TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc ở một số nước trên thế giới
Trải qua nhiều thế kỷ, cây thuốc đã đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì sức khỏe và hạnh phúc của các cộng đồng trên toàn thế giới Kinh nghiệm dân gian về việc sử dụng cây thuốc chữa bệnh được nghiên cứu khác nhau tùy theo sự phát triển của từng quốc gia Nhiều công trình khoa học về cây thuốc từ các nước đã được áp dụng rộng rãi và mang lại giá trị thực tiễn lớn.
Khi nhắc đến việc chữa bệnh bằng cây cỏ, nhiều người lập tức nghĩ đến Trung Quốc, nơi có truyền thống Đông Y lâu đời Theo truyền thuyết, vua Thần Nông (Viêm Đế) đã thử nghiệm hàng trăm loại cây cỏ để phân loại dược tính và biên soạn cuốn "Thần Nông bản thảo", ghi chép 365 vị thuốc có giá trị.
Trong thời kỳ Tam Quốc, danh y Hoa Đà đã sử dụng Đàn hương và Tử đinh hương để chế hương nang nhằm phòng chống và chữa trị bệnh lao phổi và bệnh lỵ Ông cũng áp dụng hoa Cúc và Kim ngân phơi khô vào gối (hương chẩm) để điều trị đau đầu, mất ngủ và cao huyết áp Từ thời nhà Hán, cuốn sách “Thủ hậu bị cấp phương” đã ghi nhận 52 đơn thuốc từ các loại cây cỏ Đến thế kỷ XVI, Lý Thời Trân đã thống kê 12.000 vị thuốc trong “Bản thảo cương mục” Ngày nay, Trung Quốc đã phát triển nhiều công trình nghiên cứu về việc sử dụng cây cỏ trong y học.
Không chỉ có Trung Quốc, nhiều quốc gia khác cũng sở hữu những kinh nghiệm chữa bệnh lâu đời, trong đó Ấn Độ nổi bật với nền y học cổ truyền đã hình thành hơn 3000 năm trước Người Ấn Độ tập trung vào phòng ngừa bệnh tật và sử dụng các liệu pháp tự nhiên từ thực phẩm và thảo mộc để điều trị Bộ sử thi Vedas, viết vào năm 1500 TCN, cùng với cuốn Charaka Samhita, trình bày chi tiết về 350 loài thảo dược, như cây cần ami (Ammi visnaga) có hiệu quả trong điều trị hen suyễn, cây rau má (Centella asiatica) chữa bệnh phong, và đậu ba chẽ (Desmodium triangulare) dùng để chữa kiết lị và tiêu chảy Ấn Độ cũng phát triển mạnh mẽ trong nghiên cứu thảo dược, từ tổng hợp chất hữu cơ đến thử nghiệm độc tính và nghiên cứu tác dụng hóa học Chính phủ Ấn Độ hiện khuyến khích áp dụng công nghệ cao trong trồng cây thuốc, và hầu hết các viện nghiên cứu dược đã tham gia vào việc chuyển hóa các loại thuốc và hợp chất có hoạt tính từ thực vật.
Từ thời cổ đại, chiến binh La Mã đã sử dụng dịch cây Lô hội (Aloe barbadensis) để điều trị vết thương và vết loét, giúp chúng nhanh chóng lành lại, điều này đã được khoa học hiện đại chứng minh là nhờ khả năng kích thích tổ chức hạt và tăng tốc độ biểu mô hóa Người Hy Lạp cổ đại cũng đã áp dụng rau Mùi tây (Coriandrum officinale) để đắp lên vết thương nhằm thúc đẩy quá trình lành Trong thời Trung cổ ở Châu Âu, các thầy tu đã sưu tầm và nghiên cứu kiến thức về cây thuốc, trồng cây thuốc và dịch các tài liệu về thảo mộc từ tiếng Ả Rập Năm 1649, Nicolas Culpeper xuất bản cuốn sách “A Physical”.
Sau khi xuất bản cuốn "Directory", vài năm sau, tác giả cho ra mắt cuốn "The English Physician", một dược điển có giá trị và là một trong những hướng dẫn đầu tiên dành cho người không chuyên trong việc chăm sóc sức khỏe Cuốn sách này vẫn được tham khảo và trích dẫn rộng rãi cho đến ngày nay.
Galen (131-200 SCN), thầy thuốc của Hoàng đế La Mã Marcus Aurelius, đã có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của thuốc bào chế từ thảo mộc Dưới sự chỉ dẫn của Hippocrates, ông xây dựng các giả thuyết chữa bệnh dựa trên khoa học thuyết bốn thể dịch, bao gồm máu, dịch mật, u sầu và đàm Những ý tưởng của Galen đã ảnh hưởng sâu sắc đến y học trong 1400 năm sau Tương tự, tại Ấn Độ và Trung Quốc, các phương pháp trị bệnh tinh tế cũng phát triển dựa trên học thuyết bốn thể dịch và vẫn còn tồn tại đến ngày nay.
Thầy lang và các bài thuốc cổ truyền từ thực vật đóng vai trò quan trọng trong sức khỏe của hàng triệu người, đặc biệt ở châu Phi, nơi có khoảng 30.000 – 40.000 thầy lang tại Tanzania so với chỉ 600 bác sĩ Y học cổ truyền tại các quốc gia này có ảnh hưởng lớn đến sức khỏe cộng đồng Người Haiti sử dụng cây Cỏ lào (Eupatorium odoratum) để chữa vết thương nhiễm khuẩn và cầm máu, trong khi ở Peru, hạt cây Sen cạn (Tropaeolum majus L.) được dùng để trị bệnh phổi và đường tiết niệu Tại Philippines, cây Bồ cu vẽ (Breynia fructicosa) được dùng để làm thuốc cầm máu, và ở Malaysia, cây Húng chanh (Coleus amboinicus) được sử dụng cho phụ nữ sau sinh và trẻ em để trị sổ mũi, đau họng Ở Campuchia và Malaysia, Hương nhu tía (Ocimum sanctum) được dùng để trị đau bụng và sốt rét, trong khi nước lá tươi có tác dụng long đờm và điều trị các bệnh ngoài da.
Trong chương trình điều tra nguồn tài nguyên thiên nhiên ở Đông Nam Á, Perry đã ghi nhận nhiều cây thuốc trong Y học cổ truyền, trong đó có 146 loài được xác nhận có tính kháng khuẩn Gần đây, các nhà khoa học đã xuất bản cuốn sách "Tài nguyên các loài cây thuốc ở Đông Nam Á" với gần 1000 loài cây, cung cấp thông tin quý giá về cây thuốc và cây độc trong khu vực này.
Cùng với việc chữa bệnh theo kinh nghiệm dân gian, các nhà khoa học trên thế giới đang nghiên cứu cơ chế và hợp chất hóa học trong cây có tác dụng chữa bệnh, tạo ra những cuốn sách giá trị Họ nhận thấy rằng hầu hết các loại cây đều có tính kháng sinh, tức là khả năng miễn dịch tự nhiên của thực vật Tác dụng kháng khuẩn đến từ các hợp chất tự nhiên như phenolic, antoxy, quino, ancaloid, flavonoid, và saponin Nhiều hợp chất tự nhiên đã được giải mã cấu trúc và chiết xuất từ cây cỏ để phát triển thuốc Dựa vào cấu trúc này, người ta có thể tổng hợp các chất nhân tạo để điều trị bệnh.
Vào năm 1950, chất Glucosid barbaloid được phân lập từ cây Lô hội (Aloe vera) cho thấy tác dụng với vi khuẩn lao và Bacillus subtilis Lucas và Lewis (1994) chiết xuất hoạt chất có hiệu quả với vi khuẩn gây bệnh tả, lị từ Kim ngân (Lonicera sp) Từ cây Hoàng Liên (Coptis teeta), berberin đã được chiết xuất, trong khi lá và rễ cây Hẹ (Allium odorum) chứa sulfua, sapoin và chất đắng Năm 1948, Shen-Chi-Shen phân lập hoạt chất Odorin, ít độc nhưng có khả năng kháng khuẩn Hạt của cây Hẹ cũng chứa Alcaloid có tác dụng kháng khuẩn gram+ và gram- Reserpin và Serpentin, được chiết xuất từ cây Ba gạc (Rauvolfa spp.), có tác dụng hạ huyết áp Đặc biệt, Vinblastin và Vincristin từ cây Dừa cạn không chỉ hạ huyết áp mà còn có tác dụng chống ung thư Digitalin từ cây Dương địa hoàng (Digitalis spp.) và strophatin từ cây Sừng dê (Strophanthus spp.) được sử dụng làm thuốc trợ tim Những nghiên cứu về cấu trúc và hoạt tính của các hợp chất tự nhiên đã dẫn đến sự phát triển nhiều loại thuốc chữa bệnh thông qua tổng hợp hoặc bán tổng hợp.
Theo thống kê của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), đến năm 1985, có hơn 20.000 loài thực vật bậc cao và thực vật bậc thấp được sử dụng làm thuốc hoặc cung cấp hoạt chất tự nhiên cho y học, trong tổng số 250.000 loài đã biết Trong đó, vùng nhiệt đới Châu Mỹ có hơn 1.900 loài, trong khi vùng nhiệt đới Châu Á có khoảng 6.500 loài thực vật có hoa được ứng dụng trong y học Sự gia tăng sử dụng thuốc thảo dược đang trở thành xu hướng ngày càng rõ nét.
