GIỚI THIỆU CHUNG VỀ NGHIÊN CỨU
Tính cấp thiết của đề tài
Chất lượng kiểm toán (CLKT) đã là trọng tâm của nhiều nghiên cứu trong hơn 20 năm qua, theo DeFond và Zhang (2014) Hội đồng Tiêu chuẩn Kiểm toán và Đảm bảo Quốc tế (IAASB) cũng nhấn mạnh rằng CLKT cần được chú ý hơn Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu hiện nay chỉ tập trung vào CLKT của các công ty kiểm toán độc lập, trong khi lĩnh vực kiểm toán tài chính công còn thiếu nghiên cứu (Dwyer và Wilson, 1989) Dựa trên khung lý thuyết về CLKT trong khu vực tư nhân, Donald và cộng sự (1992) đã tiến hành nghiên cứu để xác định các yếu tố ảnh hưởng đến CLKT trong khu vực công Kết quả cho thấy, danh tiếng và xung đột quyền lực là những yếu tố quyết định quan trọng, bên cạnh đó, thời gian kiểm toán cũng là một chỉ số chấp nhận được để so sánh CLKT giữa các công ty có quy mô tương đồng Nghiên cứu của Donald và cộng sự không thể phủ nhận được giá trị của nó trong việc làm rõ các yếu tố ảnh hưởng đến CLKT trong lĩnh vực này.
Năm 1992, một số yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán (CLKT) trong việc quản lý và sử dụng tài chính công đã được đề xuất Tuy nhiên, việc dựa chỉ vào nghiên cứu CLKT từ các công ty kiểm toán độc lập không thể thay thế cho nghiên cứu về CLKT trong khu vực công do các cơ quan kiểm toán nhà nước (KTNN) thực hiện Một số nghiên cứu như của Mazur và cộng sự (2005) hay Haneef (2013) đã sử dụng phương pháp định tính và phân tích tài liệu để đề cập đến các khía cạnh cụ thể liên quan đến CLKT của KTNN Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có nghiên cứu nào xác định một cách toàn diện các nhân tố ảnh hưởng đến CLKT của KTNN và kiểm định mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố này.
Tại Việt Nam, một số nghiên cứu khoa học đã được thực hiện bởi KTNN về chất lượng kiểm toán (CLKT) trong các lĩnh vực như kiểm toán ngân sách, đầu tư xây dựng cơ bản và doanh nghiệp nhà nước Tuy nhiên, các nghiên cứu này chủ yếu dựa trên phân tích dữ liệu thứ cấp, chỉ ra thực trạng CLKT hiện tại mà chưa xem xét các nhân tố ảnh hưởng và mức độ tác động của chúng Nghiên cứu gần đây của Hoàng Phú Thọ (2012) đã sử dụng phân tích định tính để đánh giá công tác kiểm soát chất lượng kiểm toán của KTNN và đưa ra khuyến nghị nhằm nâng cao chất lượng này Bên cạnh đó, nghiên cứu của Nguyễn Mạnh Cường về kiểm toán các dự án đầu tư ODA cũng góp phần làm rõ hơn về CLKT trong hoạt động của KTNN.
Năm 2017, nghiên cứu tập trung vào kiểm toán nguồn vốn ODA cho các dự án đầu tư xây dựng cơ bản Tác giả nhận thấy rằng tại Việt Nam chưa có nghiên cứu nào về chất lượng kiểm toán (CLKT) của Kiểm toán Nhà nước (KTNN) nhằm xác định và kiểm định mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố, đồng thời xem đây là mục tiêu nghiên cứu duy nhất.
Hoạt động của các cơ quan kiểm toán Nhà nước (KTNN) không nhằm mục đích lợi nhuận, mà tập trung vào việc kiểm tra các tổ chức quản lý tài sản và tài chính công Những tổ chức này không chỉ mang lại lợi ích kinh tế mà còn phục vụ các mục đích chính trị Vì vậy, việc phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán (CLKT) của KTNN là rất quan trọng để nâng cao CLKT Kết quả kiểm toán luôn thu hút sự quan tâm lớn từ Quốc hội, Chính phủ, các cơ quan chức năng và người dân.
Gần đây, KTNN VN đã thu hút sự chú ý với nhiều kết quả kiểm toán quan trọng như quản lý trang thiết bị y tế, các dự án BOT, BT và cổ phần hóa doanh nghiệp, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng tài chính công Tuy nhiên, nhiều kết luận và kiến nghị của KTNN còn chung chung, thiếu cơ sở pháp lý, dẫn đến tỷ lệ thực hiện chưa cao (75,6% năm 2016, 78,2% năm 2017, 73,2% năm 2018) Việc phát hiện hành vi gian lận, tham nhũng cũng còn hạn chế, với ít vụ việc được chuyển sang cơ quan điều tra Hơn nữa, công tác phối hợp với cơ quan Tài chính gặp nhiều vướng mắc, ảnh hưởng đến chất lượng báo cáo kiểm toán Theo quy định, cá nhân có quyền khiếu nại về kết luận của KTNN, tuy nhiên chưa có vụ việc nào được khởi kiện KTNN VN cam kết nâng cao chất lượng kiểm toán, khắc phục tồn tại để đáp ứng kỳ vọng của Đảng, Nhà nước và công chúng trong việc giám sát tài chính công, hướng tới một nền tài chính minh bạch và trách nhiệm giải trình.
Nhu cầu nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán (CLKT) của Kiểm toán Nhà nước (KTNN) là rất quan trọng Việc phân tích và kiểm định mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố giúp các cơ quan có thẩm quyền thực hiện các giải pháp nâng cao CLKT Đề tài nghiên cứu này nhằm xem xét và phân tích các nhân tố chính ảnh hưởng đến CLKT trong lĩnh vực kiểm toán tài chính và tài sản công do KTNN Việt Nam thực hiện Kết quả nghiên cứu không chỉ hệ thống hóa các luận điểm khoa học về CLKT mà còn là cơ sở cho các cơ quan, tổ chức tham khảo trong việc hoạch định chính sách và quản lý CLKT.
Tổng quan nghiên cứu
Để xác định các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng kỹ thuật, các nhà nghiên cứu áp dụng nhiều phương pháp khác nhau, được phân loại thành các nhóm chính.
