1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Tác động của lao động qua đào tạo nghề đến giảm nghèo đa chiều ở vùng tây bắc

193 11 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Tác Động Của Lao Động Qua Đào Tạo Nghề Đến Giảm Nghèo Đa Chiều Ở Vùng Tây Bắc
Tác giả Bùi Thanh Hà
Người hướng dẫn PGS.TS Đoàn Thị Thu Hà
Trường học Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
Chuyên ngành Quản Lý Kinh Tế
Thể loại Luận Án Tiến Sĩ
Năm xuất bản 2021
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 193
Dung lượng 814,51 KB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU (19)
    • 1.1. Các nghiên cứu về tác động của đào tạo nghề đến việc làm của người lao động (19)
      • 1.1.1. Các nghiên cứu quốc tế về tác động của đào tạo nghề đến việc làm của người lao động (19)
      • 1.1.2. Các nghiên cứu trong nước về tác động của đào tạo nghề đến việc làm của người lao động (20)
    • 1.2. Các nghiên cứu về tác động của đào tạo nghề đến thu nhập của người lao động (21)
      • 1.2.1. Các nghiên cứu quốc tế về tác động của đào tạo nghề đến thu nhập của người lao động (21)
      • 1.2.2. Các nghiên cứu trong nước về tác động của đào tạo nghề đến thu nhập của người lao động (23)
    • 1.3. Các nghiên cứu về tác động của đào tạo nghề đến giảm nghèo, nghèo đa chiều (24)
      • 1.3.1. Các nghiên cứu quốc tế về tác động của đào tạo nghề đến giảm nghèo, nghèo đa chiều (24)
      • 1.3.2. Các nghiên cứu trong nước về tác động của đào tạo nghề đến giảm nghèo, nghèo đa chiều (28)
    • 1.4. Khoảng trống nghiên cứu (30)
  • CHƯƠNG 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LAO ĐỘNG QUA ĐÀO TẠO NGHỀ VÀ GIẢM NGHÈO ĐA CHIỀU (33)
    • 2.1. Đào tạo nghề và lao động qua đào tạo nghề (33)
      • 2.1.1. Đào tạo nghề và hình thức dạy nghề (33)
      • 2.1.2. Lao động qua đào tạo nghề (35)
    • 2.2. Nghèo và nghèo đa chiều (37)
      • 2.2.1. Quan điểm về nghèo nói chung (37)
      • 2.2.2. Quan điểm về nghèo đa chiều (40)
    • 2.3. Khung phân tích tác động của lao động qua đào tạo nghề đến giảm nghèo đa chiều (48)
      • 2.3.1. Cơ sở lý thuyết tác động của lao động qua đào tạo nghề đến giảm nghèo đa chiều (48)
      • 2.3.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự tác động của lao động qua đào tạo nghề đến giảm nghèo đa chiều (54)
    • 2.4. Mô hình nghiên cứu tác động của lao động qua đào tạo nghề đến giảm nghèo đa chiều (55)
  • CHƯƠNG 3 PHƯƠNG PHÁP VÀ CÁCH TIẾP CẬN NGHIÊN CỨU TÁC ĐỘNG CỦA LAO ĐỘNG QUA ĐÀO TẠO NGHỀ ĐẾN GIẢM NGHÈO ĐA CHIỀU (58)
    • 3.1. Căn cứ lựa chọn mô hình và phương pháp nghiên cứu (58)
      • 3.1.1. Đặc điểm, điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội vùng Tây Bắc (58)
      • 3.1.2. Đặc điểm lực lượng lao động vùng Tây Bắc (59)
    • 3.2. Phương pháp nghiên cứu tác động của lao động qua đào tạo nghề đến giảm nghèo đa chiều (66)
      • 3.2.1. Phương pháp thu thập thông tin và số liệu sơ cấp (66)
      • 3.2.2. Phương pháp thu thập nguồn thông tin số liệu thứ cấp (67)
      • 3.2.3. Phương pháp phân tích và xử lý số liệu nghiên cứu (68)
    • 3.3. Mô hình phân tích tác động của lao động qua đào tạo nghề đến giảm nghèo đa chiều (68)
      • 3.3.1. Tác động của lao động qua đào tạo nghề đến khả năng có việc làm của người lao động (68)
      • 3.3.2. Tác động đào tạo nghề đến thu nhập của người lao động (70)
      • 3.3.3. Tác động của lao động qua đào tạo nghề đến giảm nghèo đa chiều (72)
  • CHƯƠNG 4 PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG LAO ĐỘNG QUA ĐÀO TẠO NGHỀ ĐẾN GIẢM NGHÈO ĐA CHIỀU Ở VÙNG TÂY BẮC GIAI ĐOẠN 2014 - 2018 (75)
    • 4.1. Thực trạng về cơ sở đào tạo nghề và số học sinh tham gia học nghề ở vùng Tây Bắc (75)
      • 4.1.1. Số cơ sở dạy nghề phân theo loại hình, loại cơ sở và tỉnh/thành phố (75)
    • 4.2. Thực trạng lao động qua đào tạo nghề (được đào tạo nghề) ở vùng Tây Bắc (86)
      • 4.2.1. Thực trạng lao động qua đào tạo nghề theo khu vực (86)
      • 4.2.2. Thực trạng lao động qua đào tạo nghề theo giới tính (88)
      • 4.2.3. Thực trạng lao động qua đào tạo nghề theo nhóm tuổi (89)
      • 4.2.4. Thực trạng lao động qua đào tạo nghề theo lao động được trả lương (90)
      • 4.2.5. Thực trạng lao động qua đào tạo nghề theo ngành sản xuất (91)
      • 4.2.6. Thực trạng lao động qua đào tạo nghề theo nghề nghiệp, chuyên môn (92)
      • 4.2.7. Thực trạng lao động qua đào tạo nghề theo loại hình doanh nghiệp (93)
    • 4.3. Thực trạng về thu nhập của người lao động qua đào tạo nghề ở vùng Tây Bắc giai đoạn 2014 - 2018 (95)
      • 4.3.1. Thực trạng về thu nhập của người lao động qua đào tạo nghề theo khu vực (95)
      • 4.3.2. Thực trạng về thu nhập của người lao động qua đào tạo nghề theo giới tính 76 4.3.3. Thực trạng về thu nhập của người lao động qua đào tạo nghề theo nhóm tuổi 77 4.3.4. Thực trạng về thu nhập của người lao động qua đào tạo nghề theo ngành (97)
      • 4.3.5. Thực trạng về thu nhập của người lao động qua đào tạo nghề theo nghề nghiệp (102)
      • 4.3.6. Thực trạng về thu nhập của người lao động qua đào tạo nghề theo loại hình (103)
    • 4.4. Thực trạng giảm nghèo và giảm nghèo đa chiều ở vùng Tây Bắc (104)
      • 4.4.1. Kết quả về thực hiện giảm nghèo chung tại vùng Tây Bắc (104)
      • 4.4.3. Kết quả về thực hiện giảm nghèo đa chiều ở vùng Tây Bắc (109)
      • 4.4.4. Quan hệ giữa lao động qua đào tạo nghề và nghèo đa chiều ở vùng Tây Bắc (118)
    • 4.5. Phân tích tác động của lao động qua đào tạo nghề đến việc làm, thu nhập và giảm nghèo đa chiều vùng Tây Bắc (128)
      • 4.5.1. Tác động của lao động qua đào tạo nghề đến khả năng có việc làm và thu nhập (128)
      • 4.5.2. Tác động của lao động qua đào tạo nghề đến giảm nghèo đa chiều (142)
    • 4.6. Đánh giá chung về công tác đào tạo nghề, việc làm cho người lao động, công tác giảm nghèo và giảm nghèo đa chiều ở vùng Tây Bắc (148)
      • 4.6.1. Những mặt đã đạt được về công tác đào tạo nghề, việc làm cho người lao động, công tác giảm nghèo và giảm nghèo đa chiều ở vùng Tây Bắc (148)
      • 4.6.2. Những hạn chế về công tác đào tạo nghề, việc làm cho người lao động, công tác giảm nghèo và giảm nghèo đa chiều ở vùng Tây Bắc (152)
      • 4.6.3. Nguyên nhân của những hạn chế (158)

Nội dung

TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

Các nghiên cứu về tác động của đào tạo nghề đến việc làm của người lao động

1.1.1 Các nghiên cứu quốc tế về tác động của đào tạo nghề đến việc làm của người lao động

Vốn xã hội đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra việc làm, đặc biệt là ở khu vực thành thị (Norwood, 2001) Nghiên cứu cho thấy tác động của vốn xã hội đối với chất lượng việc làm là hạn chế so với vốn nhân lực, với vốn con người ảnh hưởng đến chất lượng việc làm thông qua vốn xã hội Hơn nữa, có sự hạn chế cho giả thuyết rằng cạnh tranh và vốn xã hội ảnh hưởng đến chất lượng việc làm Những phát hiện này nhấn mạnh tầm quan trọng của sự công bằng trong đào tạo nghề cho người lao động, đặc biệt là các dân tộc thiểu số Để cải thiện khả năng cạnh tranh của người lao động trên thị trường, cần thiết phải có nhiều nguồn lực và các chương trình tập trung vào nâng cao kỹ năng kỹ thuật.

