1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Tác động của lao động qua đào tạo nghề đến giảm nghèo đa chiều ở vùng Tây Bắc

179 13 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Tác Động Của Lao Động Qua Đào Tạo Nghề Đến Giảm Nghèo Đa Chiều Ở Vùng Tây Bắc
Tác giả Bùi Thanh Hà
Người hướng dẫn PGS.TS Đoàn Thị Thu Hà
Trường học Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Chuyên ngành Quản lý kinh tế
Thể loại luận án tiến sĩ
Năm xuất bản 2021
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 179
Dung lượng 3,21 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU (19)
    • 1.1. Các nghiên cứu về tác động của đào tạo nghề đến việc làm của người lao động (19)
      • 1.1.1. Các nghiên cứu quốc tế về tác động của đào tạo nghề đến việc làm của người lao động (19)
      • 1.1.2. Các nghiên cứu trong nước về tác động của đào tạo nghề đến việc làm của người lao động (20)
    • 1.2. Các nghiên cứu về tác động của đào tạo nghề đến thu nhập của người lao động (21)
      • 1.2.1. Các nghiên cứu quốc tế về tác động của đào tạo nghề đến thu nhập của người lao động (21)
      • 1.2.2. Các nghiên cứu trong nước về tác động của đào tạo nghề đến thu nhập của người lao động (23)
    • 1.3. Các nghiên cứu về tác động của đào tạo nghề đến giảm nghèo, nghèo đa chiều (24)
      • 1.3.1. Các nghiên cứu quốc tế về tác động của đào tạo nghề đến giảm nghèo, nghèo đa chiều (24)
      • 1.3.2. Các nghiên cứu trong nước về tác động của đào tạo nghề đến giảm nghèo, nghèo đa chiều (28)
    • 1.4. Khoảng trống nghiên cứu (30)
  • CHƯƠNG 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LAO ĐỘNG QUA ĐÀO TẠO NGHỀ VÀ GIẢM NGHÈO ĐA CHIỀU (33)
    • 2.1. Đào tạo nghề và lao động qua đào tạo nghề (33)
      • 2.1.1. Đào tạo nghề và hình thức dạy nghề (33)
      • 2.1.2. Lao động qua đào tạo nghề (35)
    • 2.2. Nghèo và nghèo đa chiều (37)
      • 2.2.1. Quan điểm về nghèo nói chung (37)
      • 2.2.2. Quan điểm về nghèo đa chiều (40)
    • 2.3. Khung phân tích tác động của lao động qua đào tạo nghề đến giảm nghèo đa chiều (47)
      • 2.3.1. Cơ sở lý thuyết tác động của lao động qua đào tạo nghề đến giảm nghèo đa chiều (47)
      • 2.3.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự tác động của lao động qua đào tạo nghề đến giảm nghèo đa chiều (53)
    • 2.4. Mô hình nghiên cứu tác động của lao động qua đào tạo nghề đến giảm nghèo đa chiều (54)
  • CHƯƠNG 3 PHƯƠNG PHÁP VÀ CÁCH TIẾP CẬN NGHIÊN CỨU TÁC ĐỘNG CỦA LAO ĐỘNG QUA ĐÀO TẠO NGHỀ ĐẾN GIẢM NGHÈO ĐA CHIỀU (57)
    • 3.1. Căn cứ lựa chọn mô hình và phương pháp nghiên cứu (57)
      • 3.1.1. Đặc điểm, điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội vùng Tây Bắc (57)
      • 3.1.2. Đặc điểm lực lượng lao động vùng Tây Bắc (58)
    • 3.2. Phương pháp nghiên cứu tác động của lao động qua đào tạo nghề đến giảm nghèo đa chiều (64)
      • 3.2.1. Phương pháp thu thập thông tin và số liệu sơ cấp (64)
      • 3.2.2. Phương pháp thu thập nguồn thông tin số liệu thứ cấp (65)
      • 3.2.3. Phương pháp phân tích và xử lý số liệu nghiên cứu (66)
    • 3.3. Mô hình phân tích tác động của lao động qua đào tạo nghề đến giảm nghèo đa chiều (66)
      • 3.3.1. Tác động của lao động qua đào tạo nghề đến khả năng có việc làm của người lao động (66)
      • 3.3.2. Tác động đào tạo nghề đến thu nhập của người lao động (68)
      • 3.3.3. Tác động của lao động qua đào tạo nghề đến giảm nghèo đa chiều (70)
  • CHƯƠNG 4 PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG LAO ĐỘNG QUA ĐÀO TẠO NGHỀ ĐẾN GIẢM NGHÈO ĐA CHIỀU Ở VÙNG TÂY BẮC GIAI ĐOẠN 2014 - 2018 (72)
    • 4.1. Thực trạng về cơ sở đào tạo nghề và số học sinh tham gia học nghề ở vùng Tây Bắc (72)
      • 4.1.1. Số cơ sở dạy nghề phân theo loại hình, loại cơ sở và tỉnh/thành phố (72)
    • 4.2. Thực trạng lao động qua đào tạo nghề (được đào tạo nghề) ở vùng Tây Bắc (79)
      • 4.2.1. Thực trạng lao động qua đào tạo nghề theo khu vực (79)
      • 4.2.2. Thực trạng lao động qua đào tạo nghề theo giới tính (80)
      • 4.2.3. Thực trạng lao động qua đào tạo nghề theo nhóm tuổi (81)
      • 4.2.4. Thực trạng lao động qua đào tạo nghề theo lao động được trả lương (82)
      • 4.2.5. Thực trạng lao động qua đào tạo nghề theo ngành sản xuất (83)
      • 4.2.6. Thực trạng lao động qua đào tạo nghề theo nghề nghiệp, chuyên môn (84)
      • 4.2.7. Thực trạng lao động qua đào tạo nghề theo loại hình doanh nghiệp (85)
    • 4.3. Thực trạng về thu nhập của người lao động qua đào tạo nghề ở vùng Tây Bắc giai đoạn 2014 - 2018 (86)
      • 4.3.1. Thực trạng về thu nhập của người lao động qua đào tạo nghề theo khu vực (86)
      • 4.3.2. Thực trạng về thu nhập của người lao động qua đào tạo nghề theo giới tính (88)
      • 4.3.3. Thực trạng về thu nhập của người lao động qua đào tạo nghề theo nhóm tuổi (89)
      • 4.3.4. Thực trạng về thu nhập của người lao động qua đào tạo nghề theo ngành (91)
      • 4.3.5. Thực trạng về thu nhập của người lao động qua đào tạo nghề theo nghề nghiệp (92)
      • 4.3.6. Thực trạng về thu nhập của người lao động qua đào tạo nghề theo loại hình (93)
    • 4.4. Thực trạng giảm nghèo và giảm nghèo đa chiều ở vùng Tây Bắc (94)
      • 4.4.1. Kết quả về thực hiện giảm nghèo chung tại vùng Tây Bắc (94)
      • 4.4.3. Kết quả về thực hiện giảm nghèo đa chiều ở vùng Tây Bắc (97)
      • 4.4.4. Quan hệ giữa lao động qua đào tạo nghề và nghèo đa chiều ở vùng Tây Bắc (105)
    • 4.5. Phân tích tác động của lao động qua đào tạo nghề đến việc làm, thu nhập và giảm nghèo đa chiều vùng Tây Bắc (115)
      • 4.5.1. Tác động của lao động qua đào tạo nghề đến khả năng có việc làm và thu nhập (115)
      • 4.5.2. Tác động của lao động qua đào tạo nghề đến giảm nghèo đa chiều (129)
    • 4.6. Đánh giá chung về công tác đào tạo nghề, việc làm cho người lao động, công tác giảm nghèo và giảm nghèo đa chiều ở vùng Tây Bắc (134)
      • 4.6.1. Những mặt đã đạt được về công tác đào tạo nghề, việc làm cho người lao động, công tác giảm nghèo và giảm nghèo đa chiều ở vùng Tây Bắc (134)
      • 4.6.2. Những hạn chế về công tác đào tạo nghề, việc làm cho người lao động, công tác giảm nghèo và giảm nghèo đa chiều ở vùng Tây Bắc (138)
      • 4.6.3. Nguyên nhân của những hạn chế (144)
      • 4.7.1. Đào tạo nghề có ảnh hưởng trực tiếp đến việc làm, thu nhập và giảm nghèo đa chiều của các hộ gia đình vùng Tây Bắc (149)
      • 4.7.2. Kết quả giảm nghèo đa chiều một số nơi chưa thật bền vững, chưa đồng đều, chênh lệch giàu nghèo, chênh lệch về tiếp cận các dịch vụ cơ bản, tiếp cận thị trường việc làm giữa các vùng, nhóm dân cư chưa được thu hẹp (153)
      • 4.7.3. Hiện tại cơ chế liên kết hiệu quả với doanh nghiệp nhằm giải quyết việc làm (153)
  • CHƯƠNG 5. GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY ĐÀO TẠO NGHỀ CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG NHẰM GIẢM NGHÈO ĐA CHIỀU Ở VÙNG TÂY BẮC ĐẾN NĂM (155)
    • 5.1. Định hướng và mục tiêu về đào tạo nghề và giảm nghèo đa chiều vùng Tây Bắc đến năm 2025 (155)
      • 5.1.1. Định hướng về đào tạo nghề cho người lao động vùng Tây Bắc đến năm (155)
      • 5.1.2. Mục tiêu về đào tạo nghề và giảm nghèo đa chiều vùng Tây Bắc đến năm (156)
    • 5.2. Các nhóm giải pháp thúc đẩy đào tạo nghề cho người lao động nhằm giảm nghèo đa chiều vùng Tây Bắc đến năm 2025 (159)
      • 5.2.1. Nhóm giải pháp về đào tạo nghề cho người lao động (159)
      • 5.2.2. Nhóm giải pháp về giải quyết việc làm (161)
      • 5.2.3. Nhóm giải pháp về giảm nghèo đa chiều (161)
    • 5.3. Kiến nghị (163)
      • 5.3.1. Kiến nghị với Chính phủ và các bộ ngành Trung ương (163)
      • 5.3.2. Đối với chính quyền các địa phương trong vùng Tây Bắc (164)
    • 6.1. Kết luận chính (165)
    • 6.2. Đóng góp của Luận án (168)
    • 6.3. Hạn chế của luận án (170)
    • 6.4. Hướng nghiên cứu tiếp theo của đề tài (170)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (172)
  • PHỤ LỤC (179)
    • Hinh 4.6: Tình trạng lao động qua đào tạo nghề có việc làm vùng Tây Bắc theo nhóm tuổi giai đoạn 2014-2018 (83)
    • Hinh 4.7: Tình trạng lao động qua đào tạo nghề có việc làm vùng Tây Bắc theo ngành sản xuất giai đoạn 2014-2018 (84)