(i) Theo quan điểm hành vi;
(ii) Nghiên cứu dựa vào đầu vào, quá trình và đầu ra;
(iii) Khía cạnh tổ chức
Schroeder và các cộng sự (1986) cùng với một số nhà nghiên cứu trước đó đã chỉ ra rằng chất lượng thông tin (CLKT) được xác định bởi mức độ hài lòng của người sử dụng thông tin báo cáo kinh tế (BCKT) Nghiên cứu này tập trung vào nhận thức của người dùng về các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng thông tin.
CLKT của những người lập BCTC và KTV đã được Carcello và cộng sự (1992) nghiên cứu dựa trên cảm nhận của họ cùng với người dùng thông tin kiểm toán Nghiên cứu này nhằm tìm hiểu các yếu tố tác động đến CLKT một cách toàn diện hơn so với các nghiên cứu trước đó Tiếp theo mô hình của Carcello, nghiên cứu của Behn và cộng sự (1997) cùng Kym đã mở rộng thêm các khía cạnh liên quan đến CLKT.
B và cộng sự (2008) đã thực hiện khảo sát để tìm hiểu xem thuộc tính nào của CLKT liên quan trực tiếp đến sự hài lòng của khách hành Tuy nhiên, Kym, B và cộng sự
Nghiên cứu năm 2008 chỉ dựa vào cảm nhận của kiểm soát viên công ty khách hàng và chuyên gia tài chính, cũng như kiểm toán viên nội bộ của hội đồng địa phương - những người lập báo cáo tài chính, thay vì khảo sát đồng thời cả kiểm toán viên, điều này hạn chế tính bao quát của kết quả so với các công trình nghiên cứu trước đó.
Kilgore và cộng sự (2014) đã nghiên cứu cảm nhận về chất lượng kiểm toán (CLKT) từ hai góc độ: những người lập báo cáo tài chính và kiểm toán viên (KTV) là "người bên trong", và những người sử dụng thông tin kiểm toán là "người bên ngoài" Nghiên cứu chỉ ra rằng CLKT được xem như một tập hợp các thuộc tính được đánh giá bởi các nhóm có liên quan đến quá trình kiểm toán, và tầm quan trọng của các thuộc tính này khác nhau giữa các nhóm lợi ích Phát hiện của Kilgore và cộng sự đã làm rõ các yếu tố ảnh hưởng đến CLKT và mức độ quan trọng của từng yếu tố dựa trên cảm nhận của các đối tượng khác nhau Mặc dù nghiên cứu đã củng cố các kết quả trước đó về CLKT theo quan điểm hành vi, nhưng hạn chế về số lượng mẫu trong phương pháp nghiên cứu đã ảnh hưởng đến kết quả.
Các nghiên cứu hành vi đã phân loại các thuộc tính của kiểm toán chất lượng thành hai nhóm chính: thuộc tính của nhóm kiểm toán và thuộc tính của công ty kiểm toán Thuộc tính của nhóm kiểm toán bao gồm các đặc điểm của kiểm toán viên, như đã được nêu bởi các tác giả như Schroeder và cộng sự (1986), Carcello và cộng sự (1992), Beattie và Fearnley (1995), Zerni (2008), Warming-Rasmussen và Jensen (1998), cùng với Behn và cộng sự (1997), và Francis.
Các nghiên cứu của Kym và cộng sự (2004), Bùi Thị Thủy (2008), và Nguyễn Mạnh Cường (2013, 2017) chỉ ra rằng thuộc tính của công ty kiểm toán là những đặc điểm quan trọng trong đánh giá chất lượng kiểm toán Trong đó, thuộc tính của nhóm kiểm toán được xem là yếu tố quan trọng hơn so với thuộc tính của công ty kiểm toán.
Các thuộc tính của nhóm kiểm toán có ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng kiểm toán (CLKT), bao gồm đạo đức của kiểm toán viên (Krohmer và Lae, 2010; Kym và cộng sự, 2008), tính độc lập của kiểm toán viên (Baotham, 2009; Tepalagun và Lin, 2016; Kym và cộng sự, 2008), kinh nghiệm (Behn và cộng sự, 1997; Kym và cộng sự, 2008; Carcello và cộng sự, 1992; Bùi Thị Thủy, 2013), cùng với quan hệ và các quan điểm hành vi (Mock và Samet).
1982), nguồn lực con người (human capital - trình độ học vấn, kinh nghiệm, chuyên môn ngành) của Cheng và cộng sự (2009) v.v
Theo Pankov (2011, 2016), chất lượng kiểm toán (CLKT) không chỉ phụ thuộc vào việc tuân thủ các quy định mà còn bị ảnh hưởng bởi kỳ vọng của người sử dụng báo cáo tài chính và động lực của kiểm toán viên (KTV) Yếu tố môi trường thể chế (MTTC) đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành động lực cho KTV, ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến CLKT Pankov nhấn mạnh rằng để đạt được kiểm toán chất lượng cao, cần có sự tương tác tích cực với MTTC bên ngoài bên cạnh việc tuân thủ các chuẩn mực và quy định Elizarieva (2012) đã mở rộng nghiên cứu của Pankov bằng cách phát triển mô hình ảnh hưởng của thể chế đến CLKT tại Nga, xác định bốn yếu tố tác động: chính trị, pháp luật, kinh tế và đạo đức, với hai hình thức tác động là hành chính và tự điều chỉnh.
Nghiên cứu của Elizarieva (2012) đã chỉ ra nhiều yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán (CLKT) của các công ty kiểm toán độc lập, không chỉ bao gồm sự tuân thủ pháp luật và các chuẩn mực kiểm toán mà còn cả yếu tố chính trị Tác giả nhấn mạnh rằng yếu tố chính trị có thể ảnh hưởng đến việc lựa chọn đơn vị kiểm toán trong các gói thầu tại doanh nghiệp khu vực công, với sự điều chỉnh các điều kiện đấu thầu một cách ngầm định Mặc dù có nhiều phát hiện quan trọng về CLKT, nhưng nghiên cứu này vẫn gặp hạn chế do chủ yếu dựa vào phân tích tài liệu thứ cấp.