Trong nghiên cứu của Zhang Cong Cheng (2008) tại Trung Quốc, ông chỉ ra rằng cơ cấu dân số lao động không đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế xã hội và yêu cầu của quá trình công nghiệp Các khía cạnh như số lượng việc làm, cơ cấu việc làm và phân phối ngành đều cho thấy sự thiếu hụt trong lực lượng lao động tại Trung Quốc.

Tăng cường đào tạo nghề cho người lao động là phương pháp hiệu quả để thúc đẩy việc làm và giảm thất nghiệp, đặc biệt khi trình độ tay nghề thấp là nguyên nhân chính dẫn đến sa thải Jacobs Garry và Slaus Ivo (2011) nhấn mạnh rằng lý thuyết việc làm cần xem xét nhu cầu và năng lực thực tế của người lao động, từ đó phát triển kỹ năng của họ Thất nghiệp không chỉ là mất cơ hội làm việc mà còn ảnh hưởng đến thu nhập, với nhiều người phải chấp nhận công việc bán thời gian do thiếu cơ hội toàn thời gian Nghiên cứu cho thấy số người làm việc bán thời gian tại Mỹ đã tăng gấp đôi trong thời kỳ suy thoái kinh tế Đầu tư vào đào tạo nghề không chỉ nâng cao kỹ năng cá nhân mà còn tạo ra cơ hội kinh doanh cho cả nam và nữ, đồng thời cải thiện các khía cạnh xã hội như sức khỏe và tuổi thọ Do đó, cần có chính sách đầu tư mạnh mẽ vào đào tạo nghề để nâng cao chất lượng lao động và sức khỏe của các thế hệ tương lai, vì không có quốc gia nào có thể phát triển thịnh vượng mà thiếu một hệ thống đào tạo nghề chất lượng.

1.1.2 Các nghiên cứu trong nước về tác động của đào tạo nghề đến việc làm của người lao động

Nghiên cứu của Bùi Tôn Hiến (2009) cho thấy xác suất tìm được việc làm ổn định của lao động qua đào tạo nghề cao hơn nhiều so với lao động không có chuyên môn kỹ thuật, đặc biệt là đối với những người có trình độ học vấn từ trung học cơ sở trở lên Tác giả nhấn mạnh tầm quan trọng của giáo dục và đào tạo trong việc mở ra cơ hội việc làm cho người lao động Trong khi đó, Đặng Thị Thơm (2015) nghiên cứu về quyền bình đẳng cơ hội việc làm và thu nhập của lao động nữ, khẳng định rằng sự bình đẳng giữa lao động nam và nữ bắt đầu từ giai đoạn tuyển dụng, nơi không có sự phân biệt đối xử, và cả hai giới đều có cơ hội được tuyển dụng nếu đủ điều kiện.

Viện Khoa học Lao động và Xã hội (2017) đã công bố một báo cáo quan trọng về đào tạo nghề cho thanh niên nông thôn ở Việt Nam, nhằm đáp ứng nhu cầu Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa Báo cáo tập trung vào ba nội dung chính: đầu tiên là việc đổi mới hệ thống đào tạo nghề, tiếp theo là chính sách hỗ trợ cho lao động nông thôn, và cuối cùng là khuyến khích thanh niên nông thôn tham gia học nghề.

3) Việc làm và thu nhập của thanh niên nông thôn sau khi học nghề Qua kết quả nghiên cứu khẳng định việc đào tạo nghề cho thanh niên nông thôn đã góp phần thay đổi cơ cấu tỷ lệ lao động theo hướng hiện đại trong các lĩnh vực của đời sống Nghiên cứu cũng chỉ ra các ưu điểm và hạn chế của Đề án 1956 của Chính phủ để từ đó gợi ý và đề xuất một số chính sách đến đào tạo nghề cho thanh niên nông thôn trong thời gian tới Một điểm đáng lưu ý của nghiên cứu đó là thu nhập của thanh niên nông thôn sau khi đào tạo nghề có hướng tăng hơn so với thanh niên chưa qua đào tạo nghề khoảng 20%.

Nguyễn Đình Phúc (2017) đã nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng tham gia việc làm phi nông nghiệp của lao động nông thôn Nghiên cứu dựa trên các lý thuyết và kết quả thực nghiệm, xác định các yếu tố như tuổi, giới tính, trình độ giáo dục, học nghề, quy mô gia đình, thu nhập nông nghiệp, thời gian nông nhàn, tổ hợp sản xuất, giao thông, thông tin việc làm, dự án tạo việc làm và chính sách tín dụng Tác giả áp dụng mô hình xác suất Probit để phân tích mức độ ảnh hưởng của những yếu tố này đến khả năng tham gia việc làm phi nông nghiệp của lao động nông thôn.

Các nghiên cứu về tác động của đào tạo nghề đến thu nhập của người lao động

1.2.1 Các nghiên cứu quốc tế về tác động của đào tạo nghề đến thu nhập của người lao động

Lý thuyết vốn con người của Becker (1975) nhấn mạnh rằng đào tạo nghề tạo ra kỹ năng lao động cao, nâng cao năng suất lao động và mang lại lợi ích cho người sử dụng lao động Nghiên cứu cho thấy tác động tích cực đến năng suất thường lớn hơn hiệu ứng tiền lương, cho thấy đào tạo nghề làm tăng khả năng sinh lời Theo tổng quan của Hansson (2008), các nhà tuyển dụng chiếm phần lớn lợi nhuận từ đào tạo nghề Đầu tư vào đào tạo nghề mang lại lợi ích tương tự như bất kỳ dự án nào khác Các nhà lý thuyết vốn con người đã xác nhận mối quan hệ mạnh mẽ giữa tiền lương và trình độ tay nghề của người lao động, với mối quan hệ này tồn tại trong mọi lĩnh vực xã hội Trong thị trường lao động cạnh tranh, những người có trình độ tay nghề cao hơn sẽ có năng suất lao động cao hơn, và nhà tuyển dụng thường xem xét đặc điểm đào tạo nghề như tiêu chí để đánh giá sự phù hợp và năng suất lao động tương lai của ứng viên.

Thu nhập của những người được đào tạo nghề ngày càng cao và tăng nhanh hơn so với những người không có đào tạo Điều này cho thấy rằng đào tạo nghề không chỉ nâng cao năng suất lao động và thu nhập, mà còn cải thiện khả năng tự học thông qua kinh nghiệm làm việc hàng ngày.

Theo Psacharopoulos (2000), giáo dục là chìa khóa tạo ra nguồn nhân lực thông qua việc truyền đạt kiến thức và kỹ năng Nó không chỉ giúp cá nhân kiếm tiền hiệu quả hơn mà còn cho thấy mối liên hệ giữa thu nhập của người lao động và trình độ học vấn Việc áp dụng các phương pháp sư phạm hiệu quả và phát triển kỹ năng linh hoạt là cách tiếp cận thành công để nâng cao thu nhập cho người lao động.

Nghiên cứu của Self và Grabowski (2004) phân tích ảnh hưởng của các cấp độ giáo dục khác nhau đến thu nhập tại Ấn Độ, chia giáo dục thành ba cấp: tiểu học, trung học và đại học Kết quả cho thấy giáo dục tiểu học có tác động tích cực mạnh mẽ đến tăng trưởng thu nhập, trong khi giáo dục trung học chỉ có ảnh hưởng hạn chế.

Nghiên cứu của Mughal, W.H (2007) chỉ ra mối quan hệ tuyến tính giữa giáo dục và thu nhập, cho thấy rằng tại Pakistan, thu nhập hàng tháng của công nhân tăng 7,3% với mỗi năm học thêm và 37% nếu có 10 năm học Cụ thể, mức thu nhập tăng 3% cho mỗi năm học ở cấp tiểu học, 5% ở cấp trung học và từ 7,1 đến 8,2% ở cấp cao hơn đại học Thêm vào đó, mỗi năm đào tạo kỹ thuật bổ sung cũng làm tăng thu nhập thêm 2,5% Điều này chứng tỏ giáo dục không chỉ nâng cao khả năng kiếm tiền của người nghèo mà còn cải thiện năng suất lao động của họ.

Khoảng cách thu nhập giữa người được đào tạo nghề và người chưa được đào tạo nghề thường rất lớn, phản ánh sự khác biệt về cơ hội và tương lai cho trẻ em trong các gia đình này (Carnevale, 2012) Đào tạo nghề không chỉ có tác động ngắn hạn mà còn ảnh hưởng lâu dài đến cuộc sống và mức lương của người lao động.