Nội dung

TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

Các nghiên cứu về tác động của đào tạo nghề đến việc làm của người lao động

1.1.1 Các nghiên cứu quốc tế về tác động của đào tạo nghề đến việc làm của người lao động

Vốn xã hội đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra việc làm, đặc biệt là ở khu vực thành thị (Norwood, 2001) Nghiên cứu chỉ ra rằng ảnh hưởng của vốn xã hội đối với chất lượng việc làm là hạn chế so với vốn nhân lực, với vốn con người tác động qua vốn xã hội Hơn nữa, có những giới hạn cho giả thuyết về sự cạnh tranh và vốn xã hội ảnh hưởng đến chất lượng việc làm Kết quả nghiên cứu nhấn mạnh tầm quan trọng của sự công bằng trong đào tạo nghề cho người lao động, đồng thời cho thấy cần nhiều nguồn lực để kết nối giữa đào tạo nghề và xã hội, bao gồm cả các dân tộc thiểu số Để người lao động có thể cạnh tranh trong thị trường lao động, các chương trình nâng cao kỹ năng kỹ thuật là rất cần thiết.

Nghiên cứu của Zhang Cong Cheng (2008) tại Trung Quốc chỉ ra rằng cơ cấu việc làm hiện tại không đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế và công nghiệp, do đó cần tăng cường đào tạo nghề để nâng cao kỹ năng lao động, thúc đẩy việc làm và giảm thất nghiệp Ông cũng nhấn mạnh rằng trình độ tay nghề thấp là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng sa thải và thất nghiệp ở đô thị Jacobs Garry và Slaus Ivo (2011) cho rằng việc làm cần phải xem xét nhu cầu và năng lực của người lao động, vì sự phát triển kỹ năng sẽ mở rộng cơ hội việc làm Thất nghiệp gây ra sự thiếu hụt cơ hội làm việc, buộc nhiều người phải tìm kiếm công việc bán thời gian, đặc biệt trong thời kỳ suy thoái kinh tế Dedu (2012) nhấn mạnh rằng đào tạo nghề là một yếu tố quan trọng trong phát triển kinh tế và xã hội, với Tổ chức Hợp tác kinh tế và phát triển (2012) khẳng định rằng đầu tư vào đào tạo nghề nâng cao kỹ năng và cơ hội làm việc cho mọi người Đào tạo nghề không chỉ tác động đến kinh tế mà còn ảnh hưởng đến các khía cạnh xã hội như sức khỏe và tuổi thọ Do đó, cần có chính sách đầu tư mạnh mẽ vào đào tạo nghề để nâng cao chất lượng lao động và đảm bảo sự phát triển bền vững cho các thế hệ tương lai.

1.1.2 Các nghiên cứu trong nước về tác động của đào tạo nghề đến việc làm của người lao động

Nghiên cứu của Bùi Tôn Hiến (2009) chỉ ra rằng lao động qua đào tạo nghề có xác suất tìm được việc làm ổn định cao hơn so với lao động không có chuyên môn kỹ thuật, đặc biệt là đối với những người có trình độ từ trung học cơ sở trở lên Tác giả nhấn mạnh vai trò quan trọng của giáo dục và đào tạo trong việc tạo cơ hội việc làm cho người lao động Đặng Thị Thơm (2015) cũng khẳng định quyền bình đẳng cơ hội việc làm giữa lao động nam và nữ, nhấn mạnh rằng giai đoạn tuyển dụng là rất quan trọng và không có sự phân biệt đối xử trong việc tuyển dụng lao động, miễn là đủ điều kiện.

Viện Khoa học Lao động và Xã hội (2017) đã thực hiện một báo cáo quan trọng về việc đào tạo nghề cho thanh niên nông thôn ở Việt Nam, nhằm đáp ứng yêu cầu Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa Báo cáo tập trung vào ba nội dung chính: đầu tiên là việc đổi mới hệ thống đào tạo nghề, tiếp theo là các chính sách hỗ trợ cho lao động nông thôn, và cuối cùng là việc khuyến khích thanh niên nông thôn tham gia học nghề.

3) Việc làm và thu nhập của thanh niên nông thôn sau khi học nghề Qua kết quả nghiên cứu khẳng định việc đào tạo nghề cho thanh niên nông thôn đã góp phần thay đổi cơ cấu tỷ lệ lao động theo hướng hiện đại trong các lĩnh vực của đời sống Nghiên cứu cũng chỉ ra các ưu điểm và hạn chế của Đề án 1956 của Chính phủ để từ đó gợi ý và đề xuất một số chính sách đến đào tạo nghề cho thanh niên nông thôn trong thời gian tới Một điểm đáng lưu ý của nghiên cứu đó là thu nhập của thanh niên nông thôn sau khi đào tạo nghề có hướng tăng hơn so với thanh niên chưa qua đào tạo nghề khoảng 20%

Nguyễn Đình Phúc (2017) đã nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng tham gia việc làm phi nông nghiệp của lao động nông thôn Nghiên cứu kế thừa các lý thuyết và kết quả thực nghiệm, xác định các yếu tố như tuổi, giới tính, trình độ giáo dục, học nghề, quy mô gia đình, thu nhập nông nghiệp, thời gian nông nhàn, tổ hợp sản xuất, giao thông, thông tin việc làm, dự án tạo việc làm và chính sách tín dụng Tác giả áp dụng mô hình xác suất Probit để đánh giá mức độ tác động của những yếu tố này đến khả năng tham gia việc làm phi nông nghiệp của lao động nông thôn.

Các nghiên cứu về tác động của đào tạo nghề đến thu nhập của người lao động

1.2.1 Các nghiên cứu quốc tế về tác động của đào tạo nghề đến thu nhập của người lao động

Lý thuyết vốn con người của Becker (1975) nhấn mạnh rằng đào tạo nghề nâng cao kỹ năng lao động và năng suất lao động Lợi ích từ đào tạo nghề chủ yếu thuộc về người sử dụng lao động, với tác động tích cực đến năng suất thường lớn hơn so với hiệu ứng tiền lương (Bartel, 1994; Zwick, 2005) Nghiên cứu cho thấy đào tạo nghề không chỉ làm tăng khả năng sinh lời (Ballot và cộng sự, 2006; Dearden và cộng sự, 2006; Conti, 2005) mà còn cho phép nhà tuyển dụng thu được phần lớn lợi ích từ việc này (Hansson, 2008) Đầu tư vào đào tạo nghề mang lại lợi ích tương tự như đầu tư vào các dự án khác Những người nghiên cứu về vốn con người đã xác định mối quan hệ mạnh mẽ giữa tiền lương và trình độ tay nghề, mối quan hệ này được xác nhận trong tất cả các lĩnh vực xã hội Trong thị trường lao động cạnh tranh, người lao động có trình độ tay nghề cao hơn thường có năng suất lao động tốt hơn, và nhà tuyển dụng thường xem xét các đặc điểm của đào tạo nghề như tiêu chí để đánh giá sự phù hợp và năng suất của ứng viên trong tương lai.

Thu nhập của những người được đào tạo nghề ngày càng cao và tăng nhanh hơn so với những người không được đào tạo Xu hướng này cho thấy rằng đào tạo nghề không chỉ nâng cao năng suất lao động mà còn giúp tăng thu nhập và khả năng tự học thông qua kinh nghiệm làm việc hàng ngày.

Theo Psacharopoulos (2000), giáo dục đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển nguồn nhân lực thông qua việc truyền đạt kiến thức và kỹ năng Nó giúp cá nhân kiếm tiền hiệu quả hơn, với mức thu nhập của người lao động thường phụ thuộc vào trình độ học vấn Một chương trình giáo dục bao gồm phương pháp sư phạm và kỹ năng linh hoạt được coi là cách tiếp cận hiệu quả nhằm nâng cao thu nhập cho người lao động.