Trong lĩnh vực kiểm toán của KTNN, việc thực hiện kiểm toán tại các đơn vị và doanh nghiệp nhà nước là bắt buộc và không tính phí, đặt ra câu hỏi về tác động của yếu tố thể chế và chính trị đến chất lượng kiểm toán BCKT của KTNN là căn cứ quan trọng cho Quốc hội trong việc giám sát nền kinh tế và cho Chính phủ trong quản lý, điều hành BCKT này có giá trị pháp lý bắt buộc đối với đơn vị được kiểm toán và các cá nhân, tổ chức liên quan, đồng thời là cơ sở để thực hiện quyền khiếu nại nếu có Hoạt động kiểm toán của KTNN nhận được sự quan tâm và phối hợp chặt chẽ từ Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan liên quan, phù hợp với quan điểm của Pankov (2016) về tầm quan trọng của sự tương tác với môi trường bên ngoài Theo Kirgore và cộng sự (2014), đây là nhóm đối tượng chịu ảnh hưởng từ quá trình kiểm toán của KTNN.
Nguyễn Mạnh Cường (2017) trong nghiên cứu "Kiểm toán các dự án đầu tư sử dụng vốn ODA do Kiểm toán nhà nước Việt Nam thực hiện" đã xác định 09 nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán các dự án ODA Mô hình nghiên cứu của tác giả cung cấp cái nhìn sâu sắc về các yếu tố quyết định trong quy trình kiểm toán.
CHATLUONG = 0 + 1* PHAPLY + 2* DVKT + 3* CHUYENMON + 4* TINHTHONG + 5* THAIDO + 6* TUANTHU + 7* DIEUKIEN + 8* THOIGIAN + 9* KIEMSOAT + i
Kết quả phân tích từ 168 lãnh đạo và KTVNN cho thấy, các yếu tố nội tại như sự tinh thông nghề nghiệp, thời gian kiểm toán, và thái độ nghề nghiệp, cùng với các yếu tố ngoại tại như môi trường pháp lý và đơn vị được kiểm toán, đều có ảnh hưởng quan trọng đến chất lượng kiểm toán (CLKT) các dự án ODA Mặc dù tác giả đã thành công trong việc xác định và kiểm định các yếu tố ảnh hưởng đến CLKT của KTNN, nghiên cứu hiện tại chỉ tập trung vào các dự án đầu tư xây dựng sử dụng vốn ODA, và chưa khảo sát cảm nhận về CLKT của KTNN từ đơn vị được kiểm toán cũng như người sử dụng thông tin như các cơ quan Quốc hội, Chính phủ và cơ quan dân cử.
Các nhân tố hành vi có ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán (CLKT) đã được chứng minh qua các nghiên cứu điển hình, cho thấy mối liên hệ giữa nhóm kiểm toán/kế toán viên (KTV), tổ chức thực hiện cuộc kiểm toán và môi trường kiểm toán (MTTC) Những yếu tố này tác động đến CLKT nói chung, bao gồm cả CLKT của Kiểm toán Nhà nước (KTNN).
1.2.2 Nghiên c ứ u d ự a trên y ế u t ố đầ u vào, đầ u ra c ủ a quá trình ki ể m toán
Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu của nghiên cứu là xác định các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước (KTNN) Việt Nam thông qua việc nghiên cứu lý thuyết và phỏng vấn chuyên gia Nghiên cứu sẽ kiểm định và đo lường mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố, từ đó đề xuất các giải pháp phù hợp nhằm nâng cao chất lượng kiểm toán của KTNN trong tương lai.
Mục tiêu cụ thể: Từ mục tiêu chung luận án xác định 05 mục tiêu cụ thể sau đây:
Nhận diện các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán (CLKT) của kiểm toán nhà nước (KTNN) Việt Nam bao gồm các yếu tố từ kiểm toán viên nhà nước (KTVNN), các yếu tố thuộc về KTNN và các yếu tố liên quan đến môi trường tác nghiệp (MTTC).
(2) Kiểm định mối quan hệ giữa các nhân tố thuộc về KTVNN với CLKT của KTNN Việt Nam và đo lường mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố
(3) Kiểm định mối quan hệ giữa các nhân tố thuộc về KTNN với CLKT của KTNN Việt Nam và đo lường mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố
Kiểm định mối quan hệ giữa các yếu tố thuộc môi trường thể chế, bao gồm các cơ quan của Quốc hội, Chính phủ, cơ quan dân cử và hành lang pháp lý, với chất lượng kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước Việt Nam là cần thiết Nghiên cứu này nhằm đo lường mức độ ảnh hưởng của từng yếu tố đến chất lượng kiểm toán, từ đó cung cấp cái nhìn sâu sắc về vai trò của môi trường thể chế trong hoạt động kiểm toán.
(5) Đề xuất giải pháp nhằm nâng cao CLKT của KTNN Việt Nam.
Câu hỏi nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu luận án xác định các câu hỏi nghiên cứu chính cần giải quyết gồm có:
(1) Các nhân tố nào có ảnh hưởng như thế nào đến CLKT của KTNN Việt Nam?
Mối quan hệ giữa các nhân tố thuộc KTVNN, KTNN và MTTC có ảnh hưởng rõ rệt đến chất lượng công tác của KTNN Việt Nam Các yếu tố này không chỉ tương tác mà còn tác động lẫn nhau, tạo nên một hệ thống phức tạp Đánh giá mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố là cần thiết để cải thiện chất lượng công tác của KTNN, từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan này.
(3) Những giải pháp nào phù hợp với bối cảnh hiện tại giúp nâng cao CLKT của KTNN Việt Nam hiện nay?
Đối tượng và Phạm vi nghiên cứu
1.5.1 Đố i t ượ ng nghiên c ứ u Đối tượng nghiên cứu của luận án là mối quan hệ giữa các nhân tố thuộc về
KTVNN, các nhân tố thuộc về KTNN và các nhân tố thuộc về MTTC và CLKT của KTNN Việt Nam hiện nay
Về không gian: Nghiên cứu tại KTNN Việt Nam
Luận án nghiên cứu dữ liệu từ năm 2006, khi Luật Kiểm toán Nhà nước số 81/2005/QH13 có hiệu lực, cho đến nay Để đảm bảo tính thời sự, luận án tập trung vào dữ liệu kiểm toán trong giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2019.
Luận án này nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán (CLKT) của Kiểm toán Nhà nước (KTNN) Việt Nam, đặc biệt trong lĩnh vực kiểm toán tài chính và kiểm toán tuân thủ Mặc dù KTNN đang tăng cường áp dụng kiểm toán hoạt động với nhiều cuộc kiểm toán chuyên đề, nhưng nghiên cứu này chủ yếu tập trung vào các khía cạnh của kiểm toán tài chính và kiểm toán tuân thủ, vẫn giữ vai trò chủ đạo trong giai đoạn trước đó.