1.2.2 Các nghiên cứu trong nước về tác động của đào tạo nghề đến thu nhập của người lao động

Nguyễn Thị Nguyệt và Lê Thị An Bình (2007) đã nghiên cứu về bất bình đẳng giới trong thu nhập lao động tại Việt Nam, chỉ ra rằng chênh lệch thu nhập giữa lao động nam và nữ đang có xu hướng gia tăng Nghiên cứu này áp dụng mô hình tuyến tính của Juhn, Murphy và Pierce (1991) để phân tích tình hình này.

Mô hình Y t = x t ’b t + e t’ với E(e t ) = 0 được sử dụng để phân tích ảnh hưởng đến bất bình đẳng giới về thu nhập Nhóm tác giả đã đề xuất các giải pháp nhằm giảm thiểu tình trạng này, đặc biệt nhấn mạnh vào việc đầu tư cho giáo dục và nâng cao chuyên môn, tay nghề cho lao động nữ.

Phạm Lê Thông (2012) đã áp dụng hàm thu nhập vốn nhân lực để đo lường tác động của trình độ học vấn đến thu nhập của người lao động Ông ước lượng suất sinh lợi từ giáo dục, bao gồm cả đào tạo nghề, với giả định rằng cá nhân không có sự khác biệt về năng lực bẩm sinh Tuy nhiên, thực tế cho thấy rằng mỗi cá nhân có thể sở hữu những năng lực bẩm sinh khác nhau.

Hàm thu nhập vốn nhân lực có dạng như sau: lnY = ò 0 + ò 1 EDU 1 + ò 2 EXP i + ò 3 EXP i2 + α k X k + Ê I (1)

Hàm kiểm soát năng lực bẩn sinh đến thu nhập như sau:

Ln(TNHAP ik ) = α 0 +α 1 HVAN ik +α 2 KNGHIEM ik +α 3 KNGHIEM ik2

+ α 5 GLAM ik + α 6 NNGHIEP ik + à ik + Ê ik (2)

Mô hình (2) có thể được xem là mô hình hiệu ứng cố định (fixed effects model

Tác giả sử dụng phương pháp OLS và mô hình hiệu ứng cố định FEM để phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến tiền công của người lao động Đặng Thị Thơm (2015) nghiên cứu quyền bình đẳng cơ hội việc làm và thu nhập của lao động nữ, nhấn mạnh rằng tiền lương phải dựa vào năng suất lao động và chất lượng công việc, đồng thời yêu cầu sự bình đẳng trong trả lương không phân biệt giới tính Đặng Trung Dũng (2016) áp dụng mô hình thực nghiệm của Troske (1999) để khảo sát mối quan hệ giữa mức lương và đặc điểm người lao động cũng như doanh nghiệp, cho thấy rằng trình độ học vấn cao có ảnh hưởng tích cực đến mức lương, và mức lương cũng tăng theo quy mô doanh nghiệp Mô hình Troske (1999) được thể hiện qua công thức: LnW i = α + X i B i +.

Các nghiên cứu về tác động của đào tạo nghề đến giảm nghèo, nghèo đa chiều

1.3.1 Các nghiên cứu quốc tế về tác động của đào tạo nghề đến giảm nghèo, nghèo đa chiều

Giáo dục tiểu học được coi là có tỷ lệ sinh lợi cao nhất so với các cấp độ giáo dục khác, đặc biệt là ở các nước đang phát triển, nơi tỷ lệ nghèo đói và mù chữ vẫn còn cao Nghiên cứu chỉ ra rằng nghèo đói thường xuất phát từ việc học tập qua hệ thống giáo dục không chính thức, dựa vào phương pháp truyền thống Giáo dục có thể giúp giảm nghèo thông qua cả kênh thu nhập trực tiếp và gián tiếp Do đó, trong chính sách giảm nghèo, nâng cao trình độ giáo dục, đặc biệt là đào tạo nghề, là một lựa chọn quan trọng Gemmel (1996) nhấn mạnh rằng giáo dục tiểu học là yếu tố then chốt cho tăng trưởng kinh tế ở các nước thu nhập thấp, trong khi giáo dục trung học và đại học phù hợp hơn cho các quốc gia có thu nhập trung bình và cao.

Giáo dục và nghèo đói có mối liên hệ nghịch đảo, với việc trình độ học vấn cao hơn dẫn đến số người nghèo giảm Giáo dục không chỉ trực tiếp tăng thu nhập mà còn gián tiếp cải thiện điều kiện sống, giúp thực hiện các nhu cầu cơ bản dễ dàng hơn Đầu tư vào giáo dục nâng cao kỹ năng và năng suất của hộ nghèo, từ đó cải thiện mức thu nhập và chất lượng cuộc sống Ngoài ra, tỷ lệ người có trình độ học vấn và được đào tạo nghề cao cũng góp phần làm giảm nghèo.

Nghiên cứu của Ferreira và cộng sự (1998) về đói nghèo tại Brazil cho thấy đào tạo nghề cho người lao động là yếu tố quan trọng giúp xác định nguy cơ đói nghèo của hộ gia đình Ngoài ra, các yếu tố như độ tuổi, quy mô gia đình, sắc tộc và nơi cư trú cũng ảnh hưởng đến tình trạng nghèo đói Tác động tích cực của đào tạo nghề không chỉ giảm nghèo đói mà còn thúc đẩy sự phát triển cá nhân, gia đình, cộng đồng và quốc gia Đào tạo nghề là cần thiết trên toàn cầu, góp phần cải thiện sức khỏe, xóa đói giảm nghèo và thúc đẩy bình đẳng giới.

Nghiên cứu của Gundlach, de Pablo và Weisert (2001) chỉ ra rằng giáo dục, đặc biệt là đào tạo nghề, đóng vai trò quan trọng trong việc giảm bất bình đẳng thu nhập Họ nhấn mạnh rằng việc học nghề không chỉ giúp phân phối lại thu nhập mà còn tạo ra cơ hội cho người nghèo để tham gia vào sự tăng trưởng kinh tế một cách hiệu quả hơn.

Theo nghiên cứu của Qureshi và Arif (2001), trình độ học vấn đóng vai trò quan trọng trong việc xác định tỷ lệ đói nghèo Nghiên cứu này đã phân tích tỷ lệ đói nghèo giai đoạn 1998-1999 và so sánh sự khác biệt giữa các nhóm kinh tế xã hội, đặc biệt là giữa khu vực nông thôn và thành thị, thông qua phương pháp hồi quy logistic Kết quả cho thấy hộ gia đình nông thôn có tỷ lệ nghèo cao hơn so với thành phố, trong khi tỷ lệ nghèo của các chủ trang trại thấp hơn so với các hộ không có trang trại.

Gundlach, Pablo và Weisert (2002) đã nghiên cứu mối quan hệ giữa giáo dục và bất bình đẳng thu nhập, cho thấy giáo dục không phân phối trung lập Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng giáo dục có khả năng cải thiện sự phân phối thu nhập, từ đó giúp người nghèo hưởng lợi nhiều hơn từ sự tăng trưởng, góp phần thúc đẩy tốc độ phát triển của nền kinh tế.

Harper, Marcus và Moore (2003) đã thực hiện một đánh giá toàn diện về các tài liệu liên quan đến giảm nghèo, nhấn mạnh tầm quan trọng của giáo dục như một công cụ xóa đói giảm nghèo Nghiên cứu cho thấy rằng người lao động được đào tạo nghề chất lượng cao có khả năng tăng cơ hội việc làm trong tương lai, từ đó góp phần giảm nghèo cho người dân Kết luận này khẳng định rằng đào tạo nghề không chỉ ảnh hưởng đến thu nhập cá nhân mà còn tác động đến tổng thu nhập của cả gia đình Theo Khan (2003), đói nghèo là một hiện tượng đa chiều, không chỉ liên quan đến chi tiêu và thu nhập mà còn bao gồm việc thiếu tiếp cận các dịch vụ y tế, giáo dục và cơ hội việc làm.

Đào tạo nghề cho người lao động đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao tiềm năng thu nhập và giảm nghèo Theo Ramphele (2003), những quan niệm sai lầm về vai trò của đào tạo nghề đã dẫn đến gia tăng tỷ lệ đói nghèo Vener (2004) nhấn mạnh rằng lực lượng lao động được đào tạo nghề chất lượng cao sẽ tạo ra năng suất lao động cao hơn, điều này là cần thiết cho sự phát triển kinh tế Hai kết luận quan trọng từ Vener (2004) chỉ ra rằng có mối liên hệ giữa đói nghèo và đặc điểm của các thành viên trong hộ gia đình, cùng với việc xác định các nhóm dễ bị tổn thương Khả năng nghèo đói của một hộ gia đình có thể được phân tích qua các đặc điểm cá nhân và các thành viên, với một trong những nguyên nhân chính là thiếu việc làm để tạo ra thu nhập, đặc biệt liên quan đến vốn nhân lực.