Khoảng 80% dân số ở các quốc gia đang phát triển sử dụng y học cổ truyền, chủ yếu là thảo dược Tại Trung Quốc, 80% trong số hơn 4.000 loài cây thuốc đã được sử dụng theo kinh nghiệm truyền thống Ở Ghana, Mali, Nigeria và Zambia, 60% trẻ em mắc sốt rét được điều trị bằng thảo dược tại chỗ Sự tin tưởng vào hiệu quả của thảo dược và y học cổ truyền đang gia tăng nhanh chóng ở các quốc gia phát triển Tại Châu Âu, Bắc Mỹ và một số nơi khác, ít nhất 50% dân số sử dụng thực phẩm bổ sung hoặc thuốc thay thế từ thảo mộc Ở Đức, 90% người dân lựa chọn phương thuốc có nguồn gốc thiên nhiên, trong khi Anh chi tiêu 230 triệu đô la mỗi năm cho thuốc thay thế từ thảo mộc.
Mặc dù nhu cầu sử dụng cây thuốc trong chăm sóc sức khỏe ngày càng tăng, nguồn tài nguyên thực vật đang bị suy giảm nghiêm trọng Nhiều loài thực vật đã tuyệt chủng hoặc đang bị đe dọa do hoạt động của con người Theo IUCN, trong số 43.000 loài thực vật được ghi nhận, có đến 30.000 loài đang bị đe dọa tuyệt chủng ở các mức độ khác nhau, trong đó có nhiều loài cây thuốc quý hiếm và có giá trị kinh tế cao, như Tylophora indicia ở Bangladesh, được sử dụng để chữa hen.
Zannia indicia (thuốc tẩy xổ)…trước đây mọc rất phổ biến, nay đã trở nên hiếm hoi
Loài Ba gạc (Rauvolfia serpentina) tự nhiên phát triển ở Ấn Độ, Bangladesh và Thái Lan, với khả năng cung cấp hàng ngàn tấn nguyên liệu mỗi năm cho thị trường Âu, Mỹ để sản xuất thuốc chữa cao huyết áp Tuy nhiên, do khai thác liên tục trong nhiều năm, nguồn cây thuốc này đã bị cạn kiệt, dẫn đến việc một số bang ở Ấn Độ phải đình chỉ khai thác loài Ba gạc.
Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc ở Việt Nam
Nền y học cổ truyền Việt Nam đã tồn tại từ lâu, với nhiều phương thuốc từ cây thuốc được sử dụng trong dân gian và ghi chép thành sách quý Việt Nam có nguồn tài nguyên thực vật phong phú nhờ khí hậu nhiệt đới, với khoảng 12.000 loài thực vật bậc cao, trong đó gần 4.000 loài được dùng làm thuốc Các cây thuốc được sử dụng độc vị hoặc phối hợp trong các bài thuốc cổ truyền, vẫn còn phổ biến đến ngày nay Hàng trăm loại cây thuốc đã được khoa học hiện đại chứng minh giá trị chữa bệnh, như rutin, D strophantin, berberin, palmatin, và artemisinin, được sử dụng trong nước và xuất khẩu Xu hướng nghiên cứu sâu về y học cổ truyền và tìm kiếm hợp chất tự nhiên có hoạt tính sinh học cao ngày càng thu hút sự quan tâm toàn cầu.
Ngược thời gian, ngay từ thời Hồng Bàng và các vua Hùng Vương (năm 240-
Từ năm 258 trước Công nguyên, tổ tiên ta đã sử dụng cây cỏ làm gia vị và thuốc chữa bệnh, như ghi chép trong văn tự Hán Nôm Vào đầu thế kỷ II trước Công nguyên, nhiều vị thuốc từ đất Giao Chỉ như Ý dĩ, Hoắc hương và bột đao đã được phát hiện, cùng với việc sử dụng Gừng, Hành, Tỏi trong ẩm thực hàng ngày để phòng bệnh Đến thế kỷ XVI, danh y Nguyễn Bá Tĩnh (Tuệ Tĩnh) đã phát triển nền y dược Việt Nam, với cuốn “Nam dược thần hiệu” ghi nhận công dụng của 496 vị thuốc Nam, và “Hồng nghĩa giác tứ y thƣ” tóm tắt 130 loài cây thuốc Sang thế kỷ XVIII, Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác đã xuất bản “Y Tông Tâm Tĩnh” gồm 28 tập, 66 quyển, mô tả chi tiết các loài thực vật và đặc tính chữa bệnh.
Trong thời kỳ Pháp thuộc (1884 - 1945), y học cổ truyền Việt Nam chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ dược học phương Tây, nhờ vào các phương thức chữa bệnh mới được giới thiệu trong quá trình khai thác thuộc địa Sự giao thoa này đã thúc đẩy nghiên cứu thực vật tại Việt Nam, đặc biệt là nghiên cứu cây thuốc Nổi bật trong giai đoạn này là bộ sách “Thực vật chí đại cương Đông Dương” của Lecomte, xuất bản vào cuối thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19, đã mô tả và phân loại hơn 7.000 loài thực vật.
Bộ sách “Danh mục các sản phẩm ở Đông Dương” của C Crévost và A Pétélot, xuất bản năm 1935, đã tổng hợp 1.340 vị thuốc thảo mộc sử dụng trong y học Đông Dương Tuy nhiên, cuốn sách vẫn còn thiếu sót về mô tả, phân bố, thành phần hóa học và dược lý của các loại thảo mộc này.
Trong giai đoạn 1962-1965, Đỗ Tất Lợi đã biên soạn bộ sách "Các cây thuốc và vị thuốc Việt Nam" gồm 6 tập, tổng hợp các công trình khoa học và nghiên cứu cá nhân Năm 1995, tác giả đã bổ sung và hoàn thiện công trình này, giới thiệu hơn 800 loài động vật và thực vật làm thuốc, trong đó nhiều loài được mô tả chi tiết về cấu tạo, phân bố, cách thu hái, chế biến, thành phần hóa học, công dụng và liều dùng Bộ sách này có giá trị lớn về mặt khoa học, kết hợp giữa khoa học dân gian và khoa học hiện đại.
Trong thời gian gần đây, nhiều nhà khoa học đã tiến hành nghiên cứu sâu về thành phần loài và công dụng của các cây thuốc tại Việt Nam Các công trình nghiên cứu này đã được công bố nhằm phục vụ cho việc sử dụng và phát triển các loại cây thuốc.
+ Vũ Văn Chuyên (1966) cho công bố tập “Tóm tắt đặc điểm các họ cây thuốc” (cuốn sách này đƣợc tái bản lần thứ hai vào năm 1976) [12]
+ Phạm Hoàng Hộ (1991-1993) đã xuất bản bộ sách “Cây cỏ Việt Nam” đã giới thiệu đƣợc công dụng làm thuốc của nhiều loài thực vật [22]
Theo thống kê của Viện Dược liệu năm 2001, Việt Nam có khoảng 3.800 loài cây thuốc, và nếu được nghiên cứu kỹ lưỡng, con số này có thể đạt tới 6.000 loài Điều này cho thấy tiềm năng phong phú của cây thuốc tại Việt Nam.
Võ Văn Chi (1997) trong cuốn "Từ điển cây thuốc Việt Nam" đã mô tả 3.200 loài cây thuốc, trong đó có 2.500 loài thực vật có hoa thuộc 1.050 chi, được phân loại theo hệ thống của Takhtajan Cuốn sách cung cấp thông tin về cách nhận biết, bộ phận sử dụng, nơi sống, thu hái, thành phần hóa học, tính vị và tác dụng của các loài thực vật Phiên bản tái bản năm 2012 đã nâng số lượng loài cây thuốc lên 4.700 Đến năm 1999-2000, Võ Văn Chi và Trần Hợp tiếp tục phát hành cuốn "Cây cỏ có ích ở Việt Nam" (2 tập), mô tả khoảng 6.000 loài thực vật bậc cao có mạch với đặc điểm hình thái, sinh thái, phân bố và công dụng.
Nguyen Van Duong (1993), đã xuất bản cuốn “Medicinal plants of Vietnam, Cambodia and Laos”, trong đó có 879 loài cây thuốc đƣợc mô tả [52] Trần Đình Lý
Năm 1993, một nhóm nghiên cứu đã công bố cuốn sách "1900 loài cây có ích", trong đó liệt kê 76 loài thực vật có khả năng sản xuất nhựa thơm, 160 loài chứa tinh dầu, 260 loài cho dầu béo, 600 loài có tanin, 500 loài cây gỗ quý, 400 loài tre nứa và 40 loài song mây Đặc biệt, nhiều loài trong số này được sử dụng làm thuốc, cho thấy giá trị đa dạng của thực vật ở Việt Nam.
Nhiều cuốn sách quan trọng về tài nguyên cây thuốc ở Việt Nam, như bộ sách “Danh lục các loài thực vật Việt Nam” của Nguyễn Tiến Bân và cộng sự (2003, 2005), đã cung cấp thông tin chi tiết về tên khoa học, tên thường gọi, nhận dạng, phân bố, dạng sống – sinh thái và công dụng của các loài thực vật Bộ sách này có giá trị lớn trong việc tra cứu hệ thực vật cũng như thành phần loài cây thuốc tại Việt Nam.
