1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Nghiên cứu đề xuất chương trình giáo dục bảo tồn của cộng đồng tại Khu bảo tồn thiên nhiên Xuân Liên, tỉnh Thanh Hoá

118 6 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Nghiên Cứu Đề Xuất Chương Trình Giáo Dục Bảo Tồn Cho Cộng Đồng Tại Khu Bảo Tồn Thiên Nhiên Xuân Liên, Tỉnh Thanh Hoá
Tác giả Nguyễn Đình Thái
Người hướng dẫn GS.TS. Vương Văn Quỳnh
Trường học Trường Đại Học Lâm Nghiệp
Chuyên ngành Quản Lý Tài Nguyên Rừng
Thể loại luận văn
Năm xuất bản 2013
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 118
Dung lượng 2,45 MB

Cấu trúc

  • Chương 1 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU (11)
    • 1.1. Trên thế giới (11)
    • 1.2. Tại Việt Nam (14)
  • Chương 2 MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU (18)
    • 2.1. Mục tiêu nghiên cứu (18)
      • 2.1.1. Mục tiêu tổng quát (18)
      • 2.1.2 Mục tiêu cụ thể (18)
    • 2.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu (18)
      • 2.2.1. Đối tượng nghiên cứu (18)
      • 2.2.2. Phạm vi nghiên cứu (18)
    • 2.3. Nội dung nghiên cứu (19)
    • 2.4. Phương pháp nghiên cứu (19)
      • 2.4.1. Phương pháp luận (19)
      • 2.4.2. Phương pháp cụ thể (21)
  • Chương 3 ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA KHU VỰC NGHIÊN CỨU (27)
    • 3.1. Địa điểm nghiên cứu (27)
    • 3.2. Điều kiện tự nhiên (28)
      • 3.2.1. Vị trí địa lý (28)
      • 3.2.2. Địa hình, địa chất và thổ nhưỡng (30)
      • 3.2.3. Khí hậu và thuỷ văn (30)
      • 3.2.4. Giá trị đa dạng sinh học của khu bảo tồn (30)
      • 3.2.5. Đặc điểm về hang động, mặt nước cảnh quan và các giá trị khác (32)
    • 3.3. Điều kiện dân sinh kinh tế - xã hội (33)
  • Chương 4 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN (36)
    • 4.1. Đặc điểm hiện trạng tài nguyên và nhận thức của cộng đồng về bảo tồn đa dạng sinh học (36)
      • 4.1.1. Đặc điểm kinh tế xã hội của cộng đồng liên quan đến GDBT (36)
      • 4.1.2. Thực trạng, nguyên nhân biến đổi tài nguyên của KBT liên quan đến cộng đồng (37)
      • 4.1.3. Đặc điểm nhận thức bảo tồn của cộng đồng (41)
    • 4.2. Thực trạng các hoạt động GDBT đã triển khai ở Khu BTTN Xuân Liên 41 1. Chương trình GDBT trong trường học (49)
      • 4.2.2. Các chương trình GDBT cho cộng đồng địa phương (54)
    • 4.3. Những thuận lợi, khó khăn, cơ hội và thách thức trong việc xây dựng, thực hiện các chương trình giáo dục bảo tồn tại khu vực ( Bảng 4.8) (64)
    • 4.4. Đề xuất các chương trình GDBT cho cộng đồng tại KBT (67)
      • 4.4.1. Chương trình GDBT dành cho đối tượng là học sinh, giáo viên (67)
      • 4.4.2. Chương trình GDBT dành cho đối tượng là cán bộ công nhân viên chức nhà nước của các cơ quan, tổ chức đóng gần KBT (69)
      • 4.4.3. Chương trình GDBT dành cho cộng đồng (70)

Nội dung

Mục tiêu nghiên cứu của luận văn nhằm đánh giá được nhu cầu bảo tồn của cộng đồng tại Khu Khu bảo tồn thiên nhiên Xuân Liên Thanh Hoá. Xác định được những thuận lợi khó khăn, cơ hội và thách thức trong việc xây dựng và thực hiện các chương trình giáo dục bảo tồn tại Khu bảo tồn. Đề xuất được các chương trình giáo dục bảo tồn cho Khu bảo tồn. Mời các bạn cùng tham khảo!

TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

Trên thế giới

Khái niệm Giáo dục Môi trường (GDMT) lần đầu tiên được giới thiệu vào năm 1972 tại Hội nghị toàn cầu lần thứ nhất về Môi trường Nhân văn diễn ra ở Stockholm, Thụy Điển (Matarasso, 2004).

GDMT là quá trình nhận diện giá trị môi trường và xây dựng kỹ năng, thái độ cần thiết để hiểu rõ mối quan hệ giữa con người, văn hóa và môi trường vật lý Quá trình này không chỉ giúp đánh giá đúng các vấn đề môi trường mà còn tạo cơ hội thực hành ra quyết định và hình thành quy tắc ứng xử liên quan đến chất lượng môi trường (IUCN, 1970).

GDMT là một phương pháp phát triển các tình huống dạy và học hiệu quả, giúp giáo viên và học sinh cùng tham gia giải quyết các vấn đề môi trường Qua đó, họ có thể tìm ra lối sống có trách nhiệm và được thông tin đầy đủ về các vấn đề này.

Mặc dù có nhiều định nghĩa khác nhau về GDMT, tất cả đều có một số đặc điểm cơ bản sau:

GDMT là quá trình truyền tải thông tin và kiến thức diễn ra trong thời gian và không gian đa dạng, thông qua những kinh nghiệm và phương thức khác nhau.

- GDMT nhằm thay đổi hành vi

- Môi trường học tập là chính môi trường và những vấn đề có trong thực tế

- GDMT liên quan đến việc giải quyết vấn đề và ra quyết định về cách sống

- Trong GDMT, việc học phải tập trung vào người học và lấy hành động làm cơ sở

Cộng đồng thường được hiểu là nhóm người tập hợp theo nhiều hình thức như lứa tuổi, nghề nghiệp, huyết thống, khu vực địa lý, quyền lực, tổ chức hay sở thích Trong bối cảnh này, cộng đồng được xem như một đơn vị cấp địa phương của tổ chức xã hội, bao gồm cá nhân, gia đình, thể chế và các cấu trúc khác, đóng góp vào cuộc sống hàng ngày của một nhóm người trong khu vực địa lý xác định, có thể thay đổi qua các quá trình lịch sử.

Cho đến nay, vẫn còn nhiều tranh cãi về sự khác biệt giữa Giáo dục bảo tồn (GDBT) và Giáo dục môi trường (GDMT) Nhiều người cho rằng hai khái niệm này tương đồng và có thể thay thế cho nhau Tuy nhiên, trong bài viết này, GDBT được hiểu là các hoạt động GDMT có sự tham gia của cộng đồng địa phương, nhằm thay đổi hành vi và hướng tới mục tiêu bảo tồn, theo nghiên cứu của Matarasso và cộng sự (2004).

Theo Brewer (2002), việc khuyến khích sự tham gia là rất quan trọng để bổ sung các câu hỏi và lựa chọn thông tin giá trị, đồng thời giới thiệu kết quả cho cộng đồng, bao gồm cả các nhà khoa học Hơn nữa, sự hợp tác với giáo viên và chuyên gia không chỉ giúp nâng cao kiến thức chuyên môn trong suốt quá trình thực hiện dự án mà còn có lợi cho các hoạt động sau khi dự án kết thúc.

Báo cáo của Richard và Barbara (2001) nhấn mạnh rằng việc tạo cơ hội cho người dân tiếp cận kinh nghiệm bảo tồn toàn cầu sẽ giúp chương trình bảo tồn thành công hơn so với việc chính phủ và doanh nghiệp áp đặt kế hoạch mà không có sự tham gia của cộng đồng Kết quả nghiên cứu cho thấy, tất cả các chương trình GDBT nên tập trung vào cộng đồng, và việc cung cấp kiến thức bảo tồn qua các phương tiện thông tin đại chúng là một phương pháp hiệu quả để khuyến khích người dân chủ động tham gia vào công tác bảo tồn.

Một trong những cơ hội tốt nhất để cộng đồng tham gia tích cực vào công tác bảo tồn là cung cấp cho họ khả năng tiếp cận các nguồn thông tin Điều này cho phép họ bổ sung và cập nhật tài liệu với những thông tin mà họ cho là cần thiết.

Nghiên cứu về nhận thức của nam và nữ đối với vấn đề môi trường đã được thực hiện bởi nhiều tác giả trên toàn cầu, tuy nhiên, các kết quả thu được lại có sự khác biệt rõ rệt.

Theo Engels và Jacobson (2001), nhận thức và kiến thức về loài linh trưởng Golden Lion – Tamarin ở Brazil của nam giới cao hơn nữ giới Các tác giả cho rằng nam giới có nhiều cơ hội tiếp cận thông tin về sinh học và bảo tồn, đặc biệt là về loài Sư tử, hơn so với nữ giới.

- Rajakaruna (2009), đã khẳng định nam giới có nhận thức tốt hơn nữ giới về 5 loài Rùa biển đẻ trứng ở ven bờ biển SriLanka

Nghiên cứu của Onon (2006) chỉ ra sự khác biệt trong nhận thức và thái độ bảo tồn loài Báo tuyết ở Mông Cổ giữa 5 cộng đồng dân tộc Mặc dù các dân tộc có hiểu biết khác nhau về tình trạng và sinh cảnh của loài này, nghiên cứu không giải thích được nguyên nhân của sự khác biệt đó.

Nghiên cứu của Padua (1994) chỉ ra rằng nhận thức về bảo tồn khác nhau theo trình độ học vấn, với học sinh lớp 8 đạt điểm cao nhất trong chương trình giáo dục môi trường từ lớp 5 đến lớp 8 Tại Thái Lan, Wasi (1997) nhấn mạnh rằng lâm nghiệp cộng đồng đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển xã hội dân sự, khi các cộng đồng đang nỗ lực quản lý tài nguyên địa phương do sự mất mát lớn diện tích rừng từ khai thác gỗ hợp pháp trong quá khứ.

Tại Srilanka , từ năm 1982 đến 1988 dự án lâm nghiệp cộng đồng do

ADB tài trợ của Cục Lâm nghiệp Srilanka đã tạo ra cơ hội tiếp cận kinh nghiệm có người dân tham gia trong quản lý rừng.

Tại Việt Nam

Theo Vũ Văn Cần (2007), kế hoạch quản lý và phát triển rừng cần dựa vào nguồn lực cộng đồng và điều kiện tự nhiên địa phương để người dân thấy lợi ích từ kế hoạch, từ đó tích cực tham gia Việc tạo cơ hội cho người dân tiếp cận các phương pháp GDBT quốc tế kết hợp yếu tố địa phương giúp họ hiểu rõ hơn về vấn đề môi trường, thúc đẩy sự tham gia tích cực vào các chương trình GDBT.