Verner (2004) nhấn mạnh rằng để phá vỡ sự nghèo đói kinh niên liên thế hệ, cần có những hành động mạnh mẽ trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp Chất lượng giáo dục nghề nghiệp kém dẫn đến thu nhập thấp, từ đó gia tăng tình trạng nghèo đói Ông cũng chỉ ra rằng trình độ học vấn là yếu tố quan trọng nhất trong việc giảm nghèo Cải thiện chất lượng giáo dục nghề nghiệp cho người lao động là chìa khóa để giảm nghèo tại Paraiba và khu vực đông bắc Brazil.

Theo Jamal (2005), trình độ học vấn đóng vai trò quan trọng trong việc giảm nghèo Việc chỉ chờ đợi phổ cập giáo dục tiểu học để thúc đẩy tăng trưởng và phát triển là sai lầm Mặc dù giáo dục tiểu học là nền tảng ban đầu của nguồn nhân lực, nhưng giáo dục trung học, đại học và đầu tư vào khoa học - công nghệ mới là yếu tố then chốt để tăng tốc và duy trì sự phát triển kinh tế.

Nghèo đa chiều không chỉ phụ thuộc vào trình độ học vấn của chủ hộ mà còn khác nhau giữa nam và nữ Hộ do nữ làm chủ thường thiếu thốn hơn nhiều so với hộ do nam làm chủ, đặc biệt trong các nhu cầu cơ bản như nhà ở, y tế, nước uống, thiết bị vệ sinh và hệ thống thu gom rác Tình trạng này ảnh hưởng đến năng suất của người nghèo, khiến họ khó thoát khỏi vòng nghèo khó Nghiên cứu của Abuka, C.A., Ego, M.A., Opolot, J và Okello, P (2007) chỉ ra rằng đào tạo nghề cho người lao động có thể giúp phá vỡ vòng luẩn quẩn của nghèo đa chiều bằng cách tăng thu nhập và đáp ứng các nhu cầu cơ bản.

Nghiên cứu năm 2007 đã phân tích các yếu tố liên quan đến nguy cơ đói nghèo đa chiều ở Uganda bằng phương pháp hồi quy logistic, sử dụng dữ liệu từ Khảo sát hộ gia đình Uganda để xây dựng thông tin về dân số và các đặc điểm kinh tế xã hội Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng giáo dục, đặc biệt là giáo dục nghề nghiệp, đóng vai trò quan trọng trong việc giảm nghèo Ngoài ra, việc nâng cao trình độ học vấn của chủ hộ không chỉ tăng năng suất mà còn có thể cải thiện thu nhập cá nhân và hiệu quả của các thành viên trong gia đình.

Theo báo cáo của UNESCO năm 2007, Pakistan có 6,5 triệu trẻ em từ các hộ nghèo không được đến trường do các rào cản kinh tế và xã hội Trong đó, trẻ em trai thường được xem là nguồn thu nhập chính, trong khi trẻ em gái phải đảm nhận công việc gia đình và chăm sóc em nhỏ.

Nghiên cứu của Goh, Luo và Zhu (2009) dựa trên dữ liệu từ Khảo sát sức khỏe và dinh dưỡng Trung Quốc đã phân tích tác động của tăng trưởng thu nhập đối với tình trạng đói nghèo trong giai đoạn 1989-2004 tại 8 tỉnh của Trung Quốc Kết quả cho thấy rằng sự gia tăng thu nhập có ảnh hưởng tiêu cực đến vấn đề đói nghèo trong khu vực này.

Kızılgol và Demir (2010) đã nghiên cứu các yếu tố xác định đói nghèo liên quan đến thu nhập và chi tiêu tiêu dùng dựa trên Bảng câu hỏi ngân sách hộ gia đình của TUIK trong giai đoạn 2002-2006 Nghiên cứu chỉ ra rằng nguy cơ đói nghèo có xu hướng giảm khi độ tuổi và trình độ học vấn của chủ hộ tăng lên.

Khoảng trống nghiên cứu

Nghiên cứu trước đây đã khai thác nhiều khía cạnh của nghèo đói toàn cầu, nhấn mạnh vai trò của trình độ học vấn, bất bình đẳng giới, và sự phát triển kinh tế trong việc giảm nghèo Đặc biệt, lao động qua đào tạo nghề được coi là yếu tố then chốt trong chiến lược xóa đói giảm nghèo, nhất là ở nông thôn Khái niệm nghèo đa chiều, xuất hiện tại Việt Nam từ năm 2015, đã mở ra hướng tiếp cận mới trong nghiên cứu và thực thi chính sách Tuy nhiên, hiện tại vẫn còn ít nghiên cứu tổng thể về tác động của lao động qua đào tạo nghề đến giảm nghèo đa chiều, đặc biệt ở vùng Tây Bắc - khu vực có tỷ lệ hộ nghèo cao và đời sống chủ yếu dựa vào nông nghiệp Mặc dù từ năm 2014 đến 2018, chính phủ đã triển khai nhiều chính sách giảm nghèo, nhưng hiệu quả vẫn chưa bền vững Cần có nghiên cứu cụ thể hơn để hiểu rõ hơn về vấn đề này, đặc biệt khi thước đo nghèo đa chiều tại Việt Nam có sự khác biệt so với quốc tế, bao gồm cả chiều thu nhập.

Nghiên cứu tác động của lao động qua đào tạo nghề đến giảm nghèo đa chiều ở vùng Tây Bắc mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng Các nghiên cứu trước đây chỉ tập trung vào một khía cạnh của đào tạo nghề cho lao động nông thôn, trong khi chưa có đánh giá sâu về ảnh hưởng của đào tạo nghề đến giảm nghèo đa chiều Luận án này phân tích việc đào tạo nghề cho lao động hộ nghèo, xác định sự chênh lệch thu nhập giữa lao động đã qua đào tạo và chưa qua đào tạo, cũng như mối quan hệ giữa đào tạo nghề, cơ hội việc làm, năng suất lao động và giảm nghèo Hơn nữa, nghiên cứu đề xuất các giải pháp giúp chính quyền địa phương có cái nhìn tổng quát về công tác đào tạo nghề, từ đó xây dựng chính sách hiệu quả cho lao động nông thôn, nhằm thúc đẩy quá trình giảm nghèo đa chiều ở vùng Tây Bắc và cả nước.

Tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề chất lượng cao có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển xã hội, tạo ra việc làm, tăng thu nhập và giảm nghèo ở nông thôn, đặc biệt là trong bối cảnh giảm nghèo đa chiều hiện nay Tuy nhiên, để đảm bảo tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề thực sự nâng cao thu nhập và giảm nghèo đa chiều, cần nghiên cứu và xem xét cụ thể các yếu tố liên quan đến từng quá trình, từ đó đưa ra các đánh giá và kiểm định phù hợp với điều kiện của từng vùng và khu vực.

Tóm lại, giáo dục và giáo dục nghề nghiệp có khả năng tăng thu nhập cho người lao động thông qua việc nâng cao năng suất, từ đó góp phần giảm nghèo đáng kể Tác động của giáo dục không chỉ diễn ra qua thu nhập mà còn thông qua các yếu tố gián tiếp như giảm tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh, cải thiện sức khỏe và giáo dục cho phụ huynh Hơn nữa, tác động này có thể khác nhau giữa các vùng miền do các yếu tố như hoàn cảnh kinh tế và chất lượng giáo dục Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng có một khoảng trống trong việc nghiên cứu tác động của lao động qua đào tạo nghề đến giảm nghèo đa chiều, đặc biệt là ở vùng Tây Bắc Việt Nam, nơi mà Việt Nam bắt đầu tiếp cận vấn đề nghèo đa chiều từ năm gần đây.

Năm 2015, thước đo nghèo đa chiều tại Việt Nam có sự khác biệt so với tiêu chuẩn quốc tế, bao gồm cả chiều thu nhập Các kết luận cho thấy giáo dục và giáo dục nghề nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc xóa đói giảm nghèo, đặc biệt là trong việc giảm nghèo đa chiều hiện nay.

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LAO ĐỘNG QUA ĐÀO TẠO NGHỀ VÀ GIẢM NGHÈO ĐA CHIỀU

Đào tạo nghề và lao động qua đào tạo nghề

2.1.1 Đào tạo nghề và hình thức dạy nghề

Khái niệm đào tạo thường đi liền với giáo dục và thành một cặp đôi là giáo dục

Giáo dục là quá trình phát triển và rèn luyện năng lực, bao gồm tri thức, kỹ năng và phẩm chất như niềm tin, tư cách và đạo đức, nhằm giúp con người hoàn thiện nhân cách và đóng góp tích cực cho xã hội.

Đào tạo là quá trình trang bị cho người lao động những năng lực cần thiết, bao gồm kiến thức, kỹ năng và thái độ, theo các tiêu chuẩn nhất định Mục tiêu của đào tạo là giúp người lao động trở nên có năng lực và hữu ích trong các công việc hoặc hoạt động xã hội.

Từ góc nhìn của các nhà giáo dục và đào tạo Việt Nam, Nguyễn Tiến Đạt

Đào tạo được định nghĩa là một quá trình có mục đích và tổ chức nhằm phát triển kiến thức, kỹ năng và kỹ xảo cả trong lý thuyết lẫn thực tiễn Mục tiêu của đào tạo là tạo ra năng lực cần thiết để thực hiện thành công các hoạt động xã hội và nghề nghiệp.