Nghiên cứu của Self và Grabowski (2004) đã phân tích ảnh hưởng của các cấp độ giáo dục khác nhau đến thu nhập tại Ấn Độ, chia giáo dục thành ba loại: tiểu học, trung học và đại học Kết quả cho thấy giáo dục tiểu học có tác động tích cực mạnh mẽ đến sự gia tăng thu nhập, trong khi tác động của giáo dục trung học lại hạn chế hơn.

Nghiên cứu của Mughal, W.H (2007) chỉ ra mối quan hệ tích cực giữa giáo dục và thu nhập, với việc thu nhập hàng tháng của công nhân ở Pakistan tăng 7,3% cho mỗi năm học thêm và 37% nếu có 10 năm học Mức tăng thu nhập theo từng cấp học là 3% cho cấp tiểu học, 5% cho cấp trung học, và từ 7,1 đến 8,2% cho cấp đại học Ngoài ra, mỗi năm đào tạo kỹ thuật bổ sung cũng giúp tăng thu nhập 2,5% Điều này cho thấy giáo dục không chỉ nâng cao khả năng kiếm tiền của người nghèo mà còn cải thiện năng suất lao động của họ.

Khoảng cách thu nhập giữa người được đào tạo nghề và người chưa được đào tạo nghề là rất lớn, phản ánh sự khác biệt về cơ hội và tương lai cho trẻ em trong các gia đình này (Carnevale, 2012) Đào tạo nghề không chỉ ảnh hưởng đến mức lương ngắn hạn mà còn có tác động lâu dài đến cuộc sống của người lao động.

1.2.2 Các nghiên cứu trong nước về tác động của đào tạo nghề đến thu nhập của người lao động

Nguyễn Thị Nguyệt và Lê Thị An Bình (2007) đã thực hiện nghiên cứu về bất bình đẳng giới trong thu nhập của người lao động Việt Nam, chỉ ra rằng chênh lệch thu nhập giữa lao động nam và nữ đang ngày càng gia tăng Nghiên cứu này áp dụng mô hình tuyến tính của Juhn, Murphy và Pierce (1991) để phân tích tình hình.

Mô hình Yt = xt’bt + et’ được sử dụng để phân tích mức độ ảnh hưởng đến thu nhập Nhóm tác giả đã đề xuất các giải pháp nhằm giảm bất bình đẳng giới về thu nhập, trong đó tập trung vào việc đầu tư cho giáo dục và nâng cao chuyên môn, tay nghề cho lao động nữ.

Phạm Lê Thông (2012) đã áp dụng hàm thu nhập vốn nhân lực để đo lường ảnh hưởng của trình độ học vấn đến thu nhập của người lao động, ước lượng suất sinh lợi từ giáo dục, bao gồm cả đào tạo nghề Tác giả dựa trên giả định rằng các cá nhân không khác nhau về năng lực bẩm sinh, mặc dù thực tế, mỗi cá nhân có thể sở hữu những năng lực bẩm sinh khác nhau.

Hàm thu nhập vốn nhân lực có dạng như sau: lnY = ò0 + ò1EDU1 + ò2EXPi + ò3EXPi 2 + αkXk + ÊI (1)

Hàm kiểm soát năng lực bẩn sinh đến thu nhập như sau:

Ln(TNHAPik) = α0+α1HVANik+α2KNGHIEMik+α3KNGHIEMik 2 + α4GTINHik

Mô hình (2) có thể được xem là mô hình hiệu ứng cố định (fixed effects model

Tác giả Đặng Thị Thơm (2015) đã áp dụng phương pháp OLS và mô hình hiệu ứng cố định FEM để nghiên cứu ảnh hưởng của các biến độc lập đến tiền công và thu nhập của người lao động, nhấn mạnh sự bình đẳng trong cơ hội việc làm và thu nhập giữa nam và nữ Cụ thể, bà khẳng định rằng tiền lương phải dựa trên năng suất lao động và chất lượng công việc, đảm bảo không phân biệt giới tính Đồng thời, Đặng Trung Dũng (2016) đã sử dụng mô hình thực nghiệm của Troske (1999) để phân tích mối quan hệ giữa mức lương của người lao động và các đặc điểm cá nhân cũng như doanh nghiệp Nghiên cứu cho thấy trình độ học vấn cao hơn có tác động tích cực đến mức lương, và mức lương của người lao động cũng tăng theo quy mô doanh nghiệp Mô hình Troske (1999) được thể hiện qua công thức: LnWi = α + XiBi.

Các nghiên cứu về tác động của đào tạo nghề đến giảm nghèo, nghèo đa chiều

1.3.1 Các nghiên cứu quốc tế về tác động của đào tạo nghề đến giảm nghèo, nghèo đa chiều

Psacharopoulos (1994) chỉ ra rằng giáo dục tiểu học mang lại tỷ lệ sinh lợi cao hơn so với các cấp độ giáo dục khác, đặc biệt ở các nước đang phát triển với tỷ lệ nghèo đói và mù chữ cao Nghiên cứu cho thấy nghèo đói gia tăng do việc học tập qua hệ thống giáo dục không chính thức, dựa trên kiến thức và phương pháp truyền thống Giáo dục có thể giảm nghèo thông qua cả kênh trực tiếp như thu nhập và kênh gián tiếp Trong chính sách giảm nghèo, giáo dục, đặc biệt là đào tạo nghề, đóng vai trò quan trọng Theo Gemmel (1996), giáo dục tiểu học là yếu tố quyết định cho tăng trưởng kinh tế ở các nước thu nhập thấp, trong khi giáo dục trung học và đại học phù hợp hơn cho các nước thu nhập trung bình và giàu.

Giáo dục và nghèo đói có mối liên hệ nghịch đảo; khi trình độ học vấn của dân số tăng lên, số người nghèo giảm đi do giáo dục cung cấp kiến thức và kỹ năng cần thiết cho việc có mức lương cao hơn Tác động trực tiếp của giáo dục đến giảm nghèo là thông qua việc gia tăng thu nhập, trong khi tác động gián tiếp thể hiện ở việc cải thiện khả năng đáp ứng các nhu cầu cơ bản, từ đó nâng cao mức sống và giảm nghèo Đầu tư vào giáo dục không chỉ tăng cường kỹ năng và năng suất của các hộ nghèo mà còn nâng cao mức thu nhập và chất lượng cuộc sống Hơn nữa, tỷ lệ người có trình độ học vấn cao và được đào tạo nghề cũng góp phần quan trọng vào việc giảm nghèo.

Nghiên cứu của Ferreira và cộng sự (1998) về đói nghèo tại Brazil cho thấy rằng đào tạo nghề cho người lao động là yếu tố quan trọng xác định khả năng hộ gia đình có nguy cơ chịu đói nghèo Các yếu tố như độ tuổi, quy mô gia đình, sắc tộc và nơi cư trú nông thôn cũng góp phần vào tình trạng này Tác động tích cực của lao động qua đào tạo nghề giúp giảm nghèo đói, đồng thời thúc đẩy sự phát triển cá nhân, gia đình, cộng đồng và quốc gia Đào tạo nghề không chỉ cần thiết trên toàn cầu mà còn có ảnh hưởng tích cực đến sức khỏe, xóa đói giảm nghèo và cân bằng giới tính.

Nghiên cứu của Gundlach, de Pablo và Weisert (2001) chỉ ra rằng giáo dục đóng vai trò quan trọng trong việc giảm bất bình đẳng thu nhập Cụ thể, lao động được đào tạo nghề và học nghề là yếu tố nền tảng giúp phân phối lại thu nhập và tạo cơ hội cho người nghèo tiếp cận với sự tăng trưởng kinh tế một cách hiệu quả hơn.

Theo nghiên cứu của Qureshi và Arif (2001), trình độ học vấn đóng vai trò quan trọng trong việc xác định tỷ lệ đói nghèo Nghiên cứu này đã phân tích tỷ lệ đói nghèo giai đoạn 1998-1999 và so sánh sự khác biệt giữa các nhóm kinh tế xã hội, đặc biệt là giữa khu vực nông thôn và thành thị, thông qua phương pháp hồi quy logistic Kết quả cho thấy, hộ gia đình nông thôn có tỷ lệ nghèo cao hơn so với hộ gia đình thành thị, và các chủ trang trại có tỷ lệ nghèo thấp hơn so với những hộ không có trang trại.

Nghiên cứu của Gundlach, Pablo và Weisert (2002) chỉ ra rằng giáo dục không phân phối một cách trung lập và có ảnh hưởng tích cực đến sự phân phối thu nhập Kết quả cho thấy giáo dục có khả năng cải thiện tình hình thu nhập, giúp người nghèo hưởng lợi nhiều hơn từ sự tăng trưởng kinh tế, từ đó thúc đẩy tốc độ phát triển của nền kinh tế.