Theo Chương trình UNDP (2007), đã có 23 dự án về quản lý rừng cộng đồng, cho thấy luật công nhận quyền khai thác và sử dụng lâm sản lâu dài, nhưng cũng hạn chế một số quyền của cộng đồng như không được chia sẻ, chuyển nhượng hay cho thuê quyền sử dụng rừng Để thực hiện hiệu quả quyền và nghĩa vụ của cộng đồng khi được giao rừng, cần tiến hành các mô hình thử nghiệm đủ lớn và đa dạng, phản ánh sự khác biệt về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và văn hóa của các cộng đồng dân cư.

Khu BTTN Phong Điền đã triển khai mô hình làng sinh thái lâm nghiệp tại các xã vùng đệm, mang lại lợi ích thiết thực cho người dân về đời sống vật chất và tinh thần Kết quả bước đầu khuyến khích cộng đồng tham gia tích cực vào công tác quản lý và bảo vệ rừng trong khu bảo tồn.

Nghiên cứu về đánh giá nhận thức và cơ hội tham gia GDBT của cộng đồng: Luận văn Thạc sĩ khoa học lâm nghiệp năm 2010 của Nguyễn Thị

Nhài đã đánh giá nhận thức và cơ hội tham gia GDBT của cộng đồng, tập trung vào học sinh và người dân địa phương gần KBT loài và sinh cảnh Voọc mũi hếch Khau Ca, tỉnh Hà Giang Tuy nhiên, nghiên cứu chưa xem xét nhận thức và cơ hội tham gia của hai nhóm đối tượng quan trọng là thợ săn và cán bộ từ các cơ quan, tổ chức gần KBT Do đó, chương trình GDBT cho các nhóm này vẫn chưa được xây dựng.

Nghiên cứu đề xuất các chương trình GDBT tại KBT loài và sinh cảnh Vượn Cao Vít huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng cho thấy luận văn Thạc sĩ của Nông Diệu Huế năm 2012 chưa đánh giá đầy đủ nhận thức và cơ hội tham gia của thợ săn và cán bộ các tổ chức gần KBT Ngoài ra, luận văn cũng thiếu đánh giá về nhận thức bảo tồn của cộng đồng địa phương theo giới, nghề nghiệp và thành phần dân tộc, dẫn đến việc chưa cung cấp cơ sở khoa học vững chắc cho các chương trình GDBT Các chương trình GDBT đề xuất chủ yếu tập trung vào Vượn Cao Vít, trong khi bảo tồn tài nguyên rừng, giá trị đa dạng sinh học và vai trò của KBT chưa được chú trọng Hơn nữa, chưa có chương trình nào nhằm thức tỉnh cộng đồng về việc bảo vệ rừng và thiên nhiên, cũng như chưa có giải pháp đảm bảo tính bền vững cho các chương trình GDBT tại khu vực này.

Trong hệ thống các Vườn Quốc Gia (VQG) và Khu Bảo Tồn Thiên Nhiên (BTTN) ở Việt Nam, việc triển khai GDBT đã diễn ra từ sớm và đạt được nhiều thành công Tuy nhiên, vẫn còn một số thiếu sót cần được khắc phục để nâng cao hiệu quả bảo tồn.

Năm 2009, Trung tâm con người và thiên nhiên (PanNature) đã triển khai chương trình nâng cao nhận thức về tài nguyên tại vùng đệm KBT loài và sinh cảnh Voọc mũi hếch Khau Ca, tỉnh Hà Giang, tập trung vào giáo viên và học sinh THCS Chương trình nhằm đào tạo kỹ năng bảo tồn đa dạng sinh học và bảo vệ môi trường, nhưng lại không tiếp cận được đối tượng nông dân, những người sống gần rừng và có thể hưởng lợi từ các hoạt động này Nông dân cảm thấy chương trình không phù hợp với họ và không mang lại lợi ích, dẫn đến sự thiếu quan tâm và tham gia từ phía họ.

Vườn quốc gia Cúc Phương là một trong những khu rừng đặc dụng tiên phong trong việc thành lập Trung tâm giáo dục môi trường và bảo tồn, với 43 câu lạc bộ bảo tồn tại các trường học, thu hút khoảng 15.000 học sinh tham gia mỗi năm Bên cạnh chương trình giáo dục tại trường, Vườn còn triển khai các chương trình thôn bản cho người lớn trong cộng đồng và giáo dục du khách đến thăm Chương trình giáo dục nhận thức bảo tồn không chỉ là một phần quan trọng trong chiến lược phát triển của Vườn mà còn là chương trình lâu đời nhất tại Việt Nam, nhận được sự quan tâm từ nhiều tổ chức bảo tồn trong và ngoài nước.

Mô hình đồng quản lý tại Khu BTTN Xuân Liên, tỉnh Thanh Hoá là một ví dụ điển hình cho các khu rừng đặc dụng khác nghiên cứu và áp dụng Luận văn của Phạm Anh Tám (2006) đã chỉ ra sự tham gia của người dân địa phương trong công tác quản lý và bảo tồn khu bảo tồn thiên nhiên, thông qua việc đóng góp ý kiến vào các quyết định quản lý Tuy nhiên, nghiên cứu chưa đánh giá đầy đủ nhu cầu giáo dục bảo tồn của các đối tượng khác như chính quyền địa phương, học sinh, giáo viên và cán bộ khu bảo tồn.

Sự tham gia của cộng đồng địa phương là yếu tố quyết định cho sự thành công của các chương trình bảo tồn Tại Khu BTTN Xuân Liên, nhiều chương trình GDBT đã được thực hiện nhằm bảo tồn dựa trên cơ sở cộng đồng, giúp giảm áp lực từ cư dân vùng đệm và cải thiện mối quan hệ giữa KBT và cộng đồng Cộng đồng đã tích cực tham gia vào việc bảo vệ rừng và tài nguyên thiên nhiên, góp phần bảo tồn đa dạng sinh học Tuy nhiên, các hoạt động này vẫn còn mang tính hình thức, thiếu sự phong phú và chưa có sự tham vấn đầy đủ từ cộng đồng Đánh giá về thuận lợi, khó khăn và thách thức trong việc thực hiện các chương trình GDBT chưa được thực hiện đầy đủ, điều này cần được khắc phục thông qua nghiên cứu và đánh giá khoa học để đề xuất các chương trình giáo dục bảo tồn hiệu quả trong tương lai.

MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Mục tiêu nghiên cứu

Bảo tồn các giá trị đa dạng sinh học và tài nguyên của KBT không chỉ nâng cao nhận thức cộng đồng mà còn cải thiện hiệu quả trong công tác bảo tồn.

- Đánh giá được nhu cầu bảo tồn của cộng đồng tại Khu BTTN Xuân Liên Thanh Hoá

- Xác định được những thuận lợi khó khăn, cơ hội và thách thức trong việc xây dựng và thực hiện các chương trình GDBT tại KBT

- Đề xuất được các chương trình GDBT cho KBT.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Là cộng đồng dân cư vùng đệm KBT, bao gồm:

Người dân từ 18 tuổi trở lên sống tại vùng đệm KBT Xuân Liên bao gồm nông dân và cán bộ công nhân viên chức nhà nước, tất cả đều là cư dân của khu vực này.

- Học sinh cấp II, III tại các trường học thuộc vùng đệm KBT

- Các cơ quan, tổ chức đóng gần KBT

- 5 thôn thuộc 5 xã của huyện Thường Xuân, tiếp giáp với KBT (Mỗi thôn 12 người)

+ thôn Vịn, xã Bát Mọt + thôn Lửa, xã Yên Nhân

+ thôn Minh Ngọc, xã Lương Sơn

+ thôn Tiến Sơn, xã Xuân Cẩm

+ thôn Hang Cáu, xã Vạn Xuân

Học sinh từ các trường cấp II tại 5 xã gồm Bát Mọt, Lương Sơn, Yên Nhân, Xuân Cẩm và Vạn Xuân, với mỗi xã có 1 trường và 5 học sinh mỗi khối, cùng với 30 học sinh từ Trường cấp III Cầm Bá Thước, huyện Thường Xuân, sẽ tham gia chương trình.

- Các cơ quan, tổ chức đóng gần KBT :

+ Trạm Khí tượng Thủy văn Cửa Đạt (3 người/tổng số 5 cán bộ) + Ban quản lý công trình Thuỷ Lợi, Thuỷ điện Cửa Đạt (10 người)

Từ 01/10/2012 – 31/12/2012 Điều tra thực địa lần 1

Từ 01/01/2013 – 01/02/2013 Điều tra thực địa lần 2

Từ 02/02/2013 – 28/2/2013 Xử lý số liệu, viết và hoàn thiện luận văn

Nội dung nghiên cứu

- Nghiên cứu đặc điểm hiện trạng tài nguyên và nhận thức của cộng đồng về bảo tồn đa dạng sinh học

- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng các hoạt động GDBT đã triển khai ở KBT

- Nghiên cứu những thuận lợi khó khăn, cơ hội và thách thức trong việc xây dựng, thực hiện các chương trình GDBT tại khu vực

- Đề xuất các chương trình GDBT phù hợp.

Phương pháp nghiên cứu

GDBT là giải pháp hiệu quả được nhiều quốc gia áp dụng thành công Gần đây, Việt Nam đã tăng cường hoạt động GDBT nhằm giải quyết các vấn đề môi trường như biến đổi khí hậu, suy thoái đa dạng sinh học và ô nhiễm nước, không khí Tại các VQG và KBT, nhiều chương trình dự án GDBT đã được triển khai.

Trong những năm qua, 12 nghiên cứu về hoạt động giáo dục môi trường (GDMT) đã được thực hiện và đã đạt được một số kết quả ban đầu Tuy nhiên, hiệu quả của các chương trình này chưa đạt yêu cầu do thiếu sự tham vấn cộng đồng trong quá trình xây dựng, dẫn đến nội dung và phương pháp giáo dục chưa phù hợp với đặc điểm và nhu cầu địa phương như dân tộc, nghề nghiệp, thu nhập, giới tính và đối tượng tham gia Hơn nữa, tính bền vững của các chương trình này cũng chưa được đảm bảo.

Một chương trình GDBT không chỉ bao gồm các hoạt động giáo dục như tập huấn nâng cao kỹ năng, mà còn có thể tổ chức các chương trình truyền thông để cung cấp thông tin và nâng cao nhận thức Bên cạnh đó, chương trình còn có thể thực hiện các hoạt động vận động chính sách nhằm xóa bỏ những rào cản về mặt chính sách, hỗ trợ việc thực hiện các hành vi bảo tồn hiệu quả hơn.