Trong nghiên cứu cây thuốc, không thể không kể đến nhiều bộ công trình có giá trị của Viện Dƣợc liệu (Bộ Y tế) là:
+ Đỗ Huy Bích và Bùi Xuân Chương (1980) với “Sổ tay cây thuốc Việt Nam” đã giới thiệu 159 loài cây thuốc
Tập thể tác giả Viện Dược Liệu đã công bố cuốn "Tài nguyên Cây thuốc Việt Nam" vào năm 1993, giới thiệu khoảng 300 loài cây thuốc đang được khai thác và sử dụng trên toàn quốc Đến năm 1994, họ tiếp tục phát hành "Dược điển Việt Nam" gồm 2 tập, và vào năm 2001, cuốn "Selected medicinal plants in Vietnam" cũng được ra mắt.
Từ năm 2004, Việt Nam đã chú trọng đầu tư vào nghiên cứu cây thuốc và y học cổ truyền nhằm phục vụ nhu cầu chăm sóc sức khỏe của người dân Các ngành Y tế, Lâm nghiệp và Sinh học đã thực hiện nhiều chương trình điều tra, nổi bật là nghiên cứu cây thuốc của Viện Dược liệu – Bộ Y tế trên toàn quốc Đến năm 2004, Việt Nam ghi nhận khoảng 3.948 loài cây thuốc thuộc 307 họ, bao gồm cả nấm Nghiên cứu cũng thu thập được kinh nghiệm sử dụng cây thuốc từ các cộng đồng dân tộc địa phương Đồng thời, Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật đã tiến hành nhiều công trình nghiên cứu về tri thức và kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của các dân tộc thiểu số, đặc biệt là y học cổ truyền của các dân tộc miền núi phía Bắc trong những năm gần đây.
Dự án "Bảo vệ nguồn tài nguyên cây có ích ở VQG Tam Đảo" (1997-2000) được thực hiện bởi trung tâm nghiên cứu và phát triển cây thuốc cổ truyền (CREDEP), tổ chức các Vườn thực vật Quốc tế (ICBG) và VQG Tam Đảo Dự án đã tiến hành kiểm kê và xác định mức độ bảo tồn, phân bố cũng như điều kiện sinh thái của cây thuốc, phát hiện 361 loài cây thuốc, trong đó có 25 loài ưu tiên bảo tồn Ngoài ra, dự án cũng nghiên cứu phương pháp nhân giống bằng hom để bảo tồn các loài cây này.
Nghiên cứu đã chứng minh thành công trong việc ứng dụng tri thức của đồng bào dân tộc về cây Ngấy (Rubus cochinchinesis) trong chữa trị u tiền liệt tuyến Việc sử dụng cây Ngấy không chỉ mang lại hiệu quả điều trị mà còn thể hiện giá trị văn hóa và y học cổ truyền của các dân tộc Những phát hiện này mở ra hướng đi mới trong việc phát triển các phương pháp chữa trị tự nhiên, đồng thời bảo tồn tri thức dân gian quý báu.
Lưu Đàm Cư và cộng sự (năm 2002)
Bài viết cũng đề cập đến các công trình nghiên cứu của Nguyễn Nghĩa Thìn và cộng sự (2001), tập trung vào “Cây thuốc của đồng bào dân tộc Thái ở Con” Những nghiên cứu này đóng góp quan trọng vào việc hiểu biết về giá trị y học của cây thuốc trong văn hóa dân tộc Thái.
Cuông, tỉnh Nghệ An” [43]; Phạm Quốc Hùng và Hoàng Ngọc Ý (2009) với
“Nghiên cứu tri thức bản địa trong bảo vệ rừng của người Mông tại khu BTTN
Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc ở khu BTTN Bát Xát, huyện Bát Xát, tình Lào cai [36]
Khu BTTN Bát Xát, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai, từng gặp nhiều khó khăn trong việc chăm sóc sức khỏe và khám chữa bệnh cho người dân Người dân đã tự tìm hiểu và phát hiện nhiều loài cây rừng có tác dụng chữa bệnh, giữ gìn tri thức và kinh nghiệm qua nhiều thế hệ Một số người, chủ yếu là các bà mế, ông lang, đã trồng một vài loại cây thuốc trong vườn nhà, nhưng số lượng vẫn còn hạn chế Do đó, họ vẫn tiếp tục khai thác nguồn tài nguyên cây thuốc trong rừng để chữa bệnh và trao đổi mua bán.
Tại Khu Bảo tồn thiên nhiên Bát Xát, tỉnh Lào Cai, cho đến nay chỉ có một nghiên cứu về hiện trạng tài nguyên sinh vật được thực hiện, nhằm mục đích xây dựng quy hoạch và thành lập khu vực này vào năm 2016.
Công trình đã ghi nhận 940 loài thực vật bậc cao có mạch, thuộc 550 chi và 156 họ trong 6 ngành thực vật ở Khu đề xuất BTTN Bát Xát Điều này cho thấy khu vực này chiếm 85,71% số ngành trong tổng số 7 ngành thực vật được xác định ở Việt Nam Ngành Mộc lan - Magnoliophyta là ngành có số lượng cá thể chủ đạo trong cấu trúc hệ thống thực vật tại Bát Xát.
Hệ thực vật Bát Xát rất phong phú với 851 loài, chiếm 90,53% tổng số loài ghi nhận, trong đó ngành Dương xỉ - Polypodiophyta có 71 loài (7,55%), ngành Thông đất – Lycopodiophyta có 11 loài (1,17%), và ngành Thông – Pilophyta có 5 loài (0,53%) Ngoài ra, còn có các ngành với 1 loài như Cỏ tháp bút – Equisetophyta và Khuyết lá thông - Psilotophyta Đặc biệt, Bát Xát có 156 họ thực vật, chiếm tới 41,27% tổng số họ thực vật của Việt Nam, với 378 họ.
Khu hệ thực vật này không chỉ đa dạng về thành phần loài mà còn đặc biệt với sự hiện diện của quần thể Thiết sam - Tsuga dumosa, với hơn 30 cá thể.
Tại tiểu khu 62 thuộc xã Dền Sáng, cây D.Don Eichler với đường kính ngang ngực từ 1 mét, ở độ cao 1800-1900m, cùng với các loài Đỗ quyên mộc như Rhododendron arboreum Sm ssp delavayi và Rhododendron arboreum ssp cinnamomeum có đường kính từ 30-60cm, thường mọc trong kiểu rừng kín lá rộng thường xanh á nhiệt đới Tuy nhiên, hiện nay chưa có nghiên cứu nào về cây thuốc và vị thuốc của các dân tộc tại Khu BTTN Bát Xát, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai được công bố, và các dự án bảo tồn các loài cây thuốc trong nguồn gen thực vật của khu vực này vẫn chưa được chú trọng nghiên cứu.
Tổng quan về khu vực nghiên cứu - Khu Bảo tồn thiên nhiên Bát Xát, tỉnh Lào Cai
1.4.1 Đặc điểm tự nhiên [36] a Vị trí, địa hình tự nhiên
Khu BTTN Bát Xát, với diện tích 18.637 ha, nằm ở phía Tây Bắc huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai, thuộc dãy núi Hoàng Liên Sơn Khu vực này bao gồm 5 xã: Y Tý, Dền Sáng, Sàng Mao Sáo, Trung Lèng Hồ và Nậm Pung Trong đó, diện tích rừng chiếm 15.285,05 ha và đất trống là 3.352 ha, được chia thành 20 tiểu khu: 65, 66, 69, 73, 81, 80, 88, 94, 100, 104.
+ Diện tích đất rừng của xã Y Tý: 2.631 ha;
+ Diện tích đất rừng của xã Dền Sáng: 1.120,26 ha;
+ Diện tích đất rừng của xã Sàng Ma Sáo: 3.201 ha;
+ Diện tích đất rừng của xã Trung Lèng Hồ: 11.138,74 ha;
+ Diện tích đất rừng của xã Nậm Pung: 546 ha
- Có tọa độ địa lý:
+ Từ 22 o 23' đến 22 o 37' vĩ độ Bắc;
+ Từ 103 o 31' đến 103 o 43' kinh độ Đông
Phía Đông của khu vực giáp ranh với các xã Trung Lèng Hồ, Sàng Ma Sáo, Dền Sáng, Nậm Pung và xã Mường Hum, tất cả đều thuộc huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai.
- Phía Tây giáp xã Sín Súi Hồ (huyện Phong Thổ, Lai Châu), xã Hầu Thầu,
Tả Lèng (huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu) và Trung Quốc
- Phía Nam giáp xã Bình Lư (huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu)
Khu BTTN Bát Xát, nằm ở phía Bắc giáp xã Y Tý (huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai), sở hữu địa hình phức tạp với nhiều dải núi cao và độ dốc lớn, trung bình từ 20-25 độ, hướng thấp dần về phía Đông Nam Điểm cao nhất đạt 3.059 m tại xã Trung Lèng Hồ, nằm trên ranh giới giữa Lào Cai và Lai Châu, trong khi điểm thấp nhất có độ cao 700 m, với độ cao trung bình từ 1.200-1.800 m Khu vực này có ba kiểu địa hình chính đáng chú ý.
Khu vực địa hình núi cao (N1) có diện tích 15.207,8 ha, chiếm 81,6% tổng diện tích khu KBT, nằm ở độ cao trên 1.700 m và phía Tây nam có địa hình bị chia cắt mạnh với nhiều đỉnh cao và sườn dốc đứng Đây là nơi có rừng tự nhiên tập trung, với hệ động thực vật phong phú và đa dạng, đặc trưng cho hệ sinh thái á nhiệt đới núi cao miền Bắc Việt Nam.