Đóng góp mới của nghiên cứu
* Những đóng góp mới của luận án về mặt lý luận gồm có:
Thứ nhất, Luận án bổ sung cơ sở lý luận về các nhân tố ảnh hưởng đến CLKT của KTNN;
Luận án kết hợp phương pháp nghiên cứu định tính qua phỏng vấn sâu và nghiên cứu định lượng để xây dựng mô hình hồi quy, nhằm cung cấp bộ dữ liệu đáng tin cậy về các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán của kinh tế nhà nước Việt Nam.
Luận án đã xác định ba nhóm nhân tố tổng quan và tám nhân tố cấu thành có tác động tích cực đến chất lượng kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước Việt Nam Những đóng góp này sẽ là cơ sở cho các nghiên cứu tiếp theo về chủ đề này trong tương lai.
Thứ tư, Luận án rút ra các khuyến nghị nhằm nâng cao CLKT của KTNN Việt Nam
* Những đóng góp của luận án về mặt thực tiễn gồm có:
Nghiên cứu chỉ ra ba nhóm nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán (CLKT) của Kiểm toán Nhà nước (KTNN) Việt Nam, bao gồm: (i) Nhóm nhân tố từ Kiểm toán viên Nhà nước (KTVNN) như kinh nghiệm, chuyên môn, trình độ đào tạo, tuân thủ chuẩn mực kiểm toán, và duy trì tính độc lập, chuyên nghiệp; (ii) Nhóm nhân tố từ KTNN như kiểm soát chất lượng kiểm toán, sự tham gia của lãnh đạo, cùng với vị thế và uy tín của KTNN; và (iii) Nhân tố từ môi trường thể chế, bao gồm sự quan tâm và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan thuộc Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan dân cử.
Kết quả nghiên cứu và khuyến nghị giải pháp nâng cao chất lượng kiểm toán (CLKT) của Kiểm toán Nhà nước (KTNN) sẽ cung cấp cơ sở cho KTNN thực hiện các biện pháp cụ thể nhằm giảm thiểu các yếu tố tiêu cực ảnh hưởng đến CLKT Đồng thời, nghiên cứu cũng mang lại thông tin đáng tin cậy cho các cơ quan Quốc hội, Chính phủ và các đơn vị được kiểm toán về các nhân tố tác động đến CLKT, cũng như vai trò và nhiệm vụ của từng cấp, từng đơn vị trong việc đảm bảo và nâng cao CLKT của KTNN.
Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu và kết luận luận án được kết cấu thành 05 chương như sau: Chương 1 Giới thiệu chung về nghiên cứu
Chương 2 Cơ sở lý thuyết các nhân tố ảnh hưởng đến CLKT của KTNN
Chương 3 Phương pháp nghiên cứu
Chương 4 Kết quả nghiên cứu
Chương 5 Khuyến nghị một số giải pháp nâng cao CLKT của KTNN Việt Nam
Chương 1 chủ yếu hệ thống hóa các nghiên cứu trong và ngoài nước về CLKT và các nhân tố ảnh hưởng đến CLKT Có 02 trường phái chính về khái niệm CLKT: (i) CLKT là khả năng phát hiện và báo cáo những sai sót trọng yếu trong BCTC; (ii) CLKT được xem xét dựa trên mức độ hài lòng của đối tượng sử dụng BCKT đối với các kết quả, kết luận kiểm toán Đi sâu vào nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến CLKT các nhà nghiên cứu dựa trên các quan điểm chính gồm: (i) Theo quan điểm hành vi; (ii) Nghiên cứu dựa vào đầu ra, quá trình và đầu vào; (iii) Khía cạnh tổ chức Từ kết quả tổng quan nghiên cứu luận án xác định khoảng trống nghiên cứu, mục tiêu, câu hỏi, phương pháp, quy trình nghiên cứu làm cơ sở cho các bước nghiên cứu tiếp theo của luận án.
CƠ SỞ LÝ THUYẾT CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHẤT LƯỢNG KIỂM TOÁN CỦA KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC
Một số vấn đề chung về kiểm toán và chất lượng kiểm toán
Khái niệm kiểm toán sơ khai xuất hiện từ thế kỷ III trước công nguyên, liên quan đến nền văn minh Ai Cập và La Mã, với từ "audit" trong tiếng Latin có nghĩa là "nghe" Kiểm toán cổ điển là quá trình kiểm tra tài sản thông qua việc ghi chép và đọc to số liệu kế toán cho một bên độc lập nghe và xác nhận Đến đầu thế kỷ XX, khái niệm kiểm toán độc lập và việc bày tỏ ý kiến mới phát triển mạnh mẽ tại Bắc Mỹ và Tây Âu, nhằm bảo vệ quyền lợi của các nhà quản lý và nhà đầu tư Các nhà đầu tư mong muốn có sự đảm bảo từ kiểm toán viên độc lập rằng báo cáo tài chính đã phản ánh trung thực và chính xác thông tin tài chính của công ty.
Kiểm toán được định nghĩa bởi tổ chức IFAC là quá trình mà các kiểm toán viên độc lập thực hiện việc kiểm tra và đưa ra ý kiến về các báo cáo tài chính.
Theo Arens và Loebbecker (1995), kiểm toán được định nghĩa là quá trình thu thập bằng chứng và thông tin liên quan từ các chuyên gia độc lập nhằm xác nhận và báo cáo về mức độ tuân thủ các chuẩn mực của đơn vị.
Kiểm toán ở Việt Nam chỉ mới phát triển trong hơn 30 năm qua, với sự hình thành của các công ty tư vấn và kiểm toán trực thuộc Bộ Tài chính Theo Nguyễn Quang Quynh (1998, tr.30), hoạt động kiểm toán được hiểu là một quá trình đánh giá và xác minh thông tin tài chính.
Kiểm toán là quá trình xác minh và đưa ra ý kiến về tình hình hoạt động thông qua các phương pháp kỹ thuật, bao gồm kiểm toán chứng từ và ngoài chứng từ Hoạt động này được thực hiện bởi các kiểm toán viên có chuyên môn phù hợp, dựa trên hệ thống pháp lý hiện hành.
Kiểm toán là quá trình mà kiểm toán viên có chuyên môn độc lập thực hiện việc kiểm tra sổ sách kế toán để đưa ra ý kiến về tính chính xác và trung thực của thông tin tài chính của tổ chức hoặc công ty.