Chương trình giáo dục bảo tồn (GDBT) cần xác định rõ các hành vi gây ra vấn đề bảo tồn và môi trường, cùng với nguyên nhân của những hành vi này, như thiếu nhận thức, kiến thức, kỹ năng, hoặc bị cản trở bởi yếu tố kinh tế Để xây dựng chương trình GDBT hiệu quả cho bất kỳ khu vực nào, cần phân tích đặc điểm kinh tế xã hội của cộng đồng, bao gồm mức sống, nghề nghiệp, thành phần dân tộc và phong tục tập quán Cũng cần đánh giá hiện trạng tài nguyên, xem xét sự suy giảm và nguyên nhân của nó, cũng như nhận thức của cộng đồng về bảo tồn Thực trạng GDBT tại khu vực cũng cần được xem xét, từ nội dung đã có đến những gì còn thiếu, hiệu quả và không hiệu quả Cuối cùng, việc thực hiện chương trình GDBT cũng phải đánh giá các thuận lợi và khó khăn tại địa phương.

Đề tài nghiên cứu đặc điểm kinh tế xã hội của cộng đồng liên quan đến GDBT, đồng thời đánh giá nhận thức và thái độ của người dân về bảo tồn tại địa phương Nghiên cứu sẽ xác định các hoạt động ảnh hưởng đến tài nguyên và môi trường, tìm hiểu nguyên nhân của những hành động đó, cũng như những khó khăn và thuận lợi mà người dân gặp phải khi tham gia bảo tồn dựa vào cộng đồng Qua đó, đề tài sẽ cung cấp cơ sở cho việc xây dựng các chương trình giáo dục bảo tồn trong tương lai, và những nội dung này sẽ được tích hợp xuyên suốt trong quá trình tổng quan và phương pháp nghiên cứu.

- Thu thập tài liệu có sẵn, hoặc số liệu thống kê ở địa phương về các vấn đề liên quan đến nội dung nghiên cứu

- Báo cáo tổng hợp, các số liệu thống kê về văn hoá, xã hội, kinh tế của địa phương nghiên cứu

- Kế thừa các chương trình GDBT

- Kế thừa các tài liệu của KBT

Sau khi thu thập tài liệu, tiến hành phân tích đánh giá và chọn lọc những tài liệu cần thiết phục vụ công tác nghiên cứu

Gặp gỡ và trao đổi với các chuyên gia có kinh nghiệm, bao gồm những người đã thực hiện nghiên cứu tại KBT, cùng với ban lãnh đạo và cán bộ quản lý, giúp thu thập ý kiến tham vấn Những ý kiến này sẽ được tổng hợp, phân tích và đánh giá theo từng nội dung nghiên cứu để đảm bảo tính chính xác và hiệu quả.

2.4.2.3.Phương pháp đánh giá nhanh nông thôn (RRA) và đánh giá nhanh nông thôn có sự tham gia (PRA) Để thực hiện được các nội dung nghiên cứu của đề tài, tôi đã sử dụng phương pháp đánh giá nhanh nông thôn có sự tham gia (Participatory/Rural

Appraisal – PRA), với 2 công cụ phổ biến là phỏng vấn bán định hướng và phỏng vấn định hướng, nhằm đánh giá nhận thức và thái độ của cộng đồng

Sử dụng phương pháp PRA để phỏng vấn các hộ gia đình, cán bộ thôn xã, học sinh và cán bộ của các cơ quan tổ chức gần Khu bảo tồn, nhằm thu thập ý kiến và thông tin cần thiết Đồng thời, tổ chức các cuộc thảo luận nhóm với người dân để lắng nghe và tranh thủ ý kiến đóng góp của cộng đồng.

*Phỏng vấn bán định hướng Đề tài đã thực hiện phỏng vấn 60 người với các đối tượng là người dân từ

Người dân từ 18 tuổi trở lên sống tại vùng đệm KBT Xuân Liên bao gồm nông dân và cán bộ công nhân viên chức nhà nước Các cuộc phỏng vấn được thực hiện trực tiếp tại hộ gia đình hoặc trong các cuộc họp thôn bản do cán bộ KBT tổ chức, nhằm thu thập thông tin về tài nguyên thiên nhiên xung quanh khu vực sinh sống và nhận thức của họ về các vấn đề bảo tồn địa phương.

Năm thôn bản thuộc năm xã được lựa chọn có vị trí gần KBT Xuân Liên, được đánh giá là có ảnh hưởng lớn đến tài nguyên của khu bảo tồn Mỗi thôn tiến hành phỏng vấn 12 người, đảm bảo sự đa dạng về độ tuổi, thu nhập hàng năm, nghề nghiệp, giới tính, trình độ học vấn, dân tộc và địa vị xã hội Thông tin từ các cuộc phỏng vấn được ghi chép chi tiết vào phiếu biểu ngay trong quá trình phỏng vấn, sau đó được tổng hợp và phân tích nhằm hỗ trợ cho các kết quả phỏng vấn định hướng.

Các câu hỏi phỏng vấn được thiết kế đơn giản và dễ hiểu, phù hợp với đa số đối tượng phỏng vấn, nhằm thu thập tối đa thông tin từ người dân Nội dung chính trong các câu hỏi phỏng vấn bán định hướng bao gồm những điểm quan trọng để đảm bảo hiệu quả thu thập dữ liệu.

Người dân cần nắm rõ thông tin về khu bảo tồn (KBT), bao gồm năm thành lập, ranh giới KBT, khoảng cách từ nơi sinh sống đến ranh giới KBT, và tầm quan trọng của việc thành lập KBT trong việc bảo vệ môi trường và đa dạng sinh học Việc hiểu biết này không chỉ giúp cộng đồng nhận thức rõ hơn về giá trị của KBT mà còn nâng cao trách nhiệm bảo vệ tài nguyên thiên nhiên.

Nghiên cứu tác động của cộng đồng địa phương đến đa dạng sinh học trong khu bảo tồn thiên nhiên (KBT) là rất quan trọng Các hoạt động như chăn thả gia súc, thu hoạch củi cho sinh hoạt hàng ngày và khai thác gỗ xây dựng nhà ở diễn ra phổ biến trong khu vực này Việc hiểu rõ cách thức và địa điểm diễn ra các hoạt động này sẽ giúp đánh giá ảnh hưởng của chúng đến hệ sinh thái và đề xuất các biện pháp bảo tồn hiệu quả hơn.

- Xác định những khó khăn của người dân địa phương trong các hoạt động sinh kế và tìm hiểu nguyện vọng của họ

Để đánh giá nhận thức về bảo tồn trong cộng đồng, nghiên cứu đã thực hiện phỏng vấn 203 người dân từ 18 tuổi trở lên sống tại vùng đệm.

KBT tiến hành phỏng vấn học sinh cấp II, III tại các trường trong vùng đệm KBT và cán bộ từ các cơ quan, tổ chức lân cận thông qua phiếu câu hỏi định hướng Kết quả từ các cuộc phỏng vấn này sẽ được sử dụng để phân tích chính và rút ra các kết luận cho đề tài nghiên cứu.

Cấu trúc bộ câu hỏi phỏng vấn: Xây dựng bộ câu hỏi theo 2 dạng: Câu hỏi đóng và câu hỏi đóng – mở

- Câu hỏi đóng (Close question):

ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA KHU VỰC NGHIÊN CỨU

Địa điểm nghiên cứu

Đề tài lựa chọn khu vực nghiên cứu là 5 thôn thuộc 5 xã tiếp giáp với

Khu bảo tồn bao gồm các thôn Vịn (xã Bát Mọt), Lửa (xã Yên Nhân), Minh Ngọc (xã Lương Sơn), Tiến Sơn (xã Xuân Cẩm) và Hang Cáu (xã Vạn Xuân) Gần khu bảo tồn, có các cơ quan tổ chức như Trạm Khí tượng Thủy văn Cửa Đạt và Ban quản lý công trình Thủy Lợi, Thủy điện Cửa Đạt, phục vụ cho việc quản lý và bảo vệ môi trường.

- Người dân xung quanh KBT vẫn còn những tác động xấu đến khu vực được bảo vệ như khai thác gỗ, củi, lâm sản phụ

- Khoảng cách từ nơi sinh sống của người dân đến KBT là rất gần

- Khu BTTN Xuân Liên mới được thành lập cách đây không lâu và không nhiều người biết về sự thành lập này

Hiện nay, chỉ có một số chương trình giáo dục bảo vệ tài nguyên thiên nhiên (GDBT) nhỏ lẻ dành cho học sinh tại một số trường cấp II ở vùng đệm, như cuộc thi "Em yêu rừng xanh, quên em" và việc thành lập câu lạc bộ môi trường, được tài trợ bởi Tổ chức Hợp tác quốc tế Đức GIZ trong giai đoạn 2011-2012 Tuy nhiên, hiệu quả của các chương trình này vẫn chưa rõ ràng và chưa được đánh giá một cách cụ thể Các hoạt động GDBT hiện tại chưa được triển khai một cách bài bản, có lộ trình rõ ràng cho từng giai đoạn và đối tượng cụ thể.

Kết quả nghiên cứu sẽ hỗ trợ trong việc thiết kế các chương trình giáo dục bảo tồn (GDBT) phù hợp và cần thiết cho từng nhóm đối tượng cụ thể, nhằm phục vụ cho tất cả cư dân ở vùng đệm Khu Bảo tồn Thiên nhiên Xuân Liên.

Điều kiện tự nhiên

Hình 3.1 Sơ đồ Khu BTTN Xuân Liên

Khu bảo tồn thiên nhiên Xuân Liên, cách thành phố Thanh Hoá 65km về phía Tây Nam, có tọa độ 19°52'–20°02' vĩ độ Bắc và 104°58'–105°15' kinh độ Đông Nơi đây tiếp giáp với khu bảo tồn thiên nhiên Pù Hoạt (Nghệ An) và khu bảo tồn thiên nhiên Nậm Xam (Lào), tạo thành một tam giác với hệ động thực vật phong phú và đa dạng.

Từ 190 51’00” đến 190 59’00” vĩ độ Bắc

Từ 1040 58’00” đến 1050 19’20” kinh độ Đông

+ Phía Bắc được giới hạn bởi suối Ken, sông Khao

+ Phía Đông giáp xã Luận Khê, Xuân Cao, Xuân Cẩm, Lương Sơn

+ Phía Nam giáp tỉnh Nghệ An và giới hạn bởi dông chính nối ngọn Bù Ta Leo, Bù Róc và Bù Kha

+ Phía Tây giáp tỉnh Nghệ An và phần còn lại của xã Bát Mọt

Tổng diện tích KBT đạt 26.303,6 ha, bao gồm 23.475,0 ha đã được quy hoạch và giao quản lý ổn định, cùng với 2.828,6 ha đất tạm giao nằm trong khu vực ngập nước của hồ Cửa Đạt.