Kiểu địa hình núi cao trung bình (N2) tại khu bảo tồn thiên nhiên (KBT) có diện tích 2.646,4 ha, chiếm 14,2% tổng diện tích tự nhiên Kiểu địa hình này phân bố ở độ cao từ 700m đến 1.700m, chủ yếu tập trung ở khu vực trung tâm của KBT Nó được hình thành trên nền đá biến chất, chịu tác động của xâm thực mạnh và có mức độ chia cắt phức tạp, với độ dốc trung bình trên 30 độ.
Kiểu địa hình thung lũng (T1) và máng trũng (T2) trong khu bảo tồn (KBT) có tổng diện tích 782,8 ha, chiếm 4,2% tổng diện tích tự nhiên Những lòng thung lũng này hẹp và phân bố rải rác, với độ cao và độ dốc giảm dần theo hướng dòng chảy của các suối, tạo ra nhiều bãi bồi bằng phẳng và màu mỡ.
Khu BTTN Bát Xát có khí hậu nhiệt đới gió mùa nhưng chịu ảnh hưởng của địa hình núi cao, dẫn đến đặc điểm khí hậu cận nhiệt đới và ôn đới ẩm Mùa nóng kéo dài từ tháng 5 đến tháng 10, trong khi mùa lạnh từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau.
Chế độ nhiệt tại khu vực này có nhiệt độ trung bình hàng năm là 15,4 °C Vào mùa hè, nhiệt độ dao động từ 18 đến 20 °C, trong khi mùa đông nhiệt độ giảm xuống từ 10 đến 12 °C Nhiệt độ cao nhất ghi nhận được là 33 °C vào tháng 4 ở các vùng thấp, trong khi nhiệt độ thấp nhất có thể xuống từ 1 đến 2 °C Từ tháng 12 đến tháng 2 năm sau, trên các đỉnh núi cao, nhiệt độ thường dưới 0 °C và có khả năng xuất hiện tuyết rơi Tổng tích ôn trong năm đạt khoảng 7.500 đến 7.800 °C.
Chế độ mưa và ẩm tại khu vực này có lượng mưa bình quân hàng năm đạt 2.819mm, với mức cao nhất là 3.838mm và phân bố không đồng đều qua các tháng Số ngày mưa trung bình hàng năm là 199,4 ngày, với sự biến động giữa các mùa Mùa hè chiếm tới 80-85% tổng lượng mưa cả năm, trong khi mùa đông thường có mưa nhỏ Độ ẩm không khí trung bình hàng năm dao động từ 82-87%, với tháng có độ ẩm thấp nhất là 74% và cao nhất đạt 95%.
Chế độ nắng tại khu vực này có tổng số giờ nắng trung bình hàng năm là 1.344 giờ, với năm cao nhất đạt đến 1.600 giờ Số ngày nắng không đồng đều giữa các tháng, trong đó mùa hè có số giờ nắng nhiều nhất Tháng 4 hàng năm là tháng có nắng nhiều nhất, dao động từ 180 đến 200 giờ, trong khi tháng 10 lại có số giờ nắng ít nhất, chỉ khoảng 30 đến 40 giờ Lượng bốc hơi nước trung bình hàng năm ghi nhận là 865,5mm.
Khu vực nghiên cứu có hai hướng gió chính, phân bố theo mùa; vào mùa hè, gió chủ yếu đến từ Tây và Tây Bắc, trong khi mùa đông có gió từ Bắc và Đông Bắc Tốc độ gió trung bình trong khu vực này là khoảng 1,1 m/s.
Sương mù và sương muối là hiện tượng thời tiết phổ biến, đặc biệt vào mùa đông Trung bình, mỗi năm có khoảng 160 ngày có sương mù, trong khi sương muối xuất hiện khoảng 6 ngày Tuy nhiên, có những đợt sương muối kéo dài từ 3 đến 5 ngày, thậm chí có thể kéo dài tới 11 ngày.
Mưa tuyết và mưa đá là hiện tượng thời tiết đặc trưng tại các vùng núi cao, với tần suất xuất hiện từ 2 đến 4 lần mỗi năm Trong mùa đông, những ngày rét đậm, nhiệt độ tại các đỉnh cao trên 2.500m thường có tuyết phủ, thậm chí có thể xuống tới độ cao 1.500m Vào tháng 4 và 5, mưa đá cũng xuất hiện, trung bình từ 2 đến 4 lần mỗi năm, với đường kính hạt đá khoảng 1,0 cm, gây thiệt hại đáng kể cho rau màu và hoa cảnh.
Khu vực có nhiều suối chính như Lũng Pô và Sim San, đều bắt nguồn từ phía Nam dãy núi Nhìu Cồ San Suối Sín Chải lại xuất phát từ dãy núi Phan Cán Sử và Mò Phú Chải, trong khi suối Lủng Pặc là một nhánh nhỏ của suối Lũng Pô, cũng có nguồn gốc từ dãy núi này.
Ma Cheo Va và suối Tùng Sáng chảy qua địa phận xã với chiều dài khoảng 6,5 km theo hướng Đông Bắc Suối Dền Sáng có nguồn gốc từ dãy núi giáp ranh giữa hai xã Dền Sáng.
MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Mục tiêu của đề tài
Cung cấp cơ sở khoa học cho việc đề xuất giải pháp bảo tồn nguồn tài nguyên cây thuốc tại Khu BTTN Bát Xát, tỉnh Lào Cai
- Tập hợp một cách có hệ thống các loài cây làm thuốc đƣợc ghi nhận ở khu bảo tồn thiên nhiên Bát Xát, tỉnh Lào Cai
Bài viết đánh giá sự đa dạng của các taxon, bệnh lý được điều trị, bộ phận sử dụng và dạng sống của các loài thực vật làm thuốc tại khu bảo tồn thiên nhiên Bát Xát, tỉnh Lào Cai Nghiên cứu này nhằm cung cấp cái nhìn tổng quan về nguồn tài nguyên thực vật quý giá và tiềm năng ứng dụng trong y học của khu vực này.
Đối tƣợng và phạm vi nghiên
Các loài thực vật đƣợc ghi nhận làm thuốc tại khu bảo tồn thiên nhiên Bát Xát, tỉnh Lào Cai
Một số bài thuốc của đồng bào các dân tộc ở Khu BTTN Bát Xát, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai đang lưu trữ và sử dụng
- Phạm vi về nội dung: Nghiên cứu thực trạng về nguồn tài nguyên cây thuốc
- Phạm vi về không gian: Tại khu BTTN Bát Xát, Lào Cai KBTTN Bát Xát nằm trên địa bàn huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai
- Phạm vi về thời gian: Từ tháng 3-2018 đến tháng 11 năm 2018.
Nội dung nghiên cứu
2.3.1 Thành phần loài và đa dạng loài
Chúng tôi tiến hành thu thập và xử lý mẫu vật, xác định tên các loài thực vật và xây dựng danh mục các loài thực vật được ghi nhận có công dụng làm thuốc tại khu bảo tồn thiên nhiên Bát Xát, tỉnh Lào Cai.
- Phân tích đánh giá đa dạng các loài thực vật đƣợc ghi nhận làm thuốc ở khu bảo tồn thiên nhiên Bát Xát, tỉnh Lào Cai
+ Đa dạng về các bậc phân loại của các loài cây thuốc
+ Đa dạng về dạng cây của các loài cây thuốc
+ Sự phân bố các loài cây thuốc theo môi trường sống
+ Thống kê các loài cây thuốc đang bị đe dọa tại Khu bảo tồn thiên nhiên Bát Xát
2.3.2 Tình hình khai thác và sử dụng cây thuốc tại Khu BTTN Bát Xát, tỉnh Lào Cai
Thực trạng phân bố của loài, tình hình khai thác và sử dụng tại cộng đồng,…
2.3.3 Vấn đề sử dụng cây thuốc Đa dạng về công dụng chữa trị của các loài cây thuốc, bộ phận của cây đƣợc sử dụng làm thuốc Một số bài thuốc
2.3.4 Các nguyên nhân, tác động gây suy giảm và đề xuất một số giải pháp bảo tồn và phát triển nguồn tài nguyên cây thuốc tại Khu BTTN Bát Xát, tỉnh Lào Cai Điều tra về thị trường cây thuốc, tình hình khai thác tiêu thụ và bảo tồn cũng nhƣ các nguyên nhân gây suy giảm các loài cây sử dụng làm thuốc và bài thuốc dân gian Từ đó đề xuất các giải pháp bảo tồn nguồn tài nguyên cây thuốc tại Khu BTTN Bát Xát.
Phương pháp nghiên cứu
2.4.1 Điều tra thực địa theo tuyến Điều tra khảo sát sơ bộ sau đó ta tiến hành chọn tuyến điều tra Tuyến đƣợc chọn phải đảm bảo yêu cầu phải chạy qua các sinh cảnh đặc trƣng cho khu bảo tồn Trên mỗi tuyến cắt ngang chọn các ô tiêu chuẩn là những điểm chốt đặc trƣng nhất để nghiên cứu đa dạng tài nguyên cây thuốc (Theo Nguyễn Nghĩa Thìn, 1997; Nguyễn Thƣợng Dong và cộng sự, 2006)
Trên mỗi tuyến, tiến hành điều tra các loài cây đƣợc ghi nhận làm thuốc trong phạm vi 10 m mỗi bên Mỗi loài lấy 5-6 tiêu bản
Sau gần một năm thực hiện hai chuyến điều tra thực địa, với sự hỗ trợ từ Ban giám đốc Khu BTTN Bát Xát, các trạm kiểm lâm và sự hợp tác của các ông lang, bà mế, chúng tôi đã tiến hành khảo sát và thu mẫu trong khu vực nghiên cứu.
