Mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu chung của nghiên cứu là phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ công nghệ (CLBCTC) tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa sử dụng dịch vụ kỹ thuật thuê ngoài tại TP.HCM Để đạt được mục tiêu này, đề tài sẽ xác định các mục tiêu cụ thể nhằm làm rõ các yếu tố tác động đến CLBCTC trong bối cảnh hiện nay.
- Xác định các nhân tố ảnh hưởng đến CLBCTC của các DNNVV có sử dụng DVKT thuê ngoài trên địa bàn TP.HCM
- Đo lường mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đó đến CLBCTC của các DNNVV có sử dụng DVKT thuê ngoài trên địa bàn TP.HCM.
Câu hỏi nghiên cứu
Câu hỏi nghiên cứu của đề tài bao gồm:
- Thứ nhất, các nhân tố nào ảnh hưởng đến CLBCTC của các DNNVV có sử dụng DVKT thuê ngoài trên địa bàn TP.HCM?
Mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến chất lượng báo cáo tài chính (CLBCTC) của các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) sử dụng dịch vụ kế toán thuê ngoài tại TP.HCM là rất đáng chú ý Các yếu tố này không chỉ tác động đến tính chính xác và minh bạch của báo cáo tài chính mà còn ảnh hưởng đến quyết định đầu tư và sự phát triển bền vững của các DNNVV trong khu vực.
Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: các nhân tố ảnh hưởng đến CLBCTC
+ Phạm vi về không gian nghiên cứu: Các DNNVV có sử dụng DVKT thuê ngoài tại TP.HCM
+ Phạm vi về thời gian nghiên cứu: Nghiên cứu đƣợc thực hiện năm 2019
- Khách thể nghiên cứu: các DNNVV có sử dụng DVKT thuê ngoài tại
Phương pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu đƣợc thực hiện bằng PPNC hỗn hợp, trong đó PPNC định lƣợng đƣợc kết hợp sử dụng với PPNC định tính Cụ thể nhƣ sau:
PPNC định tính được thực hiện thông qua việc phân tích các nghiên cứu trong và ngoài nước kết hợp với lý thuyết liên quan, từ đó xây dựng mô hình và giả thuyết nghiên cứu Sau đó, tác giả tiến hành phỏng vấn chuyên gia để xác định mô hình nghiên cứu chính thức Mục tiêu của phương pháp nghiên cứu định tính trong luận văn này là hiệu chỉnh mô hình đề xuất và xác định cách thức đo lường các biến sao cho phù hợp, nhằm xây dựng mô hình nghiên cứu chính thức và đo lường các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng báo cáo tài chính của các doanh nghiệp nhỏ và vừa sử dụng dịch vụ kế toán thuê ngoài.
Phương pháp định lượng được áp dụng để thu thập dữ liệu từ báo cáo tài chính của các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) sử dụng dịch vụ kế toán tại TP.HCM Dữ liệu được tổng hợp thành bảng (panel data) và phân tích bằng phần mềm SPSS và Microsoft Excel, nhằm kiểm định tính đa cộng tuyến, tính tương quan, và thực hiện hồi quy mô hình Mục tiêu của nghiên cứu là xác định các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng báo cáo tài chính (CLBCTC) của DNNVV sử dụng dịch vụ kế toán thuê ngoài, cũng như mức độ và hướng tác động của những yếu tố này.
Ý nghĩa của đề tài
Nghiên cứu này góp phần làm rõ cơ sở lý thuyết về chất lượng báo cáo tài chính, đặc biệt là trong bối cảnh các doanh nghiệp sử dụng phần mềm kế toán Bài viết xây dựng mô hình các biến và đo lường mối quan hệ giữa chúng, từ đó xác định các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng báo cáo tài chính của các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) sử dụng dịch vụ kế toán thuê ngoài.
Nghiên cứu này xác định các yếu tố và mức độ ảnh hưởng của chúng đến chất lượng báo cáo tài chính (CLBCTC) của các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) sử dụng dịch vụ kế toán tại TP.HCM Kết quả sẽ hỗ trợ các bên sử dụng thông tin báo cáo tài chính, bao gồm cơ quan nhà nước, nhà quản lý doanh nghiệp và nhà đầu tư, trong việc đưa ra quyết định kinh tế chính xác Đồng thời, nghiên cứu cũng cung cấp các hàm ý thực tiễn quản lý nhằm nâng cao CLBCTC cho các DNNVV sử dụng dịch vụ kế toán thuê ngoài tại TP.HCM.
Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận chung, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 5 chương:
Chương 1 cung cấp cái nhìn tổng quan về các nghiên cứu trước đây liên quan đến đề tài nghiên cứu, cả ở Việt Nam và trên thế giới Chương này nêu rõ những thành tựu và hạn chế của các nghiên cứu đã thực hiện, từ đó xác định những khe hổng cần được khai thác trong nghiên cứu hiện tại.
Chương 2: Cơ sở lý thuyết trình bày các khái niệm quan trọng liên quan đến nghiên cứu, bao gồm Doanh nghiệp Nhỏ và Vừa (DNNVV), Chất lượng Dịch vụ Công nghệ Thông tin (CLBCTC) và thuê ngoài Dịch vụ Kỹ thuật (DVKT) Chương này cũng đề cập đến các lý thuyết nền tảng có liên quan và xác định mô hình nghiên cứu đề xuất cho đề tài.
Chương 3: Phương pháp nghiên cứu, trình bày về phương pháp nghiên cứu cụ thể, mô hình nghiên cứu được áp dụng, các giả thuyết nghiên cứu được đề xuất, thiết kế nghiên cứu chi tiết và các kỹ thuật phân tích dữ liệu phù hợp.