- Vùng đệm của KBT có diện tích 40.367,4 ha nằm trên địa bàn 5 xã Bát Mọt, Yên Nhân, Lương Sơn, Xuân Cẩm, Vạn Xuân

Hình 3.2 Vị trí của Khu BTTN Xuân Liên trong hệ thống các khu rừng đặc dụng của tỉnh Thanh Hoá

3.2.2 Địa hình, địa chất và thổ nhưỡng

Khu BTTN Xuân Liên có địa hình phức tạp và hiểm trở, với sự kết hợp giữa núi đá và núi đất, nằm trên dãy núi kéo dài từ Sầm Nưa (Lào) đến các huyện Thường Xuân và Như Xuân của tỉnh Thanh Hóa Khu vực này được phân chia thành hai đai độ cao: dưới 800m và từ 800m đến 1.600m, trong đó đỉnh cao nhất là Bù Gió, đạt 1.563m.

Nền địa chất của vùng rất đa dạng, bao gồm đá trầm tích, đá phiến, Spillite, Aldezite và nhiều loại đá biến chất như đá lửa, đá kính Địa hình bị chia cắt mạnh bởi các dãy núi cao và thung lũng, tạo nên hệ thống sông suối chằng chịt chảy từ tây sang đông Sông Chu, bắt nguồn từ Lào, là hệ thống sông lớn nhất và là nguồn cung cấp nước chính cho hồ chứa nước Cửa Đạt.

3.2.3 Khí hậu và thuỷ văn

Khu BTTN Xuân Liên có khí hậu nhiệt đới gió mùa với bốn mùa rõ rệt, lượng mưa trung bình hàng năm từ 1600-2300 mm và khoảng 90-130 ngày mưa Độ ẩm tương đối dao động từ 85% đến 87%, với số giờ nắng trung bình khoảng 1600-1800 giờ Nhiệt độ trung bình đạt 23-24°C, giảm dần ở các xã vùng cao Gió mùa Đông thường đến từ Tây Bắc và Đông Bắc, trong khi mùa hè gió chủ yếu từ Đông và Đông Nam Điều kiện khí hậu với lượng mưa lớn, nhiệt độ cao và ánh sáng dồi dào tạo thuận lợi cho sự phát triển của nông, lâm, ngư nghiệp.

3.2.4 Giá trị đa dạng sinh học của khu bảo tồn

Khu BTTN Xuân Liên có hai kiểu địa hình chính: vùng núi trung bình với độ cao từ 800 – 1600m và vùng núi thấp, đồi cao dưới 800m Khí hậu ở đây là nhiệt đới gió mùa, mang nhiều đặc điểm của khí hậu đồng bằng và trung du tỉnh Thanh Hóa Nhờ đó, thảm thực vật tại Khu BTTN Xuân Liên hình thành các hệ sinh thái chính, trong đó nổi bật là hệ sinh thái rừng kín thường xanh mưa mùa.

Hệ sinh thái nhiệt đới núi trung bình bao gồm sự kết hợp giữa cây lá rộng và cây lá kim, với rừng kín thường xanh mưa nhiệt đới và cây lá rộng là chủ yếu Ngoài ra, hệ sinh thái rừng thứ sinh cũng đa dạng, bao gồm các kiểu rừng tre nứa, rừng phục hồi sau nương rẫy, trảng cỏ, cây bụi và hệ sinh thái ao hồ.

Hình 3.3 Đa dạng về tài nguyên thực vật Khu BTTN Xuân Liên

Khu BTTN Xuân Liên nổi bật với hệ thực vật rừng phong phú và đa dạng, bao gồm nhiều loài quý hiếm cần được bảo vệ và bảo tồn Nơi đây có các kiểu rừng kín thường xanh ẩm nhiệt đới đặc trưng, góp phần phát triển nguồn gen quý giá.

Miền Bắc Việt Nam sở hữu 752 loài thực vật bậc cao có mạch thuộc 440 chi và 130 họ, trong đó có 38 loài nằm trong sách đỏ Việt Nam và thế giới, như Bách xanh (Calocedrus macrolepis), Dẻ tùng sọc trắng (Anmentotaxus argotaenia) và Kim giao (Nageia fleigyi) Đặc biệt, khu vực này còn có gần 3.821,0 ha rừng nguyên sinh với các quần thể Pơ Mu và Sa Mu nguyên thủy có đường kính từ 1-1.5m Đây là nơi bảo tồn quần thể cây hạt trần tiêu biểu cho tỉnh Thanh Hóa và vùng núi miền Bắc, với hệ thực vật đa dạng và nhiều loài ưu thế, tạo nên các ưu hợp độc đáo so với các khu bảo tồn khác.

Toàn bộ sinh cảnh rừng của Khu BTTN Xuân Liên là nơi sinh sống của

Khu vực này đã ghi nhận sự hiện diện của 55 loài thú, 136 loài chim, 34 loài bò sát, 19 loài ếch nhái và 143 loài bướm, trong đó nổi bật là các loài như Vượn đen má trắng, Mang nhỏ, Gấu, Vượn, Gà lôi trắng và Gà tiền.

3.2.5 Đặc điểm về hang động, mặt nước cảnh quan và các giá trị khác

Rừng KBT đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ nguồn nước cho sông Chu, sông Khao và sông Đặt, cung cấp nước sạch cho sinh hoạt và tưới tiêu cho 86.000ha lúa, hỗ trợ cho ngành công nghiệp tại hạ lưu tỉnh Thanh Hoá KBT sở hữu cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ với các dãy núi cao, thác nước, hang động và bản sắc văn hóa truyền thống của người Thái – Mường Ngoài ra, vùng đệm KBT còn có di tích lịch sử như Đền Cầm Bá Thước – Bà Chúa thượng ngàn, di tích hội thề Lũng Nhai, cùng với diện tích mặt hồ rộng lớn gần 3.000ha, tạo ra tiềm năng lớn cho phát triển du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng và nghiên cứu khoa học.

Điều kiện dân sinh kinh tế - xã hội

Vùng đệm KBT bao gồm 5 xã và 50 thôn bản với tổng dân số 30.957 người, trong đó dân tộc Thái chiếm 90,08% và dân tộc Kinh chiếm 9,92% Tỷ lệ tăng dân số hàng năm đạt 2,01%, trong khi tỷ lệ đói nghèo lên tới 67%, cao hơn so với tỉnh Thanh Hoá và toàn quốc, gây áp lực lớn lên tài nguyên KBT Cộng đồng tại đây chủ yếu phụ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là ở các thôn giáp ranh KBT, thường xuyên vào rừng thu hái lâm sản và săn bắn để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng Hoạt động khai thác gỗ và sản phẩm phi gỗ đang đe dọa sinh cảnh rừng tự nhiên và đa dạng sinh học Cuộc sống của người dân còn gặp nhiều khó khăn với tập quán canh tác lạc hậu, năng suất thấp và thu nhập bình quân đầu người chỉ đạt 126.460 đồng/tháng, thấp hơn mức đói nghèo theo tiêu chí mới Các xã trong vùng đều thuộc diện nhận đầu tư theo chương trình 30a của Chính Phủ.

Hình 3.4 Cộng đồng thôn bản vùng đệm Khu BTTN Xuân Liên

Sản xuất nông lâm nghiệp trong cộng đồng hiện đang đối mặt với nhiều thách thức, đặc biệt là sự thiếu hiểu biết về bảo tồn và đa dạng sinh học, nhất là ở các dân tộc thiểu số Mặc dù có sự hỗ trợ từ hệ thống khuyến nông, người dân vẫn chưa nắm vững các kỹ thuật sản xuất mới Ngân hàng chính sách xã hội cung cấp vốn cho phát triển sản xuất như trồng trọt và chăn nuôi, nhưng nhiều người vẫn sử dụng vốn không hiệu quả do thiếu kinh nghiệm Mùa vụ chính là lúa nước, bên cạnh các cây trồng và vật nuôi khác như sắn, ngô, gà, lợn, dê, bò và trâu Dịch bệnh gia súc, gia cầm vẫn xảy ra hàng năm do người dân không thực hiện tiêm phòng đầy đủ.

Phụ nữ đóng vai trò quan trọng trong sản xuất nông nghiệp và công việc gia đình, nhưng họ vẫn chưa tham gia chính thức vào các hoạt động cộng đồng Trong khi đó, đàn ông thường tham gia nhiều hơn vào các cuộc họp và thể hiện ý kiến một cách mạnh dạn Để khuyến khích phụ nữ tham gia, các cuộc họp riêng đã được tổ chức nhằm giúp họ tự tin hơn trong việc trình bày ý kiến về các vấn đề liên quan đến sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và bảo tồn.

Hệ thống canh tác hiện nay chưa hợp lý, với chăn nuôi phát triển chậm và thiếu sự cân đối với trồng trọt, chủ yếu mang tính tự cấp tự túc và quy mô nhỏ Ngành trồng trọt chưa bố trí cây trồng hợp lý giữa các vùng, cùng với vốn đầu tư hạn chế Dịch vụ sản xuất nông nghiệp chưa đáp ứng đủ nhu cầu, khiến người dân phải mua vật tư và phân bón với giá cao, trong khi nông sản lại bán với giá thấp.

Theo số liệu từ hệ thống phỏng vấn, thu nhập bình quân của các hộ gia đình khá giả đạt 14,8 triệu đồng/năm, trong khi hộ trung bình là 8,7 triệu đồng/năm và hộ nghèo chỉ khoảng 3 triệu đồng/năm.

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN

Đặc điểm hiện trạng tài nguyên và nhận thức của cộng đồng về bảo tồn đa dạng sinh học

4.1.1 Đặc điểm kinh tế xã hội của cộng đồng liên quan đến GDBT

Các xã vùng đệm Khu BTTN Xuân Liên, nằm trong khu vực biên giới Việt - Lào, thuộc tỉnh Thanh Hóa, là nơi sinh sống chủ yếu của người Thái Điều kiện kinh tế tại đây rất khó khăn, với cuộc sống phụ thuộc nhiều vào tài nguyên rừng địa phương và rừng của KBT Tình hình này đã đặt ra nhiều thách thức cho KBT, đặc biệt khi tốc độ tăng dân số đạt 2% và tỷ lệ hộ nghèo lên tới 67%, theo số liệu từ huyện Thường Xuân về điều tra sử dụng tài nguyên thiên nhiên và các cuộc khảo sát kinh tế - xã hội.

Tỉ lệ nghèo đói ở tỉnh Thanh Hóa cao hơn mức trung bình của cả nước, dẫn đến việc thiếu kỹ năng và cơ hội tạo thu nhập thay thế Tình trạng này góp phần vào việc xâm lấn khu bảo tồn và suy thoái tài nguyên thiên nhiên Các hoạt động tiêu cực như săn bắn động vật hoang dã và khai thác trái phép lâm sản quý hiếm đang diễn ra.