Có 02 phương pháp chính để phân loại kiểm toán như sau:
- Theo chủ thể kiểm toán gồm: Kiểm toán nhà nước, kiểm toán độc lập và kiểm toán nội bộ
Kiểm toán nhà nước, hay còn gọi là cơ quan kiểm toán tối cao ở một số quốc gia, là tổ chức được thành lập bởi Quốc hội hoặc Chính phủ, hoạt động độc lập theo quy định của pháp luật Theo Điều 4 của Luật Kiểm toán nhà nước, đối tượng kiểm toán bao gồm việc quản lý và sử dụng tài chính công, tài sản công, cùng các hoạt động liên quan đến quản lý và sử dụng tài chính, tài sản công của các đơn vị được kiểm toán.
Kiểm toán độc lập là các công ty hoạt động theo quy định của luật Doanh nghiệp, chuyên cung cấp dịch vụ kiểm toán Các công ty này ký hợp đồng với khách hàng để thực hiện các dịch vụ kiểm toán có tính phí.
Kiểm toán nội bộ là hoạt động được ban lãnh đạo doanh nghiệp thành lập nhằm thực hiện kiểm tra và đánh giá việc tuân thủ các quy định, chuẩn mực tài chính - kế toán cũng như hệ thống kiểm soát nội bộ của tổ chức.
- Phân loại theo loại hình kiểm toán, có 03 loại hình kiểm toán: Kiểm toán tài chính, kiểm toán tuân thủ và kiểm toán hoạt động
Kiểm toán tài chính (KTTC) nhằm mục tiêu xác minh rằng báo cáo tài chính (BCTC) và các thông tin tài chính liên quan được lập và trình bày theo quy định hiện hành Qua quá trình kiểm toán, KTTC đưa ra ý kiến xác nhận về tính chính xác và trung thực của BCTC cũng như các thông tin tài chính.
Kiểm toán tuân thủ là quá trình đánh giá việc thực hiện các quy định liên quan đến tài chính, kế toán, cũng như các chính sách và chế độ mà tổ chức phải tuân thủ.
Kiểm toán hoạt động, một loại hình kiểm toán mới mẻ tại Việt Nam, chủ yếu tập trung vào việc đánh giá tính kinh tế, hiệu quả và hiệu lực trong quản lý và sử dụng tài chính, tài sản của các đơn vị, thường được gọi là kiểm toán 3E Mục tiêu của kiểm toán hoạt động là đưa ra những ý kiến nhằm cải tiến và khắc phục những hoạt động chưa đạt hiệu quả Điểm khác biệt của Kiểm toán Nhà nước (KTNN) so với các chủ thể kiểm toán khác nằm ở loại hình kiểm toán này.
Kiểm toán nhà nước (KTNN) là cơ quan do Quốc hội thành lập, có chức năng và nhiệm vụ được quy định tại Điều 118 Hiến pháp Việt Nam và các luật liên quan Các tổ chức kiểm toán khác như kiểm toán độc lập và kiểm toán nội bộ hoạt động theo Luật Kiểm toán độc lập và các quy định pháp luật liên quan Trong khi các công ty kiểm toán độc lập chủ yếu cung cấp dịch vụ kiểm toán báo cáo tài chính, KTNN thực hiện cả ba loại hình kiểm toán: kiểm toán tài chính, kiểm toán tuân thủ và kiểm toán hoạt động Việc thực hiện kiểm toán có thể diễn ra riêng lẻ hoặc kết hợp cả ba loại hình để đạt được mục tiêu cụ thể và phù hợp với đặc thù của lĩnh vực kiểm toán tài chính công và tài sản công.
2.1.2 Khái quát v ề ch ấ t l ượ ng ki ể m toán
2.1.2.1 Khái niệm về chất lượng
Chất lượng được định nghĩa trong từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê (2000) là "cái tạo nên phẩm chất, giá trị của một con người, một sự vật, sự việc" Tương tự, từ điển tiếng Nga của Ozhegova (2020) mô tả chất lượng là "sự tồn tại của những dấu hiệu, tính chất, đặc điểm tạo nên sự khác biệt giữa sự vật, hiện tượng này với sự vật, hiện tượng khác".
"Chất lượng" là một khái niệm cổ xưa và đã được nghiên cứu trong triết học từ lâu Để có cái nhìn rõ ràng và hệ thống về định nghĩa chất lượng, chúng ta cần xem xét nó từ hai góc độ chính: triết học và kinh tế.
(i) Theo quan điểm triết học
Các lý thuyết nền
2.2.1 Lý thuy ế t tháp nhu c ầ u c ủ a Abraham Maslow
Nhu cầu là yếu tố cốt lõi định hình bản chất con người, theo nghiên cứu của Maslow về "Hệ thống cấp bậc của nhu cầu" (1943) Con người có nhu cầu bậc thấp như sự nhận thức bản thân, được kính trọng và an toàn, và nhu cầu bậc cao liên quan đến tự khẳng định và tự tôn Nhu cầu bậc thấp thường được thỏa mãn qua yếu tố bên ngoài, trong khi nhu cầu bậc cao liên quan đến nội tại Maslow cho rằng khi nhu cầu cơ bản được thỏa mãn, chúng sẽ hình thành nên nhu cầu ở cấp độ cao hơn, trở thành động lực cho hành vi Năm cấp bậc nhu cầu từ thấp đến cao bao gồm nhu cầu sinh học, nhu cầu an toàn, nhu cầu xã hội, nhu cầu được tôn trọng, và nhu cầu tự thể hiện Chính nhu cầu là nền tảng cho động cơ thúc đẩy con người hành động, với việc ưu tiên thỏa mãn các nhu cầu cấp thiết trước khi hướng tới những nhu cầu cao hơn.
Phát triển tháp nhu cầu của Maslow để tạo động lực cho người lao động trong môi trường tổ chức, Trương Minh Đức (2011) và Dinibutun (2012) đã xem xét 5 cấp bậc nhu cầu của con người như các biến độc lập Các tác giả đã chỉ ra các yếu tố cụ thể trong tháp nhu cầu, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đáp ứng nhu cầu của nhân viên để nâng cao hiệu suất làm việc.