Theo giáo trình Kinh tế lao động của Trường đại học Kinh tế Quốc Dân Hà Nội, đào tạo được định nghĩa là quá trình trang bị kiến thức chuyên môn cho người lao động nhằm giúp họ thực hiện công việc cụ thể Đỗ Minh Cương và Mạc Văn Tiến (2004) mở rộng khái niệm này, coi đào tạo lao động kỹ thuật là một hoạt động có mục đích, tổ chức và kế hoạch trong hệ thống đào tạo kỹ thuật thực hành, nhằm phát triển kiến thức, kỹ năng và thái độ của người lao động ở các cấp độ Mục tiêu là giúp họ thực hiện công việc phức tạp với năng suất cao và khả năng thích ứng với sự thay đổi nhanh chóng của công nghệ.

Theo Tổng cục dạy nghề (2007), hoạt động giáo dục nghề nghiệp bao gồm việc cung cấp kiến thức, kỹ năng và thái độ cần thiết để thực hiện công việc một cách hiệu quả Những hoạt động này không chỉ bao gồm đào tạo ban đầu mà còn có đào tạo lại, nâng cao, cập nhật và đào tạo chuyên sâu liên quan đến nghề.

Luật Dạy nghề định nghĩa rằng dạy nghề là quá trình giáo dục nhằm cung cấp kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp cần thiết cho học viên Mục tiêu của hoạt động này là giúp người học có khả năng tìm kiếm việc làm hoặc tự tạo ra việc làm sau khi hoàn thành khóa học.

Theo quan điểm của tác giả, đào tạo nghề được định nghĩa là quá trình trang bị cho người lao động các năng lực cần thiết, bao gồm kiến thức, kỹ năng và thái độ, nhằm giúp họ có khả năng hành nghề hoặc tự tạo việc làm.

Luật dạy nghề năm 2006 quy định ba cấp trình độ đào tạo: sơ cấp nghề, trung cấp nghề và cao đẳng nghề Bên cạnh đó, luật cũng đề cập đến các hình thức hoạt động dạy nghề, bao gồm dạy nghề chính quy và dạy nghề thường xuyên.

Dạy nghề trình độ sơ cấp nhằm trang bị cho người học năng lực thực hành nghề đơn giản, đồng thời phát triển đạo đức, lương tâm nghề nghiệp và ý thức kỷ luật Chương trình học kéo dài từ ba tháng đến dưới một năm, phù hợp với sức khỏe và trình độ học vấn của người học Mục tiêu là giúp người học có khả năng tìm việc làm, tự tạo việc làm hoặc tiếp tục học lên trình độ cao hơn.

Dạy nghề trình độ trung cấp trang bị cho người học kiến thức chuyên môn và kỹ năng thực hành cần thiết để làm việc độc lập trong lĩnh vực nghề nghiệp Chương trình đào tạo không chỉ chú trọng đến việc ứng dụng kỹ thuật và công nghệ, mà còn phát triển đạo đức, lương tâm nghề nghiệp, ý thức kỷ luật và tác phong công nghiệp Thời gian học từ một đến hai năm cho người có bằng tốt nghiệp trung học phổ thông và từ ba đến bốn năm cho người có bằng tốt nghiệp trung học cơ sở, giúp người học có khả năng tìm việc làm, tự tạo việc làm hoặc tiếp tục học lên trình độ cao hơn.

Dạy nghề trình độ cao đẳng trang bị cho người học kiến thức chuyên môn và năng lực thực hành, giúp họ làm việc độc lập và tổ chức nhóm hiệu quả Người học còn phát triển khả năng sáng tạo, ứng dụng công nghệ, và giải quyết tình huống phức tạp trong thực tế Chương trình đào tạo cũng chú trọng đến đạo đức nghề nghiệp, ý thức kỷ luật, và tác phong công nghiệp, đồng thời đảm bảo sức khỏe cho người học Thời gian học kéo dài từ hai đến ba năm cho người có bằng tốt nghiệp trung học phổ thông và từ một đến hai năm cho người có bằng tốt nghiệp trung cấp nghề, tạo điều kiện cho sinh viên dễ dàng tìm việc làm hoặc tiếp tục học lên trình độ cao hơn.

Dạy nghề chính quy là hình thức đào tạo chuyên nghiệp diễn ra qua các khóa học toàn thời gian, do các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, đại học và doanh nghiệp được cấp phép thực hiện Hình thức này nhằm đào tạo các trình độ sơ cấp, trung cấp và cao đẳng nghề, đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực chất lượng cao.

Dạy nghề thường xuyên là hình thức đào tạo linh hoạt, bao gồm vừa làm vừa học, học từ xa hoặc tự học có hướng dẫn, áp dụng cho các chương trình đào tạo trình độ sơ cấp, trung cấp, cao đẳng nghề và các chương trình nghề nghiệp khác Hình thức này đáp ứng nhu cầu của người học qua việc điều chỉnh chương trình, thời gian, phương pháp và địa điểm đào tạo.

2.1.2 Lao động qua đào tạo nghề

Theo định nghĩa về đào tạo nghề, một lao động được coi là đã qua đào tạo nghề khi họ hoàn thành ít nhất một hoạt động đào tạo Việc xác định lao động đã được đào tạo không dựa vào năng lực thực tế hay văn bằng chứng chỉ, mà chủ yếu dựa vào việc họ đã tham gia học nghề Thông thường, lao động qua đào tạo là những người đã tham gia vào các lớp, khóa hoặc chương trình đào tạo nghề thuộc danh mục nghề được công nhận Để đảm bảo có đủ kiến thức và kỹ năng cần thiết, cần quy định thời gian tối thiểu cho một khóa đào tạo nghề, thường là ít nhất một tháng Sau khi hoàn thành khóa học, người học sẽ trải qua kỳ thi hoặc kiểm tra đánh giá và được cấp văn bằng, chứng chỉ nghề theo quy định.

Có ba nhóm cung cấp lao động qua đào tạo nghề, bao gồm đào tạo chính thức tại các trường giáo dục kỹ thuật và dạy nghề, đào tạo nghề nghiệp trước khi làm việc, và đào tạo tại chức cho công nhân.

Nghèo và nghèo đa chiều

2.2.1 Quan điểm về nghèo nói chung

2.2.1.1 Quan điểm về nghèo trên thế giới

Nghèo là một khái niệm đa dạng với nhiều quan niệm khác nhau Theo Waltts (1968), nghèo được định nghĩa là sự thiếu thốn khả năng để đáp ứng nhu cầu đối với các loại hàng hóa thông thường Trong khi đó, Amartya Sen cũng có những quan điểm riêng về nghèo, nhấn mạnh đến khía cạnh thiếu hụt khả năng tiếp cận và hưởng thụ các nguồn lực cần thiết cho cuộc sống.

(1987) nghèo là thiếu khả năng hoạt động và kém phát triển, nghèo đói là vấn đề đa chiều.

Tại Hội nghị ESCAP về đói nghèo ở Châu Á - Thái Bình Dương vào tháng 9/1993 tại Băng Cốc, Thái Lan, khái niệm về đói nghèo được định nghĩa là tình trạng mà một bộ phận dân cư không được đáp ứng các nhu cầu cơ bản của con người, điều này phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội và phong tục tập quán của từng địa phương.

Tại Hội nghị Thượng đỉnh thế giới về Phát triển xã hội năm 1995 ở Copenhaghen, Đan Mạch, khái niệm về người nghèo được định nghĩa là những người có thu nhập dưới 1 USD mỗi ngày cho mỗi cá nhân, số tiền này được xem là đủ để mua các sản phẩm thiết yếu cho sự tồn tại.

Ngân hàng Thế giới (WB 2000) định nghĩa đói nghèo là "sự thiếu hụt về mặt phúc lợi", trong đó phúc lợi được đo lường qua các yếu tố như thu nhập, sức khoẻ, dinh dưỡng, giáo dục, tài sản, nhà ở và các quyền xã hội như quyền tự do ngôn luận Ngoài ra, đói nghèo còn thể hiện qua việc thiếu cơ hội, thiếu quyền lực và dễ bị tổn thương.

Từ những khái niệm trên, Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) đã tách riêng hai khái niệm đó là khái niệm đói và khái niệm nghèo:

Đói là tình trạng mà một bộ phận dân cư sống dưới mức tối thiểu, với thu nhập không đủ để đáp ứng nhu cầu vật chất cần thiết cho cuộc sống Những hộ gia đình này thường xuyên thiếu ăn, phải vay nợ từ cộng đồng và không có khả năng chi trả cho các nhu cầu cơ bản.

Nghèo được định nghĩa là tình trạng mà một bộ phận dân cư không thể đáp ứng các nhu cầu cơ bản và tối thiểu cho cuộc sống, dẫn đến mức sống thấp hơn so với mức sống trung bình của cộng đồng trên nhiều khía cạnh.