Tập tục lạc hậu của người dân địa phương đang dẫn đến sự suy kiệt của lâm sản, ảnh hưởng nghiêm trọng đến đất rừng và đa dạng sinh học trong KBT Việc xây dựng cơ sở hạ tầng, đường biên giới và công trình thủy lợi - thủy điện Cửa Đạt đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc săn bắn động vật hoang dã và khai thác quá mức các nguồn lâm sản quý giá.

- Các vấn đề về giới:

Phụ nữ đóng vai trò quan trọng trong việc cải thiện mối quan hệ quản lý và thúc đẩy hợp tác với cộng đồng vùng đệm Họ chịu trách nhiệm chính trong công việc gia đình, bao gồm chăm sóc trẻ, đồng thời tham gia tích cực vào sản xuất nông nghiệp Mặc dù không có thôn bản nào nằm trong khu bảo tồn thiên nhiên (KBT), phụ nữ vẫn là bên liên quan chính, đặc biệt là trong việc khai thác củi và các lâm sản phi gỗ khác trong khu vực này.

Phụ nữ không chỉ tham gia mà còn có tiếng nói quan trọng trong việc đề xuất đầu tư cho các chương trình phát triển kinh tế nhằm cải thiện điều kiện sống và nâng cao thu nhập cho gia đình Họ cũng đóng vai trò thiết yếu trong công tác bảo vệ rừng, đặc biệt trong việc tuyên truyền và phổ biến thông tin cho các gia đình và cộng đồng.

Các chương trình GDBT tại khu vực này cần tập trung vào việc giảm thiểu và giải quyết vấn đề xâm hại vào KBT, bao gồm săn bắn động vật hoang dã và khai thác trái phép Đặc biệt, cần chú ý đến tỉ lệ hộ nghèo cao và nhận thức cộng đồng còn kém Bên cạnh đó, việc cải thiện mối quan hệ quản lý và thúc đẩy hợp tác với cộng đồng, đặc biệt là đối tượng nữ giới, là rất quan trọng Đồng thời, các chương trình cải thiện sinh kế và chia sẻ lợi ích trong quản lý tài nguyên cũng cần được triển khai Những yếu tố này đóng vai trò quyết định đến sự thành công của công tác GDBT tại đây.

4.1.2.Thực trạng, nguyên nhân biến đổi tài nguyên của KBT liên quan đến cộng đồng

4.1.2.1 Các hoạt động có ảnh hưởng tốt đến tài nguyên Khu bảo tồn

Trong khuôn khổ đề tài, các hoạt động tích cực là những hoạt động bảo vệ và phát triển tài nguyên thiên nhiên mà không gây tổn hại đến chúng.

Bài viết này khám phá 30 nguồn tài nguyên trong khu vực, tập trung vào các hoạt động bảo vệ và gìn giữ tài nguyên thiên nhiên tại địa phương Thông tin chi tiết được trình bày trong bảng 4.1.

Bảng 4.1.Mô tả các hoạt động có ảnh hưởng tốt tới tài nguyên thiên nhiên

Hoạt động Địa điểm Mô tả và hiệu quả của hoạt động

1 Giấy xin phép khai thác gỗ làm nhà

Các thôn thuộc 2 xã Yên Nhân, Bát Mọt

Trong thôn, các hộ mới tách hộ hoặc hộ nghèo chưa có nhà ở cần làm đơn xin khai thác gỗ để xây dựng nhà Đơn phải chỉ rõ địa ranh khu vực khai thác, có thể là trong vườn rừng của họ hoặc của người thân đã được chấp thuận theo Nghị định 02CP Đơn này sẽ được Ban Quản lý thôn và Kiểm lâm địa bàn xã xác nhận, kiểm tra, sau đó phải được Ủy ban Nhân dân xã phê duyệt theo đúng thẩm quyền và địa danh cụ thể.

Các thôn thuộc 5 xã Yên Nhân, Bát Mọt

BQL Khu BT đã phối hợp với chính quyền địa phương để rà soát và vận động người dân tự nguyện giao nộp súng săn Theo nguyên tắc này, các hộ gia đình sẽ được giao khoán bảo vệ một diện tích rừng từ nguồn kinh phí Dự án 661, với quy mô từ 10 ha đến 15 ha trong chu kỳ 5 năm, tùy thuộc vào đặc điểm và chất lượng của các loại súng được giao nộp Kết quả từ năm

2001 – 2011, KBT đã vận động người dân tự nguyện giao nộp và bàn giao cho

Trong nỗ lực ngăn chặn săn bắn động vật rừng trái phép, 31 cơ quan chức năng đã thu hồi hơn 500 khẩu súng các loại, mang lại hiệu quả lớn trong việc bảo vệ rừng Người dân đồng tình và nhiều hộ gia đình sẵn sàng giao nộp cả những khẩu súng quý giá, nhận thức rõ hành vi săn bắn đã bị cấm và sẽ bị xử phạt theo quy định Việc giao nộp súng không chỉ giúp họ tránh rủi ro pháp lý mà còn nhận được khoản bảo vệ rừng 5 năm với tiền công khoảng trên 5 triệu đồng, một số tiền đáng kể đối với 67% hộ nghèo trong vùng Chính sách này đã thu hút sự tham gia tích cực của người dân vào công tác bảo vệ rừng, nhưng vẫn còn trên 200 khẩu súng săn chưa được thu hồi, cần tiếp tục nhân rộng mô hình này.

4.1.2.2 Các hoạt động gây ảnh hưởng xấu đến tài nguyên KBT

- Khai thác gỗ trái phép:

Phong tục tập quán của người dân tộc Thái thường sử dụng gỗ để xây dựng nhà sàn, cùng với sự ảnh hưởng của thị trường, đã dẫn đến việc các đối tượng đầu nậu tiếp tay cho người dân khai thác tài nguyên rừng Mặc dù một nửa diện tích rừng đặc dụng gần khu dân cư đã được Ban quản lý khu bảo tồn giao khoán cho 835/6.603 tổ chức và hộ gia đình thông qua các hợp đồng bảo vệ.

Việc khai thác chọn lọc cây gỗ trong rừng 32 (14.545 ha năm 2008, Nguyễn Đình Hải) đã dẫn đến sự suy giảm chất lượng rừng, làm phá vỡ cấu trúc tổ thành và tầng tán, từ đó thu hẹp sinh cảnh và ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống của các quần thể động vật hoang dã.

Hình 4.1.Các đối tượng khai thác lâm sản trái phép trong KBT bị bắt giữ

- Săn bắn và đánh bắt:

Săn bắt động vật hoang dã và đánh bắt thủy sản trái phép đang diễn ra phổ biến tại các khu vực biên giới, với các phương thức như sử dụng súng, bẫy, chó săn và kích điện Việc sử dụng súng và bẫy để săn bắt thú, cũng như chó săn để bắt rùa, là những mối đe dọa lớn đối với tài nguyên động vật rừng trong khu bảo tồn Theo thống kê, tại các xã vùng đệm, vẫn còn hơn 200 khẩu súng, chủ yếu là súng Sămlex 256 và súng Kíp tự chế, làm gia tăng nguy cơ suy giảm tài nguyên động vật Nguy cơ này xuất phát từ nhu cầu tiêu thụ lớn, thiếu hụt trang thiết bị quản lý, và đội ngũ cán bộ chuyên môn chưa đồng đều.

Mối đe dọa từ các tập quán xa xưa của người dân vùng cao sẽ được kiểm soát lâu dài thông qua việc tuyên truyền, đào tạo cán bộ, đầu tư trang thiết bị và triển khai các phương án quản lý, thu hồi súng săn.

Thực trạng các hoạt động GDBT đã triển khai ở Khu BTTN Xuân Liên 41 1 Chương trình GDBT trong trường học

Kết quả điều tra tại Khu BTTN Xuân Liên cho thấy có hai chương trình giáo dục bảo tồn (GDBT) chính được triển khai từ khi thành lập đến nay, bao gồm chương trình GDBT trong trường học và chương trình GDBT cho cộng đồng.

Bảng 4.7: Các chương trình giáo dục bảo tồn đã thực hiện tại KBT

STT Chương trình Đối tượng Nội dung Đơn vị tổ chức

I Chương trình GDMT trong trường học

Tổ chức cuộc thi “em yêu rừng xanh quê em”

Học sinh tiểu học và THCS xã Xuân Cẩm

- Tìm hiểu kiến thức về Khu BTTN Xuân Liên, về tài nguyên rừng trong KBT

- Kêu gọi trách nhiệm về bảo vệ rừng, bảo vệ môi trường

DED (GIZ) và Khu BTTN Xuân Liên

Thành lập 5 câu lạc bộ bảo tồn “câu lạc bộ xanh” tại 5 trường cấp II trên địa bàn vùng đệm KBT

Học sinh cấp II tại

5 xã vùng đệm (10 em/1 câu lạc bộ)

- Nâng cao nhận thức cho các em học sinh về bảo tồn thiên nhiên, bảo vệ rừng, bảo vệ môi trường

- Tuyên truyền về tầm quan trọng của tài nguyên rừng trong KBT, tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường

KBT và Quỹ bảo tồn rừng đặc dụng Việt Nam (VCF)

II Chương trình GDMT cho cộng đồng

Người dân địa phương 5 xã vùng đệm

Tuyền truyền hoạt động của KBT và kêu gọi bảo vệ tài nguyên rừng KBT

2 Phát hành tờ rơi, tờ gấp

Người dân thôn Vịn, xã Bát Mọt

- Tuyền truyền hoạt động của KBT, gía trị đa dạng sinh học và vai trò của KBT

- Kêu gọi bảo vệ tài nguyên rừng KBT

Xây dựng quy ước thôn bản

Người dân địa phương xã Bát Mọt và Yên Nhân

Tuyền truyền hoạt động của KBT và kêu gọi bảo vệ tài nguyên rừng KBT

Thành lập và duy trì hoạt động của Tổ bảo lâm (Tổ tuần rừng)

Các hộ nhận khoán Dự án 661 và BQL thôn bản

- Tuyên truyền bảo vệ rừng KBT

Tổ chức tuần tra rừng là một hoạt động quan trọng, nhằm bảo vệ diện tích rừng đã nhận khoán PCCCR phối hợp với lực lượng Kiểm lâm KBT thực hiện tuần tra tại các khu vực trọng điểm theo yêu cầu, góp phần đảm bảo an toàn và bảo vệ tài nguyên rừng.