Bảng 2.1 Tháp nhu cầu Nhu cầu
Nội dung tổng quát theo học thuyết của Maslow
Phát triển của Trương Minh Đức
Nhu cầu sinh học cơ bản
Thứ c ăn, n ước uống, ng ủ - Thu nhập từ lương
- Điều kiện sống của người lao động được cấp trên quan tâm
- Điề u kiện làm vi ệc dễ chịu
Nhu cầu an toàn An toàn, an ninh, sự ổn định, sự bảo vệ
- Đảm bảo điều kiện an toàn khi làm việc
- Áp lực trong công việc
- Cơ sở vật chất và các điều kiện cần thiết phục vụ công việc
- Điều kiện làm việc an toàn
- Phúc lợi của công ty
- Sự an toàn của công việc
Nhu cầu xã hội Tình yêu, cảm giác được ưa thích, cảm giác gần gũi, thân thiết
- Mối quan hệ với các đồng nghiệp tại nơi làm việc
- Quan hệ với cấp trên
- Quan hệ với đối tác
- Sự gắn kết của nhóm làm việc
- Sự h ợp tác chuyên nghiệp
Nhu cầu được tôn trọng
Sự tự trọng, sự kính mến, danh tiếng, địa vị, sự thừa nhận
- Chức vụ trong cơ quan
- Sự ghi nhận của cấp trên
- S ự khuyến khích c ủa c ấp trên
- Sự thừa nhận của tập thể
- Sự phản hồi từ chính công việc
Nhu cầu tự thể hiện bản thân
Sự phát triển, thăng tiến, sáng tạo
- Có thể chủ động đối với công việc được giao
- Cơ hội được bồi dưỡng nâng cao trình độ
- Tạo điều kiện phát huy kiến thức chuyên môn
- Cơ hội để sáng tạo
- Thành tích trong công việc
- Sự thăng ti ến trong tổ chức
Nguồn: Tổng hợp từ Trương Minh Đức (2011), Dinibutun (2012)
Theo lý thuyết nhu cầu của Maslow, nhân viên sẽ làm việc hiệu quả khi biết rằng kết quả công việc thỏa mãn các nhu cầu của họ Trong hoạt động kiểm toán, kiểm toán viên (KTV) đóng vai trò quan trọng trong việc thu thập chứng cứ, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng báo cáo kiểm toán (BCKT) Động lực để KTV duy trì tính độc lập và chuyên nghiệp trong công việc là khi họ nhận thức được rằng nỗ lực của mình sẽ thỏa mãn nhu cầu tự khẳng định bản thân, bao gồm sự phát triển và sáng tạo Do đó, nhu cầu của KTV chi phối hành vi và quyết định chất lượng kiểm toán.
2.2.2 Lý thuy ế t v ề th ể ch ế c ủ a Douglas North
Douglas North, một trong những người tiên phong trong học thuyết kinh tế về thể chế, định nghĩa thể chế là "những luật lệ của cuộc chơi trong xã hội" (1990) Thể chế bao gồm các ràng buộc do con người tạo ra để điều chỉnh và định hình các tương tác của họ, cung cấp cấu trúc cho hoạt động nhằm giảm thiểu sự bất trắc trong các tương tác hàng ngày Vai trò của thể chế là hướng dẫn sự tương tác giữa con người trong các hoạt động xã hội như mua bán, mở công ty, và kết hôn, với mỗi hoạt động cần tuân theo những quy định khác nhau Như vậy, thể chế xác định và giới hạn các lựa chọn của mỗi cá nhân trong xã hội.
Theo ông, hệ thống thể chế bao gồm hai thành phần chính: thể chế chính thức như luật pháp, quy định và chính sách, cùng với thể chế phi chính thức như tục lệ, quy tắc ứng xử và văn hóa Các thể chế có thể được tạo ra bởi con người, như hiến pháp và pháp luật, hoặc phát triển qua thời gian, như các tục lệ văn hóa Thể chế đóng vai trò là khung mà con người phải tuân thủ trong các hoạt động tương tác, và mọi vi phạm sẽ bị xử lý bằng hình phạt tương ứng với mức độ nghiêm trọng.
Thể chế đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra một khuôn khổ ổn định, giúp giảm thiểu sự bất định trong các tương tác giữa con người Môi trường thể chế minh bạch không chỉ thúc đẩy đổi mới mà còn góp phần vào sự tăng trưởng kinh tế Đối với các tổ chức, thể chế chính thống đảm bảo sự ổn định của các mối quan hệ kinh tế, trong khi thể chế không chính thống điều chỉnh hành vi của các chủ thể thông qua các giá trị xã hội được chấp nhận.
Việt Nam đang trải qua giai đoạn chuyển đổi với một môi trường thể chế phức tạp và nhiều bất cập trong hệ thống pháp lý, điều này tác động đáng kể đến hoạt động của các tổ chức và doanh nghiệp.
CLKT không chỉ được xác định qua việc tuân thủ yêu cầu chuyên môn trong kiểm toán mà còn chịu ảnh hưởng từ kỳ vọng của người sử dụng báo cáo và động lực của KTV trong việc đảm bảo chất lượng KTNN có nhiệm vụ quan trọng trong việc cung cấp số liệu kiểm toán cho Quốc hội nhằm đảm bảo tính minh bạch và bền vững của nền tài chính quốc gia, do đó kỳ vọng của Quốc hội đối với CLKT của KTNN rất lớn Hệ thống pháp lý và kỳ vọng từ Đảng, Quốc hội, Chính phủ tạo ra động lực và áp lực cho KTNN và KTVNN trong việc nâng cao giá trị của các BCKT Lãnh đạo KTNN cần quản lý và giám sát chặt chẽ hoạt động của bộ máy và KTVNN Các KTVNN cũng cần tự giác đảm bảo tính độc lập, khách quan và liêm chính trong kiểm toán, giảm thiểu ảnh hưởng từ đơn vị được kiểm toán và nâng cao chất lượng báo cáo thông qua việc tự rà soát và kiểm tra kết quả.
KTNN là cơ quan nhà nước hoạt động theo Luật KTNN và các văn bản pháp luật liên quan, đảm bảo một hành lang pháp lý đầy đủ giúp KTVNN thực hiện nhiệm vụ hiệu quả Việc này không chỉ giúp đơn vị được kiểm toán hiểu rõ quyền lợi và nghĩa vụ của mình mà còn tạo điều kiện cho sự phối hợp tốt hơn với KTNN, từ đó nâng cao chất lượng kiểm toán Trong quá trình kiểm toán, KTVNN cần tuân thủ nghiêm túc các quy định pháp luật và chịu sự lãnh đạo của Tổng KTNN, đồng thời chú ý đến các chuẩn mực xã hội và quy định phổ biến trong môi trường văn hóa-xã hội.