Nghèo có thể được xem xét từ hai góc độ: đơn chiều và đa chiều Theo Ngân hàng Thế giới (2000), nghèo đa chiều không chỉ dựa vào thu nhập mà còn bao gồm nhiều khía cạnh khác như dinh dưỡng, sức khỏe, giáo dục, khả năng dễ bị tổn thương, quyền phát ngôn và quyền lực Nó phản ánh khả năng đáp ứng các tiêu chuẩn phúc lợi, mức độ an ninh kinh tế, xã hội và con người, cũng như quyền dân sự và chính trị Các yếu tố như sức khỏe, giáo dục và thu nhập ở cấp hộ gia đình cũng là những chỉ số quan trọng (UNCP, 2010) Ngoài ra, nghèo đa chiều còn liên quan đến giáo dục, dinh dưỡng, y tế, nhà ở, nước và vệ sinh, lao động trẻ em, giải trí, tham gia và bảo trợ xã hội (UNICEF, 2009).

Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã đưa ra khái niệm về nghèo theo thu nhập là:

Nghèo được định nghĩa là sự thiếu cơ hội để sống theo các tiêu chuẩn tối thiểu nhất định, và các tiêu chí này thay đổi theo từng vùng, địa phương và thời gian Một người được coi là nghèo khi thu nhập hàng tháng của họ thấp hơn một nửa thu nhập bình quân theo đầu người của quốc gia đó Tuy nhiên, việc đánh giá và phân loại nghèo đói còn phụ thuộc vào các điều kiện lịch sử và đặc thù của từng vùng.

Trên góc độ khác Liên hợp Quốc đã đưa ra hai khái niệm về nghèo đó là nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối như sau:

Nghèo tuyệt đối là tình trạng một bộ phận dân cư không đáp ứng được những nhu cầu cơ bản tối thiểu cho cuộc sống Những nhu cầu này bao gồm đảm bảo về ăn, mặc, ở, giao tiếp xã hội, vệ sinh, y tế và giáo dục Ngoài ra, một số ý kiến cho rằng nhu cầu tối thiểu còn bao gồm quyền tham gia vào các quyết định của cộng đồng.

Nghèo tương đối là tình trạng mà một bộ phận dân cư có mức sống thấp hơn mức trung bình của cộng đồng trong một khoảng thời gian nhất định Tình trạng này phát triển theo không gian và thời gian, phụ thuộc vào mức sống chung của xã hội Do đó, nghèo tương đối phản ánh sự chênh lệch về mức sống giữa một nhóm dân cư và mức sống trung bình của địa phương tại một thời điểm cụ thể.

Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng việc xóa bỏ nghèo tuyệt đối là khả thi, trong khi nghèo tương đối là hiện tượng phổ biến trong xã hội Điều quan trọng là cần chú trọng vào việc rút ngắn khoảng cách giàu nghèo và hạn chế sự phân hóa trong xã hội.

Thực tế cho thấy có sự không thống nhất về quan điểm và khái niệm nghèo đói, với các tiêu chuẩn đánh giá khác nhau tùy theo từng quốc gia Do đó, cần xác định thước đo mức nghèo đói phù hợp cho mỗi quốc gia, vùng miền và địa phương dựa trên sự thống nhất chung về mặt định tính.

2.2.1.2 Quan điểm về nghèo tại Việt Nam

Khái niệm về đói nghèo ở Việt Nam tương đồng với các định nghĩa quốc tế, được công nhận tại Hội nghị chống đói nghèo khu vực Châu Á - Thái Bình Dương vào tháng 9/1993 Theo đó, nghèo được hiểu là tình trạng mà một bộ phận dân cư không được đáp ứng các nhu cầu cơ bản của con người, những nhu cầu này được xã hội công nhận tùy theo mức độ phát triển kinh tế - xã hội và phong tục tập quán địa phương.

Giáo trình Kinh tế Nguồn nhân lực của tác giả Trần Xuân Cầu (2013) định nghĩa nghèo là tình trạng mà một bộ phận dân cư chỉ có khả năng đáp ứng một phần nhu cầu tối thiểu cơ bản trong cuộc sống, dẫn đến mức sống thấp hơn so với mức sống trung bình của cộng đồng.

Trong nhiều tài liệu, cụm từ “nghèo khổ” hay “nghèo đói” thường được sử dụng để chỉ tình trạng nghèo "Đói" thể hiện sự thiếu thốn về lương thực, hay còn gọi là "thiếu đói", trong khi nghèo đói là tình trạng mà một bộ phận dân cư có mức sống tối thiểu và thu nhập không đủ để đáp ứng nhu cầu vật chất cần thiết cho cuộc sống Điều này cũng liên quan đến việc một người tiêu thụ năng lượng ở mức thấp hơn mức tối thiểu cần thiết.

Khung phân tích tác động của lao động qua đào tạo nghề đến giảm nghèo đa chiều

2.3.1 Cơ sở lý thuyết tác động của lao động qua đào tạo nghề đến giảm nghèo đa chiều

Trước đây, các nhà kinh tế chỉ chú trọng vào ba yếu tố chính trong sản xuất: đất đai, nhân công và vốn Tuy nhiên, từ những năm 1960, sự chú ý bắt đầu chuyển hướng sang trình độ giáo dục của công nhân, dẫn đến sự xuất hiện của thuật ngữ “vốn con người” Vốn con người được định nghĩa là sự kết hợp của khả năng bẩm sinh và kỹ năng tích lũy qua học tập Trong lĩnh vực kinh doanh, khái niệm này thường được hiểu hẹp hơn, chỉ bao gồm các kỹ năng liên quan trực tiếp đến thành công của doanh nghiệp Theo nghĩa hẹp, vốn con người thường bị đồng nhất với khả năng nhận thức chủ yếu từ giáo dục chính quy, do đó, định nghĩa này trở nên không đầy đủ OECD (2001) đã đưa ra một định nghĩa về nguồn vốn con người.

Kiến thức, kỹ năng, năng lực và các thuộc tính tiềm tàng trong mỗi cá nhân đóng vai trò quan trọng trong việc tạo nên sự thịnh vượng kinh tế và xã hội Định nghĩa này cũng bao hàm sức khỏe con người, vì sức khỏe là điều kiện tiên quyết để cá nhân có thể phát huy những phẩm chất của mình Theo quan điểm học tập suốt đời, nguồn vốn con người luôn trong trạng thái biến đổi từ khi sinh ra cho đến khi mất đi Con người không ngừng thay đổi và làm mới bản thân, dẫn đến sự thay đổi trong kiến thức tiềm tàng của họ Kiến thức, kỹ năng và năng lực được hình thành từ giáo dục qua nhiều hình thức, bao gồm học chính quy và không chính quy, cũng như từ những trải nghiệm hàng ngày và việc suy ngẫm Những kiến thức này có thể mang tính tổng quát hoặc cụ thể, có thể tiềm ẩn trong hoạt động sản xuất hoặc biểu hiện rõ ràng trong thực tiễn.

Cần nhận thức rằng mặc dù hai cá nhân có cùng thời gian học tập và thực hành, nhưng vốn con người của họ lại khác biệt do khả năng nhận thức và sự phát triển cá nhân Vốn con người bị ảnh hưởng bởi thời gian và nỗ lực của mỗi người Trong quá trình sản xuất, mỗi cá nhân đảm nhiệm một nhiệm vụ cụ thể, từ đó kỹ năng và kiến thức liên quan sẽ được củng cố, ngược lại sẽ bị suy giảm theo thời gian Thêm vào đó, khi con người già đi, mặc dù tích lũy nhiều kinh nghiệm, khả năng thực hiện công việc có thể giảm sút Do đó, việc coi nguồn vốn con người là một thực thể đồng nhất và bất biến là không chính xác, vì nó luôn thay đổi và phát triển.

“nâng cấp” hoặc “phân huỷ” tuỳ thuộc vào hoạt động học tập của mỗi cá nhân.

Theo OECD (2001), việc phát triển nguồn nhân lực cần chú trọng đến những kỹ năng và phẩm chất quan trọng như: khả năng giao tiếp, bao gồm đọc, viết, nghe và nói cả tiếng mẹ đẻ lẫn ngoại ngữ; khả năng số học, thể hiện qua tư duy logic; khả năng tự thấu hiểu và điều chỉnh bản thân, bao gồm kiên trì, tiên phong, tự học, tự điều tiết và đánh giá sự việc dựa trên chuẩn mực đạo đức và mục tiêu sống cá nhân; khả năng thấu hiểu người khác, với kỹ năng làm việc nhóm và lãnh đạo; cùng với những phẩm chất khác như kiến thức tiềm ẩn, khả năng giải quyết vấn đề, và kỹ năng làm việc với thiết bị công nghệ thông tin.