* Các tuyến điều tra thực địa là:
- Tuyến số 1 Trạm kiểm lâm Dền Sáng - Tuyến Suối Đỏ Chiều dài tuyến 2,5 km;
- Tuyến số 2 Trạm kiểm lâm Dền Sáng – Rừng Đẹp Dền Sáng Chiều dài tuyến 2,0 km;
- Tuyến số 3 Trạm kiểm lâm Y Tý – Rừng phục hồi giữa T Tý và Dền Sáng Chiều dài tuyến 2,1 km;
- Tuyến số 4 Trạm kiểm lâm Y Tý – Tiểu khu 65, 66 Chiều dài tuyến 2,8 km;
- Tuyến số 5 Trạm kiểm lâm Y Tý – Tiểu khu 56, Sối Sín Chải Chiều dài tuyến 2,8 km;
- Tuyến số 6 Trạm kiểm lâm Y Tý – theo đường tỉnh lộ 158 – thôn Nhìu Cồ San Chiều dài tuyến 2,1 km;
- Tuyến số 7 Trạm kiểm lâm xã Sàng Ma Sáo – theo đường liên thôn qua Khu Chu Phìn – tiểu khu 80 Chiều dài tuyến 3,2 km;
- Tuyến số 8 Trạm kiểm lâm xã Sàng Ma Sáo – theo đường liên thôn qua Khu Chu Phìn – Rừng phục hồi tiểu khu 73 Chiều dài tuyến 2,8 km
2.4.2 Phương pháp phỏng vấn nhanh có sự tham gia của người dân (PRA)
Trong quá trình phỏng vấn các đồng bào và cán bộ quản lý, đặc biệt là các ông lang, bà mế, lương y của các dân tộc, chúng tôi đã thu thập thông tin về việc khai thác và buôn bán cây thuốc từ rừng tại Khu BTTN Bát Xát, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai Thông qua bảng câu hỏi đã được xây dựng sẵn, chúng tôi đã sưu tầm và phát hiện nhiều bài thuốc cùng cây thuốc quý, ghi chép đầy đủ các thông tin cần thiết như công dụng, bộ phận sử dụng và cách sử dụng của từng loại cây thuốc.
- Các ông lang, bà mế, người mua bán cây thuốc đã phỏng vấn là:
+ Xã Dền Sáng: Bản Trung Trải (Ông Sùng A Hân, Ông Lý A Sử, Bà Bàn Thị Hà);
+ Xã Y Tý: Bản Sim San 2 (Ông Sùng A Tính, Ông Lý A Toàn; Bà Lý Thị Tịnh);
+ Xã Sàng Ma Sáo: Bản Sàng Ma Sáo (Bà Bùi Thị Hoan)
2.4.3 Phương pháp kế thừa và phương pháp chuyên gia
Tiến hành thu thập dữ liệu từ các nguồn thông tin đáng tin cậy như báo cáo khoa học của khu bảo tồn, kỷ yếu, tạp chí khoa học và internet để đảm bảo tính chính xác và đáng tin cậy của thông tin.
Phương pháp chuyên gia dựa vào kinh nghiệm của các chuyên gia trong việc xác định tên khoa học của các mẫu đã thu hái và các thuật ngữ liên quan đến các bệnh được chữa trị.
Các tên khoa học được xác định và kiểm tra bởi các chuyên gia phân loại thực vật tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên và Bảo tàng Thiên nhiên Việt Nam.
- Phương pháp xử lý mẫu vật, chỉnh lý tên khoa học (theo Nguyễn Nghĩa thìn,
Các tiêu bản tươi được thu thập từ thực địa và xử lý tại phòng thí nghiệm của Bộ môn Khoa học Thực vật, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN Sau khi sấy khô, các mẫu sẽ được ngâm tẩm bằng dung dịch cồn chứa 0,3%.
Sử dụng 0,5% HgCl2 để diệt khuẩn và ngăn chặn côn trùng gây hại Các mẫu tiêu bản được sấy khô, ép phẳng và trình bày trên giấy bìa cứng kích thước 28 cm x 42 cm.
Để xác định tên khoa học và thực hiện việc kiểm tra, chỉnh lý tên, cần tham khảo các tài liệu chính như tập "Cây cỏ Việt Nam" của Phạm Hoàng Hộ, "Thực vật chí Việt Nam" của nhiều tác giả, và "Danh lục các loài thực vật ở Việt Nam" cùng với nhiều tài liệu liên quan khác.
Danh mục các loài thực vật ở Việt Nam được xây dựng dựa trên hệ thống phân loại của bộ sách "Danh lục các loài thực vật ở Việt Nam" gồm 3 tập, theo nguyên tắc phát triển của các ngành thực vật từ lá thông đến thực vật hạt kín Trong từng ngành, các họ, chi, loài được sắp xếp theo thứ tự ABC Đặc biệt, ngành thực vật hạt kín được chia thành hai lớp là Hai lá mầm và Một lá mầm do khối lượng lớn, và cũng được sắp xếp tương tự Danh mục này không chỉ bao gồm tên khoa học và tên Việt Nam của các loài, mà còn cung cấp thông tin về công dụng, dạng sống, môi trường sống, bộ phận sử dụng và cách thức sử dụng các loài thực vật làm thuốc.
Bảng 1.1 Bảng danh lục các loài thực vật làm thuốc (mẫu)
Xác định các loài quý hiếm có nguy cơ bị tiêu diệt là một bước quan trọng trong việc bảo tồn đa dạng sinh học Dựa trên danh mục thực vật, chúng tôi đã lập danh sách các loài quý hiếm tại Khu Bảo tồn thiên nhiên Bát Xát, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai Các loài này được xác định là quý hiếm và có nguy cơ bị tiêu diệt dựa vào các tiêu chí từ các nghiên cứu và công trình trước đây.
+ Danh lục các loài thực vật quý hiếm của IUCN, 2017;
+ Nghị định số 32 của chính phủ về quản lý các loài động thực vật quý hiếm
Đánh giá tính đa dạng của các loài cây thuốc bao gồm việc phân tích dạng sống, môi trường sống và tần số sử dụng các bộ phận của chúng Theo nghiên cứu của Nguyễn Thượng Dong và cộng sự (2006), số lượng các bộ phận sử dụng làm thuốc cũng được xem xét để hiểu rõ hơn về giá trị và ứng dụng của các loài cây thuốc trong y học.
Sơ đồ phân bố các loài thực vật quý hiếm được xây dựng dựa trên các điểm phát hiện cây thuốc ngoài thực địa, với vị trí đã được xác định bằng GPS và ghi chú trên bản đồ điều tra (theo Nguyễn Nghĩa Thìn, 2004).
Các nhóm bệnh được phân loại theo tài liệu của Lê Trần Đức (1997) trong cuốn “Cây thuốc Việt Nam trồng hái chế biến và trị bệnh ban đầu” bao gồm nhiều loại bệnh khác nhau, mỗi loại có phương pháp điều trị và cây thuốc tương ứng.
Nhóm 1 bao gồm các bệnh ngoại cảm như cảm mạo với triệu chứng phát sốt, ớn lạnh và nghẹt mũi; cảm cúm với sốt nhẹ, sợ lạnh, đau mỏi; cảm gió lạnh gây rét run; cảm nóng do thời tiết hỗn tạp và cảm mùa hè với triệu chứng nôn mửa Ngoài ra, nhóm này cũng đề cập đến cảm cúm mùa hè với sốt dai dẳng, cảm nắng hay sốt nóng đơn thuần, sốt rét cơn, sốt dị ứng kèm phát ngứa và sưng phù Các bệnh ôn nhiệt như sốt hè thu, cùng với triệu chứng trúng gió gây méo mồm lệch mắt, trúng phong thấp hôn mê co cứng và trúng phong hàn hôn mê cũng nằm trong nhóm này, thường kèm theo chân tay lạnh.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Thành phần loài và xây dựng danh lục các loài cây thuốc tại khu BTTN Bát Xát, tỉnh Lào Cai
Trong quá trình điều tra thực địa tại Khu BTTN Bát Xát, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai, chúng tôi đã thu thập được kinh nghiệm và hiểu biết từ người dân cũng như các ông lang, bà mế Những mẫu cây làm thuốc đã được ghi nhận, thu thập, xử lý và xác định tên khoa học Kết hợp với tài liệu trước đây về nguồn tài nguyên cây thuốc, chúng tôi đã xây dựng bảng danh sách các loài cây được ghi nhận làm thuốc tại khu vực này, với kết quả nghiên cứu được trình bày trong Phụ lục 1.