KBT (từ nguồn kinh phí bảo vệ rừng DA

Họp thôn bản, ký cam kết bảo vệ rừng và

Các hộ gia đình ở các thôn bản của 5 xã vùng đệm

Họp thôn tuyên truyền về các chủ trương chính sách về bảo vệ và phát triển rừng, PCCCR

Kiểm lâm viên địa bàn ở các Trạm KL của KBT

Xây dựng chương trình phối hợp tuyên truyền giữa BQL với Mặt trận

- Tuyên truyền về bảo vệ rừng, giá trị đa dạng sinh học của KBT

KBT và MTTQ xã Bát Mọt

Các hoạt động giáo dục môi trường (GDMT) tại khu bảo tồn (KBT) được tổ chức liên tục trong các năm, nhằm nâng cao nhận thức cộng đồng địa phương thông qua nhiều hình thức tuyên truyền khác nhau Nhìn chung, các hoạt động giáo dục bảo tồn (GDBT) đã mang lại hiệu quả tích cực, với hầu hết cộng đồng đều nhận thức được các chương trình bảo vệ rừng, nghiên cứu khoa học và phát triển vùng đệm của KBT Để đánh giá cụ thể các chương trình GDBT đã được thực hiện tại KBT, bài viết sẽ trình bày chi tiết theo các nội dung liên quan.

4.2.1 Chương trình GDBT trong trường học

4.2.1.1 Tổ chức cuộc thi “em yêu rừng xanh quê em”

Vào năm 2009, một hoạt động bảo tồn được tổ chức cho gần 300 học sinh Tiểu học và THCS tại xã Xuân Cẩm, nhờ vào nguồn tài trợ của Tổ chức hợp tác Quốc tế Đức DED (nay là GIZ) Chương trình đã tạo ra sự phấn khởi cho các em, nhiều em có kiến thức vững về khu bảo tồn (KBT), tầm quan trọng của KBT, tài nguyên rừng và bảo vệ môi trường Qua cuộc thi, nhiều học sinh đã chủ động báo cáo các hành vi săn bắn trái phép và khai thác rừng Tuy nhiên, hoạt động này chỉ diễn ra một lần tại một xã trong số năm xã vùng đệm do thiếu nguồn tài trợ và chưa có phương pháp nhân rộng hiệu quả Nội dung chương trình chủ yếu tập trung vào việc tìm hiểu thông tin về KBT và bảo vệ môi trường, nhưng chưa giáo dục về các hành vi bị cấm và kêu gọi hành động bảo vệ tài nguyên rừng.

4.2.1.2 Thành lập 5 câu lạc bộ bảo tồn “câu lạc bộ xanh” tại 5 trường cấp II trên địa bàn vùng đệm KBT

Hình 4.2 Lễ ra mắt câu lạc bộ bảo tồn đa dạng sinh học trong trường học

Vào đầu năm 2012, dự án được triển khai với kinh phí từ Quỹ bảo tồn rừng đặc dụng Việt Nam (VCF), đã thành lập 5 câu lạc bộ bảo tồn “câu lạc bộ xanh” tại 5 trường cấp II trong khu vực vùng đệm KBT Các hoạt động của câu lạc bộ nhằm nâng cao nhận thức cho học sinh về bảo tồn thiên nhiên, bảo vệ rừng và môi trường, đồng thời tuyên truyền về tầm quan trọng của tài nguyên rừng và thiên nhiên trong KBT, kêu gọi mọi người cùng hành động.

Hoạt động nâng cao nhận thức về bảo tồn thiên nhiên và bảo vệ môi trường cho học sinh đã đạt được hiệu quả thiết thực Tuy nhiên, các câu lạc bộ vẫn còn đơn điệu, thiếu đổi mới trong hình thức hoạt động và phụ thuộc vào kinh phí dự án cùng sự giám sát của cán bộ Ban quản lý KBT Hơn nữa, hình thức này chưa được mở rộng đến học sinh cấp III, nông dân, và cán bộ công nhân viên chức của các cơ quan gần KBT.

Câu lạc bộ hiện tại chỉ thực hiện các hoạt động bảo vệ môi trường như thu gom rác thải và trồng rừng, nhưng chưa có hành động cụ thể từ các thành viên Hơn nữa, việc kêu gọi gia đình tham gia vào công tác bảo vệ tài nguyên rừng vẫn chưa được triển khai.

4.2.2.Các chương trình GDBT cho cộng đồng địa phương

4.2.2.1 Phát hành lịch năm mới và các loại tờ rơi, tờ gấp

Hình 4.3 Lịch năm mới và các loại tờ rơi tờ gấp tuyên truyền về Khu BTTN

Chương trình tuyên truyền bảo vệ rừng và bảo tồn thiên nhiên đã mang lại nhiều kết quả tích cực, được cộng đồng địa phương đánh giá cao nhờ tính hữu ích và dễ hiểu của sản phẩm Người dân không chỉ có lịch mới miễn phí mà còn được tiếp cận hình ảnh trực quan, thu hút sự chú ý và giúp quảng bá thông tin đến nhiều đối tượng khác nhau Chương trình đã góp phần quan trọng trong việc nâng cao nhận thức của các hộ gia đình về bảo vệ môi trường và phát triển du lịch sinh thái Mặc dù đã thực hiện trong 3 năm (2008 – 2010), nhưng chương trình gặp khó khăn do thiếu kinh phí và một số hình ảnh chưa gần gũi với đồng bào dân tộc Thái Các mô hình tương tự tại KBT loài sinh cảnh Voọc mũi hếch Khau Ca và KBT Pù Luông cũng đã cho thấy hiệu quả ban đầu Tuy nhiên, các chương trình này cần cải thiện hơn nữa bằng cách chú trọng đến nữ giới, phân chia nội dung phù hợp cho từng lứa tuổi và trình độ học vấn, cũng như cung cấp thông tin cho nhóm thợ săn về các hành vi bị cấm và quy định pháp luật liên quan.

Qua điều tra và phỏng vấn, đề tài nhận thấy GDBT là công cụ tuyên truyền hiệu quả, giúp thông tin tiếp cận đa dạng nhóm đối tượng Chương trình cần giải pháp khôi phục và phát huy trong tương lai, đồng thời đổi mới hình thức, nội dung và đối tượng của các ấn phẩm.

4.2.2.2 Xây dựng quy ước thôn bản

Bản quy ước bao gồm các nội dung quan trọng như cấm chăn thả gia súc, gia cầm ảnh hưởng đến sản xuất nông, lâm nghiệp; nghiêm cấm chặt phá rừng bừa bãi trong khu vực khoanh nuôi; và không bẫy bắt thú rừng Điều này nhằm bảo vệ động vật hoang dã, hướng tới một cuộc sống xanh, sạch, đẹp Mỗi hộ gia đình cần tiết kiệm củi và tham gia chương trình trồng cây lấy củi để bảo vệ môi trường.

Các bảng quy ước thôn bản đã mang lại nhiều lợi ích tích cực và nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ từ người dân địa phương, họ xem đây là nghĩa vụ và trách nhiệm của mỗi cá nhân và hộ gia đình đối với cộng đồng và khu bảo tồn Tuy nhiên, từ khi thành lập, khu bảo tồn chỉ phối hợp với chính quyền địa phương để xây dựng quy ước cho 4 thôn thuộc 2 xã trong giai đoạn 2006 – 2010, mà chưa mở rộng ra các thôn khác Điều này chủ yếu do quy ước hiện tại còn mang tính hình thức, chưa hoạt động hiệu quả, chưa xác định rõ trách nhiệm của người dân và thiếu cơ chế giám sát cũng như chế tài đủ mạnh để đảm bảo hiệu quả thực sự.

4.2.2.3 Thành lập và duy trì hoạt động của Tổ bảo lâm (Tổ tuần rừng)

Từ năm 2001 đến 2011, KBT đã thành lập 12 Tổ bảo lâm tại 5 xã vùng đệm, sử dụng nguồn kinh phí từ dự án 661 Các thành viên tổ được lựa chọn từ các hộ gia đình nhận khoán bảo vệ rừng, có sức khỏe và nhiệt tình, với Trưởng hoặc Phó thôn làm tổ trưởng Tổ bảo lâm chủ yếu tham gia tuyên truyền bảo vệ rừng, tổ chức tuần tra rừng và PCCCR trên diện tích được giao, đồng thời phối hợp với lực lượng Kiểm lâm KBT để tuần tra các khu vực trọng điểm khi cần thiết.

KBT giao khoán cho từng tổ bảo vệ rừng một phần diện tích thuộc mỗi thôn, nhằm tạo nguồn kinh phí hoạt động cho các tổ này.

Trong những năm qua, các Tổ bảo lâm đã hoạt động hiệu quả, phối hợp với lực lượng Kiểm lâm của KBT để ngăn chặn và xử lý các hành vi xâm hại tài nguyên rừng, đồng thời thực hiện tốt công tác PCCCR trong khu vực Theo số liệu của Chi cục Kiểm lâm tỉnh Thanh Hoá, năm 2011 không ghi nhận vụ cháy rừng nào và số vụ vi phạm Luật BVPTR đã giảm 16 vụ so với năm trước.

Vào năm 2010, tại khu vực KBT, các thành viên của Tổ bảo lâm, những người lớn lên và sống gần gũi với rừng, đã thể hiện khả năng nắm bắt thông tin khu vực một cách xuất sắc Họ cung cấp thông tin kịp thời và có giá trị về các đối tượng và tụ điểm khai thác, săn bắn trái phép, đồng thời phối hợp hiệu quả với lực lượng Kiểm lâm để ngăn chặn, bắt giữ và xử lý kịp thời các vi phạm theo quy định.