2.2.3 Lý thuy ế t qu ả n tr ị quan liêu c ủ a Max Weber
Theo Weber (1922), để tổ chức đạt được mục tiêu, cần có một hệ thống phân cấp rõ ràng, trong đó mọi quyết định phải hợp pháp và hợp lý Hệ thống này được cấu trúc từ trên xuống dưới, với cấp dưới chịu trách nhiệm trước cấp trên, và người đứng đầu là đại diện cao nhất của tổ chức.
Mỗi quyết định của tổ chức và các thành viên cần đảm bảo tính rõ ràng, dễ hiểu, hợp lý và hợp pháp, với hợp lý và hợp pháp được hiểu là sự tuân thủ các chính sách và quy định pháp luật Trong hoạt động của Kiểm toán Nhà nước (KTNN) Việt Nam, tổ chức từ Tổng KTNN đến từng Kiểm toán viên Nhà nước (KTVNN) được thể chế hóa rõ ràng Mỗi KTVNN phải chịu trách nhiệm trước Tổng KTNN và pháp luật về các đánh giá và kết luận kiểm toán, dựa trên bằng chứng thu thập đầy đủ Các đoàn kiểm toán được tổ chức thành nhiều tổ, mỗi tổ có ít nhất ba KTVNN, với Tổ trưởng chịu trách nhiệm chung Kiểm toán trưởng KTNN giám sát và chỉ đạo các đoàn kiểm toán, chịu trách nhiệm trước Tổng KTNN và pháp luật Kiến nghị của KTNN cần rõ ràng, khách quan, kịp thời và tuân thủ quy định pháp luật hiện hành.
Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán của Kiểm toán nhà nước
Bài viết phân tích chất lượng kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước (KTNN) Việt Nam từ góc độ hành vi và tổng quan nghiên cứu, xác định ba nhóm nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng này Nhóm thứ nhất liên quan đến kiểm toán viên nhà nước (KTVNN), nhóm thứ hai thuộc về KTNN, và nhóm thứ ba liên quan đến môi trường thể chế Những yếu tố này đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo chất lượng kiểm toán theo quy định của hệ thống kiểm toán nhà nước.
Tác giả nghiên cứu chất lượng kiểm toán (CLKT) của Kiểm toán Nhà nước (KTNN) Việt Nam dựa trên các công bố từ nhiều nghiên cứu hành vi, bao gồm cả các nghiên cứu về CLKT trong khu vực tư Các cơ sở cho nghiên cứu này bao gồm: (1) Các công bố trong và ngoài nước về CLKT của KTNN; (2) Đặc trưng hoạt động của KTNN và nguyên tắc đảm bảo CLKT; (3) Vận dụng các nghiên cứu trong lĩnh vực kiểm toán tư nhân để xem xét các yếu tố ảnh hưởng đến CLKT của KTNN Mặc dù có sự đa dạng trong phương pháp nghiên cứu, một điểm chung là sự ảnh hưởng của các yếu tố thuộc về kiểm toán viên (KTV), tổ chức thực hiện kiểm toán và các yếu tố bên ngoài như hành lang pháp lý Tác giả dự đoán rằng các nhân tố thuộc về KTVNN và KTNN sẽ ảnh hưởng đến CLKT, đồng thời nhấn mạnh rằng môi trường thể chế cũng có tác động đáng kể Cuối cùng, tác giả lưu ý rằng cả KTV và tổ chức kiểm toán đều phải tuân thủ quy định pháp luật và chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, và bất kỳ vi phạm nào dẫn đến gian lận hoặc sai sót trên báo cáo tài chính đều phải chịu trách nhiệm pháp lý.
Tác giả sẽ kiểm định tính đầy đủ và phù hợp của ba nhóm nhân tố thông qua phỏng vấn sâu các chuyên gia, trước khi tiến hành khảo sát rộng rãi để thu thập dữ liệu cho phân tích định lượng.
2.3.1 Nhóm các nhân t ố thu ộ c v ề Ki ể m toán viên nhà n ướ c
Theo Rayburn (1996), tính cách ảnh hưởng trực tiếp đến định hướng cá nhân Các kỹ năng và phẩm chất của lãnh đạo cùng với sự đào tạo của nhân viên kiểm toán là những yếu tố quyết định đến chất lượng nguồn nhân lực trong lĩnh vực kiểm toán.
Carcello và cộng sự (1992) là những nhà nghiên cứu tiên phong trong việc khám phá mối liên hệ giữa chất lượng kiểm toán (CLKT) và sự hài lòng của khách hàng, dựa trên cảm nhận của người lập báo cáo tài chính (BCTC), kiểm toán viên (KTV) và người sử dụng báo cáo kiểm toán (BCKT) Họ đã khảo sát 264 kiểm soát viên và 120 chủ nợ, nhà đầu tư để xác định các thuộc tính liên quan đến chất lượng dịch vụ kiểm toán Qua phân tích nhân tố khám phá, họ đã rút ra 12 yếu tố CLKT, bao gồm kinh nghiệm, chuyên môn trong ngành, khả năng đáp ứng nhu cầu khách hàng, và tuân thủ các chuẩn mực kiểm toán Tuy nhiên, các tác giả chưa xác định rõ yếu tố nào thực sự ảnh hưởng đến sự hài lòng của khách hàng Tiếp nối nghiên cứu này, Behn và cộng sự (1997) đã khảo sát cảm nhận của kiểm soát viên công ty khách hàng và phát hiện 6 trong số 12 yếu tố của Carcello có tác động trực tiếp đến sự hài lòng tổng thể Tương tự, Kym, B và cộng sự (2008) đã thực hiện một nghiên cứu toàn diện với 235 chuyên gia tài chính, tiếp tục khám phá các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của khách hàng.
Nghiên cứu đã khảo sát 35 kiểm toán viên nội bộ tại hội đồng địa phương của New South Wales, Australia nhằm xác định các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của người dùng thông tin trong báo cáo kiểm toán, đặc biệt trong bối cảnh bắt buộc đấu thầu lựa chọn công ty cung cấp dịch vụ kiểm toán Giả thuyết nghiên cứu cho rằng các công ty kiểm toán lớn, để bảo vệ danh tiếng, có xu hướng phân cấp trách nhiệm cá nhân của kiểm toán viên ở mức cao hơn, từ đó nâng cao chất lượng dịch vụ kiểm toán.