Đánh giá về đa dạng các loài cây thuốc ở khu BTTN Bát Xát, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai
- Ngành Khuyết lá thông (Psilotophyta) với 1 loài, 1 chi thuộc 1 họ
- Ngành Thông đất (Lycopdiophyta) với 4 loài, 1 chi thuộc 1 họ
- Ngành Cỏ tháp bút (Equisetophyta) với 1 loài, 1 chi thuộc 1 họ
- Ngành Dương xỉ (Polypodiophyta) với 22 loài, 15 chi thuộc 11 họ
- Ngành hạt trần (Gymnospermae) hay còn gọi là ngành Thông (Pinophyta) với 2 loài, 2 chi, 2 họ
- Ngành hạt kín (Angiospermae) hay còn gọi là ngành Mộc lan (Magnoliophyta) với 362 loài, 260 chi thuộc 95 họ
3.2 Đánh giá về đa dạng các loài cây thuốc ở khu BTTN Bát Xát, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai
3.2.1 Đa dạng về các bậc phân loại của các loài cây thuốc
3.2.1.1 Đa dạng ở mức độ ngành
Theo bảng Danh lục (Phụ lục 1), Khu BTTN Bát Xát, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai có 392 loài cây thuốc, thuộc 280 chi và 111 họ trong 6 ngành thực vật Sự phân bố của các taxon được thể hiện trong bảng 3.1.
Bảng 3.1 Sự phân bố các taxon trong các ngành của các loài cây thuốc đƣợc đồng bào ở Khu BTTN Bát Xát sử dụng
Số lƣợng (%) Số lƣợng (%) Số lƣợng (%)
1 Ngành Khuyết lá thông (Psilotophyta) 1 0,9 1 0,36 1 0,26
3 Ngành Cỏ tháp bút (Equisetophyta) 1 0,9 1 0,36 1 0,26
Biểu đồ 3.1: Các taxon của các ngành đƣợc đồng bào ở Khu BTTN Bát Xát sử dụng làm thuốc
Theo bảng 3.1, sự phân bố các taxon trong các ngành thực vật cho thấy sự chênh lệch rõ rệt Ngành Hạt kín (Angiospermae) dẫn đầu với 362 loài, chiếm 92,34% tổng số loài, 260 chi (92,86%) và 101 họ (85,59%) Ngành Dương xỉ (Polypodiophyta) đứng thứ hai với 22 loài, chiếm 5,61%, thuộc 15 chi (5,36%) và 11 họ (9,91%) trong tổng số họ thực vật.
Trong 4 ngành còn lại của các loài cây thuốc là ngành Lá thông (Psilotophyta), Thông đất (Lycopodiophyta), ngành Hạt trần (Pinophyta) và Ngành Cỏ tháp bút (Equisetophyta) thì số lƣợng và tỉ lệ của các họ, chi, loài so với toàn hệ là rất thấp, trong đó có 3 ngành có số lƣợng họ, chi, loài bằng nhau là ngành Hạt trần (Pinophyta), Lá thông (Psilotophyta) và Ngành Cỏ tháp bút (Equisetophyta), mỗi ngành chỉ có 1 họ, 1 chi với 1 loài
So sánh sự phân bố các taxon cây thuốc tại Khu BTTN Bát Xát, huyện Bát Xát với các taxon cây thuốc trên toàn Việt Nam, chúng tôi đã thu được những kết quả đáng chú ý, được trình bày chi tiết trong bảng 3.2.
Bảng 3.2 So sánh hệ cây thuốc ở Khu BTTN Bát Xát, huyện Bát Xát với hệ cây thuốc Việt Nam
Các chỉ tiêu so sánh
Tỉ lệ so sánh của Khu BTTN Bát Xát với Việt Nam (%)
Khu BTTN Bát Xát, mặc dù chỉ chiếm 0,06% diện tích cả nước Việt Nam, nhưng lại sở hữu 100% số ngành thực vật làm thuốc Trong đó, số họ thực vật chiếm 36,15%, số chi chiếm 17,81% và số loài chiếm 10,18% so với tổng số ngành, họ, chi, loài cây thuốc trên toàn quốc.
Kết quả nghiên cứu cho thấy Khu BTTN Bát Xát có sự đa dạng cao về số lượng loài cây, với tỷ lệ các taxon trong hệ thực vật thuốc đạt 13,76% so với toàn quốc, cho thấy tầm quan trọng của khu vực này trong bảo tồn và phát triển nguồn cây thuốc.
Khu BTTN Bát Xát, nằm ở độ cao lớn so với mực nước biển tại tỉnh Lào Cai, có hệ thống giao thông khó khăn và chủ yếu là nơi sinh sống của đồng bào dân tộc Mông và Dao Do điều kiện giao thông hạn chế, người dân nơi đây thường sử dụng cây cỏ làm thuốc và hiểu biết về giá trị của chúng Để làm rõ sự đa dạng của các taxon thực vật, chúng tôi đã tiến hành phân tích sâu hơn về ngành Hạt kín, ngành có số lượng loài phong phú nhất trong giới thực vật, bao gồm hai lớp: Lớp hai lá mầm (Dicotyledoneae) và lớp một lá mầm (Monocotyledoneae), với kết quả được trình bày trong bảng 3.3.
Bảng 3.3 Sự phân bố các taxon trong ngành Hạt kín
Số lƣợng (%) Số lƣợng (%) Số lƣợng (%)
(Dicotyledoneae) 79 83,16 228 87,69 310 85,63 Lớp Một lá mầm
Lớp Hai lá mầm (Dicotyledoneae hay Ngọc lan - Magnoliopsida) chiếm ưu thế trong ngành Hạt kín với 310 loài, tương ứng 85,63% tổng số loài, 228 chi (87,69%) và 79 họ (83,16%) Nhiều loài trong lớp này có giá trị kinh tế cao như Giảo cổ lam (Gynostemma pentaphyllum), Hoàng liên ô rô (Mahonia nepalensis), Ba gạc lá to (Rauvolfia latifrons), Sơn dịch (Aristolochia sp.), Hoàng liên gai (Berberis julianae), Ích mẫu (Leonurus japonicus) và Tế hoa (Asarum balansae).
Lớp Một lá mầm (Monocotyledoneae hay Liliopsida) có tỷ trọng thấp hơn trong ngành Hạt kín, với chỉ 52 loài (14,37%), 32 chi (12,31%) và 16 họ (16,84%) Dù vậy, nhiều loài trong lớp này như Gừng (Zingiber officinalis), Dứa bắc bộ (Pandanus tonkinensis) và Thạch hộc (Dendrobium nobile) đã được chứng minh có hiệu quả trong việc chữa trị bệnh.
Sâm cau hoa đầu (Curculigo capitulata),…
3.2.1.2 Sự đa dạng ở mức độ họ Để thấy tính đa dạng số lƣợng loài cây thuốc trong các họ, chúng tôi tổng kết sự phân bố của chúng trong các ngành, số liệu đƣợc thể hiện ở bảng 3.4
Bảng 3.4 Sự phân bố số lƣợng các loài cây thuốc trong các họ của các ngành thực vật
Tỷ lệ % so với toàn hệ
Tỷ lệ % so với toàn hệ
Theo bảng 3.4, ngành Lá thông (Psilotophyta), Hạt trần (Gymnospermae) và ngành Cỏ tháp bút (Equisetophyta) không có họ nào có số lượng loài lớn hơn 1 Ngành Thông đất (Lycopodiophyta) cũng không có họ nào đạt tới 5 loài, trong khi ngành Dương xỉ (Polypodiophyta) chỉ có 1 họ với số lượng loài hạn chế.
Ngành hạt kín (Angiospermae) bao gồm 25 họ thực vật với ít nhất 5 loài mỗi họ, chiếm 22,73% tổng số họ Trong số này, có 22 họ thuộc lớp Hai lá mầm và 3 họ thuộc lớp Một lá mầm.
Trong số các họ thực vật, chỉ có hai họ có số lượng loài vượt quá 15, chiếm 1,80% tổng số họ nhưng lại có tới 45 loài, tương đương 6,38% tổng số loài đã được ghi nhận Hai họ này bao gồm họ Cúc (Asteraceae) với 20 loài và họ Bạc hà (Lamiaceae) với 25 loài.
Trong tổng số 82 loài thực vật, có 7 họ chiếm 20,92% tổng số loài, bao gồm: họ Thầu dầu (Euphorbiaceae), họ Đậu (Fabaceae), và họ Lan (Orchidaceae) với 13 loài mỗi họ; họ Dâu tằm (Moraceae) có 12 loài; và họ Cam (Rutaceae) cùng họ Hoa hồng (Rosaceae) với 10 loài mỗi họ.
Trong tổng số 18 họ thực vật, có từ 5-9 loài, với 115 loài chiếm 30,58% Một số họ tiêu biểu bao gồm họ Hoa mõm chó (Scrophulariaceae), họ Nhân sâm (Araliaceae), họ Đơn nem (Myrsinaceae), họ Cỏ roi ngựa (Verbenaceae) và họ Mao lương (Ranunculaceae), mỗi họ đều có 8 loài Ngoài ra, họ Mua (Melastomataceae) và họ Rau răm cũng có 7 loài mỗi họ.
Số họ chỉ có 1 loài chiếm số lƣợng nhiều nhất với 48 họ chiếm 37,27% tổng số họ nhƣng chỉ chiếm 10,90% tổng số loài
Vấn đề sử dụng cây thuốc ở khu BTTN Bát Xát, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai 43 1 Sự đa dạng về tần số sử dụng của các bộ phận
3.3.1 Sự đa dạng về tần số sử dụng của các bộ phận
Nghiên cứu về các bộ phận sử dụng của cây thuốc giúp tối ưu hóa nguồn nguyên liệu và phân tích thành phần hóa học cũng như dược tính Theo kinh nghiệm Y học cổ truyền, các bộ phận khác nhau của cây được áp dụng cho những mục đích chữa bệnh khác nhau, và ngay cả cùng một bộ phận cũng có thể có tác dụng khác nhau tùy thuộc vào cách sử dụng của thầy thuốc Chúng tôi đã thống kê các bộ phận của các loài cây thuốc được sử dụng tại Khu BTTN Bát Xát để chữa bệnh, với kết quả được trình bày trong bảng 3.8 và biểu đồ 3.4.