Những thuận lợi, khó khăn, cơ hội và thách thức trong việc xây dựng, thực hiện các chương trình giáo dục bảo tồn tại khu vực ( Bảng 4.8)

Bảng 4.8 Những thuận lợi, khó khăn, cơ hội và thách thức trong việc xây dựng, thực hiện các chương trình giáo dục bảo tồn trong trường học

- Hoạt động nâng cao nhận thức GDBT cho các em học sinh được nhà trường quan tâm

- Các hoạt động nâng cao nhận thức về

GDBT được ban giám hiệu nhà trường đưa vào trong chương trình giảng dạy ngoại khóa

- Các công cụ hỗ trợ trong công tác truyền thông như: máy chiếu projector, máy vi tính, được trang cấp đầy đủ

- Đã có một số ấn phẩm, tài liệu GDBT cho học sinh (Rừng xanh số 31 do ENV ấn hành, các pa nô áp phích do FFI cung cấp )

- Cơ sở vật chất phụ vụ cho truyền thông

GDBT như: Sân khấu, loa đài, các băng rôn khẩu hiệu được nhà trường quan tâm

- Các trường học có sân khấu thuận lợi cho tổ chức các cuộc thi hoặc các hoạt động sinh hoạt ngoại khóa toàn trường

- Được phòng giáo dục và các ban ngành

- Đội ngũ giáo viên chưa được tập huấn về GDBT, chưa có kinh nghiệm và kỹ năng để thực hiện các hoạt động GDBT trong trường học

- Hiện nay chưa có bài giảng về giáo dục môi trường phù hợp cho các em học sinh tại địa phương

- Cán bộ Khu BTTN Xuân Liên thiếu các kiến thức và kỹ năng thực hiện các hoạt động GDBT

57 chức năng của huyện ủng hộ

- Thứ 5 hàng tuần nhà trường có tổ chức hoạt động về công tác Đội từ tiết 2 -> 3

Chương trình lên lịch từ đầu năm học

- Một số trường đã tiến hành chương trình

- Đội ngũ giáo viên sẽ được tiếp cận về phương pháp cũng như cải thiện được kỹ năng về GDBT

- Học sinh được tham gia các hoạt động

- Học sinh được phát huy hết khả năng sáng tạo, sự nhạy bén của mình trong các hoạt động GDBT

- Thiếu hoặc không có đủ kinh phí để tổ chức các hoạt động GDBT trong trường học một cách thường xuyên

- Khả năng tiếp thu và nhận thức của học sinh người dân tộc thiểu số ở khu vực này là tương đối hạn chế

Bảng 4.8 chỉ ra rằng có nhiều thuận lợi và cơ hội để triển khai chương trình giáo dục bảo tồn (GDBT) trong trường học, mặc dù vẫn tồn tại một số khó khăn và thách thức Tuy nhiên, những khó khăn này không đáng kể và có thể được khắc phục thông qua các nội dung của chương trình GDBT, như việc tập huấn cho giáo viên và thiết kế tài liệu giảng dạy phù hợp với học sinh THCS là người dân tộc thiểu số Hơn nữa, các thách thức cũng nhấn mạnh rằng việc thiết kế chương trình giáo dục môi trường trong trường học cần chú trọng đến tính bền vững.

* Những thuận lợi, khó khăn, cơ hội và thách thức trong việc xây dựng, thực hiện các chương trình giáo dục bảo tồn trong cộng đồng (theo bảng 4.9)

Bảng 4.9 Những thuận lợi, khó khăn, cơ hội và thách thức trong việc xây dựng, thực hiện các chương trình giáo dục bảo tồn trong cộng đồng

- Người dân sống gần KBT, những lợi ích trực tiếp và gián tiếp của KBT có tác động rõ đến đời sống của chính người dân

- Chính quyền địa phương và ban quản lý

- Có địa điểm thuận lợi tổ chức các hoạt động GDBT

- Có thể lồng ghép các hoạt động GDBT vào các Chương trình phát triển KT-XH của

Chính phủ như Chương trình 143, 135

- Một số quy định về bảo tồn đã được cộng đồng xây dựng và triển khai thực hiện tại 1 số thôn xóm

- ở KBT không có nguồn kinh phí dành cho các hoạt động GDBT

- KBT chưa có cán bộ có chuyên môn nghiệp vụ hoặc kỹ năng về GDBT

- Chưa có công trình nghiên cứu biên soạn tài liệu GDBT và tập huấn tài liệu cho cộng đồng dân cư

- Người dân được tiếp cận các thông tin, mở mang kiến thức

- Người dân được tham gia ý kiến, đóng góp hiểu biết, tri thức bản địa vào công tác bảo tồn, bảo vệ tài nguyên rừng

- Cán bộ của KBT được cải thiện về kỹ năng GDBT

- Đời sống của người dân còn khó khăn

- Sự phụ thuộc vào rừng còn là một tập quán

- Trình độ dân trí còn thấp, thiếu hiểu biết về pháp luật

Dựa vào bảng 4.9, có thể nhận thấy rằng việc thực hiện chương trình GDBT cho cộng đồng dân cư địa phương tại Khu BTTN Xuân Liên mang lại nhiều thuận lợi và cơ hội để đạt hiệu quả cao Tuy nhiên, công tác GDBT vẫn cần được chú trọng để tối ưu hóa kết quả.

Tại khu vực này, vẫn còn nhiều khó khăn như áp lực khai thác tài nguyên, chăn thả gia súc tự do, canh tác nông nghiệp trong vùng lõi, và lấn chiếm đất rừng để trồng cây nông nghiệp Trình độ dân trí hạn chế và đời sống khó khăn cũng là những thách thức lớn Để nâng cao hiệu quả bảo tồn, cần thực hiện chương trình GDBT cho cộng đồng Việc lồng ghép hoạt động GDBT vào các chương trình phát triển kinh tế - xã hội địa phương có thể giúp giảm bớt gánh nặng kinh phí cho chương trình này.

Đề xuất các chương trình GDBT cho cộng đồng tại KBT

Dựa trên những thuận lợi, khó khăn, cơ hội, thách thức, cùng với các kết quả đạt được và những hạn chế trong việc xây dựng và thực hiện các chương trình giáo dục bảo tồn tại Khu BTTN Xuân Liên, đề tài đề xuất các chương trình giáo dục bảo tồn nhằm nâng cao hiệu quả và phát triển bền vững.

4.4.1 Chương trình GDBT dành cho đối tượng là học sinh, giáo viên

Mục đích của chương trình giáo dục bảo vệ tài nguyên rừng KBT là nâng cao nhận thức cho học sinh về giá trị và tầm quan trọng của việc bảo tồn thiên nhiên và bảo vệ môi trường Nội dung giáo dục bảo vệ môi trường và rừng cần được tích hợp vào chương trình học chính khóa cũng như ngoại khóa, giúp học sinh hiểu rõ hơn về môi trường, tài nguyên thiên nhiên, đa dạng sinh học, cũng như ý nghĩa của thực vật và động vật trong khu bảo tồn.

Khu Bảo tồn Thiên nhiên Xuân Liên đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ tài nguyên rừng và đa dạng sinh học, mang lại giá trị thiết thực cho môi trường Để duy trì và phát huy giá trị này, học sinh cần nhận thức rõ trách nhiệm của mình trong việc bảo vệ tài nguyên rừng và môi trường xung quanh Hãy hành động ngay hôm nay để cùng nhau gìn giữ vẻ đẹp thiên nhiên và bảo vệ hệ sinh thái cho thế hệ mai sau.

+ Tổ chức các buổi sinh hoạt, học tập ngoại khóa

+ Tổ chức cuộc thi tìm hiểu về KBT, về rừng, môi trường vào ngày Môi trường Thế giới hàng năm

Để nâng cao hiệu quả hoạt động bảo tồn, cần củng cố và đổi mới hình thức hoạt động, đồng thời thiết lập cơ chế giám sát định kỳ và chế độ khen thưởng nhằm khuyến khích sự tham gia của các thành viên Các trách nhiệm sẽ được phân công rõ ràng cho 5 câu lạc bộ bảo tồn hiện có và thành lập thêm 7 câu lạc bộ mới tại Trường PTTH Cầm Bá Thước, Phòng GD huyện, cùng với sự hỗ trợ từ giáo viên các trường học trong vùng đệm.

Chúng tôi chuyên thiết kế, xây dựng và cung cấp các ấn phẩm tuyên truyền trong trường học như truyện tranh, áo mưa, mũ, cặp sách, bút, sổ tay và vở viết Các ấn phẩm này được phát triển dựa trên ý kiến tham vấn và được thiết kế phù hợp với từng lứa tuổi, dân tộc và giới tính, nhằm mang lại hiệu quả truyền thông tốt nhất.

- Đối tượng: học sinh cấp I, II, III; giáo viên, cán bộ Phòng giáo dục huyện Thường Xuân

- Cơ quan chủ trì và giám sát: BQL Khu BTTN Xuân Liên

- Cơ quan phối hợp: Phòng GD huyện Thường Xuân, các Trường cấp I,

II, III trên địa bàn

+ Từ nguồn kinh phí dành cho công tác tuyên truyền, PCCCR hàng năm được cấp của KBT Xuân Liên

+ Từ nguồn kinh phí chống chặt phá rừng, chống buôn lậu lâm sản, kinh phí trích từ xử phạt các vụ vi phạm hành chính của KBT

+ Kêu gọi từ các tổ chức phi chính phủ (Khu BTTN Xuân Liên tranh thủ sự kết nối của các chuyên gia GIZ đang làm việc tại KBT )

+ Nguồn kinh phí được chi trả dịch vụ môi trường rừng của KBT

+ Nguồn kinh phí tự có của Phòng GD huyện, các Trường học

Kinh phí thu được từ hoạt động thu gom ve chai, sách báo cũ và dọn rác thải tại các trường học sẽ được huy động từ sự tham gia tích cực của toàn thể học sinh và giáo viên.

+ Các nguồn kinh phí huy động hợp pháp khác

4.4.2 Chương trình GDBT dành cho đối tượng là cán bộ công nhân viên chức nhà nước của các cơ quan, tổ chức đóng gần KBT

- Mục đích: Lồng ghép công tác tuyên truyền vào hoạt động của các cơ quan này

- Đối tượng: Cán bộ công nhân viên chức nhà nước của các cơ quan, tổ chức đóng gần KBT

+ Xây dựng chương trình phối hợp tuyên truyền giữa BQL với các cơ quan, tổ chức này

+ Tổ chức các buổi sinh hoạt, toạ đàm vào ngày Môi trường thế giới hàng năm

Chúng tôi chuyên thiết kế, xây dựng và cung cấp các ấn phẩm tuyên truyền như áo mưa, mũ, bút, sổ tay và đồ dùng văn phòng Các sản phẩm này được phát triển dựa trên ý kiến tham vấn và được thiết kế phù hợp với từng độ tuổi, dân tộc, giới tính và nghề nghiệp khác nhau.

- Cơ quan chủ trì và giám sát: BQL Khu BTTN Xuân Liên

- Cơ quan phối hợp: Các cơ quan, tổ chức đóng gần KBT

+ Từ nguồn kinh phí dành cho công tác tuyên truyền, PCCCR hàng năm được cấp của KBT

+ Từ nguồn kinh phí chống chặt phá rừng, chống buôn lậu lâm sản, kinh phí trích từ xử phạt các vụ vi phạm hành chính của KBT

+ Kêu gọi từ các tổ chức phi chính phủ (Khu BTTN Xuân Liên tranh thủ sự kết nối của các chuyên gia GIZ đang làm việc tại KBT )

+ Nguồn kinh phí được chi trả dịch vụ môi trường rừng của KBT

+ Các nguồn kinh phí huy động hợp pháp khác

4.4.3 Chương trình GDBT dành cho cộng đồng

Hiện nay, nhiều cư dân sống trong khu vực vùng đệm của KBT vẫn chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của KBT đối với cuộc sống cộng đồng Sự phụ thuộc vào các nguồn tài nguyên thiên nhiên tại KBT đã tạo ra áp lực lớn từ chính cộng đồng đối với khu bảo tồn Do đó, việc nâng cao nhận thức của người dân địa phương về bảo vệ môi trường và bảo tồn thiên nhiên là rất cần thiết, thông qua các chương trình giáo dục bảo tồn (GDBT).