Năm 1997, nghiên cứu của Behn và cộng sự đã đánh giá 12 thuộc tính chất lượng kiểm toán (CLKT), trong đó thuộc tính "sự tuân thủ CMKT" được Kym và cộng sự (2008) tách ra thành ba nhân tố riêng biệt: năng lực kỹ thuật, tính độc lập và sự chăm sóc khách hàng Phân tích 14 nhân tố và 48 tiêu chí đo lường cho thấy chuyên môn trong ngành, kinh nghiệm hội đồng, năng lực kỹ thuật, duy trì tính độc lập, tuân thủ tiêu chuẩn đạo đức và sự quan tâm của lãnh đạo công ty kiểm toán là những thuộc tính quan trọng nhất trong đánh giá chất lượng dịch vụ kiểm toán Ngược lại, các thuộc tính như sự hoài nghi nghề nghiệp, quan điểm mới mẻ, quy mô công ty kiểm toán và dịch vụ phi kiểm toán được coi là ít quan trọng hơn Các nhân tố liên quan đến kiểm toán viên (KTV) như chuyên môn, kinh nghiệm, năng lực chuyên môn, tuân thủ tính độc lập và chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp đều có ảnh hưởng tích cực đến CLKT, như được khẳng định trong nghiên cứu của Kym và cộng sự (2008).
Dựa trên nghiên cứu của Carcello và cộng sự (1992) cùng các công bố liên quan, Kilgore và cộng sự (2014) đã tiến hành kiểm tra nhận thức về kiểm soát nội bộ của hai nhóm: thành viên nhóm kiểm toán và ban kiểm toán.
Nghiên cứu này so sánh quan điểm giữa các chủ tịch và thành viên ủy ban kiểm toán với các nhà phân tích tài chính thông qua bảng câu hỏi khảo sát Dữ liệu được thu thập từ 39 chủ tịch và thành viên ủy ban cùng 42 nhà phân tích, sau đó được phân tích bằng phương pháp phân tích liên hợp thích ứng Kết quả cho thấy cả hai nhóm đều công nhận rằng các yếu tố như trình độ chuyên môn, kinh nghiệm và hiểu biết của kiểm toán viên có ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng kiểm toán Tuy nhiên, mức độ quan trọng của một số thuộc tính cụ thể lại khác nhau tùy theo cảm nhận của từng nhóm đối tượng.
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra mối liên hệ tích cực giữa các đặc tính của kiểm toán viên (KTV) và chất lượng kiểm toán (CLKT) Theo Krohmer và Noël (2010), đạo đức nghề nghiệp là yếu tố quyết định CLKT và cần được xem xét trong các hoạt động nhân sự như tuyển dụng, đào tạo và phát triển sự nghiệp, từ đó nâng cao chất lượng kiểm toán Baotham (2009) cũng xác nhận mối liên hệ tích cực giữa tính độc lập của kiểm toán viên và CLKT, cho thấy sự quan trọng của yếu tố này đối với thành công và uy tín của tổ chức Ngoài ra, nghiên cứu của Cheng và cộng sự (2009) cho thấy có mối quan hệ tích cực giữa nguồn lực con người, bao gồm trình độ học vấn, kinh nghiệm và chuyên môn, với chất lượng kiểm toán.
Bùi Thị Thủy (2013) đã tiến hành nghiên cứu về các yếu tố tác động đến chất lượng kiểm toán tại các doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam, thông qua khảo sát 546 kiểm toán viên từ 42 công ty kiểm toán độc lập, trong đó thu về 138 phiếu hợp lệ Nghiên cứu này dựa trên công bố của Kym.
B và cộng sự (2008) có điều chỉnh để phù hợp với bối cảnh nghiên cứu Kết quả phân tích trên phần mềm SPSS cho thấy, nhóm nhân tố thuộc về KTV như kinh nghiệm, chuyên nghiệp, áp lực, độc lập, trình độ có ảnh hưởng cao nhất đến CLKT
Trong lĩnh vực kiểm toán nhà nước (KTNN), Luật KTNN và các quy định liên quan (CMKTNN số 30 và số 40) quy định rõ ràng về trình độ và chuyên môn của kiểm toán viên nhà nước (KTVNN), đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng của đạo đức nghề nghiệp và tính độc lập trong quá trình kiểm toán Việc tuân thủ các quy định này là điều kiện tiên quyết để thực hiện kiểm toán hiệu quả Nghiên cứu của Nguyễn Mạnh Cường (2017) về "Kiểm toán các dự án đầu tư sử dụng vốn ODA" đã chỉ ra rằng chất lượng đội ngũ KTVNN có ảnh hưởng lớn đến chất lượng kiểm toán (CLKT) của KTNN, thông qua việc phân tích 09 thuộc tính CLKT cùng 55 tiêu chí đo lường Kết quả cho thấy, các yếu tố như sự tinh thông nghề nghiệp, thời gian kiểm toán và thái độ nghề nghiệp của KTVNN có tác động đáng kể đến CLKT của KTNN Việt Nam.
Tóm lại, các nhân tố thuộc về KTVNN ảnh hưởng đến CLKT xác định đưa vào nghiên cứu của luận án gồm:
(5) Tuân thủ chuẩn mực nghề nghiệp và các hướng dẫn kỹ thuật chuyên môn;
(7) Sự tuân thủ chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp
Trên cơ sở kế thừa bộ thang đo của các nghiên cứu chủ đạo như Kym, B và cộng sự
Các nghiên cứu của Bùi Thị Thủy (2013), Nguyễn Mạnh Cường (2017) và những tác giả khác đã điều chỉnh luận án để phù hợp với bối cảnh nghiên cứu về chất lượng kiểm toán (CLKT) của Kiểm toán Nhà nước Việt Nam, đáp ứng các đặc thù và yêu cầu cụ thể Để đảm bảo tính chính xác, nhóm nghiên cứu đã thực hiện phỏng vấn sơ bộ và phỏng vấn sâu nhằm điều chỉnh bộ thang đo trước khi tiến hành khảo sát rộng rãi và phân tích mô hình hồi quy.
(Chi tiết mô hình nghiên cứu và thang đo sử dụng trong nghiên cứu của một số tác giả tham khảo tại Phụ lục 06/LATS.2020)
2.3.2 Nhóm các nhân t ố thu ộ c v ề Ki ể m toán nhà n ướ c Đối với lĩnh vực kiểm toán việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công do KTNN thực hiện, Hoàng Phú Thọ (2012), Haneef (2013) và Nguyễn Mạnh Cường