Vốn con người được hình thành suốt cuộc đời và việc đo lường nó chỉ mang giá trị tạm thời tại thời điểm đo Các nhà kinh tế học thường sử dụng cấp độ giáo dục, như thời gian học tập hoặc tỷ lệ người có bằng cấp so với giáo dục phổ thông, làm công cụ đo lường, mặc dù họ nhận thức rằng những công cụ này không hoàn hảo (OECD, 2007).

2.3.1.1 Lý thuyết về vốn con người và tăng trưởng kinh tế

Năng suất bị ảnh hưởng bởi ba yếu tố chính: vốn vật chất, vốn con người và tiến bộ công nghệ.

-Vốn vật chất là những tài nguyên do con người tạo ra như máy móc, nhà xưởng, để phục vụ sản xuất.

- Vốn con người là những kiến thức và kỹ năng của lực lượng lao động do giáo dục, đào tạo và học hỏi mang lại.

Tiến bộ công nghệ là các công cụ kỹ thuật quan trọng giúp nâng cao hiệu quả sản xuất hàng hóa và dịch vụ Chúng bao gồm từ những phát minh mới đến các cải tiến trong quy trình sản xuất, góp phần tạo ra sản phẩm chất lượng hơn.

Trong các mô hình tăng trưởng kinh tế như Cobb Douglas, tổng sản lượng được biểu diễn qua hàm Y = AK^a L^b, trong đó K là vốn, L là lao động và A là yếu tố thể hiện năng suất Việc sử dụng quá nhiều vốn (K) cho thấy nền kinh tế phụ thuộc vào yếu tố vật chất, dẫn đến năng suất biên thấp và sự tăng trưởng không bền vững Lao động (L) có thể đơn giản như trong các mô hình cổ điển hoặc có kỹ thuật, tri thức như trong các mô hình tân cổ điển và mô hình tăng trưởng nội sinh.

Mô hình của Mankiw và cộng sự (1992) thể hiện sự quan trọng của vốn con người trong tăng trưởng kinh tế thông qua công thức Y = K^a H^b (AL)^(1-a-b), trong đó H đại diện cho vốn con người và A là TFP, phản ánh những cải tiến từ vốn con người trong công việc và quản lý Công thức này cho phép xác định mức độ đóng góp của vốn và lao động vào tăng trưởng, trong khi phần còn lại được gọi là đóng góp của TFP Sự suy luận cho thấy rằng lao động không thể tăng trưởng mãi mãi và năng suất biên của vốn giảm dần, do đó, yếu tố quyết định cho tăng trưởng chủ yếu đến từ công nghệ, hay TFP được đo lường qua hệ số A Tiến bộ kỹ thuật, theo nghĩa rộng, bao gồm tất cả sự gia tăng sản lượng khi các yếu tố đầu vào không thay đổi, trong khi theo nghĩa hẹp hơn, nó thể hiện sự gia tăng hiệu quả trong việc sử dụng các yếu tố đầu vào.

Vốn vật chất, lao động, vốn con người và tiến bộ kỹ thuật là bốn nguồn cơ bản của tăng trưởng kinh tế Các nhà kinh tế học cổ điển nhấn mạnh rằng vốn, hiểu là tài sản tài chính và vật chất tích lũy, là động lực chính của nền kinh tế Đây là một tư tưởng cách mạng trong thời kỳ mà đất đai được xem là tài sản lớn nhất, và phải mất gần 100 năm, các chính trị gia mới chấp nhận tư tưởng này, từ bỏ quan niệm rằng đất đai và tài nguyên thiên nhiên là tài sản duy nhất cần tích lũy và gây chiến tranh để giành lấy.

Mô hình tăng trưởng tân cổ điển của Solow (1956) đã trở thành nền tảng quan trọng cho các nghiên cứu và phân tích về tăng trưởng kinh tế trong suốt thời gian qua.

Sau 30 năm, mô hình tăng trưởng kinh tế không chỉ dựa vào vốn vật chất và lao động, mà còn cần xem xét yếu tố "số dư" chứa nhiều nhân tố không xác định Trong đó, sự nâng cao chất lượng các yếu tố đầu vào có thể là nhân tố quan trọng nhất Điều này đã được Schultz nhấn mạnh từ hơn 50 năm trước.

Năm 1961, có dự báo rằng "đầu tư vào vốn con người có lẽ là lời giải thích cơ bản cho sự chênh lệch" giữa tăng trưởng đầu ra và tăng trưởng các đầu vào vốn vật chất và lao động (Trần Thọ Đạt, 2007).

Nguồn vốn con người là yếu tố chính dẫn đến năng suất tăng theo quy mô, với sự hợp tác giữa chính phủ, xã hội dân sự và thị trường để thiết lập chính sách phát triển nguồn vốn con người và thu hút đầu tư nước ngoài vào các ngành công nghiệp tri thức như phần mềm và viễn thông Điều này giúp duy trì động lực tăng trưởng, tránh rơi vào bẫy tăng trưởng kém do chỉ dựa vào vốn vật chất Theo mô hình Tăng trưởng Quốc gia của Michael Porter, có ba giai đoạn tăng trưởng: dẫn dắt bởi nhân tố, dẫn dắt bởi hiệu suất và dẫn dắt bởi đổi mới, trong đó chất lượng nguồn nhân lực đóng vai trò ngày càng quan trọng ở hai giai đoạn cuối.

2.3.1.2 Lý thuyết về vốn con người và thu nhập của người lao động

Khoa học về vốn con người bắt nguồn từ thế kỷ XVIII với tác phẩm "Nguồn gốc của cải của các quốc gia" của Adam Smith.

Mô hình nghiên cứu tác động của lao động qua đào tạo nghề đến giảm nghèo đa chiều

Quá trình nghiên cứu tổng quan đã xác định hệ thống thang đo để đánh giá tác động của lao động qua đào tạo nghề đối với việc giảm nghèo đa chiều.

Phương pháp xác định nghèo thu nhập được áp dụng để tính toán tỷ lệ nghèo tại vùng Tây Bắc Nghiên cứu kết hợp giữa định lượng và định tính nhằm phân tích tác động của lao động qua đào tạo nghề đến việc giảm nghèo đa chiều trong khu vực này.

Lao động qua đào tạo nghề

- Tỷ lệ, số lượng lao động được đào tạo tạo nghề

- Đặc điểm hộ gia đình

- Đặc điểm người lao động

Sơ đồ 2.1 mô tả mô hình nghiên cứu đào tạo, cho thấy sự kết hợp cân đối giữa tri thức từ hệ thống giáo dục, gia đình và doanh nghiệp qua các kênh thông tin khác nhau Đào tạo không chỉ là công cụ mà còn là kênh trực tiếp tác động đến năng lực cá nhân, trang bị kiến thức và kỹ năng cần thiết, từ đó có vai trò quan trọng trong việc tạo ra cơ hội việc làm cho người lao động.

Đào tạo nghề đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển năng lực thực hiện cho người học Các quốc gia có kinh nghiệm phong phú trong phát triển nguồn nhân lực thường chú trọng vào việc đào tạo để nâng cao khả năng làm việc của người lao động Quá trình đào tạo không chỉ diễn ra trong nhà trường mà còn bao gồm các hình thức đào tạo ngoài nhà trường, tại gia đình, trong xã hội và tự đào tạo, từ đó góp phần tăng cường số lượng việc làm có kỹ năng cho người lao động.

Đào tạo lao động nhằm trang bị năng lực thực hiện, nhưng để phát huy hiệu quả, cần có môi trường làm việc phù hợp Việc đào tạo chỉ thực sự có ý nghĩa khi người lao động có cơ hội thể hiện khả năng của mình, từ đó tạo ra giá trị vật chất cho xã hội.

Đào tạo nghề là công cụ quan trọng để điều chỉnh cơ cấu và nâng cao chất lượng lực lượng lao động Sự gia tăng số lượng lao động được đào tạo nghề sẽ làm tăng tỷ trọng nhóm lao động có chuyên môn kỹ thuật, đồng thời giảm tỷ trọng lao động không có chuyên môn Việc này không chỉ cải thiện chất lượng nguồn nhân lực mà còn đáp ứng tốt hơn nhu cầu thị trường.

Đào tạo nghề đóng vai trò quan trọng trong việc chuyển dịch cơ cấu lao động, đặc biệt trong quá trình công nghiệp hóa Việc trang bị kỹ năng và năng lực cho người lao động giúp họ chuyển từ khu vực nông nghiệp sang khu vực công nghiệp và dịch vụ Đồng thời, đào tạo nghề không chỉ tăng cơ hội tìm kiếm việc làm mà còn nâng cao thu nhập cho cá nhân, giúp họ nhanh chóng thích nghi với những biến đổi kinh tế và xã hội.

Mối liên hệ giữa đào tạo và giải quyết việc làm cần dựa vào nhu cầu lao động trên thị trường Quyết định về việc đào tạo ai, nghề gì và cấp trình độ nào phải phản ánh đúng cầu lao động, tức là cung việc làm hiện có.

Vốn nhân lực được đề cập dựa trên giả thuyết rằng chênh lệch tiền lương phản ánh sự khác biệt về năng suất lao động giữa các nhóm Giáo dục và đào tạo đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao năng suất, dẫn đến việc người lao động có năng suất cao hơn sẽ nhận được thu nhập và tiền lương cao hơn.