4.4.3.1 Rà soát, sửa đổi bổ sung nội dung của các quy ước thôn bản đã xây dựng trước đây tại các thôn bản của 2 xã Yên Nhân, Bát Mọt

Dựa trên bản quy ước đã được xây dựng trước đây, cần tiến hành rà soát và điều chỉnh để phù hợp với tình hình kinh tế xã hội và thực tế hiện nay.

Ban quản lý Khu BTTN Xuân Liên phối hợp với chính quyền địa phương tổ chức các cuộc họp thôn nhằm thu thập ý kiến của người dân Sau khi thống nhất nội dung, chính quyền địa phương cấp huyện sẽ phê chuẩn để triển khai thực hiện.

4.4.3.2 Nhân rộng việc xây dựng quy ước thôn bản

- Mục đích: Lồng ghép các quy định về bảo vệ rừng vào hương ước thôn bản để gắn trách nhiệm của cộng đồng vào việc bảo tồn thiên nhiên

- Đối tượng: Cộng đồng dân cư 3 xã Lương Sơn, Xuân Cẩm, Vạn Xuân

- Nội dung: Tiến hành xây dựng quy ước thôn bản cho các thôn của 3 xã Lương Sơn, Xuân Cẩm, Vạn Xuân

Trong quy ước, bổ sung một số điều khoản về trách nhiệm của cá nhân và cộng đồng trong bảo vệ rừng KBT

Ban quản lý KBT phối hợp với chính quyền địa phương tổ chức các cuộc họp thôn nhằm thu thập ý kiến của người dân Sau khi thống nhất nội dung, BQL sẽ làm việc với chính quyền cấp huyện để phê duyệt và triển khai tại tất cả các thôn, bản còn lại.

4.4.3.3 Phát hành lịch tuyên truyền vào dịp Tết hàng năm Đây là hoạt động rất thực tế và mang lại hiệu quả cao; Khu BTTN Xuân Liên trên cơ sở nguồn kinh phí được trang cấp hàng năm, kêu gọi sự hỗ trợ của các tổ chức trong và ngoài nước, đồng thời phối hợp với chính quyền địa phương để phát hành lịch Tết mỗi năm, các hình ảnh trên tờ lịch lồng ghép các hình ảnh tuyên truyền về bảo vệ rừng và BTTN, sao cho thống nhất 1 tờ lịch Tết của địa phương và KBT, tránh trường hợp UBND, HĐND, MTTQ, Hội phụ nữ… của huyện xã đều có 1 tờ lịch Tết riêng như hiện nay Các hình ảnh, thông tin tuyên truyền phải phù hợp với thành phần dân tộc, đặc điểm của địa phương và gần gũi với cuộc sống của đồng bào dân tộc Thái (chiếm trên 90% dân số)

4.4.3.4 Duy trì hoạt động của các Tổ bảo lâm

Dựa trên các Tổ bảo lâm đã được thành lập trước đây, cần kiện toàn lại thành viên và quy chế hoạt động, đồng thời xây dựng cơ chế chia sẻ lợi ích cho cộng đồng tham gia bảo tồn, nhằm tạo sinh kế bền vững Việc này bao gồm thu hái lâm sản phụ, quy hoạch khu chăn thả gia súc, và chia sẻ lợi ích từ phí dịch vụ môi trường rừng Bên cạnh đó, phát triển du lịch cộng đồng và sinh thái, cũng như hỗ trợ tài chính từ xử phạt vi phạm hành chính cho việc cung cấp thông tin và tham gia bắt giữ các đối tượng khai thác trái phép, sẽ góp phần nâng cao vai trò của các thành viên Tổ bảo lâm trong việc bảo vệ rừng và môi trường.

4.4.3.5 Rà soát lại nội dung, hiệu quả của các bản cam kết bảo vệ rừng, PCCCR để cùng với thôn bản chỉnh sửa, bổ sung hoặc ký cam kết mới

Các bản cam kết cần có tính khả thi cao, phù hợp với đặc điểm của thôn bản, thành phần dân tộc, điều kiện kinh tế và trình độ học vấn của cộng đồng Quan trọng nhất là phải xác định rõ trách nhiệm của các hộ gia đình trong việc bảo vệ rừng và phòng cháy chữa cháy rừng (PCCCR).

4.4.3.6 Nhân rộng chương trình phối hợp truyên truyền với Mặt trận Tổ quốc của 4 xã còn lại (Yên Nhân, Lương Sơn, Xuân Cẩm, Vạn Xuân)

Ngày đăng: 19/07/2021, 09:00

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Bộ Khoa học, Cộng nghệ và Môi Trường (2000), Sách Đỏ Việt Nam, Phần Động vật, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Sách Đỏ Việt Nam, Phần Động vật
Tác giả: Bộ Khoa học, Cộng nghệ và Môi Trường
Nhà XB: Nxb Khoa học và Kỹ thuật
Năm: 2000
2. Báo cáo nghiên cứu khả thi thành lập Khu bảo tồn Xuân Liên, tỉnh Thanh Hoá, Việt Nam (1999), Chi cục Kiểm Lâm tỉnh Thanh Hoá và Tổ chức bảo tồn động thực vật hoang dã quốc tế ( FFI) – Chương trình Việt Nam Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chi cục Kiểm Lâm tỉnh Thanh Hoá và Tổ chức bảo tồn động thực vật hoang dã quốc tế ( FFI)
Tác giả: Báo cáo nghiên cứu khả thi thành lập Khu bảo tồn Xuân Liên, tỉnh Thanh Hoá, Việt Nam
Năm: 1999
4. Nguyễn Việt Dũng, Nguyễn Văn Luận& Đậu Ngọc Công (2009), Hướng dẫn phương pháp lồng ghép giáo dục môi trường trong trường học, Trung tâm con người và thiên nhiên Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hướng dẫn phương pháp lồng ghép giáo dục môi trường trong trường học
Tác giả: Nguyễn Việt Dũng, Nguyễn Văn Luận& Đậu Ngọc Công
Năm: 2009
5. Matarasso, M.S.et al. (2004), Giáo dục bảo tồn có sự tham gia của cộng đồng 4 th ed, Nhà xuất bản Lao động xã hội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo dục bảo tồn có sự tham gia của cộng đồng
Tác giả: Matarasso, M.S.et al
Nhà XB: Nhà xuất bản Lao động xã hội
Năm: 2004
9. Phạm Anh Tám (Luận văn tôt nghiệp Thạc sỹ Lâm nghiêp 2006), Nghiên cứu giải pháp đồng quản lý tại Khu bảo tồn thiên nhiên Xuân Liên, tỉnh Thanh Hoá Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên cứu giải pháp đồng quản lý tại Khu bảo tồn thiên nhiên Xuân Liên
10. Vũ Văn Cần, Hoàng Liên, Lê Văn Cường và Đỗ Thị Hường (2007), Đánh giá chất lượng kế hoạch quản lý, phát triển rừng do cộng đồng xây dựng và hiệu quả hoạt động của quỹ phát triển thôn bản ở các tỉnh Sơn La, Yên Bái, Cao Bằng, Lạng Sơn, Trường Đại học Khoa học tự nhiên, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đánh giá chất lượng kế hoạch quản lý, phát triển rừng do cộng đồng xây dựng và hiệu quả hoạt động của quỹ phát triển thôn bản ở các tỉnh Sơn La, Yên Bái, Cao Bằng, Lạng Sơn
Tác giả: Vũ Văn Cần, Hoàng Liên, Lê Văn Cường và Đỗ Thị Hường
Năm: 2007
16. Chiến lược phát triển lâm nghiệp Việt Nam giai đoạn 2006-2020, Quyết định số 18/2007/QĐ-TTg ngày 5/2/2007 của Thủ tướng Chính phủ 17. Margret C.Domroese, Eleanor J.Sterlling (2000), Diễn giải đa dạng sinhhọc, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quyết định số 18/2007/QĐ-TTg ngày 5/2/2007 của Thủ tướng Chính phủ" 17. Margret C.Domroese, Eleanor J.Sterlling (2000), "Diễn giải đa dạng sinh "học
Tác giả: Chiến lược phát triển lâm nghiệp Việt Nam giai đoạn 2006-2020, Quyết định số 18/2007/QĐ-TTg ngày 5/2/2007 của Thủ tướng Chính phủ 17. Margret C.Domroese, Eleanor J.Sterlling
Nhà XB: Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội
Năm: 2000
3. Nguyễn Việt Dũng et al. (2007), Tìm hiểu hành vi cộng đồng về bảo tồn thiên nhiên Khác
6.Chính phủ Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2006), Nghị định số 32/2006/NĐ-CP của Thủ tướng Chính phủ, ký ngày 30 tháng 3 năm 2006, quy định về quản lý và Danh mục thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm, từ rừng Việt Nam Khác
7. Nguyễn Ngọc Thắng (2007), Đánh giá hiện trạng tiêu thụ động vật hoang dã và nhận thức của người dân về các khu bảo tồn thiên nhiên, Quảng Trị: Quỹ Quốc tế về bảo tồn thiên nhiên Khác
8. Nguyễn Thị Nhài (Luận văn tốt nghiệp Thạc sỹ Lâm nghiệp 2010), Đánh giá nhận thức và cơ hội tham gia giáo dục bảo tồn của người dân sống tại Khu bảo tồn loài sinh cảnh Voọc mũi hếch Khau Ca – Hà Giang Khác
11. Uỷ ban nhân dân xã Bát Mọt, (2012), Báo cáo tình hình thực hiện mục tiêu kinh tế - xã hội, an ninh – quốc phòng năm 2011 Khác
12. Uỷ ban nhân dân xã Yên Nhân, (2012), Báo cáo tình hình thực hiện mục tiêu kinh tế - xã hội, an ninh – quốc phòng năm 2011 Khác
13. Uỷ ban nhân dân xã Lương Sơn, (2012), Báo cáo tình hình thực hiện mục tiêu kinh tế - xã hội, an ninh – quốc phòng năm 2011 Khác
14. Uỷ ban nhân dân xã Xuân Cẩm (2012), Báo cáo tình hình thực hiện mục tiêu kinh tế - xã hội, an ninh – quốc phòng năm 2011 Khác
15. Uỷ ban nhân dân xã Vạn Xuân, (2012), Báo cáo tình hình thực hiện mục tiêu kinh tế - xã hội, an ninh – quốc phòng năm 2011 Khác

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN