Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Ý nghĩa khoa học
Các nghiên cứu đã cung cấp cơ sở khoa học vững chắc để đề xuất các nguyên tắc và giải pháp nhằm quản lý bền vững tài nguyên rừng tại khu bảo tồn Mường Nhé, tỉnh Điện Biên.
Ý nghĩa thực tiễn
Các giải pháp đề xuất nhằm hỗ trợ ban quản lý Khu bảo tồn thiên nhiên Mường Nhé, tỉnh Điện Biên trong việc nâng cao hiệu quả quản lý bền vững tài nguyên rừng tại khu vực nghiên cứu.
- Áp dụng được lý thuyết đã học vào thực tiễn và học hỏi thêm được những kiến thức bổ ích từ bên ngoài trường
Củng cố kiến thức cơ sở và chuyên ngành là rất quan trọng để phục vụ cho công việc sau này Đồng thời, việc tích lũy kinh nghiệm thực tiễn sẽ giúp bạn tự tin hơn khi bước vào môi trường làm việc.
- Rèn luyện về kỹ năng nghiên cứu khoa học: kỹ năng tổng hợp vàphân tích số liệu và viết báo cáo khoa học.
Trên thế giới
Lịch sử hình thành và phát triển rừng đặc dụng
Theo định nghĩa của IUCN (1994), bảo tồn đa dạng sinh học là mục tiêu cơ bản của Khu bảo tồn thiên nhiên (KBTTN), được xác định là khu vực được khoanh vùng để bảo vệ đa dạng sinh học và tài nguyên thiên nhiên Khu bảo tồn thiên nhiên hiện đại bắt nguồn từ thế kỷ 19, với Vườn quốc gia Yellowstone, thành lập năm 1872 tại Mỹ, là vườn quốc gia đầu tiên trên thế giới Tuy nhiên, việc thành lập các KBTTN và VQG thường dẫn đến xung đột giữa cộng đồng địa phương và các cơ quan quản lý, do người dân bị cấm tiếp cận tài nguyên trong khu vực này Hầu hết các KBTTN được thiết lập với mục đích quốc gia mà không xem xét nhu cầu của người dân địa phương, dẫn đến việc họ mất quyền tiếp cận tài nguyên thiên nhiên, trong khi sự phụ thuộc của họ vào tài nguyên này là rất lớn, đặc biệt tại các nước Đông Nam Á.
Trong vài thập kỷ qua, số lượng và diện tích các khu bảo tồn thiên nhiên (KBTTN) trên thế giới đã tăng lên đáng kể Hiện tại, toàn cầu có khoảng 100.000 khu BTTN, cho thấy sự gia tăng nhận thức về tầm quan trọng của việc bảo vệ môi trường và đa dạng sinh học.
Theo báo cáo năm 2014, các khu bảo tồn thiên nhiên (KBTTN) chiếm 11,7% diện tích đất liền toàn cầu, với vườn quốc gia là loại hình chiếm diện tích lớn nhất, tiếp theo là các khu bảo tồn loài và sinh cảnh Tuy nhiên, việc thực hiện một hệ thống quản lý hiệu quả để khai thác các lợi ích tiềm năng của KBTTN vẫn là thách thức lớn ở nhiều nơi trên thế giới, bao gồm cả Việt Nam.
Tổ chức quản lý rừng đặc dụng
Công ước ĐDSH (1992) nhấn mạnh vai trò quan trọng của các khu bảo tồn thiên nhiên (BTTN) trong việc bảo tồn đa dạng sinh học "tại chỗ" Điều 8 của công ước quy định rằng các quốc gia tham gia có trách nhiệm thiết lập hệ thống các KBTTN, xây dựng hướng dẫn cho việc lựa chọn và quản lý các khu này, cũng như quản lý tài nguyên sinh học nhằm đảm bảo bảo tồn và sử dụng bền vững.
Trong quá trình hình thành và phát triển các khu bảo tồn thiên nhiên (KBTTN), mỗi quốc gia có cách tiếp cận riêng, không có tiêu chuẩn hay thuật ngữ chung, gây khó khăn cho việc chia sẻ ý tưởng và kinh nghiệm về KBTTN toàn cầu Nỗ lực đầu tiên nhằm làm rõ thuật ngữ và phân hạng KBTTN bắt đầu từ năm 1993 Hệ thống phân hạng quốc tế KBTTN đầu tiên được IUCN xây dựng và công bố vào năm 1978, được gọi là hệ thống phân hạng năm 1978.
Hệ thống phân hạng 1978 của IUCN bao gồm 10 phân hạng và đã được áp dụng rộng rãi trên toàn cầu, đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng "Danh mục các KBTTN của Liên hiệp quốc năm 1993" Tuy nhiên, sau khi áp dụng, hệ thống này đã bộc lộ nhiều thiếu sót cần được khắc phục.
Năm 1984, IUCN đã bắt đầu xem xét và đề xuất cập nhật hệ thống phân hạng các khu bảo tồn thiên nhiên Hệ thống phân hạng quốc tế hiện tại của IUCN được công bố vào năm 1994, dựa trên việc cập nhật từ hệ thống phân hạng năm 1978.
Các nghiên c ứ u v ề tài nguyên r ừng đặ c d ụ ng
Tại Nepal, các chương trình bảo tồn đa dạng sinh học đã đạt được một số thành công, nhưng xung đột vũ trang đã ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động bảo tồn và động vật hoang dã Nghiên cứu tại VQG Bardia và vùng đệm phía tây Nepal cho thấy 73% người dân địa phương phụ thuộc vào nông nghiệp và nguồn tài nguyên tự nhiên Tương tự, ở Ấn Độ, khoảng 275 triệu người dân nông thôn phụ thuộc vào rừng, với những khu rừng thiêng được bảo vệ từ lâu, nhờ vào truyền thống thờ cúng Những khu rừng này không chỉ là di sản tự nhiên mà còn cung cấp các sản phẩm như cây thuốc và gỗ khô, mặc dù việc khai thác gỗ bị cấm Nghiên cứu về lâm nghiệp cộng đồng cho thấy các khu rừng này có tiềm năng lớn trong việc xóa đói giảm nghèo và đồng thời hỗ trợ cho mục tiêu bảo tồn.
Sự phụ thuộc lẫn nhau giữa bảo tồn đa dạng sinh học và phát triển đã trở thành một chủ đề quan trọng trong các hội thảo và diễn đàn khoa học gần đây Các cuộc thảo luận này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc cân bằng giữa việc bảo vệ môi trường và thúc đẩy sự phát triển bền vững.
6 năm 1992, tại Hội nghị Liên hiệp quốc về Môi trường và Phát triển bền vững ở Rio
De Janeiro, vấn đề này đã chính thức được công nhận (dẫn theo Ngô Ngọc Tuyên,
Các mô hình ở Đông Nam Á cho thấy nỗ lực của chính phủ trong việc di dời dân cư khỏi khu bảo tồn thiên nhiên (KBT) không đạt được kết quả mong muốn về quản lý tài nguyên rừng (TNR) và kinh tế xã hội Việc đưa người dân quen thuộc với vùng đất của họ đến nơi ở mới giống như “bắt cá khỏi nước”, khiến cho các lực lượng khác có thể xâm lấn và khai thác TNR mà không có sự bảo vệ Người dân địa phương sở hữu nhiều kiến thức truyền thống về sử dụng tài nguyên thiên nhiên, và các thể chế cộng đồng đã chứng tỏ hiệu quả trong việc quản lý các nguồn tài nguyên này.
Trước những thách thức trong công tác bảo tồn tại các VQG và KBT trên toàn cầu, từ những năm 1980, nhiều dự án nghiên cứu và hội thảo quốc tế đã được tổ chức với sự tham gia của các nhà khoa học nhằm đề xuất những thay đổi trong chiến lược bảo tồn Một chiến lược mới đã dần hình thành, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc liên kết quản lý KBTTN và VQG với các hoạt động sinh kế của người dân địa phương Đặc biệt, sự tham gia bình đẳng của cộng đồng, dựa trên sự tôn trọng văn hóa, là yếu tố cần thiết trong quá trình ra quyết định bảo tồn.
Các nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến rừng đặc dụng
Tại Thái Lan, Dự án “Quản lý rừng bền vững” tại KBT động vật hoang dã Phu Kheio, tỉnh Chaiyaphum đã chỉ ra rằng việc thu hút sự tham gia của các bên liên quan, đặc biệt là phát triển cộng đồng địa phương, là yếu tố then chốt để quản lý bền vững tài nguyên Hệ thống quản lý trước đây tập trung vào quyền sở hữu của Nhà nước mà không xem xét mối quan hệ giữa con người và tài nguyên, dẫn đến tình trạng phá rừng nghiêm trọng với tỷ lệ 2,6% hàng năm.
Thái Lan đã áp dụng một phương pháp mới trong quản lý tài nguyên, tập trung vào việc khuyến khích sự tham gia của cộng đồng địa phương Kết quả từ các cuộc thảo luận cho thấy, việc nâng cao nhận thức của người dân nông thôn về vai trò quan trọng của trồng rừng và bảo tồn thiên nhiên sẽ góp phần vào việc quản lý hiệu quả hơn các nguồn tài nguyên trong tương lai.
Nghiên cứu của Bink Man W (1988) tại làng Ban Pong, tỉnh Srisaket, Thái Lan cho thấy rằng các tầng lớp nghèo phụ thuộc vào rừng để chăn thả gia súc và thu hái tài nguyên lâm sản như củi đun và hoa quả Điều này minh họa tầm quan trọng của việc người dân địa phương tham gia vào lập kế hoạch và thiết kế các dự án phát triển (FAO, 1996).
M và McGean, B (1993) trong báo cáo: “Liên minh cộng đồng: đồng quản lý rừng ở Thái Lan” đã có nghiên cứu điểm tại VQG Dang Yai nằm ở đông bắc và khu phòng hộ Nam Sa ở phía bắc Thái Lan Tại Dang Yai người dân đã chứng minh được khả năng của họ trong việc tổ chức các hoạt động bảo tồn đồng thời phối hợp với cục lâm nghiệp Hoàng gia xây dựng hệ thống quản lý rừng đảm bảo ổn định về môi trường sinh thái đồng thời phục vụ lợi ích của người dân trong khu vực Tại Nam Sa cộng đồng người dân cũng rất thành công trong công tác quản lý rừng phòng hộ Họ khẳng định nếu chính phủ có chính sách khuyến khích và chuyển giao quyền lực cho họ thì chắc chắn họ sẽ thành công trong việc kiểm soát tài nguyên rừng Ở Philippines, chiến lược Quốc gia về bảo tồn ĐDSH nêu rõ rằng: “Điều chủ chốt dẫn đến thắng lợi cho bảo tồn ĐDSH là phải bảo đảm rằng các cộng đồng địa phương, những người bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi mọi quyết định về chính sách liên quan đến môi trường, sẽ tham gia vào quá trình lập kế hoạch và quản lý đối vớibảo tồn ĐDSH” (Denr vaf TCSD, 1994) Indonesia, kế hoạch hành động ĐDSH ghi nhận rằng “Việc tăng cường sự tham gia của công chúng, đặc biệt là cộng đồng sinh sống bên trong và phụ thuộc vào các vùng có tính ĐDSH cao, là mục tiêu chính của kế hoạch hành động và là điều kiện tiên quyết đối với việc thực hiện kế hoạch
Chính sách lâm nghiệp cần chú trọng đến quyền lợi của cộng đồng dân cư sống gần các khu bảo tồn thiên nhiên (KBTTN) nhằm tạo thêm công ăn việc làm và tăng thu nhập Sheppherd G (1986) đề xuất rằng nhà nước nên xác định rõ quyền lợi chính trị của người dân trên mảnh đất họ nhận để giảm thiểu tác động đến tài nguyên rừng Trong khi đó, Dilmour D.A (1999) cho rằng sự kém hiệu quả trong quản lý tài nguyên thiên nhiên xuất phát từ việc chưa giải quyết tốt mối quan hệ lợi ích giữa cá nhân trong cộng đồng và lợi ích quốc gia Do đó, cần phát triển quản lý tài nguyên theo hướng kết hợp giữa bảo tồn và phát triển, nhằm thống nhất lợi ích của người dân với lợi ích quốc gia trong hoạt động bảo tồn và phát triển tài nguyên rừng (Nguyễn Minh Thanh, 2004).
Tổ chức Bảo tồn Động thực vật Hoang dã Quốc tế (WWF) đã nhấn mạnh vào năm 2001 rằng việc bảo tồn tài nguyên rừng cần phải kết hợp với việc xóa đói giảm nghèo Đây là một yếu tố quan trọng trong chính sách bảo tồn, cho thấy mối liên hệ chặt chẽ giữa bảo vệ môi trường và cải thiện đời sống con người.
Ở Việt Nam
Lịch sử hình thành là phát triển rừng đặc dụng
Lịch sử thành lập các khu rừng đặc dụng (RĐD) ở Việt Nam bắt đầu từ tháng 7/1962 với Quyết định số 72/TTg của Thủ tướng Chính phủ, thiết lập khu rừng cấm Cúc Phương rộng 22.000 ha, trở thành VQG đầu tiên của Việt Nam Qua hơn 40 năm, quá trình hình thành RĐD trải qua 3 giai đoạn: Giai đoạn 1960-1974, ngành Lâm nghiệp đã đề xuất 49 khu rừng cấm ở miền Bắc, nhưng chỉ một số ít được thành lập do chiến tranh và điều kiện kinh tế khó khăn Giai đoạn 1975-1986, sau thống nhất, ngành Lâm nghiệp đã tiến hành khảo sát các khu bảo vệ trên toàn quốc, đặc biệt ở Tây Nguyên và Đông Nam Bộ, dẫn đến Quyết định số 41/TTg ngày 24/01/1977 thành lập 10 khu rừng cấm với tổng diện tích 44.310 ha, bao gồm các khu như Ba Bể và Ba Vì, trong đó Ba Vì và Đảo Ba Mùn thuộc loại bảo tồn thiên nhiên.
Vào ngày 30/12/1986, Bộ trưởng Bộ Lâm Nghiệp đã ban hành Quyết định 1171/QĐ về Quy chế quản lý ba loại rừng, trong đó có Rừng đặc dụng (RĐD) Theo quy chế này, Rừng cấm được đổi tên thành RĐD và được phân chia thành ba hạng: Vườn Quốc gia (VQG), Khu Bảo tồn Thiên nhiên (KBTTN) và Khu văn hóa-lịch sử và môi trường Hệ thống RĐD tại Việt Nam trong giai đoạn này bao gồm nhiều khu vực đại diện cho các đai khí hậu và các đơn vị địa lý sinh học khác nhau, phân bố tương đối đồng đều trên toàn bộ lãnh thổ.
C) Giai đoạn từ 1987 đến nay:
Sau năm 1990, Chính phủ đã quyết định thành lập nhiều khu rừng mới dựa trên Quy chế quản lý thống nhất Giai đoạn này chứng kiến sự gia tăng trong việc xây dựng rừng đặc dụng (RĐD) nhờ vào sự quan tâm của các cấp chính quyền và sự hợp tác tích cực từ các nhà khoa học, cũng như sự hỗ trợ hiệu quả từ các tổ chức chính phủ và phi chính phủ Vào ngày 17/9/2003, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 192/2003/QĐ-TTg phê duyệt chiến lược quản lý hệ thống khu bảo tồn thiên nhiên (KBTTN) của Việt Nam đến năm 2010, quy định rõ mục tiêu, phương thức phát triển và phân công trách nhiệm quản lý Cùng năm, Cục Kiểm lâm thuộc Bộ NN&PTNT đã trình Chính phủ danh sách 121 khu RĐD cần thiết, bao gồm 27 Vườn Quốc Gia, 57 Khu Bảo Tồn Thiên Nhiên và 37 khu văn hóa lịch sử, với tổng diện tích 2.518.339 ha.
Tổ chức quản lý rừng đặc dụng
Bảng 2.1 Tổng hợp hệ thống rừng đặc dụng
Loại RĐD Số lượng Diện tích (ha)
III Khu bảo vệ cảnh quan 54 119.930,12
VI Rừng NC khoa học 20 10.652,25
Luật bảo vệ và phát triển rừng được ban hành vào ngày 12/8/1991 và đã trải qua nhiều sửa đổi, trong đó có Luật sửa đổi vào 03/12/2004 Nghị định số 117/2010/NĐ-CP quy định về tổ chức và quản lý hệ thống rừng đặc dụng (RĐD) đã được ban hành vào 24/12/2010 Theo Quyết định số 08/2001/QĐ-TTG, các khu RĐD có diện tích từ 5000 ha trở lên sẽ có ban quản lý hoạt động theo cơ chế đơn vị hành chính sự nghiệp có thu Ban quản lý sẽ xây dựng quy định về phạm vi sử dụng rừng cho người dân địa phương Thông tư số 78/2001/TT-BNNPTNT hướng dẫn thi hành Nghị định 117/2010/NĐ-CP Gần đây, Quyết định số 186/2006/QĐ-TTg và các sửa đổi tiếp theo đã quy định cụ thể về quản lý rừng, thay thế cho Quyết định số 08/2001/QĐ-TTG Quyết định số 24/2012/QĐ-TTg cũng đã đề ra chính sách đầu tư phát triển RĐD giai đoạn 2011-2020.
Hiện nay, cả nước có tổng cộng 164 khu rừng đặc dụng (RĐD), bao gồm 33 Vườn Quốc Gia (VQG), 58 khu bảo tồn thiên nhiên, 54 khu bảo vệ cảnh quan và 20 khu rừng phục vụ nghiên cứu khoa học Các khu rừng này được quản lý chặt chẽ nhằm bảo tồn đa dạng sinh học và phát triển bền vững.
06 VQG trực thuộc Tổng cục Lâm nghiệp- Bộ Nông nghiệp&PTNT, đó là: VQG Ba
Các khu văn hóa, lịch sử và môi trường như Cúc Phương, Tam Đảo, Bạch Mã, Yok Đôn và Cát Tiên được quản lý bởi Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Trong khi đó, các Vườn Quốc gia khác và toàn bộ Khu Bảo tồn Thiên nhiên (KBTTN) đều thuộc sự quản lý của Ủy ban Nhân dân các tỉnh và thành phố Lực lượng Kiểm lâm, bao gồm cán bộ, công chức và viên chức, đóng vai trò chủ yếu trong công tác quản lý và bảo vệ các khu vực này.
Các nghiên cứu về tài nguyên rừng đặc dụng
Trong suốt nhiều năm, nhiều nhà khoa học đã chú trọng đến việc nâng cao hiệu quả của các khu bảo tồn thiên nhiên (KBTTN) và vườn quốc gia (VQG) từ góc độ bảo tồn và phát triển Mục tiêu là cân bằng mối quan hệ giữa việc bảo tồn tài nguyên thiên nhiên và phát triển kinh tế - xã hội cho cộng đồng địa phương.
Theo Donovan D., Rambo A.T, Fox J., Lê Trọng Cúc, Trần Đức Viên (1997), diện tích rừng già ở miền núi phía Bắc Việt Nam đã giảm sút nghiêm trọng do khai thác gỗ, củi và các lâm sản khác như tre, nứa, nấm, cây dược liệu và động vật hoang dã Những sản phẩm này được xem là nguồn sinh kế chủ yếu của người dân địa phương, dẫn đến sức ép lớn lên rừng Đồng thời, Nguyễn Bá Thụ cũng đã đánh giá hiệu quả của công tác bảo vệ các khu bảo tồn ở Việt Nam.
Công tác bảo vệ vùng đệm phụ thuộc vào việc giải quyết các vấn đề tồn tại như nâng cao đời sống của người dân, chuyển đổi thói quen sử dụng củi và gỗ một cách lãng phí Cần cải thiện kỹ thuật canh tác nông lâm nghiệp, thúc đẩy thâm canh và nâng cao năng suất cây trồng, đồng thời từ bỏ các phương thức canh tác du canh, quảng canh Việc nâng cao nhận thức về bảo tồn và sử dụng bền vững tài nguyên cho cộng đồng địa phương cũng rất quan trọng.
D.A Gilmour và Nguyễn Văn Sản (1999), đã thực hiện một nghiên cứu về quản lý vùng đệm tại 3VQG: Ba Vì, Bạch Mã và Cát Tiên Kết quả nghiên cứu đã phản ánh khá rõ nét thực trạng vùng đệm ở Việt Nam như: Tình hình KT-XH, tình trạng bảo tồn tại các VQG và vùng đệm; hoạt động phát triển trong các vùng đệm; tổ chức, thể chế cho quản lý vùng đệm [8]
Lê Quý An (2001) nhấn mạnh rằng việc quản lý và phát triển vùng đệm các khu bảo tồn thiên nhiên (KBTTN) dựa trên cộng đồng không chỉ phát huy lợi thế của cộng đồng mà còn hạn chế những tác động tiêu cực đến hoạt động bảo tồn Cộng đồng có thể tận dụng những giá trị văn hóa, phong tục, tập quán để củng cố mối quan hệ giữa các thành viên và giữa con người với thiên nhiên, từ đó xây dựng lối sống lành mạnh và góp phần vào công tác bảo tồn môi trường.
Các nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến rừng đặc dụng
Năm 2001, Đỗ Anh Tuấn tiến hành nghiên cứu tại KBTTN Pù Mát để đánh giá ảnh hưởng của bảo tồn tới sinh kế của các cộng đồng địa phương và thái độ của họ đối với chính sách bảo tồn Nghiên cứu chỉ ra rằng sự thay đổi sinh kế của người dân chủ yếu do ảnh hưởng của KBT, với 34% thu nhập hàng năm của hộ gia đình vùng đệm và 62% của hộ gia đình vùng bảo vệ nghiêm ngặt đến từ rừng Việc thành lập KBTTN vào năm 1997 đã dẫn đến việc giảm 30% - 71,4% diện tích đất và khoảng 50% thu nhập từ rừng của người dân địa phương Mặc dù có một số chương trình hỗ trợ, nhưng chúng vẫn chưa đủ để bù đắp những mất mát từ việc thành lập KBTTN.
Nguyễn Bá Ngãi và cộng sự (2003) đã tiến hành nghiên cứu về khả năng thu hút cộng đồng địa phương vào quản lý và sử dụng đất lâm nghiệp tại khu phục hồi sinh thái, với sự hỗ trợ của chương trình lâm nghiệp xã hội Nghiên cứu cho thấy hệ thống chính sách hiện tại đủ mạnh để khuyến khích cộng đồng địa phương tham gia vào quản lý các khu rừng đặc dụng, đồng thời nhấn mạnh rằng không thể loại trừ cộng đồng khỏi quyền lợi từ Vườn Quốc gia Tác giả đề xuất một mô hình quản lý đất đai tại khu phục hồi sinh thái của Vườn Quốc gia Ba Vì.
Nguyễn Thị Phương (2003) trong nghiên cứu về tác động của cộng đồng địa phương vùng đệm đến tài nguyên rừng VQG Ba Vì – Hà Tây đã sử dụng phần mềm SPSS để phân tích số liệu Kết quả cho thấy cộng đồng chủ yếu sống bằng nghề nông, nhưng diện tích đất nông nghiệp hạn chế và năng suất lúa thấp Để đáp ứng nhu cầu cuộc sống, họ tác động đến tài nguyên rừng qua nhiều hình thức như sử dụng đất rừng để sản xuất hàng hóa, khai thác sản phẩm tiêu dùng và chăn thả gia súc, trong đó sản xuất hàng hóa từ đất rừng chiếm tỷ trọng thu nhập cao nhất (36,4%) Tuy nhiên, nghiên cứu chưa đánh giá được mức độ tác động đến tài nguyên rừng của các dân tộc và nhóm hộ khác nhau.
Hoàng Quốc Xạ (2005) đã kết hợp hiệu quả giữa phân tích định tính và định lượng để nghiên cứu tác động của cộng đồng địa phương đến TNR tại vùng đệm VQG Xuân Sơn, tỉnh Phú Thọ Mặc dù các giải pháp được đề xuất bao hàm nhiều lĩnh vực, nhưng chúng chưa dựa trên các yếu tố đã được phân tích cụ thể trong khu vực nghiên cứu và chưa thể hiện tính khả thi của những giải pháp này.
Ngô Ngọc Tuyên (2007) đã nghiên cứu ảnh hưởng của các yếu tố sản xuất đến tổng thu nhập của hộ gia đình và mối quan hệ giữa tổng thu nhập với các nhân tố trong khai thác tài nguyên rừng (TNR) tại KBTTN Na Hang, Tuyên Quang Tác giả phỏng vấn 120 hộ gia đình từ 4 dân tộc khác nhau, nhưng chưa nêu rõ cách thức và nguyên tắc chọn mẫu Kết quả cho thấy, người dân tác động đến TNR qua nhiều hình thức, trong đó "sử dụng tài nguyên rừng" có tác động tiêu cực nhất, với mức độ tác động khác nhau giữa các dân tộc Nghiên cứu sử dụng hàm Cobb-Douglas để phân tích ảnh hưởng của các yếu tố đến thu nhập của hộ gia đình, nhưng chỉ dừng lại ở 3 yếu tố nguồn lực mà chưa xem xét các yếu tố hiệu quả.
Khuất Thị Lan Anh (2009) đã nghiên cứu tác động của cộng đồng địa phương vùng đệm đến tài nguyên rừng tại KBTTN Kim Hỷ, tỉnh Bắc Kạn, tập trung vào các yếu tố kinh tế và xã hội ảnh hưởng đến mức độ tác động bất lợi của người dân đối với tài nguyên rừng Nghiên cứu đã lượng hóa mức độ tác động của người dân qua các hoạt động như sử dụng tài nguyên rừng, chăn thả gia súc trên đất rừng, và khai thác vàng Tuy nhiên, đề tài chưa xem xét các tác động tích cực của người dân và các giải pháp đưa ra còn chung chung, thiếu tính khả thi cho địa phương.
Trần Ngọc Thể (2009) đã nghiên cứu tác động của người dân địa phương đối với tài nguyên rừng tại VQG Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn, và xây dựng một hệ thống lý luận và thực tiễn cho nghiên cứu này Đề tài không chỉ làm rõ mối quan hệ giữa người dân và tài nguyên rừng mà còn định lượng được mức độ tác động của cộng đồng đối với tài nguyên rừng tại VQG Ba Bể.
Nghiên cứu đã sử dụng hàm Cobb-Douglas để phân tích các yếu tố sản xuất ảnh hưởng đến tổng thu nhập của hộ gia đình, với 7 biến sản xuất và 11 biến hiệu quả được đưa vào mô hình Kết quả cho thấy có mối quan hệ chặt chẽ giữa tổng thu nhập từ rừng và 4 yếu tố đầu vào cùng 6 yếu tố hiệu quả, với hệ số xác định R = 0,93, cho thấy 93% biến động thu nhập được giải thích bởi các yếu tố này Mặc dù nghiên cứu cung cấp cái nhìn quan trọng về tác động tiêu cực của người dân địa phương đối với tài nguyên rừng tại VQG Ba Bể, nhưng chưa xem xét sự tham gia tích cực của họ trong công tác bảo tồn Tương tự, nghiên cứu của Đỗ Thị Hường (2010) về tác động của người dân đến tài nguyên rừng tại KBTTN Thượng Tiến đã đánh giá tình hình quản lý và bảo vệ tài nguyên rừng, phân tích các tác động của cộng đồng, và đề xuất giải pháp nhằm hạn chế tác động tiêu cực, tạo cơ sở khoa học và thực tiễn cho công tác bảo tồn.
Vào ngày 24/5/2013, tại Hà Nội, hội thảo Đồng quản lý RĐD Việt Nam đã được tổ chức bởi FFI Việt Nam và FanNuTure, nhằm nghiên cứu thí điểm dự án đồng quản lý tại ba khu bảo tồn ở vùng núi phía Bắc, bao gồm khu bảo tồn loài và sinh cảnh chế tạo, khu bảo tồn loài và sinh cảnh Woọc mũi hếch Hà Giang, và KBTTN Ngọc Sơn – Ngổ Luông Mục tiêu của dự án là hài hòa giữa việc bảo vệ rừng đặc dụng và nhu cầu sinh kế của người dân địa phương, đồng thời nâng cao hiệu quả quản lý các khu bảo tồn Các thành viên tham dự hội thảo đã thống nhất rằng mô hình đồng quản lý RĐD với sự tham gia của người dân là hướng đi mới, phù hợp với tình hình quản lý và bảo vệ rừng hiện nay.
Khu bảo tồn thiên nhiên Mường Nhé đã thực hiện một số nghiên cứu về đa dạng sinh học, thành phần loài, động thực vật và quản lý rừng cộng đồng, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý tài nguyên rừng Tuy nhiên, trong những năm qua, số lượng đề tài nghiên cứu tại khu bảo tồn còn hạn chế, đặc biệt là các giải pháp cho công tác quản lý và bảo vệ rừng.
Đánh giá chung
Mối quan hệ giữa người dân và công tác bảo tồn tại các khu bảo tồn thiên nhiên (KBT) và vườn quốc gia (VQG) đã được nghiên cứu đa dạng, với nhiều nghiên cứu xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn về tác động của người dân địa phương tới tài nguyên rừng và động vật (TNR) Một số nghiên cứu tập trung vào mức độ phụ thuộc của người dân vào TNR, tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu hiện tại chỉ phân tích các tác động tiêu cực mà chưa khai thác những tác động tích cực từ người dân trong công tác bảo tồn.
Biến đổi khí hậu và đa dạng sinh học đang trở thành mối quan tâm hàng đầu của các quốc gia, đòi hỏi sự bảo vệ và nâng cao chất lượng rừng và hệ sinh thái Số lượng khu rừng đặc dụng (RĐD) ở Việt Nam ngày càng gia tăng, mỗi khu lại có những đặc trưng riêng về quy mô, sinh thái, dân cư, và kinh tế xã hội Do đó, nghiên cứu mối quan hệ giữa cộng đồng và các khu RĐD là rất cần thiết để đề xuất giải pháp thu hút người dân tham gia bảo tồn tại các khu bảo tồn và vườn quốc gia trên toàn quốc Mặc dù đã có nghiên cứu đưa ra giải pháp dựa trên cơ sở khoa học và thực tiễn tại một địa điểm cụ thể, nhưng cần tiếp tục nghiên cứu để rút ra kinh nghiệm và hoàn thiện các giải pháp bảo tồn.
PHẦN 3 ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀPHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng, và phạm vi nghiên cứu
Phạm vị nghiên cứu
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu tại xã Chung Chải trong tổng số 5 xã thuộc Khu bảo tồn thiên nhiên Mường Nhé.
Thời gian nghiên cứu
- Thời gian nghiên cứu: Từ ngày 01/01/2019 đến 30/05/2019
Nội dung nghiên cứu
Nghiên cứu một số đặc điểm của Khu bảo tồn thiên nhiên Mường Nhé
+ Lịch sử hình thành vàphát triển
+ Tiểm năng về tài nguyên sinh vật.
Thực trạng công tác quản lý bảo vệ rừng( QLBVR) tại KBTTN Mường Nhé 17 3.2.3 Phân tích các yế u t ố ảnh hưởng đến QLBVR Khu BTTN Mườ ng Nhé
+ Đánh giá về các hoạt động về QLBVR
+ Đánh giá các hoạt động về nghiên cứu khoa học, đào tạo
+ Đánh giá về tiềm năng du lịch sinh thái.
+ Đánh giá về các hoạt động hỗ trợ sinh kế cho người dân
3.2.3 Phân tích các yế u t ố ảnh hưởng đến QLBVR Khu BTTN Mườ ng Nhé
+ Điều kiện kinh tế- xã hội
+ Tổ chức thực hiện (sự tham gia của các bên liên quan)
+ Khoa học kỹ thuật, nhân lực.
Phương pháp nghiên cứu
Thu th ậ p các tài li ệ u th ứ c ấ p
Kế thừa tài liệu nghiên cứu địa phương là cần thiết để hiểu rõ về điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý, diện tích ranh giới, khí hậu và thổ nhưỡng Cần xem xét các yếu tố dân sinh, kinh tế - xã hội và đặc điểm tài nguyên rừng Ngoài ra, việc tham khảo các báo cáo về quản lý bảo vệ rừng từ Ban Quản lý, huyện, tỉnh cùng với các luật pháp và chính sách liên quan là rất quan trọng.
- Phương pháp thu thập tài liệu:
+ Liệt kê các số liệu thông tin cần thiết để có thể thu thập theo từng nội dung địa điểm cơ quan cung cấp thông tin;
+ Liên hệ với các cơ quan cung cấp thông tin;
+ Tiến hành thu thập bằng ghi chép, sao chụp;
+ Kiểm tra tính chính xác của thông tin thông qua các tài liệu liên quan.
Phương pháp nghiên cứu có sự tham gia (PRA)
Nguyên tắc của chọn điểm nghiên cứu phải đại diện cho khu vực nghiên cứu
Để đảm bảo tính khách quan của nghiên cứu, địa điểm được chọn là Khu Bảo tồn Thiên nhiên Mường Nhé, huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên.
Bảng 3.1 Tổng hợp các xã, thôn và số hộ phỏng vấn
TT Tên xã lựa chọn Tên thôn lựa chọn Số hộ/ nhân khẩu Số hộ phỏng vấn
- Bản Đoàn Kết 219/859 06 hộ/bản
- Bản Nậm Pắc 35/124 06 hộ/bản
- Bản Si Ma 24/102 06 hộ/bản
- Bản Pá Lùng 102/698 06 hộ/bản
- Bản Xà Quế 91/546 06 hộ/bản
- Bản Nậm Khum 139/565 06 hộ/bản
- Bản Nậm Sin 54/217 06 hộ/bản
- Bản Nậm Vì 99/537 06 hộ/bản
Tổng cộng 1/5 xã 08 bản 48 hộ
Khi lựa chọn đối tượng nghiên cứu, chúng tôi tập trung vào một xã thuộc Khu bảo tồn thiên nhiên Mường Nhé Mỗi thôn sẽ được chọn 6 hộ gia đình, đảm bảo đại diện cho các dân tộc khác nhau, bao gồm hộ nghèo, hộ cận nghèo và hộ có mức sống trung bình.
Khi chọn mẫu phỏng vấn, mỗi thôn sẽ lựa chọn 6 hộ gia đình đại diện cho các nhóm hộ trung bình, nghèo và cận nghèo, bao gồm tất cả các thành phần dân tộc trong thôn, xã Nội dung phỏng vấn sẽ tập trung vào các vấn đề liên quan đến nguồn thu nhập và sinh kế của cộng đồng địa phương, cũng như các hình thức và nguyên nhân tác động của cộng đồng vào TNR Đồng thời, nghiên cứu cũng sẽ tìm hiểu các giải pháp mà cộng đồng đề xuất để giải quyết mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển Ngoài ra, phỏng vấn sẽ được thực hiện với cán bộ hạt kiểm lâm, cán bộ quản lý KBT và cán bộ xã để kiểm tra chéo thông tin từ các thôn điểm và thu thập thêm dữ liệu.
Thảo luận nhóm là phương pháp được áp dụng sau khi thực hiện phỏng vấn hộ gia đình, với sự tham gia của khoảng 6-7 người, bao gồm đại diện các hộ gia đình, lãnh đạo thôn và các đoàn thể Mục tiêu của thảo luận là đánh giá mức độ tác động của người dân đến rừng và đất rừng trong khu bảo tồn, cũng như tìm hiểu các nguyên nhân dẫn đến những tác động này Bên cạnh đó, nhóm cũng sẽ thảo luận về những khó khăn và khuyến nghị của cộng đồng trong việc quản lý và bảo vệ tài nguyên rừng, từ đó đề xuất các giải pháp khắc phục hiệu quả.
Phân tích tổ chức bộ máy quản lý Bảo vệ và Phát triển rừng (QLBV&PTR) là cần thiết để xác định chức năng, nhiệm vụ và đánh giá thực trạng hoạt động của các tổ chức liên quan Dựa vào các văn bản pháp lý và quy hoạch tổ chức, bài viết sẽ đề xuất các giải pháp nhằm kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao năng lực của Ban quản lý Khu Bảo tồn Thiên nhiên Mường Nhé.
Đánh giá thực trạng tổ bộ máy dựa trên Nghị định số 117/2010/NĐ-CP ngày 24/12/2010 của Chính phủ, quy định về tổ chức và quản lý hệ thống RĐD, cùng với các văn bản liên quan khác.
+ Đề xuất giải pháp tổ chức bộ máy theo lộ trình quy hoạch, đáp ứng được các yêu cầu nhiệm vụ
3.3.3 X ử lý, t ổ ng h ợ p và phân tích s ố li ệ u
Dữ liệu thu thập từ bảng phỏng vấn đã được xử lý và phân tích bằng các phương pháp mô tả, tổng hợp, so sánh, định tính và định lượng Mục tiêu của nghiên cứu là đánh giá kết quả và những tồn tại trong quản lý bảo vệ rừng, đồng thời đề xuất các giải pháp từ người dân cho công tác quản lý rừng tại Khu Bảo tồn Thiên nhiên Mường Nhé, tỉnh Điện Biên.
X ử lý, t ổ ng h ợ p và phân tích s ố li ệ u
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
Một số đặc điểm của KBTTN Mường Nhé
L ị ch s ử hình thành và phát tri ể n
Khu Bảo tồn Thiên nhiên Mường Nhé, được thành lập từ năm 1986 theo Quyết Định 194/CT của Hội Đồng Bộ trưởng, là một trong những khu rừng cấm quan trọng tại Việt Nam, với tổng diện tích lên đến 182.000 ha.
- Từ năm 1995 đến năm 1998 khu bảo tồn trực thuộc Chi Cục Kiểm lâm tỉnh Lai Châu (cũ)
- Năm 2005, Ban quản lý KBTTN Mường Nhé được tái thành lập trực thuộc Chi cục Kiểm lâm tỉnh Điện Biên
Kể từ năm 2009, Ban quản lý Khu Bảo tồn thiên nhiên Mường Nhé đã được củng cố theo Quyết định số 500/QĐ-UBND ngày 10 tháng 4 năm 2009 của UBND tỉnh Điện Biên, và hiện trực thuộc Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Điện Biên.
Tiềm năng về tài nguyên sinh vật
Bảng 4.1 Thành phần thực vật rừng Khu BTTN Mường Nhé
TT Ngành thực vật Số họ thực vật
(Nguồn số liệu:Báo cáo số liệu Ban QLKBTTN Mường Nhé–tỉnh Điện Biên)
Rừng trong Khu BTTN Mường Nhé đa dạng về tổ thành loài thực vật; có những loài thuộc loại quý hiếm được ghi trong sách đỏ Việt Nam.
Khu rừng BTTN Mường Nhé đã được điều tra và xác định có 740 loài thực vật bậc cao có mạch, thuộc 500 chi và 156 họ trong ngành thực vật Thành phần các loài thực vật rừng đã được thống kê chi tiết trong bảng 4.1.
Khu BTTN Mường Nhé nổi bật với sự phong phú của nhiều loài cây đặc trưng như Giổi găng, Giổi lông mượt, Bằng lăng cườm, Muồng xanh và Cọ khẹt Những loài thực vật này không chỉ cung cấp gỗ mà còn mang lại tinh dầu và nguyên liệu cho thuốc chữa bệnh, tạo nên giá trị đa dạng cho khu vực này so với các vườn quốc gia và khu bảo tồn khác ở vùng núi phía Bắc.
Phân theo mục đích sử dụng hiện Khu BTTN Mường Nhé được phân như sau:
- Cây cho tinh dầu: 15 loài
Một số loài thực vật nằm trong danh mục sách đỏ của Việt Nam và thế giới cần được bảo vệ và phát triển
- Có 29 loài cây nằm trong sách đỏ của Việt Nam
- Trong sách đỏ Việt Nam và thế giới 4 loài.
- Nằm trong sách đỏ thế giới 6 loài
Bảng 4.2 Phân loại loài theo cấp bảo tồn
Cấp đánh giá Ký Hiệu Số Loài Ghi Chú
Rất nguy cấp CR 3 CR : Rất nguy cấp
Nguy cấp EN 6 EN: Nguy cấp
Sẽ nguy cấp VU 9 VU: Sẽ nguy cấp
Bị đe dọa LR/NT 2 LR/NT: Bị đe dọa
(Nguồn số liệu:Báo cáo số liệu Ban QLKBTTN Mường Nhé – tỉnh Điện Biên) b) Hệ động vật rừng
Khu BTTN Mường Nhé được ghi nhận có 133 loài động vật rừng, trong đó có 55 loài quý hiếm như gấu chó, gấu ngựa, vượn bạc má, vọoc, các loài khỉ, công và niệc cổ hung Các nghiên cứu cho thấy số động vật này thuộc 95 họ và 27 bộ, bao gồm các lớp thú, chim, bò sát và lưỡng thê.
Bảng 4.3 Số lượng loài động vật rừng Khu BTTN Mường Nhé
TT Số lớp ĐVR Số bộ Số họ Số loài
(Nguồn số liệu: Ban quản lý khu bảo tồn thiên nhiên Mường Nhé)
Gần đây, hoạt động điều tra động vật tại Khu BTTN Mường Nhé đã thu hút sự quan tâm của các viện, trung tâm nghiên cứu trong nước và một số tổ chức quốc tế Những nỗ lực này đã mang lại kết quả bổ sung quan trọng vào danh mục các loài động vật tại khu vực này.
Đoàn cán bộ nghiên cứu linh trưởng từ Trung tâm nghiên cứu tài nguyên và môi trường (CRES) và tổ chức Bảo tồn quốc tế (CI) đã phối hợp thực hiện dự án điều tra loài Vượn đen má trắng (Nomascus leucogenys) tại Khu BTTN Mường Nhé, qua đó phát hiện được sự hiện diện của loài này Bên cạnh đó, dự án còn ghi nhận sự có mặt và phân bố của một số loài động vật quý hiếm, nằm trong sách đỏ Việt Nam.
Nai (Cervus unicolor), gấungựa (Ursus thibetanus), Gấu chó (Ursus malayanus), Khỉ mặt đỏ (Macaca arctoides)
+ Phối hợp với Viện tài Nguyên Sinh Vật Việt Nam điều tra Chim và Bò sát, kết quả đã phát hiện:
Trong đợt điều tra, tổng số 210 loài chim thuộc 13 bộ và 46 họ đã được ghi nhận, trong đó có 2 loài nằm trong Sách đỏ IUCN 2009, bao gồm Bồng chanh rừng và Sẻ đồng ngực vàng, hiện đang bị đe dọa.
Thực trạng công tác QLBVR tại KBTTN Mường Nhé
V ề t ổ ch ứ c và quy ho ạ ch r ừng đặ c d ụ ng
4.2.1.1 Về công tác tổ chức:
- Về tổ chức, bộ máy: Khu BTTN Mường Nhé có tổ chức bộ máy gồm:
+ Phòng Hành chính - tổng hợp
+ Phòng Kế hoạch - khoa học - kỹ thuật.
+ Bộ phận thông tin - tuyên truyền
Lực lượng quản lý và bảo vệ rừng chủ yếu là Hạt kiểm lâm, được phân bổ tại 05 trạm thuộc 05 xã có diện tích rừng bảo tồn.
Khu BTTN Mường Nhé hiện có tổng cộng 35 cán bộ công chức và viên chức, trong đó 23 người là cán bộ biên chế và 12 người là lao động hợp đồng Đặc biệt, lực lượng trực tiếp thực hiện nhiệm vụ quản lý và bảo vệ rừng gồm 14 người.
Hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ quản lý rừng đặc dụng Khu BTTN Mường Nhé hiện tại bao gồm 124 mốc ranh giới, 30 bảng nội quy, 90 biển báo và 5 trạm quản lý bảo vệ rừng Việc đầu tư này là bước quan trọng để bảo tồn và phát triển bền vững rừng đặc dụng tại khu vực.
Trạm quản lý bảo vệ rừng Sín Thầu: 780 m 2
Trạm quản lý bảo vệ rừng Leng Su Sìn: 1.028 m 2
Trạm quản lý bảo vệ rừng Mường Nhé: 1.270 m 2
Trạm quản lý bảo vệ xã Nậm Kè: 744 m 2
Trạm quản lý Chung Chải: 500 m 2
Hình 4.1 Sơ đồ hệ thống tổ chức QLBV&PTR và các tổ chức phối hợp thực hiện
Trong những năm qua, công tác tổ chức phối hợp quản lý bảo vệ rừng (QLBVR) đã nhận được sự quan tâm chỉ đạo từ cấp ủy, chính quyền và các ban ngành đoàn thể địa phương Các cơ quan chuyên môn thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình trong công tác QLBV&PTR, trong khi chính quyền địa phương và các tổ chức đoàn thể có trách nhiệm phối hợp thực hiện theo Quy chế quản lý và bảo vệ rừng Khu Bảo tồn Thiên nhiên Mường Nhé.
4.2.1.2 Về công tác quản lý quy hoạch rừng đặc dụng
Sau khi rà soát và phê duyệt qui hoạch 3 loại rừng tại BQLKBTTN Mường Nhé, BQLKBT đã phối hợp với UBND các xã để xác định ranh giới KBT và các phân khu chức năng Công tác đóng cọc mốc giới và bảng nội quy đã được tổ chức tại thực địa Tổng diện tích tự nhiên của KBT là 47.260,1 ha, trong đó phân khu bảo vệ nghiêm ngặt chiếm 49,56% với 23.420 ha, phân khu phục hồi sinh thái chiếm 49,71% với 23.495 ha, và phân khu dịch vụ - hành chính chiếm 0,73% với 312,93 ha.
Tổ chức đoàn thể xã (MTTQ,HND, HPN, HCCB )
Cán bộ Lâm nghiệp xã; Tổ QLBVR
Bảng4.4 Phân khu chức năng KBTTN Mường Nhé
Phân khu chức năng BVNN PHST DV-HC TổngDT tự nhiên 45.581 47.228 23.420 23.495 312,93
-ĐT không có cây tái sinh 6.578,9 7.263,1 3.852,3 2.956,2 0,00
- ĐT có cây gỗ tái sinh 781.77 1.024,32 817 662,5 0,00
1.2 DT đất chưa có rừng 5.203,8 5.618 1.769 3.849 0,00
- Trung tâm hành chính, dịch vụ 290
- Công trình bảo vệ, phát triển rừng 22,93
(Nguồn: Thống kê phân khu chức năng 2016 – KBTTN Mường Nhé)
Vào năm 2016, UBND tỉnh Điện Biên đã ban hành Quyết định số 1199/QĐ-UBND ngày 27/09/2016 phê duyệt dự án điều chỉnh quy hoạch chi tiết khu bảo tồn thiên nhiên Mường Nhé đến năm 2025, phù hợp với Nghị định 117/2010/NĐ-CP của Chính phủ về tổ chức và quản lý hệ thống rừng đặc dụng Dự án này nhằm thực hiện "Quy hoạch bảo tồn và phát triển bền vững KBT Mường Nhé giai đoạn 2016 - 2025", trong đó tổng diện tích tự nhiên của khu bảo tồn đã tăng từ 45.581 ha lên 47.260,1 ha, tương ứng với mức tăng 1.679,1 ha.
Khu bảo tồn thiên nhiên Mường Nhé, huyện Mường Nhé hiện có diện tích đất rừng đặc dụng còn lại là 45.136 ha sau khi trừ bỏ 917 ha đất nương Để đảm bảo diện tích này được Thủ tướng Chính phủ công nhận theo quyết định số 1976/QĐ-TTg, cần tiến hành rà soát và quy hoạch bổ sung diện tích đã mất Qua khảo sát tại các khu rừng xã Leng Su Sìn, Chung Chải và xã Mường Nhé, tổng diện tích 2.091 ha đạt tiêu chí quy hoạch bổ sung Cụ thể, xã Leng Su Sìn có diện tích 1.047 ha thuộc quy hoạch đất rừng phòng hộ, trong đó có 961 ha rừng và 86 ha đất trống.
Xã Mường Nhé có tổng diện tích 273 ha, bao gồm 144 ha rừng thuộc trạng thái IIa và IIb, cùng với 129 ha đất trống Tất cả diện tích này nằm trong quy hoạch đất rừng sản xuất.
Xã Chung Chải có diện tích 771ha, nằm tại khoảnh 12, tiểu khu 95 và các khoảnh 5, 6 thuộc tiểu khu 109 Toàn bộ khu vực này được quy hoạch là đất rừng phòng hộ, trong đó bao gồm cả diện tích đất có rừng.
760 ha, diện tích đất trống 11 ha) a P hân khu bảo vệ nghiêm ngặt :
Khu vực này có diện tích hợp lý để bảo vệ nguyên vẹn hệ sinh thái tự nhiên, giữ gìn mẫu chuẩn sinh thái quốc gia Nó được quản lý và bảo vệ chặt chẽ nhằm theo dõi sự diễn biến tự nhiên của rừng và hệ sinh thái.
Trong phân khu BVNN cấm các hoạt động sau:
+ Các hoạt động làm thay đổi cảnh quan tự nhiên của khu rừng
+ Các hoạt động làm ảnh hưởng đến đời sống tự nhiên của các loài động, thực vật hoang dã hoặc loài bảo tồn
Việc thả và nuôi trồng các loài động thực vật từ nơi khác vào khu rừng đặc dụng là hành động cần được cân nhắc kỹ lưỡng, đặc biệt là khi các loài này chưa từng tồn tại ở đây trước đó Trong những trường hợp đặc biệt, cần phải có sự cho phép và tuân thủ quy định để đảm bảo sự cân bằng sinh thái và bảo vệ môi trường.
Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quyết định hoặc báo cáo Thủ tướng Chính phủ quyết định.
Khai thác tài nguyên sinh vật và các tài nguyên thiên nhiên khác đang gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng Việc mang hóa chất độc hại, chất nổ và chất dễ cháy vào rừng, cùng với hành động đốt lửa trong rừng và ven rừng, đã làm tăng nguy cơ cháy rừng Ngoài ra, chăn thả gia súc và gia cầm cũng góp phần vào sự suy giảm chất lượng môi trường sống.
Trong 7 năm qua, tình hình phát triển kinh tế xã hội và sự gia tăng dân số đã tạo ra nhiều biến động về phân bố dân cư trong vùng Để đảm bảo vai trò và chức năng của phân khu bảo vệ rừng tự nhiên (BVNN) không bị ảnh hưởng, cần tăng cường quản lý và bảo vệ chặt chẽ, giữ nguyên vẹn hệ sinh thái để theo dõi diễn biến tự nhiên của rừng Do đó, phân khu BVNN đã được quy hoạch điều chỉnh để phù hợp với tình hình thực tế hiện tại.
Diện tích phân khu bảo vệ nghiêm ngặt hiện nay là 23.420 ha, giảm 2.259 ha so với quy hoạch cũ Diện tích này đã được điều chỉnh sang quy hoạch phân khu phục hồi sinh thái tại các khoảnh 6,8 tiểu khu 168B; khoảnh 4, tiểu khu 173; và các khoảnh 1,2,3,4 tiểu khu 177 cùng khoảnh 3,4 tiểu khu 178 xã Nậm Kè Phân khu bảo vệ nghiêm ngặt phân bố trên địa bàn 05 xã và được chia thành hai phân khu riêng biệt.
Phân khu bảo vệ nghiêm ngặt I, rộng 15.851 ha, nằm ở phía Bắc khu bảo tồn tại các xã Sín Thầu, Leng Su Sìn và Chung Chải, giáp biên giới Việt - Lào Khu vực này chiếm 70% diện tích đất tự nhiên với 11.171,8 ha rừng, bao gồm rừng giàu và rừng trung bình có trữ lượng trên 200m³ Địa hình hiểm trở và cách xa khu dân cư giúp khu vực này trở thành nơi cư trú của nhiều loài động vật như gấu và khỉ Phân khu bảo vệ nghiêm ngặt II, với diện tích 7.569 ha, nằm tại các xã Mường Nhé và Nậm Kè, bao gồm một số khoảnh thuộc tiểu khu 149, 159, 162.
Đánh giá giá về các hoạt động QLBVR
4.2.2.1 Các hoạt động về công tác QLBVR a) Công tác tuyên truyền, tập huấn:
Trong những năm qua, Ban quản lý KBT thiên nhiên Mường Nhé đã phối hợp chặt chẽ với các cấp uỷ, chính quyền xã và các cơ quan, ban ngành để tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng Đặc biệt, việc phổ biến Nghị định 157/2013/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý rừng đã được thực hiện hiệu quả Kết quả, từ năm 2016 đến 2018, nhiều cuộc họp và buổi học tập đã được tổ chức nhằm nâng cao nhận thức của cộng đồng về pháp luật liên quan đến rừng.
Năm 2016, đơn vị tổ chức đã thực hiện 25 buổi tuyên truyền về các quy định pháp luật liên quan đến quản lý bảo vệ rừng và phòng cháy chữa cháy rừng, thu hút 1.071 người dân tham gia Đồng thời, 6 lớp tập huấn về Luật Lâm nghiệp và chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng cũng được tổ chức tại các bản vùng đệm, với sự tham gia của 240 học viên.
Năm 2017, đơn vị tổ chức 38 buổi tuyên truyền với 1.449 lượt người tham gia và 6 lớp tập huấn về Luật Lâm nghiệp, thu hút 240 học viên Năm 2018, đơn vị tiếp tục tổ chức 25 buổi tuyên truyền, góp phần nâng cao nhận thức về chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng tại các bản vùng đệm.
Trong năm qua, 1071 người dân đã được phổ biến các quy định pháp luật liên quan đến quản lý và bảo vệ rừng cũng như phòng cháy chữa cháy rừng Để nâng cao nhận thức, 6 lớp tập huấn tuyên truyền về Luật Lâm nghiệp và chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng đã được tổ chức, thu hút sự tham gia của 240 học viên tại các bản vùng đệm Kết quả này thể hiện nỗ lực trong việc nâng cao ý thức cộng đồng về bảo vệ rừng.
Bảng 4.5 Kết quả công tác tuyên truyền, tập huấn từ năm 2016 – 2018
Năm Tập huấn Tuyên truyền
Tham Gia Số Buổi SốNgười
Hoạt động giao khoán bảo vệ rừng tại khu bảo tồn thiên nhiên Mường Nhé được chú trọng với diện tích giao bảo vệ lên đến 27.526,47 ha.
Khoán bảo vệ rừng được áp dụng cho 31 nhóm cộng đồng dân cư thuộc 29 bản tại các xã vùng đệm như Sín Thầu, Leng Su Sìn, Chung Chải, Mường Nhé và Nậm Kè Tổng diện tích được khoán bảo vệ lên tới 19.227,25 ha, chiếm 58,20% tổng diện tích rừng trong khu vực.
Khoán bảo vệ rừng cho lực lượng vũ trang bao gồm 11 nhóm, trong đó có 5 Đồn Biên phòng, 5 Ban chỉ huy quân sự xã và 1 nhóm Công an huyện Tổng diện tích được khoán bảo vệ lên tới 8.299,22 ha, chiếm 25,12% tổng diện tích rừng.
Diện tích rừng do đơn vị tự tổ chức quản lý và bảo vệ là 5.510,82 ha, chiếm 16,68% tổng diện tích Đơn vị đã phối hợp với phòng hành chính tổng hợp để tiến hành thanh toán tạm ứng tiền bảo vệ rừng năm 2018 (đợt 1) với đơn giá 400.000 đồng/ha cho các nhóm nhận khoán, tổng số tiền chi trả lên tới 13.214.916.000 đồng.
Công tác giao khoán bảo vệ rừng tại Khu Bảo tồn Thiên nhiên Mường Nhé đã nhận được sự hưởng ứng tích cực từ các cộng đồng thôn lân cận và chính quyền xã Người dân ngày càng ý thức và có trách nhiệm hơn trong việc quản lý và bảo vệ rừng đặc dụng.
Kể từ khi thực hiện giao khoán, các tổ nhận khoán đã hợp tác chặt chẽ với kiểm lâm để tổ chức tuyên truyền và tuần tra rừng từ 3 đến 6 lần mỗi tháng Trong năm 2016, các tổ đã thực hiện 500 lượt tuần tra với sự tham gia của hơn 3.800 người Qua công tác kiểm tra, nhiều vụ vi phạm về khai thác và vận chuyển lâm sản trái phép đã được phát hiện và kịp thời báo cáo cho Trạm kiểm lâm xử lý.
* Những tồn tại, hạn chế:
Nhiều cộng đồng thôn vẫn còn phụ thuộc vào Tổ nhận khoán trong công tác quản lý bảo vệ rừng (QLBVR), dẫn đến việc chưa huy động được sức mạnh tổng hợp của toàn thể cộng đồng tham gia Tinh thần trách nhiệm trong việc cung cấp thông tin tố giác và phát hiện vi phạm còn thấp, thậm chí vẫn có người dân trong thôn vi phạm quy định về bảo vệ rừng.
Một số thành viên Tổ nhận khoán vẫn còn e ngại trong việc tố giác các hành vi khai thác rừng trái phép, dẫn đến việc họ chưa mạnh dạn cung cấp thông tin và phối hợp với cơ quan Kiểm lâm, Công an để điều tra các đối tượng vi phạm.
Công tác phối hợp và thông tin liên lạc giữa các Tổ nhận khoán và Kiểm lâm địa bàn cần được cải thiện, vì hiện tại chưa thực hiện thường xuyên và liên tục Đôi khi, việc báo cáo cũng chưa được kịp thời, ảnh hưởng đến hiệu quả công việc.
Một số cấp ủy và chính quyền xã chưa tích cực tham gia vào công tác quản lý bảo vệ rừng (QLBVR), dẫn đến tình trạng buông lỏng, coi đây là trách nhiệm riêng của kiểm lâm Với diện tích rừng lớn và địa hình phức tạp, việc tổ chức tuần tra và kiểm tra rừng gặp nhiều khó khăn, trong khi mức hỗ trợ cho công tác này còn thấp Việc xử lý các hành vi vi phạm luật bảo vệ và phát triển rừng cần được tăng cường để đảm bảo hiệu quả trong công tác quản lý.
Từ năm 2016 - 2018, Hạt Kiểm lâm KBTTN Mường Nhé đã phát hiện lập biên bản
Trong năm qua, đã ghi nhận 28 vụ vi phạm Luật Bảo vệ và Phát triển rừng, bao gồm 02 vụ khai thác gỗ trái phép, 02 vụ cất giấu gỗ trái phép, 03 vụ phá rừng trái pháp luật, 01 vụ vi phạm quy định chung và 20 vụ cháy rừng.