Harper, Marcus và Moore (2003) đã thực hiện một đánh giá toàn diện về tài liệu liên quan đến giảm nghèo, nhấn mạnh vai trò quan trọng của giáo dục trong việc xóa đói giảm nghèo Họ lập luận rằng, việc đào tạo nghề chất lượng cao sẽ gia tăng cơ hội việc làm cho người lao động trong tương lai Kết luận này khẳng định rằng đào tạo nghề có tác động lớn đến việc giảm nghèo, ảnh hưởng từ thu nhập cá nhân đến tổng thu nhập của gia đình Theo Khan (2003), nghèo đói là một hiện tượng đa chiều, không chỉ liên quan đến chi tiêu và thu nhập mà còn thiếu tiếp cận với các dịch vụ y tế, giáo dục và cơ hội việc làm.

Các quan niệm sai lầm về vai trò của đào tạo nghề trong quá khứ đã dẫn đến sự gia tăng tỷ lệ đói nghèo Theo Ramphele (2003), đào tạo nghề là yếu tố quan trọng để nâng cao tiềm năng thu nhập của người lao động Vener (2004) cho rằng một lực lượng lao động được đào tạo nghề chất lượng cao sẽ tạo ra năng suất lao động cao hơn, điều này cần thiết cho sự phát triển kinh tế và giảm nghèo Vener cũng chỉ ra hai kết luận quan trọng: (a) mối liên hệ giữa đói nghèo và đặc điểm của các thành viên trong hộ gia đình, và (b) sự dễ bị tổn thương của các nhóm đặc biệt Khả năng nghèo đói của một hộ gia đình có thể được phân tích dựa trên các đặc điểm cá nhân và thành viên trong hộ Một trong những nguyên nhân chính của đói nghèo là thiếu việc làm tạo ra thu nhập, đặc biệt là do thiếu vốn nhân lực.

Verner (2004) nhấn mạnh rằng để phá vỡ vòng nghèo đói kinh niên giữa các thế hệ, cần có những hành động mạnh mẽ trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp Chất lượng giáo dục nghề nghiệp thấp dẫn đến thu nhập thấp, từ đó perpetuates nghèo đói Ông cũng chỉ ra rằng trình độ học vấn là yếu tố quan trọng nhất trong việc giảm nghèo, và việc cải thiện chất lượng giáo dục nghề nghiệp cho người lao động là chìa khóa để giảm nghèo ở Paraiba và khu vực đông bắc Brazil.

Theo Jamal (2005), trình độ học vấn đóng vai trò quan trọng trong việc giảm nghèo Việc chỉ chờ đợi phổ cập giáo dục tiểu học để thúc đẩy tăng trưởng và phát triển là một sai lầm Giáo dục tiểu học là nền tảng của nguồn nhân lực, nhưng để đạt được tăng trưởng bền vững, cần đầu tư vào giáo dục trung học, giáo dục đại học và khoa học - công nghệ Những yếu tố này sẽ giúp tăng tốc và duy trì sự phát triển kinh tế.

Nghèo đa chiều không chỉ phụ thuộc vào trình độ học vấn của chủ hộ mà còn khác biệt giữa nam và nữ Thường thì hộ gia đình do nữ làm chủ sẽ thiếu thốn hơn so với hộ do nam làm chủ Những hộ nghèo do phụ nữ dẫn dắt thường gặp khó khăn nghiêm trọng trong các nhu cầu cơ bản như nhà ở, y tế, nước sạch, thiết bị vệ sinh và hệ thống thu gom rác, điều này ảnh hưởng đến năng suất và khả năng thoát nghèo của họ Nghiên cứu của Abuka, C.A., Ego, M.A., Opolot, J và Okello, P (2007) nhấn mạnh rằng đào tạo nghề cho người lao động có thể giúp phá vỡ vòng luẩn quẩn của nghèo đa chiều thông qua việc tăng thu nhập và đáp ứng các nhu cầu thiết yếu.

Năm 2007, một nghiên cứu đã phân tích các yếu tố liên quan đến nguy cơ đói nghèo đa chiều ở Uganda bằng phương pháp hồi quy logistic, sử dụng dữ liệu từ Khảo sát hộ gia đình Uganda Nghiên cứu này nhằm mục đích tạo ra thông tin về dân số hộ gia đình và các đặc điểm kinh tế xã hội để đánh giá hiệu suất phát triển Kết quả cho thấy giáo dục, đặc biệt là giáo dục nghề nghiệp, đóng vai trò quan trọng trong cuộc chiến chống đói nghèo Ngoài ra, trình độ học vấn của chủ hộ cũng có ảnh hưởng tích cực đến năng suất, thu nhập cá nhân và hiệu quả của các thành viên khác trong gia đình.

Theo báo cáo của Unesco (2007), tại Pakistan, có 6,5 triệu trẻ em từ các hộ nghèo không được đến trường do những rào cản kinh tế và phi kinh tế Trong đó, trẻ em nam thường được xem là nguồn thu nhập chính, trong khi trẻ em gái phải đảm nhận công việc nhà và chăm sóc em nhỏ.

Nghiên cứu của Goh, Luo và Zhu (2009) sử dụng dữ liệu từ Khảo sát sức khỏe và dinh dưỡng Trung Quốc để phân tích tác động của tăng trưởng thu nhập đối với tình trạng đói nghèo trong giai đoạn 1989-2004 tại 8 tỉnh của Trung Quốc Kết quả cho thấy rằng tăng trưởng thu nhập có ảnh hưởng tiêu cực đến tình trạng đói nghèo trong khu vực này.

Kızılgol và Demir (2010) đã nghiên cứu các yếu tố xác định tình trạng đói nghèo liên quan đến thu nhập và chi tiêu tiêu dùng, dựa trên dữ liệu từ Bảng câu hỏi ngân sách hộ gia đình của TUIK giai đoạn 2002-2006 Nghiên cứu chỉ ra rằng nguy cơ đói nghèo có xu hướng giảm khi độ tuổi và trình độ học vấn của người đứng đầu hộ gia đình tăng lên.

Khoảng trống nghiên cứu

Các nghiên cứu trước đây đã khai thác nhiều khía cạnh của nghèo đói toàn cầu, đề cập đến các yếu tố như trình độ học vấn, tỷ lệ giáo dục nghề nghiệp, bất bình đẳng giới trong việc làm và thu nhập, cùng với sự phát triển kinh tế và ổn định chính trị Đặc biệt, lao động qua đào tạo nghề được xem là yếu tố quan trọng trong việc giảm nghèo đa chiều, một khái niệm mới xuất hiện tại Việt Nam từ năm 2015 Mặc dù có nhiều nghiên cứu về lao động qua đào tạo nghề cho nông thôn, nhưng việc nghiên cứu tác động của nó đến giảm nghèo đa chiều ở Việt Nam vẫn còn hạn chế, đặc biệt là sau khi Quyết định số 59/2015/QĐ-TTg được ban hành Nghiên cứu đề tài “Tác động của lao động qua đào tạo nghề đến giảm nghèo đa chiều ở vùng Tây Bắc” sẽ áp dụng các lý thuyết về vốn con người và tăng trưởng kinh tế, nhằm giải quyết khoảng trống trong nghiên cứu này Trong giai đoạn 2014-2018, chính phủ đã thực hiện nhiều chính sách giảm nghèo, nhưng hiệu quả vẫn chưa bền vững Thêm vào đó, thước đo nghèo đa chiều ở Việt Nam có sự khác biệt so với quốc tế, khi tính thêm chiều về thu nhập.

Nghiên cứu tác động của lao động qua đào tạo nghề đến giảm nghèo đa chiều ở vùng Tây Bắc mang lại ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng Mặc dù nhiều nghiên cứu đã xem xét công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn, nhưng chưa có đánh giá sâu về ảnh hưởng của lao động được đào tạo đến việc giảm nghèo đa chiều Nghiên cứu này phân tích việc đào tạo nghề cho lao động thuộc hộ nghèo, so sánh thu nhập giữa người lao động đã qua đào tạo và chưa qua đào tạo, cũng như mối tương quan giữa đào tạo nghề, cơ hội việc làm và năng suất lao động Luận án xác định cơ sở lý luận về tác động của lao động qua đào tạo nghề đến giảm nghèo đa chiều, đồng thời đề xuất giải pháp cho chính quyền địa phương nhằm cải thiện công tác đào tạo nghề, từ đó xây dựng chính sách hỗ trợ đào tạo cho thanh niên nông thôn, thúc đẩy giảm nghèo và giảm nghèo đa chiều tại Việt Nam.

Tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề chất lượng cao có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển xã hội, gia tăng việc làm và thu nhập, đồng thời góp phần xóa đói giảm nghèo, đặc biệt là trong bối cảnh giảm nghèo đa chiều hiện nay Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu này, cần phải nghiên cứu và xem xét cụ thể các yếu tố của từng quá trình, từ đó đưa ra những đánh giá và kiểm định phù hợp với điều kiện của từng vùng, khu vực.

Giáo dục, đặc biệt là giáo dục nghề nghiệp, có thể nâng cao thu nhập và năng suất của người lao động, từ đó góp phần giảm nghèo đáng kể Tác động của giáo dục đối với đói nghèo không chỉ thông qua thu nhập mà còn qua các yếu tố gián tiếp như giảm tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh, cải thiện sức khỏe và quyết định tốt hơn trong cuộc sống Tuy nhiên, ảnh hưởng này có thể khác nhau giữa các vùng miền do các yếu tố như hoàn cảnh kinh tế và chất lượng giáo dục Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng có một khoảng trống nghiên cứu về tác động của lao động qua đào tạo nghề đối với giảm nghèo đa chiều tại vùng Tây Bắc Việt Nam, nơi mà khái niệm nghèo đa chiều đã được tiếp cận từ năm 2015 Những kết luận này nhấn mạnh vai trò quan trọng của giáo dục và giáo dục nghề nghiệp trong công cuộc xóa đói giảm nghèo hiện nay.

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LAO ĐỘNG QUA ĐÀO TẠO NGHỀ VÀ GIẢM NGHÈO ĐA CHIỀU

Đào tạo nghề và lao động qua đào tạo nghề

2.1.1 Đào tạo nghề và hình thức dạy nghề

Khái niệm đào tạo thường đi liền với giáo dục và thành một cặp đôi là giáo dục

Giáo dục là quá trình phát triển và rèn luyện năng lực, bao gồm tri thức, kỹ năng và phẩm chất như niềm tin, tư cách và đạo đức, nhằm giúp con người phát triển nhân cách một cách toàn diện và trở thành những cá nhân có giá trị tích cực cho xã hội.

Đào tạo là quá trình trang bị năng lực cho người lao động, bao gồm kiến thức, kỹ năng và thái độ, theo những tiêu chuẩn nhất định Mục tiêu của đào tạo là giúp người lao động có khả năng thực hiện công việc hiệu quả và trở nên hữu ích trong các hoạt động xã hội.

Từ góc nhìn của các nhà giáo dục và đào tạo Việt Nam, Nguyễn Tiến Đạt

Đào tạo, theo khái niệm được đưa ra vào năm 1990, là một quá trình có mục đích và tổ chức, nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng và kỹ xảo cần thiết trong lý thuyết và thực tiễn Mục tiêu của đào tạo là phát triển năng lực để thực hiện thành công các hoạt động xã hội và nghề nghiệp.

Theo giáo trình Kinh tế lao động của Trường đại học Kinh tế Quốc Dân Hà Nội, đào tạo là quá trình trang bị kiến thức chuyên môn cho người lao động để họ có thể thực hiện công việc cụ thể Đỗ Minh Cương và Mạc Văn Tiến định nghĩa đào tạo lao động kỹ thuật là hoạt động có mục đích, tổ chức và kế hoạch, nhằm phát triển kiến thức, kỹ năng và thái độ cho người lao động ở nhiều cấp độ Mục tiêu là giúp họ thực hiện công việc phức tạp với năng suất cao và thích ứng nhanh chóng với sự thay đổi của công nghệ.

Theo Tổng cục dạy nghề (2007), hoạt động đào tạo nghề bao gồm việc cung cấp kiến thức, kỹ năng và thái độ cần thiết để thực hiện công việc một cách hiệu quả Điều này bao gồm đào tạo ban đầu, đào tạo lại, nâng cao, cập nhật và đào tạo chuyên sâu liên quan đến nghề nghiệp.

Luật Dạy nghề định nghĩa rằng dạy nghề là quá trình giáo dục nhằm cung cấp kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp cho người học Mục tiêu của hoạt động này là giúp học viên có khả năng tìm kiếm việc làm hoặc tự tạo ra công việc sau khi hoàn thành khóa học.

Theo tác giả, đào tạo nghề được định nghĩa là quá trình trang bị cho người lao động những năng lực cần thiết, bao gồm kiến thức, kỹ năng và thái độ, nhằm giúp họ có khả năng hành nghề hoặc tự tạo ra việc làm cho bản thân.

Luật dạy nghề năm 2006 quy định ba cấp trình độ đào tạo: sơ cấp nghề, trung cấp nghề và cao đẳng nghề Hình thức hoạt động dạy nghề bao gồm dạy nghề chính quy và dạy nghề thường xuyên.

Dạy nghề trình độ sơ cấp nhằm trang bị cho người học năng lực thực hành một nghề đơn giản hoặc một số công việc của nghề, đồng thời phát triển đạo đức, lương tâm nghề nghiệp, ý thức kỷ luật và tác phong công nghiệp Chương trình dạy nghề này kéo dài từ ba tháng đến dưới một năm, phù hợp với trình độ học vấn và sức khỏe của người học, giúp họ có khả năng tìm việc làm, tự tạo việc làm hoặc tiếp tục học lên trình độ cao hơn.

Dạy nghề trình độ trung cấp cung cấp cho người học kiến thức chuyên môn và kỹ năng thực hành cần thiết, giúp họ làm việc độc lập và ứng dụng công nghệ vào công việc Chương trình đào tạo cũng nhấn mạnh đạo đức nghề nghiệp, ý thức kỷ luật và tác phong công nghiệp, đồng thời đảm bảo sức khỏe cho người học Sau khi tốt nghiệp, học viên có khả năng tìm việc làm, tự tạo việc làm hoặc tiếp tục học lên trình độ cao hơn Thời gian đào tạo từ một đến hai năm cho người có bằng tốt nghiệp trung học phổ thông, và từ ba đến bốn năm cho người có bằng tốt nghiệp trung học cơ sở, tùy theo nghề đào tạo.

Dạy nghề trình độ cao đẳng cung cấp cho người học kiến thức chuyên môn và kỹ năng thực hành cần thiết để làm việc độc lập và tổ chức làm việc nhóm Chương trình đào tạo giúp sinh viên phát triển khả năng sáng tạo, ứng dụng công nghệ vào công việc và giải quyết tình huống phức tạp Ngoài ra, người học còn được rèn luyện đạo đức nghề nghiệp, ý thức kỷ luật và tác phong công nghiệp, đồng thời nâng cao sức khỏe Thời gian đào tạo kéo dài từ hai đến ba năm cho người có bằng tốt nghiệp trung học phổ thông và từ một đến hai năm cho người có bằng tốt nghiệp trung cấp nghề cùng ngành Mục tiêu cuối cùng là giúp người học có khả năng tìm việc làm, tự tạo việc làm hoặc tiếp tục học lên trình độ cao hơn.

Dạy nghề chính quy là hình thức đào tạo tập trung, do các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, trường đại học và doanh nghiệp có đăng ký thực hiện Hình thức này nhằm đào tạo các trình độ sơ cấp, trung cấp và cao đẳng nghề, giúp người học nâng cao kỹ năng và kiến thức chuyên môn.

Dạy nghề thường xuyên là hình thức đào tạo linh hoạt, kết hợp giữa làm việc và học tập, bao gồm học từ xa hoặc tự học có hướng dẫn Chương trình đào tạo này áp dụng cho các trình độ sơ cấp nghề, trung cấp nghề, cao đẳng nghề và các chương trình đào tạo nghề khác, nhằm đáp ứng nhu cầu của người học về thời gian, phương pháp và địa điểm học.

2.1.2 Lao động qua đào tạo nghề

Theo khái niệm đào tạo nghề, một lao động được coi là đã qua đào tạo khi hoàn thành ít nhất một hoạt động đào tạo nghề Việc đánh giá không dựa vào năng lực thực tế hay văn bằng chứng chỉ, mà chủ yếu xem xét việc người lao động đã tham gia học nghề Thông thường, lao động qua đào tạo là những người đã tham gia lớp hoặc chương trình đào tạo nghề thuộc danh mục nghề quy định Để đảm bảo đạt được kiến thức và kỹ năng cần thiết, cần quy định thời gian tối thiểu cho một khóa đào tạo nghề, theo ý kiến của các chuyên gia, thời gian này ít nhất là một tháng Sau khi kết thúc khóa học, người học sẽ được kiểm tra đánh giá và cấp văn bằng, chứng chỉ nghề theo quy định.

Có ba nhóm cung cấp lao động qua đào tạo nghề: đào tạo chính thức tại các trường trong hệ thống giáo dục kỹ thuật và dạy nghề, đào tạo nghề nghiệp trước khi làm việc, và đào tạo tại chức cho công nhân.

Nghèo và nghèo đa chiều

2.2.1 Quan điểm về nghèo nói chung

2.2.1.1 Quan điểm về nghèo trên thế giới

Nghèo đói có nhiều khái niệm khác nhau Theo Waltts (1968), nghèo được định nghĩa là sự thiếu hụt khả năng thỏa mãn các nhu cầu về hàng hóa thông thường Trong khi đó, Sen (1987) cho rằng nghèo là sự thiếu hụt khả năng hoạt động và phát triển, đồng thời nhấn mạnh rằng nghèo đói là một vấn đề đa chiều.

Tại Hội nghị ESCAP ở Băng Cốc vào tháng 9/1993, khái niệm về đói nghèo đã được định nghĩa là tình trạng mà một bộ phận dân cư không thể đáp ứng nhu cầu cơ bản đã được xã hội công nhận, phụ thuộc vào mức độ phát triển kinh tế - xã hội và phong tục tập quán của từng địa phương.

Tại Hội nghị Thượng đỉnh thế giới về Phát triển xã hội năm 1995 ở Copenhaghen, Đan Mạch, khái niệm về người nghèo được định nghĩa là những cá nhân có thu nhập thấp hơn 1 USD mỗi ngày Số tiền này được xem là mức tối thiểu để đảm bảo mua sắm những sản phẩm thiết yếu cho sự tồn tại.

Ngân hàng Thế giới (WB 2000) định nghĩa đói nghèo là "sự thiếu hụt về mặt phúc lợi", trong đó phúc lợi được đo lường qua các yếu tố như thu nhập, sức khoẻ, dinh dưỡng, giáo dục, tài sản, nhà ở và quyền tự do ngôn luận Ngoài ra, đói nghèo còn thể hiện sự thiếu cơ hội, thiếu quyền lực và dễ bị tổn thương trong xã hội.

Từ những khái niệm trên, Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) đã tách riêng hai khái niệm đó là khái niệm đói và khái niệm nghèo:

Đói là tình trạng mà một bộ phận dân cư sống dưới mức tối thiểu, với thu nhập không đủ để đáp ứng nhu cầu vật chất cần thiết cho cuộc sống Những hộ gia đình này thường xuyên thiếu ăn, phải vay nợ từ cộng đồng và không có khả năng chi trả cho các nhu cầu cơ bản.

Nghèo được định nghĩa là tình trạng mà một bộ phận dân cư không đủ khả năng đáp ứng các nhu cầu cơ bản và tối thiểu cho cuộc sống, dẫn đến mức sống thấp hơn mức trung bình của cộng đồng trên mọi khía cạnh.

Nghèo có thể được xem xét từ nhiều khía cạnh khác nhau, không chỉ đơn thuần là thu nhập và chi tiêu Theo Ngân hàng Thế giới (2000), nghèo đa chiều bao gồm nhiều yếu tố như dinh dưỡng, sức khỏe, giáo dục, và khả năng dễ bị tổn thương, cũng như quyền phát ngôn và quyền lực Điều này liên quan đến khả năng đáp ứng các tiêu chuẩn phúc lợi, an ninh kinh tế, xã hội và con người, cùng với quyền dân sự và chính trị Các yếu tố như sức khỏe, giáo dục và thu nhập của hộ gia đình, cũng như các vấn đề liên quan đến nhà ở, nước và vệ sinh, lao động trẻ em, giải trí, và sự tham gia vào các hoạt động xã hội cũng là những khía cạnh quan trọng trong việc đánh giá nghèo đa chiều (UNCP, 2010; UNICEF, 2009).

Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã đưa ra khái niệm về nghèo theo thu nhập là:

Nghèo được hiểu là sự thiếu cơ hội để sống một cuộc sống đạt tiêu chuẩn tối thiểu Các tiêu chuẩn này thay đổi theo vùng miền và thời gian Một người được coi là nghèo khi thu nhập hàng tháng của họ thấp hơn một nửa thu nhập bình quân đầu người của quốc gia Tuy nhiên, tiêu chí và chuẩn mực đánh giá sự nghèo đói còn phụ thuộc vào điều kiện lịch sử và địa phương cụ thể.

Trên góc độ khác Liên hợp Quốc đã đưa ra hai khái niệm về nghèo đó là nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối như sau:

Nghèo tuyệt đối là tình trạng mà một bộ phận dân cư không được đáp ứng những nhu cầu cơ bản tối thiểu cho cuộc sống, bao gồm ăn, mặc, ở, giao tiếp xã hội, vệ sinh, y tế và giáo dục Ngoài ra, một số ý kiến còn cho rằng nhu cầu tối thiểu cũng nên bao gồm quyền tham gia vào các quyết định của cộng đồng.

Nghèo tương đối là tình trạng mà một bộ phận dân cư sống dưới mức trung bình của cộng đồng trong một khoảng thời gian nhất định Tình trạng này phát triển theo không gian và thời gian, phụ thuộc vào mức sống chung của xã hội Do đó, nghèo tương đối liên quan chặt chẽ đến sự chênh lệch về mức sống giữa một nhóm dân cư và mức sống trung bình của địa phương trong thời kỳ cụ thể.

Nhiều nhà nghiên cứu nhận định rằng việc xóa bỏ nghèo tuyệt đối là khả thi, trong khi nghèo tương đối là hiện tượng phổ biến trong xã hội Điều quan trọng là cần rút ngắn khoảng cách giàu nghèo và hạn chế sự phân hóa giàu nghèo.

Có sự khác biệt rõ rệt về quan điểm và khái niệm nghèo đói giữa các quốc gia, dẫn đến tiêu chuẩn đánh giá không đồng nhất Do đó, cần thiết phải xác định các thước đo mức nghèo đói phù hợp cho từng quốc gia, vùng miền và địa phương, dựa trên một nền tảng thống nhất về mặt định tính.

2.2.1.2 Quan điểm về nghèo tại Việt Nam

Khái niệm về đói nghèo ở Việt Nam tương đồng với những định nghĩa toàn cầu, được xác định tại Hội nghị chống đói nghèo khu vực Châu Á - Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức vào tháng 9/1993 tại Băng Cốc, Thái Lan Theo đó, đói nghèo được hiểu là tình trạng mà một bộ phận dân cư không được đáp ứng các nhu cầu cơ bản của con người, những nhu cầu này được xã hội công nhận tùy thuộc vào mức độ phát triển kinh tế - xã hội và phong tục tập quán địa phương.

Theo giáo trình Kinh tế Nguồn nhân lực của tác giả Trần Xuân Cầu (2013), nghèo đói được định nghĩa là tình trạng mà một bộ phận dân cư chỉ có khả năng đáp ứng một phần nhu cầu tối thiểu cần thiết cho cuộc sống, dẫn đến mức sống thấp hơn so với mức sống trung bình của cộng đồng.

Trong nhiều tài liệu, cụm từ “nghèo khổ” hay “nghèo đói” thường được sử dụng để chỉ tình trạng thiếu thốn “Đói” ám chỉ tình trạng không đủ lương thực, còn “nghèo” đề cập đến việc một bộ phận dân cư có mức sống tối thiểu và thu nhập không đủ để đáp ứng nhu cầu vật chất, dẫn đến việc tiêu dùng năng lượng thấp hơn mức tối thiểu cần thiết cho cuộc sống (Trần Xuân Cầu, 2013).

Khung phân tích tác động của lao động qua đào tạo nghề đến giảm nghèo đa chiều

2.3.1 Cơ sở lý thuyết tác động của lao động qua đào tạo nghề đến giảm nghèo đa chiều

Trước đây, các nhà kinh tế chú trọng đến ba yếu tố chính trong sản xuất: đất đai, nhân công và vốn Tuy nhiên, từ những năm 1960, sự quan tâm đã chuyển hướng sang trình độ giáo dục của công nhân, dẫn đến sự ra đời của thuật ngữ "vốn con người".

Nguồn vốn con người được định nghĩa là tổ hợp các khả năng bẩm sinh và kỹ năng tích lũy qua học tập, nhưng trong kinh doanh, nó chỉ bao gồm những kỹ năng liên quan trực tiếp đến thành công của doanh nghiệp OECD (2001) mô tả nguồn vốn con người là "kiến thức, kỹ năng, năng lực và những thuộc tính tiềm tàng trong mỗi cá nhân", góp phần vào sự thịnh vượng kinh tế và xã hội Định nghĩa này cũng ngầm bao hàm sức khỏe của con người, vì sức khỏe là điều kiện cần thiết để cống hiến Nguồn vốn con người là một quá trình biến đổi liên tục từ khi sinh ra đến khi mất đi, với kiến thức và kỹ năng luôn được cập nhật và thay đổi Kiến thức có thể được hình thành từ giáo dục chính quy, các khóa học, hoặc từ kinh nghiệm thực tiễn trong cuộc sống hàng ngày, và có thể là tổng quát hoặc cụ thể cho một hoạt động nhất định.

Cần nhận thức rằng, mặc dù được truyền thụ kiến thức và thời gian thực tập giống nhau, nhưng vốn con người của mỗi cá nhân lại khác biệt do khả năng nhận thức Nguồn vốn con người bị ảnh hưởng bởi thời gian và sự rèn luyện của từng người Trong sản xuất, mỗi cá nhân đảm nhiệm một khâu cụ thể, do đó kỹ năng và kiến thức tương ứng sẽ được củng cố và phát triển, ngược lại sẽ bị hao mòn theo thời gian Hơn nữa, khi con người già đi, mặc dù tích lũy nhiều kinh nghiệm, nhưng khả năng thao tác có thể giảm hiệu quả; tức là có năng lực nhưng không thể thể hiện hoàn toàn Vì vậy, không thể coi nguồn vốn con người là một thực thể đồng nhất và bất biến.

“nâng cấp” hoặc “phân huỷ” tuỳ thuộc vào hoạt động học tập của mỗi cá nhân

Theo OECD (2001), những kỹ năng và phẩm chất quan trọng trong phát triển nguồn nhân lực bao gồm: khả năng giao tiếp bằng cả tiếng mẹ đẻ và ngoại ngữ, kỹ năng số học với tư duy logic, khả năng tự thấu hiểu và điều chỉnh bản thân như sự kiên trì và khả năng tự học, khả năng thấu hiểu và làm việc theo nhóm cùng với khả năng lãnh đạo Ngoài ra, các phẩm chất khác như kiến thức tiềm ẩn, khả năng giải quyết vấn đề, và kỹ năng thao tác với thiết bị công nghệ thông tin cũng rất cần thiết.

Vốn con người được hình thành suốt cuộc đời và việc đo lường nó chỉ mang tính tạm thời tại thời điểm thực hiện Các nhà kinh tế học thường sử dụng cấp độ giáo dục, như thời gian học tập của cá nhân hoặc tỷ lệ người có bằng cấp trên giáo dục phổ thông, làm công cụ đo lường, mặc dù họ nhận thức rằng công cụ này không hoàn hảo (OECD, 2007).