Bảng 3.8 Sự đa dạng trong các bộ phận đƣợc sử dụng làm thuốc
TT Các bộ phận sử dụng Số loài Tỷ lệ % so với tổng số
4 Rễ, Củ (gồm cả thân củ) 67 17,09
Ghi chú: Tổng số loài và tổng số % lớn hơn 100% do một loài có nhiều bộ phận sử dụng khác nhau
Theo thống kê, lá cây là bộ phận được sử dụng nhiều nhất với 203 loài, chiếm 51,79% tổng số loài Lá thường được sử dụng ở dạng tươi, có thể uống nếu không độc, hoặc sử dụng sống và đun lên Một số loài cây tiêu biểu bao gồm Ngải cứu (Artemisia vulgaris L.), Nhọ nồi (Eclipta prostrata), Cúc móng ngựa (Petasites sp.), Ráng seo gà nửa lông chim (Pteris semipinnata L.) và Thu hải đường xẻ (Begonia pedatifida).
H Lévl.), Khúc vàng (Gnaphalium hypoleucum DC ex Wight), hay giã nhỏ đắp nhƣ Thuốc bỏng (Kalanchoe pinnata (Lamk.) Pers.), Thóc lép hoa thƣa (Desmodium laxiflorum) hoặc đun để tắm, ngâm chữa ghẻ lở, ngứa, ban, nấm nhƣ
Lá ngón (Gelsemium elegans), Cam thảo nam (Scoparia dulcis) và Bời lời bao hoa đơn (Litsea monopelata) có thể được sử dụng dưới dạng phơi khô, sắc hoặc nấu nước uống Các loại lá như Dung lá thon (Symplocos lancifolia), Ngọc nữ răng (Clerodendrum serratum) và Thạch xương bồ (Acorus gramineus) cũng có thể được sử dụng tương tự Ngoài ra, lá có thể được dùng riêng như Bã thuốc (Lobelia nicotianifolia) hoặc kết hợp với các loại cây khác như Đỗ trọng (Eucommia ulmoides) và Tía tô (Perilla frutescens) để chữa bệnh Như vậy, lá cây được sử dụng đa dạng cả về cách thức và công dụng.
Biểu đồ 3.4 Tỷ trọng sự phân bố số lƣợng các bộ phận sử dụng làm thuốc
Ghi chú: 1 lá; 2 Toàn cây; 3 Thân, cành, vỏ thân; 4 Rễ, Củ (gồm cả thân củ); 5 quả; 6 Hoa, nụ hoa; 7 Hạt, 8 Nhựa mủ; 9 Lông
Trong số các loài cây được sử dụng làm thuốc, có 141 loài sử dụng cả cây, trong khi 112 loài sử dụng bộ phận thân cây, chiếm 28,57% tổng số loài Phần lớn các loại thân cây này được băm nhỏ, phơi khô và sắc uống, trong đó một số ít được đun sôi như Giảo cổ lam (Gynostemma pentaphyllum) và Chùm gửi (Macrosolen cochinchinensis).
Blume in Schult, Rè lơ công (Neocinnamomum lecomtei H Liou), and Tầm gửi thường (Helixanthera parasitica L.) are notable plants used for medicinal purposes, often consumed as herbal teas Additionally, Nhị rối (Isodon coetsa), Giổi xanh (Michelia mediocris Dandy), and Luân thảo lá tròn (Rotala rotundifolia) are recognized for their therapeutic properties and are commonly utilized in traditional remedies.
Roxb Koehne hay giã đắp có tác dụng chữa trị các bệnh ngoài da và vết thương như rắn cắn Một số loại cây khác như Mỏ quạ nam (Maclura cochinchinensis), Vú bò (Ficus hirta) và Chè vằng (Jasminum nervosum) cũng được sử dụng trong y học cổ truyền Thân cây thường được dùng để điều trị nhiều bệnh lý như viêm gan, bệnh thận, rối loạn tiêu hóa, thấp khớp, gãy xương và ghẻ lở.
Bộ phận rễ và củ của nhiều loài thực vật được coi là hiệu quả trong việc chữa trị bệnh, với 67 loài, chiếm 17,09% tổng số loài Rễ cây có thể được chế biến thành nhiều dạng như giã hoặc đun tươi để uống, ví dụ như Nhàu tán (Morinda umbellata) và Hoàng tinh hoa trắng (Disporopsis longifolia) Ngoài ra, một số loại rễ như Ké hoa vàng (Sida rhombifolia L.) và Muồng truổng (Zanthoxylum avincennae) cũng có thể được phơi khô và sắc uống Các loài khác như Nắm cơm (Kadsura coccinea) và Nữ lang cẩu tích (Valeriana hardvickii Wall in Roxb.) cũng đóng góp vào việc sử dụng rễ trong y học.
(Clerodendrum chinense (Obeck) Mabb.) Rễ chủ yếu chữa các bệnh nhƣ đau xương, trị giun sán, xoa bóp, thanh nhiệt, bồi bổ cơ thể,
Các bộ phận như hoa, quả, hạt cũng được sử dụng nhưng không phổ biến như thân, rễ, lá Một số loài như hoa Tế hoa (Asarum balansae) và Kim ngân (Lonicera japonica) có tác dụng bồi bổ cơ thể và làm mát da Hoa Hoa tiên (Asarum glabrum Merr.) có khả năng chữa bệnh ăn không tiêu và đau bụng Nhiều loài thực vật như Thảo quả (Amomum aromaticum), Đu đủ (Carica papaya), Dọc (Garcinia multiflora Champ ex Benth.), và Rau ngót (Sauropus androgynus) không chỉ có tác dụng chữa bệnh mà còn là thực phẩm ngon miệng.
Một số loài có thể sử dụng hạt để chữa bệnh nhƣ Hầu vĩ tóc (Uraria crinita (L.)
Desv.), Trẩu (Vernicia spp.), Nghể nước (Polygonum hydropiper), hay lấy hạt chế tinh dầu như Re hương (Cinnamomum parthenoxylon (Jack.) Meisn.)…
Bên cạnh đó, các loài cây có thể lấy nhựa mủ để chữa bệnh chiếm tỷ lệ ít (chỉ
Ba loài thực vật chiếm 0,76% tổng số loài được ghi nhận, với cách sử dụng nhựa mủ độc đáo trong các bài thuốc dân gian Ví dụ, Sổ đất (Dillenia hookeri Pierre) và Dọc (Garcinia multiflora Champ ex Benth.) được sử dụng để chữa các bệnh như đau răng, hen suyễn Ngoài ra, lông cu li (Cibotium barometz) có thể được lấy từ thân cây để cầm máu.
3.3.2 Sự đa dạng về số lượng các bộ phận của từng loài được sử dụng Đối với các loài cây thuốc, mỗi loài cây có thể chỉ một bộ phận đƣợc sử dụng (thân hay rễ hay lá) nhƣng có loài lại có nhiều bộ phận đƣợc sử dụng nhƣ (thân và lá; hoa và hạt; vỏ của thân, quả và rễ,…), nhiều loài cả cây có tác dụng chữa bệnh (nếu có cả thân, rễ, lá chúng tôi xếp vào cả cây) Nhiều bệnh phải kết hợp nhiều bộ phận hay nhiều cây mới có tác dụng tốt Đôi khi trong một cây bộ phận này có ích nhưng bộ phận khác lại gây độc Từ số liệu điều tra được, chúng tôi bước đầu thống kê nhƣ sau:
- Số loài cây có 1 bộ phận sử dụng là 110 loài, chiếm 28,06% tổng số loài
- Số loài cây có 2 bộ phận sử dụng là 132 loài, chiếm 33,67 % tổng số loài
- Số loài cây có thể sử dụng cả cây là 141 loài, chiếm 35,96% tổng số loài
Trong tổng số loài cây, có 9 loài sử dụng từ 3 bộ phận trở lên, chiếm 2,30% Kết quả cho thấy, các bộ phận thường được sử dụng làm thuốc chủ yếu là toàn cây hoặc hai bộ phận, với 141 loài sử dụng toàn cây (35,96%) và 132 loài sử dụng hai bộ phận (33,67%) Các loài sử dụng hai bộ phận thường là cây gỗ và bụi, trong khi các loài sử dụng toàn cây thường là cây thân thảo Ngoài ra, việc sử dụng một bộ phận của cây cũng chiếm tỷ lệ cao với 110 loài, tương đương 28,06%.
3.3.3 Các nhóm bệnh được chữa trị bởi các loài cây thuốc ở Khu BTTN Bát Xát, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai
Kinh nghiệm từ Y học cổ truyền cho thấy một số cây thuốc có khả năng chữa trị nhiều loại bệnh, trong khi những bệnh khác lại cần sự kết hợp của nhiều loại cây để đạt hiệu quả điều trị cao nhất.
Theo tài liệu của Lê Trần Đức (1997) trong cuốn "Cây thuốc Việt Nam trồng hái chế biến và trị bệnh ban đầu", việc sử dụng các cây thuốc dân tộc để chữa bệnh có thể được phân loại theo từng nhóm bệnh Thông tin chi tiết về phân loại này được thể hiện rõ trong bảng 3.9.
