây Thái hậu, người đã nắm quyền sau chính biến Tân Dậu và hai lần can thiệp vào chính sự Bà đã huấn chính và lập nên ba Hoàng đế nhỏ, thao túng chính quyền cuối triều đại nhà Thanh suốt hơn một thế kỷ Trong thời gian cầm quyền, bà thể hiện chế độ độc tài tàn bạo trong nước và chịu nhục nhã trước ngoại bang, dẫn đến nhiều lần Trung Hoa lâm vào nguy cơ mất nước, khiến bà trở thành người có tội với quốc gia.
Mặc dù Từ Hy Thái hậu có nhiều mặt tiêu cực, nhưng bà cũng thể hiện một số điểm tích cực, như việc bổ nhiệm Tăng Quốc Phiên làm tổng đốc Lưỡng Giang Na Lạp thị nhận thức rõ tình hình lúc bấy giờ, khi mà tập đoàn quý tộc người Mãn đã mất đi sức mạnh Bà hy vọng vào việc khôi phục cục diện thông qua Tăng Quốc Phiên, người đã dựa vào ý kiến của Na Lạp thị để trao đổi quyền lợi quốc gia với các thế lực nước ngoài nhằm củng cố sự thống trị.
Tăng Quốc Phiên đã cống hiến hết mình để duy trì chính quyền Mãn Thanh đang trong tình trạng khủng hoảng Trong bối cảnh đó, Na Lạp thị thật sự là người có tầm nhìn sắc sảo.
Dưới áp lực từ các thế lực liên minh trong và ngoài nước, cuộc cách mạng Thái Bình Thiên Quốc đã bị đàn áp vào năm 1864 Hành động trấn áp quyết liệt của Từ Hy đã tạm thời duy trì sự kiểm soát của triều đại nhà Mãn Thanh.
Trước cuộc đấu tranh cách mạng của quần chúng nhân dân và sự xâm lược của các thế lực nước ngoài, việc củng cố bộ máy thống trị của triều Thanh trở thành vấn đề sống còn đối với chính quyền này.
Từ năm 1901 đến 1905 Chính phủ Mãn Thanh liên tục ban bố một loạt đạo dụ về chính sách mới nh-:
- Dự trù kế hoạch luyện quân
- Bỏ khoa cử, khuyến khích nuôi d-ỡng nhân tài
- Cải cách quan chế, chỉnh đốn cách cai trị…
Cuối đời nhà Thanh, các chính sách mới mang tính chất nửa thực dân và nửa phong kiến Tuy nhiên, khi cách mạng dân chủ bùng nổ, một số chính sách này lại vô tình tạo điều kiện thuận lợi cho việc truyền bá tư tưởng và văn hóa cách mạng.
Những bài học lịch sử đau thương đã giúp nhân dân Trung Quốc nhận diện rõ bản chất của Từ Hy Thái hậu Dưới sự lãnh đạo của Tôn Trung Sơn, phong trào cách mạng và phong trào yêu nước chống đế quốc đã mạnh mẽ tấn công vào nền tảng thống trị phong kiến của triều đình Mãn Thanh Các nhà cách mạng thuộc giai cấp tư sản đã thành lập nhiều tổ chức như Trung Hưng Hội, Hoa Hưng Hội, và Quang Phục Hội, sau này hợp nhất thành Đồng Minh Hội Cương lĩnh của hội Đồng Minh nêu rõ: “Đánh đuổi giặc Thát (chỉ người Mãn), khôi phục Trung Hoa, xây dựng Dân quốc, bệnh quân địa quyền”, thể hiện rõ chủ trương chính trị nhằm lật đổ vương triều Mãn Thanh và diệt trừ đế chế.
[1] Đặng Đức An (CB) (2000) Những mẫu chuyện lịch sử thế giới Nxb Giáo dục, Hà Nội
[2] Amanach (1997) Những nền văn minh thế giới Nxb Văn hoá thông tin,
[3] D-ơng Thu ái (1997) Mỹ nhân kế cạm bẩy ghê ng-ời Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội
[4] Tr-ơng Tú Bình, V-ơng Hiểu Minh (1997) Một trăm sự kiện Trung Quốc Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội
[5] Lý Khắc Cung, Tr-ơng Chí Quân (dịch) (2002) Sóng gió nội cung Nxb
[6] Diệp Hách Nhan Nghi Dân, Ông Văn Tùng (dịch) (2001) Cấm cung diễm sử Nxb Lao động , Hà Nội
[7] Lê Giảng (2002) Các triều đại Trung Hoa, Nxb Thanh niên, Hà Nội
[8] Phạm Gia Hải (Chủ biên) (1992) Lịch sử thế giới cận đại Nxb Giáo dục,
[9] Văn Hùng (1999) Những chuyện lịch sử nổi tiếng thế giới, Nxb Thanh niên, Hà Nội
[10] Nguyễn Đức Linh, Xuân Du (dịch) (1994) Mối tình của Từ Hy Thái hậu, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội
[11] Bốc Tùng Lâm, Nguyễn Kim Dân (dịch) (2003) M-ời ng-ời đàn bà làm chấn động thế giới, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội
[12] Nguyễn Tôn Nhạn (1997) Hậu phi truyện (Truyện các hoàng hậu và phi tần Trung Hoa), Nxb Phụ nữ, Hà Nội
[13] Nguyễn Gia Phu, Nguyễn Huy Quý (2003) Lịch sử Trung Quốc Nbx Giáo dục, Hà Nội.