Lao động qua đào tạo nghề có cơ hội việc làm và thu nhập cao hơn so với lao động không qua đào tạo, từ đó giúp hộ gia đình có thu nhập bình quân đầu người tốt hơn Điều này góp phần giảm nghèo và cải thiện tình hình nghèo đa chiều trong xã hội.

Trong chương 2 của luận án, nghiên cứu đã làm rõ các vấn đề quan trọng về lao động qua đào tạo nghề Đầu tiên, khái niệm và quan niệm về lao động qua đào tạo nghề được xác định rõ ràng Thứ hai, nghiên cứu đã làm sáng tỏ quan niệm về nghèo ở cả thế giới và Việt Nam, bao gồm khái niệm, thước đo và cách tiếp cận nghèo đa chiều tại Việt Nam Thứ ba, cơ sở lý thuyết về tác động của lao động qua đào tạo nghề đến giảm nghèo đa chiều và các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ học nghề cũng được xác định Cuối cùng, khung phân tích tác động của lao động qua đào tạo nghề đến giảm nghèo đa chiều đã được xây dựng, cung cấp cái nhìn sâu sắc về mối liên hệ giữa hai yếu tố này.

PHƯƠNG PHÁP VÀ CÁCH TIẾP CẬN NGHIÊN CỨU TÁC ĐỘNG CỦA LAO ĐỘNG QUA ĐÀO TẠO NGHỀ ĐẾN GIẢM NGHÈO ĐA CHIỀU

PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG LAO ĐỘNG QUA ĐÀO TẠO NGHỀ ĐẾN GIẢM NGHÈO ĐA CHIỀU Ở VÙNG TÂY BẮC GIAI ĐOẠN 2014 - 2018

Ngày đăng: 24/06/2021, 08:34

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Abuka, C.A., Ego, M.A., Opolot, J. and Okello, P. (2007), Determinants of Poverty Vulnerability in Uganda, Discussion Paper No. 203, Institute for International Integration Studies Sách, tạp chí
Tiêu đề: Determinants ofPoverty Vulnerability in Uganda
Tác giả: Abuka, C.A., Ego, M.A., Opolot, J. and Okello, P
Năm: 2007
2. Adam Smith (2003), Của cải của các dân tộc (The Wealth of Nation), Nhà xuất bản Giáo Dục, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Của cải của các dân tộc (The Wealth of Nation)
Tác giả: Adam Smith
Nhà XB: Nhà xuất bản Giáo Dục
Năm: 2003
3. Afrooz, Ahmad, Khalid Abdul Rahim, Zaleha Mohd Noor, and Lee Chin (2010), 'Human Capital and Labor Productivity in Food Industries ofIran', International Journal of Economics and Finance, 47-51 Sách, tạp chí
Tiêu đề: InternationalJournal of Economics and Finance
Tác giả: Afrooz, Ahmad, Khalid Abdul Rahim, Zaleha Mohd Noor, and Lee Chin
Năm: 2010
4. Aftab, S., Hamid, N. & Prevez, S. (2002, July), Poverty in Pakistan-Issues, causes and Institutional Responses, Islamabad: Asian Development Bank - Pakistan Resident Mission Sách, tạp chí
Tiêu đề: Poverty in Pakistan-Issues,causes and Institutional Responses
Tác giả: Aftab, S., Hamid, N. & Prevez, S
Năm: 2002
5. Anka, L. (2009), Empirical Analysis of The Determinants of Rural Poverty in Sindh Province Of Pakistan, Jamshoro, Sindh Development Studies Centre University of Sindh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Empirical Analysis of The Determinants of Rural Poverty inSindh Province Of Pakistan
Tác giả: Anka, L
Năm: 2009
6. Appleton, S. (1997), Leaping into the ark: Some reflections on free primary education in Uganda, Cambridge, UK: Centre for the Study of African Economies, University of Oxford Sách, tạp chí
Tiêu đề: Leaping into the ark: Some reflections on free primaryeducation in Uganda
Tác giả: Appleton, S
Năm: 1997
7. Awan, M. S., Malik, N., Sarwar, H., & Waqas, M. (2011), Impact of education on poverty reduction (MPRA Paper No. 31826), Munich Personal RePEcArchive.de/41923/1/MPRA_paper_41923.pdf Sách, tạp chí
Tiêu đề: Impact of education onpoverty reduction
Tác giả: Awan, M. S., Malik, N., Sarwar, H., & Waqas, M
Năm: 2011
8. Bakhtiari, Q., Dean, B.L., Lodhi, M. et al. (2014), Next Generation: Insecure lives, Untold Stories, Islamabad: The British Council Pakistan Sách, tạp chí
Tiêu đề: Next Generation: Insecurelives, Untold Stories
Tác giả: Bakhtiari, Q., Dean, B.L., Lodhi, M. et al
Năm: 2014
9. Bukhari, M. A. (2005), Economics of Education, Islamabad: Allama Iqbal Open University Sách, tạp chí
Tiêu đề: Economics of Education
Tác giả: Bukhari, M. A
Năm: 2005
10. Burtless, G., Smeeding, T. M.,& Rainwatr, L. (2000), United States Poverty in a cross National context, Luxembourg: Luxembourg Income study, working Paper Sách, tạp chí
Tiêu đề: United States Poverty in across National context
Tác giả: Burtless, G., Smeeding, T. M.,& Rainwatr, L
Năm: 2000
11. Cai, Z. Z, (1996), Internal và External Effects of Education on the Growth of National Product, A Dissertation Submitted in Partial Fulfillment of the Requirements for the Degree of Doctor of Arts, Illinois State University Sách, tạp chí
Tiêu đề: Internal và External Effects of Education on the Growth ofNational Product
Tác giả: Cai, Z. Z
Năm: 1996
12. Chambel, J., & Hartl, M. (201 I), Technical and Vocational Skilsl development forPpoverty alleviation, International Fund for Agricultural Development (IFAD) Policy and Technical Advisory Division Sách, tạp chí
Tiêu đề: Technical and Vocational Skilsl developmentforPpoverty alleviation
13. Chansarn, Supachet (2010), 'Labor Productivity Growth, Education, Health and Technological Progress: A Cross-Country Analysis', Economic Analysis & Policy, (2010): 249-61 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Economic Analysis & Policy
Tác giả: Chansarn, Supachet (2010), 'Labor Productivity Growth, Education, Health and Technological Progress: A Cross-Country Analysis', Economic Analysis & Policy
Năm: 2010
14. Cheema, F. (2004), Macroeconomic Stability of Pakistan: The Role of IMF and World Bank (1997 - 2003), University of Illinois Sách, tạp chí
Tiêu đề: Macroeconomic Stability of Pakistan: The Role of IMF and World Bank (1997 - 2003)
Tác giả: Cheema, F
Năm: 2004
15. Commission of the European Communities (2001), Measures taken and to be taken by the Commission to address the poverty reduction objective of EC development policy, Commission Staff working paper, Brussels, 26 July 2001, SEC (2001)1317 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Measures taken and to betaken by the Commission to address the poverty reduction objective of ECdevelopment policy
Tác giả: Commission of the European Communities
Năm: 2001
16. Corbett, T. J. (2002), Poverty. In T. J. Corbett, Encarta Encyclopedia, Microsoft Sách, tạp chí
Tiêu đề: Poverty. In T. J. Corbett
Tác giả: Corbett, T. J
Năm: 2002
17. Đặng Quốc Bảo, Nguyễn Đắc Hưng (2004), Giáo dục Việt Nam hướng tới tương lai, vấn đề và giải pháp, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo dục Việt Nam hướng tới tương lai, vấn đề và giải pháp
Tác giả: Đặng Quốc Bảo, Nguyễn Đắc Hưng
Nhà XB: Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia
Năm: 2004
18. Đỗ Minh Cương, Mạc Văn Tiến (2004), Phát triển lao động kỹ thuật ở Việt nam, Lý luận và thực tiễn, Nhà xuất bản Lao động - Xã hội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phát triển lao động kỹ thuật ở Việt nam, Lý luận và thực tiễn", Nhà xuất bản Lao động "-
Tác giả: Đỗ Minh Cương, Mạc Văn Tiến
Nhà XB: Nhà xuất bản Lao động "-" Xã hội
Năm: 2004
19. Fitzsimons, P., (1999), 'Human capital theory and education', Encyclopedia of philosophy of education, pp.1-5 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Encyclopedia of philosophy of education
Tác giả: Fitzsimons, P
Năm: 1999
20. Fleisher, Belton M, Yifan Hu, Haizheng Li, and Seonghoon Kim (2011), 'Economic Transition, Higher Education and Worker Productivity in China', Journal of Development Economics, 86-94 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Journal of Development Economics
Tác giả: Fleisher, Belton M, Yifan Hu, Haizheng Li, and Seonghoon Kim
Năm: 2011

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w