Bảng 3.10 chỉ ra rằng người dân sử dụng nhiều loại cây thuốc để chữa trị các nhóm bệnh khác nhau, cho thấy sự phong phú và đa dạng của tài nguyên cây thuốc tại đây Đặc biệt, tỷ lệ cây thuốc chữa các bệnh thuộc nhóm "tiết niệu và gan thận", "các bệnh về tiêu hóa" và "các bệnh đau nhức" là cao nhất.
Đề xuất các giải pháp bảo tồn các loài cây thuốc và nguồn tri thức bản địa
3.4.1 Tình hình khai thác, sử dụng và thị trường nguồn dược liệu và các bài thuốc dân gian
Các cộng đồng dân tộc ở huyện Bát Xát, đặc biệt là Khu BTTN Bát Xát, đã sử dụng cây cỏ để chăm sóc sức khỏe ban đầu cho gia đình Người dân nơi đây vẫn duy trì hoạt động thu hái, chế biến và bán các sản phẩm thuốc có nguồn gốc từ rừng, với nhiều hộ gia đình, đặc biệt là người Dao và H’Mông, coi đây là nghề chính Mặc dù hoạt động buôn bán cây thuốc không diễn ra sôi động, nhưng vẫn diễn ra thường xuyên tại cộng đồng và chợ Bát Xát, cũng như ở các tỉnh phía Bắc khác.
Hoạt động thu hái và chế biến thuốc tại các xã huyện Bát Xát còn hạn chế do sự quản lý nghiêm ngặt từ cán bộ Khu BTTN Bát Xát và hiểu biết của người dân về cây thuốc dân tộc chưa cao Chỉ một số ít người dân thực hiện thu hái tự do từ rừng để bán ra thị trường.
Khu BTTN Bát Xát, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai, với dân số chủ yếu là người H’Mông và Dao, có nhu cầu sử dụng cây thuốc rất cao Tri thức về cây thuốc của người Dao và H’Mông đóng vai trò quan trọng trong việc chăm sóc sức khỏe ban đầu, từ các bệnh thông thường như cảm cúm đến những bệnh phức tạp hơn Bên cạnh việc sử dụng cây thuốc cho cộng đồng, người dân còn khai thác để buôn bán, đặc biệt là phục vụ nhu cầu của khách du lịch tìm kiếm cây thuốc tự nhiên Tuy nhiên, việc khai thác này diễn ra mạnh mẽ đã dẫn đến tình trạng nhiều loài cây thuốc đặc hữu gần như biến mất Một lượng lớn cây thuốc từ Bát Xát được bán sang huyện Sa Pa, nơi có thị trường tiềm năng hơn, đặc biệt là cho dịch vụ tắm thuốc phục vụ khách du lịch của người Dao đỏ.
Một số loài cây thuốc có trữ lượng lớn trong thiên nhiên có thể được khai thác hợp lý, đảm bảo sự tái sinh như Thạch xương bồ (Acorus gramineus), Giảo cổ lam (Gymnopetalum laxum), Nhân trần (Acrocephalus indicus), Bọ mẩy (Clerodendrum crytophylum), Kim ngân (Lonicera sp.), và Huyết đằng (Sagentodoxa cuneata).
Nhiều cây thuốc có trữ lượng tự nhiên hạn chế và tỷ lệ tái sinh kém đang bị khai thác mạnh mẽ, thậm chí một số loài bị khai thác tận diệt như lông culi (Cibotium barometz), bình vôi (Stephania sp.) và hoàng liên gai (Berberis julianae), dẫn đến nguy cơ mất nguồn dược liệu quý giá.
Người dân địa phương, bao gồm cả người H’mông và Dao, không chỉ thu hoạch các loại cây thuốc như Schneid, Hoàng liên ô rô (Mahonia nepalensis DC.) và Hoàng liên trung hoa (Coptis chinensis Franch.) để sử dụng cá nhân mà còn khai thác để bán trong nội tỉnh, phục vụ cho khách du lịch Họ còn có khả năng mở rộng thị trường bằng cách bán sản phẩm sang các tỉnh khác hoặc xuất khẩu sang Trung Quốc.
Theo thống kê, nhu cầu thị trường hiện nay đối với một số loại dược liệu như Sa nhân, Thảo quả, Bình vôi, Chè dây và Tam thất đang rất lớn Giá cả của các sản phẩm này tương đối cao, phản ánh sự quan tâm và tiềm năng phát triển trong ngành dược liệu.
Bảng 3.11 Thống kê thị trường và tình trạng một số loại thảo dược hiện có tại
Khu BTTN Bát Xát (thời điểm điều tra tháng 5 năm 2018)
TT Tên thảo dƣợc Đơn giá
Mức độ hiện có trong rừng
1 Củ gió 180.000 Bình thường Hiếm thấy
2 Đỗ trọng 100.000 Bình thường Trung bình
4 Hoàng liên 250.000 Lớn Rất hiếm
5 Chè dây 30.000 Bình thường Nhiều
6 Bình vôi 40.000 Bình thường Hiếm thấy
10 Giảo cổ lam 70.000 Lớn Trung bình
Theo phản ánh của người dân, việc tìm kiếm các loại cây thuốc hiện nay trở nên khó khăn hơn, khi phải vào sâu trong rừng Nhiều loài cây từng phổ biến giờ chỉ còn xuất hiện ở những khu vực cao và xa, trong khi những cây lớn trước đây đã biến mất, chỉ còn lại những cây nhỏ.
Theo nghiên cứu của Nguyễn Nghĩa Thìn và cộng sự (2008), nhiều loài thực vật như Đẳng sâm, Hoa tiên, Bình vôi, và Hoàng liên, vốn phổ biến trước năm 1980, hiện nay đã trở nên hiếm gặp do bị khai thác làm thuốc và thương phẩm, cùng với sự mất mát sinh cảnh.
3.4.2 Mối nguy cơ đối với tài nguyên tại khu vực nghiên cứu:
Mặc dù Ban lâm nghiệp xã Khu BTTN Bát Xát đã nỗ lực bảo vệ rừng, tài nguyên rừng và cây thuốc đang đối mặt với nhiều thách thức Hoạt động của người dân đã làm suy giảm sự phát triển tự nhiên của các loài cây thuốc, nhiều loài bị khai thác bất hợp lý Các mối nguy cơ đối với nguồn tài nguyên tại khu vực nghiên cứu cần được chú ý.
Việc lấn chiếm và mở rộng diện tích canh tác nương rẫy đang gây ra sự thu hẹp của các khu vực phân bố tự nhiên, đe dọa sự tồn tại của các loài thực vật bản địa và các loài quý hiếm Nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng này là do diện tích đất nông nghiệp phục vụ sản xuất còn hạn chế, cùng với năng suất cây trồng và vật nuôi thấp, gây ra tình trạng thiếu lương thực Mặc dù diện tích đất nhà ở và đất làm vườn có tăng lên, nhưng chủ yếu là do việc tách hộ gia đình.
Vì vậy người dân phải đốt phá rừng làm nương rẫy để đảm bảo cuộc sống
Phá rừng để trồng thảo quả đang gia tăng do cây thảo quả mang lại thu nhập cao, trung bình khoảng 150.000 đồng/kg, với mỗi hecta thu được 1 tấn thảo quả khô Loài cây này phát triển tốt dưới tán rừng tự nhiên với độ che phủ khoảng 40% và độ ẩm cao Để canh tác, người dân phải tỉa bớt cây trên tán rừng, chặt bỏ cây bụi và thảm thực vật, và trong mùa thu hoạch, họ tiếp tục chặt cây trong rừng để sấy thảo quả Việc mở rộng diện tích trồng thảo quả do đó làm gia tăng nguy cơ phá rừng.
Săn bắt động thực vật hoang dã và khai thác lâm sản ngoài gỗ trái phép đang đe dọa nghiêm trọng đến sinh cảnh của các loài quý hiếm, đặc biệt tại thị trấn Bát Xát, nơi dễ dàng mua được các vị thuốc quý Thị trường lâm sản non gỗ (LSNG) ở Bát Xát rất đa dạng và phong phú, cho thấy sự ảnh hưởng nghiêm trọng đến tài nguyên thực vật Các sản vật đặc biệt như Hoàng liên gai và Hoàng liên chân gà, được nhiều người tìm kiếm không chỉ để du lịch mà còn để sở hữu “linh dược” cho sức khỏe, đã thúc đẩy việc khai thác chúng mạnh mẽ hơn Xu hướng khai thác LSNG trái phép đang gia tăng do nhu cầu thị trường ngày càng cao.
Người dân bản địa đang khai thác gỗ quý hiếm một cách trái phép để phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày, bao gồm việc bán gỗ, xây dựng nhà ở, làm vật dụng và chuồng trại chăn nuôi.
Lửa rừng là một trong những nguyên nhân chính gây suy giảm đa dạng sinh thái, vì nó không chỉ tiêu diệt toàn bộ cây cối trên mặt đất mà còn ảnh hưởng đến các vi sinh vật dưới đất Việc khôi phục các khu rừng bị cháy đòi hỏi thời gian dài và chi phí tốn kém.
- Diện tích rừng lớn nhƣng số lƣợng Kiểm lâm không đủ để đáp ứng yêu cầu về kiểm tra, giám sát và quản lý rừng
3.4.3 Các giải pháp nhằm bảo tồn tài nguyên cây thuốc và bài thuốc dân gian