2.3.1.1 Lý thuyết về vốn con người và tăng trưởng kinh tế

Năng suất bị ảnh hưởng bởi ba yếu tố chính: vốn vật chất, vốn con người và tiến bộ công nghệ Vốn vật chất cung cấp cơ sở hạ tầng cần thiết cho sản xuất, trong khi vốn con người đại diện cho kỹ năng và kiến thức của lực lượng lao động Cuối cùng, tiến bộ công nghệ thúc đẩy hiệu quả và cải thiện quy trình sản xuất.

-Vốn vật chất là những tài nguyên do con người tạo ra như máy móc, nhà xưởng, để phục vụ sản xuất

- Vốn con người là những kiến thức và kỹ năng của lực lượng lao động do giáo dục, đào tạo và học hỏi mang lại

Tiến bộ công nghệ đóng vai trò quan trọng trong việc cải thiện quy trình sản xuất hàng hóa và dịch vụ Điều này bao gồm cả các phát minh và sáng chế sản phẩm mới, cũng như những đổi mới và cải tiến trong quy trình sản xuất.

Trong các mô hình tăng trưởng kinh tế như Cobb Douglas, tổng sản lượng được biểu diễn bằng hàm số Y = AK^a L^b, trong đó K là vốn, L là lao động và A là yếu tố thể hiện năng suất Việc sử dụng quá nhiều vốn (K) cho thấy nền kinh tế phụ thuộc vào yếu tố vật chất, dẫn đến năng suất biên của vốn thấp và sự tăng trưởng không bền vững Lao động (L) có thể là lao động giản đơn trong các mô hình cổ điển, hoặc lao động có kỹ thuật và tri thức trong các mô hình tân cổ điển và mô hình tăng trưởng nội sinh.

Mô hình của Mankiw và cộng sự (1992) Y = K^a H^b (AL)^(1-a-b) cho thấy vai trò quan trọng của vốn con người (H) và yếu tố A, đại diện cho TFP, trong việc duy trì tăng trưởng kinh tế dài hạn Cách tính này giúp xác định mức độ đóng góp của vốn và lao động vào tăng trưởng, trong khi phần còn lại được gọi là đóng góp của TFP Sự suy giảm năng suất biên của vốn và giới hạn tăng trưởng lao động chỉ ra rằng công nghệ, hay TFP, là yếu tố chính thúc đẩy tăng trưởng Theo cách hiểu rộng, "tiến bộ kỹ thuật" hay TFP phản ánh toàn bộ sự gia tăng sản lượng khi các yếu tố đầu vào không thay đổi, trong khi theo cách hiểu hẹp hơn, nó chỉ ra sự gia tăng hiệu quả trong việc sử dụng các yếu tố đầu vào.

Vốn vật chất, lao động, vốn con người và tiến bộ kỹ thuật là bốn nguồn cơ bản của tăng trưởng kinh tế Các nhà kinh tế học cổ điển cho rằng vốn, được hiểu là tài sản tài chính và vật chất được tích lũy, là động lực chính của nền kinh tế Tư tưởng này mang tính cách mạng trong bối cảnh mà đất đai được coi là tài sản lớn nhất, và phải mất gần 100 năm các chính trị gia mới chấp nhận rằng đất đai và tài nguyên thiên nhiên không phải là thứ tài sản duy nhất cần tích lũy.

Mô hình tăng trưởng tân cổ điển của Solow (1956) đã trở thành nền tảng quan trọng cho các nghiên cứu và phân tích về tăng trưởng kinh tế trong suốt thời gian qua.

Sau 30 năm, mô hình kinh tế cho thấy rằng sự tăng trưởng không thể chỉ được giải thích qua việc gia tăng vốn vật chất và lao động Yếu tố “số dư” chứa đựng nhiều nhân tố không xác định, trong đó sự nâng cao chất lượng các yếu tố đầu vào có thể là nhân tố quan trọng nhất Điều này đã được Schultz chỉ ra từ hơn 50 năm trước.

Năm 1961, đã được dự báo rằng "đầu tư vào vốn con người có thể là lý do chính giải thích cho sự chênh lệch giữa tăng trưởng đầu ra và sự tăng trưởng của các đầu vào vốn vật chất và lao động."

Nguồn vốn con người là yếu tố quyết định giúp tăng năng suất theo quy mô, với sự hợp tác giữa chính phủ, xã hội dân sự và thị trường để xây dựng thể chế và chính sách phát triển nguồn vốn con người Việc khuyến khích đầu tư nước ngoài vào các ngành công nghiệp tri thức như phần mềm và viễn thông là cần thiết để duy trì động lực tăng trưởng, tránh rơi vào bẫy tăng trưởng kém do chỉ dựa vào vốn vật chất Theo mô hình Tăng trưởng Quốc gia của Michael Porter, có ba giai đoạn tăng trưởng: tăng trưởng dẫn dắt bởi nhân tố, hiệu suất và đổi mới, trong đó chất lượng nguồn nhân lực càng trở nên quan trọng ở giai đoạn hai và ba (Nguyễn Văn Dung, 2011).

2.3.1.2 Lý thuyết về vốn con người và thu nhập của người lao động

Khoa học về vốn con người đã bắt đầu từ thế kỷ XVIII với tác phẩm nổi tiếng "Nguồn gốc của cải của các quốc gia" của Adam Smith.

Mô hình nghiên cứu tác động của lao động qua đào tạo nghề đến giảm nghèo đa chiều

Quá trình nghiên cứu đã xác định hệ thống thang đo để đánh giá tác động của lao động qua đào tạo nghề đối với việc giảm nghèo đa chiều.

Dựa trên phương pháp xác định nghèo thu nhập, bài viết phân tích tỷ lệ nghèo ở vùng Tây Bắc Nghiên cứu kết hợp giữa định lượng và định tính nhằm làm rõ tác động của lao động qua đào tạo nghề đối với việc giảm nghèo đa chiều tại khu vực này.

Đào tạo là sự kết hợp hài hòa giữa kiến thức từ hệ thống giáo dục, gia đình và doanh nghiệp, thông qua các kênh thông tin đa dạng Nó cung cấp kiến thức chung và có khả năng chuyển giao, giúp nâng cao khả năng làm việc Đào tạo không chỉ là công cụ mà còn là kênh trực tiếp tác động đến năng lực cá nhân, trang bị kỹ năng và kiến thức cần thiết cho người học, từ đó góp phần quan trọng trong việc tạo ra cơ hội việc làm cho người lao động.

Đào tạo nghề là yếu tố quan trọng giúp nâng cao năng lực thực hiện cho người học, đặc biệt ở các quốc gia có kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực Việc đào tạo không chỉ diễn ra trong trường học mà còn bao gồm các hình thức đào tạo ngoài trường, tại gia đình, trong xã hội và tự đào tạo Những hoạt động này góp phần tăng cường kỹ năng lao động, từ đó tạo ra nhiều cơ hội việc làm cho người lao động.

Đào tạo nhằm mục đích làm việc là rất quan trọng, vì người lao động cần có cơ hội để phát huy năng lực của mình Khi được đào tạo đúng cách, họ có thể trở nên hữu ích và góp phần tạo ra của cải vật chất cho xã hội Việc có chỗ làm phù hợp giúp người lao động thể hiện những kỹ năng đã học, từ đó nâng cao giá trị bản thân và đóng góp tích cực cho nền kinh tế.

Đào tạo nghề đóng vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh cơ cấu và nâng cao chất lượng lực lượng lao động Sự gia tăng số lượng lao động được đào tạo nghề không chỉ làm tăng tỷ trọng nhóm lao động có chuyên môn kỹ thuật mà còn giảm tỷ lệ lao động không có chuyên môn trong tổng lực lượng lao động.

Đào tạo nghề đóng vai trò quan trọng trong việc chuyển dịch cơ cấu lao động, đặc biệt trong bối cảnh công nghiệp hóa Quá trình này không chỉ trang bị kỹ năng và năng lực cho người lao động mà còn giúp họ thích ứng với yêu cầu ngày càng cao của thị trường lao động Việc nâng cao trình độ chuyên môn sẽ tạo ra lực lượng lao động linh hoạt, đáp ứng tốt hơn nhu cầu phát triển kinh tế.

Lao động qua đào tạo nghề

- Đặc điểm hộ gia đình

- Đặc điểm người lao động

Tỷ lệ lao động được đào tạo nghề từ lĩnh vực nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ đang gia tăng Việc đào tạo nghề không chỉ nâng cao cơ hội tìm kiếm việc làm mà còn tăng thu nhập cho cá nhân Điều này giúp người lao động dễ dàng thay đổi và chuyển dịch công việc, đồng thời nhanh chóng thích nghi với các biến đổi kinh tế và xã hội.

Mối quan hệ giữa đào tạo và việc làm cần dựa trên nhu cầu của thị trường lao động, cụ thể là "cầu lao động" Việc xác định ai sẽ được đào tạo, nghề nào sẽ được giảng dạy và trình độ đào tạo ra sao phải dựa vào nhu cầu việc làm thực tế.

Đề cập đến vốn nhân lực cho thấy sự chênh lệch tiền lương phản ánh năng suất lao động khác nhau giữa các nhóm Giáo dục và đào tạo đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao năng suất lao động, giúp người lao động có năng suất cao hơn đạt được thu nhập và tiền lương tốt hơn.

Lao động qua đào tạo, đặc biệt là đào tạo nghề, có cơ hội việc làm tốt hơn và thu nhập cao hơn so với nhóm không qua đào tạo Hộ gia đình có lao động được đào tạo nghề cũng kỳ vọng sẽ đạt thu nhập bình quân đầu người tốt hơn, góp phần giảm nghèo và giảm nghèo đa chiều hiệu quả.

Trong chương 2 của luận án, nghiên cứu đã làm rõ các vấn đề quan trọng liên quan đến lao động qua đào tạo nghề Đầu tiên, khái niệm và quan niệm về lao động qua đào tạo nghề đã được xác định Thứ hai, nghiên cứu đã làm rõ quan niệm về nghèo ở cả thế giới và Việt Nam, bao gồm khái niệm, thước đo và cách tiếp cận nghèo đa chiều tại Việt Nam Thứ ba, cơ sở lý thuyết về tác động của lao động qua đào tạo nghề đến giảm nghèo đa chiều và các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ học nghề đã được xác định Cuối cùng, một khung phân tích tác động của lao động qua đào tạo nghề đến giảm nghèo đa chiều đã được xây dựng.

PHƯƠNG PHÁP VÀ CÁCH TIẾP CẬN NGHIÊN CỨU TÁC ĐỘNG CỦA LAO ĐỘNG QUA ĐÀO TẠO NGHỀ ĐẾN GIẢM NGHÈO ĐA CHIỀU

PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG LAO ĐỘNG QUA ĐÀO TẠO NGHỀ ĐẾN GIẢM NGHÈO ĐA CHIỀU Ở VÙNG TÂY BẮC GIAI ĐOẠN 2014 - 2018

GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY ĐÀO TẠO NGHỀ CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG NHẰM GIẢM NGHÈO ĐA CHIỀU Ở VÙNG TÂY BẮC ĐẾN NĂM

Ngày đăng: 17/07/2021, 21:58

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Abuka, C.A., Ego, M.A., Opolot, J. and Okello, P. (2007), Determinants of Poverty Vulnerability in Uganda, Discussion Paper No. 203, Institute for International Integration Studies Sách, tạp chí
Tiêu đề: Determinants of Poverty Vulnerability in Uganda
Tác giả: Abuka, C.A., Ego, M.A., Opolot, J. and Okello, P
Năm: 2007
2. Adam Smith (2003), Của cải của các dân tộc (The Wealth of Nation), Nhà xuất bản Giáo Dục, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Của cải của các dân tộc (The Wealth of Nation)
Tác giả: Adam Smith
Nhà XB: Nhà xuất bản Giáo Dục
Năm: 2003
3. Afrooz, Ahmad, Khalid Abdul Rahim, Zaleha Mohd Noor, and Lee Chin (2010), 'Human Capital and Labor Productivity in Food Industries ofIran', International Journal of Economics and Finance, 47-51 Sách, tạp chí
Tiêu đề: International Journal of Economics and Finance
Tác giả: Afrooz, Ahmad, Khalid Abdul Rahim, Zaleha Mohd Noor, and Lee Chin
Năm: 2010
4. Aftab, S., Hamid, N. & Prevez, S. (2002, July), Poverty in Pakistan-Issues, causes and Institutional Responses, Islamabad: Asian Development Bank - Pakistan Resident Mission Sách, tạp chí
Tiêu đề: Poverty in Pakistan-Issues, causes and Institutional Responses
Tác giả: Aftab, S., Hamid, N. & Prevez, S
Năm: 2002
5. Anka, L. (2009), Empirical Analysis of The Determinants of Rural Poverty in Sindh Province Of Pakistan, Jamshoro, Sindh Development Studies Centre University of Sindh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Empirical Analysis of The Determinants of Rural Poverty in Sindh Province Of Pakistan
Tác giả: Anka, L
Năm: 2009
6. Appleton, S. (1997), Leaping into the ark: Some reflections on free primary education in Uganda, Cambridge, UK: Centre for the Study of African Economies, University of Oxford Sách, tạp chí
Tiêu đề: Appleton, S. (1997), "Leaping into the ark: Some reflections on free primary education in Uganda
Tác giả: Appleton, S
Năm: 1997
7. Awan, M. S., Malik, N., Sarwar, H., & Waqas, M. (2011), Impact of education on poverty reduction (MPRA Paper No. 31826), Munich Personal RePEc Archive. Retrieved from http://mpra.ub.unimuenchen.de/41923/1/MPRA_paper_41923.pdf Sách, tạp chí
Tiêu đề: Impact of education on poverty reduction
Tác giả: Awan, M. S., Malik, N., Sarwar, H., & Waqas, M
Năm: 2011
8. Bakhtiari, Q., Dean, B.L., Lodhi, M. et al. (2014), Next Generation: Insecure lives, Untold Stories, Islamabad: The British Council Pakistan Sách, tạp chí
Tiêu đề: Next Generation: Insecure lives, Untold Stories
Tác giả: Bakhtiari, Q., Dean, B.L., Lodhi, M. et al
Năm: 2014
9. Bukhari, M. A. (2005), Economics of Education, Islamabad: Allama Iqbal Open University Sách, tạp chí
Tiêu đề: Economics of Education
Tác giả: Bukhari, M. A
Năm: 2005
10. Burtless, G., Smeeding, T. M.,& Rainwatr, L. (2000), United States Poverty in a cross National context, Luxembourg: Luxembourg Income study, working Paper Sách, tạp chí
Tiêu đề: United States Poverty in a cross National context
Tác giả: Burtless, G., Smeeding, T. M.,& Rainwatr, L
Năm: 2000
11. Cai, Z. Z, (1996), Internal và External Effects of Education on the Growth of National Product, A Dissertation Submitted in Partial Fulfillment of the Requirements for the Degree of Doctor of Arts, Illinois State University Sách, tạp chí
Tiêu đề: Internal và External Effects of Education on the Growth of National Product
Tác giả: Cai, Z. Z
Năm: 1996
12. Chambel, J., & Hartl, M. (201 I), Technical and Vocational Skilsl development forPpoverty alleviation, International Fund for Agricultural Development (IFAD) Policy and Technical Advisory Division Sách, tạp chí
Tiêu đề: Technical and Vocational Skilsl development forPpoverty alleviation
13. Chansarn, Supachet (2010), 'Labor Productivity Growth, Education, Health and Technological Progress: A Cross-Country Analysis', Economic Analysis &Policy, (2010): 249-61 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Economic Analysis & "Policy
Tác giả: Chansarn, Supachet (2010), 'Labor Productivity Growth, Education, Health and Technological Progress: A Cross-Country Analysis', Economic Analysis &Policy
Năm: 2010
14. Cheema, F. (2004), Macroeconomic Stability of Pakistan: The Role of IMF and World Bank (1997 - 2003), University of Illinois Sách, tạp chí
Tiêu đề: Macroeconomic Stability of Pakistan: The Role of IMF and World Bank (1997 - 2003)
Tác giả: Cheema, F
Năm: 2004
15. Commission of the European Communities (2001), Measures taken and to be taken by the Commission to address the poverty reduction objective of EC development policy, Commission Staff working paper, Brussels, 26 July 2001, SEC (2001)1317 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Measures taken and to be taken by the Commission to address the poverty reduction objective of EC development policy
Tác giả: Commission of the European Communities
Năm: 2001
16. Corbett, T. J. (2002), Poverty. In T. J. Corbett, Encarta Encyclopedia, Microsoft Sách, tạp chí
Tiêu đề: Poverty. In T. J. Corbett
Tác giả: Corbett, T. J
Năm: 2002
17. Đặng Quốc Bảo, Nguyễn Đắc Hưng (2004), Giáo dục Việt Nam hướng tới tương lai, vấn đề và giải pháp, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo dục Việt Nam hướng tới tương lai, vấn đề và giải pháp
Tác giả: Đặng Quốc Bảo, Nguyễn Đắc Hưng
Nhà XB: Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia
Năm: 2004
18. Đỗ Minh Cương, Mạc Văn Tiến (2004), Phát triển lao động kỹ thuật ở Việt nam, Lý luận và thực tiễn, Nhà xuất bản Lao động - Xã hội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phát triển lao động kỹ thuật ở Việt nam, Lý luận và thực tiễn
Tác giả: Đỗ Minh Cương, Mạc Văn Tiến
Nhà XB: Nhà xuất bản Lao động - Xã hội
Năm: 2004
19. Fitzsimons, P., (1999), 'Human capital theory and education', Encyclopedia of philosophy of education, pp.1-5 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Encyclopedia of philosophy of education
Tác giả: Fitzsimons, P
Năm: 1999
20. Fleisher, Belton M, Yifan Hu, Haizheng Li, and Seonghoon Kim (2011), 'Economic Transition, Higher Education and Worker Productivity in China', Journal of Development Economics, 86-94 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Journal of Development Economics
Tác giả: Fleisher, Belton M, Yifan Hu, Haizheng Li, and Seonghoon Kim
Năm: 2011

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w