Chương 4 của bài viết trình bày kết quả nghiên cứu về các nhân tố và mức độ tác động của chúng đến chất lượng dịch vụ khách hàng của các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) sử dụng dịch vụ kỹ thuật tại TP.HCM, đồng thời thảo luận về ý nghĩa của những kết quả này trong bối cảnh thực tiễn.
Chương 5 tổng kết và đưa ra các hàm ý thực tiễn quản lý liên quan đến việc lập, trình bày, sử dụng và quản lý các báo cáo tài chính của các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) sử dụng dịch vụ kế toán Những kết luận này nhằm cải thiện hiệu quả quản lý và đáp ứng nhu cầu của các bên liên quan.
TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC
Các nghiên cứu nước ngoài
1.1.1 Nghiên cứu về đo lường CLBCTC doanh nghiệp
Báo cáo tài chính (BCTC) nhằm cung cấp thông tin hữu ích cho việc ra quyết định, không chỉ phản ánh kết quả cuối cùng mà còn phụ thuộc vào từng yếu tố trong quá trình kinh doanh, bao gồm các giao dịch, lựa chọn và phương pháp kế toán Hai quan điểm chính trong đánh giá chất lượng BCTC là dựa trên nhu cầu của người sử dụng thông tin và bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư, cổ đông Theo quan điểm thứ nhất, chất lượng BCTC được xác định bởi tính hữu ích của thông tin, trong khi quan điểm thứ hai nhấn mạnh việc cung cấp thông tin đầy đủ và hợp lý cho cổ đông Francis và cộng sự (2005) cho rằng chất lượng lợi nhuận là khái niệm bao quát, bao gồm cả chất lượng kế toán và chất lượng BCTC.
Theo nghiên cứu của Dechow và các cộng sự (2010), chỉ số CLLN càng cao cung cấp nhiều thông tin hữu ích về tình hình tài chính của công ty, từ đó hỗ trợ quá trình ra quyết định Điều này cho thấy, CLLN đóng vai trò quan trọng trong việc đánh giá chất lượng báo cáo tài chính của một doanh nghiệp, giúp đưa ra những quyết định chính xác hơn dựa trên dữ liệu tài chính hiện có.
Theo nghiên cứu của Choi và Pae (2011) về mối quan hệ giữa đạo đức kinh doanh và chất lượng báo cáo tài chính (CLBCTC) tại Hàn Quốc, CLBCTC được đo lường qua ba phương pháp: sử dụng biến kế toán dồn tích (QTLN), kế toán thận trọng và tính chính xác của dồn tích về dòng tiền hoạt động trong tương lai Kết quả cho thấy các doanh nghiệp có cam kết đạo đức cao sẽ có CLBCTC tốt hơn, đồng thời hạn chế việc sử dụng QTLN giúp báo cáo tài chính trở nên nhất quán và dự báo dòng tiền chính xác hơn Hơn nữa, các doanh nghiệp này còn có ảnh hưởng tích cực đến việc duy trì CLBCTC trong tương lai.
Theo nghiên cứu của Bauwhede và cộng sự (2015), việc đo lường chất lượng báo cáo tài chính (CLBCTC) theo chỉ số chất lượng lợi nhuận (CLLN) thông qua mô hình dựa trên biến kế toán dồn tích mang lại hai lợi ích chính: CLLN có khả năng dự đoán dòng tiền tương lai tốt hơn và là yếu tố quan trọng trong việc đánh giá rủi ro vỡ nợ của doanh nghiệp, điều mà các chủ nợ thường xem xét trước khi ký kết hợp đồng tín dụng.
Để đo lường chất lượng báo cáo tài chính (CLBCTC), có hai phương pháp chính: đo lường theo đặc điểm chất lượng và đo lường theo chất lượng nội bộ (CLLN) Phương pháp đầu tiên có nhược điểm là kết quả đánh giá phụ thuộc vào quan điểm chủ quan của người đánh giá, dẫn đến việc không phản ánh đúng chất lượng thực tế của báo cáo tài chính Ngược lại, phương pháp dựa trên CLLN sử dụng dữ liệu từ báo cáo tài chính và báo cáo thường niên của công ty, giúp tăng độ tin cậy của dữ liệu Phương pháp này cũng hữu ích vì nó dựa trên quan điểm của người sử dụng báo cáo tài chính như nhà đầu tư và chủ nợ Để lượng hóa CLBCTC theo CLLN, các tác giả như Bauwhede (2015) và Choi & Pae (2011) thường áp dụng hai mô hình: mô hình biến kế toán dồn tích và mô hình giá trị thích hợp của thị trường kế toán.
1.1.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến CLBCTC doanh nghiệp
Việc nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến CLBCTC doanh nghiệp được nhiều tác giả lựa chọn thực hiện
Nghiên cứu của Houqe và cộng sự (2010) tập trung vào phương pháp nghiên cứu định lượng, với mẫu nghiên cứu gồm 648 quan sát từ các doanh nghiệp tại Bangladesh trong giai đoạn 2001.
Nghiên cứu năm 2006 chỉ ra rằng các nhân tố ảnh hưởng tích cực đến chất lượng báo cáo tài chính (CLBCTC) của doanh nghiệp bao gồm quyền sở hữu nhà nước, quyền sở hữu của nhà quản lý, quyền sở hữu bởi tổ chức, quyền sở hữu của gia đình, quy mô hội đồng quản trị và loại hình công ty kiểm toán.
Nghiên cứu của Klai và Omri (2011) nhằm kiểm định ảnh hưởng của cơ chế quản trị đến chất lượng báo cáo tài chính (CLBCTC) của các công ty niêm yết tại thị trường chứng khoán Tunis trong giai đoạn 1997-2007 Kết quả từ phương pháp nghiên cứu định lượng cho thấy, các yếu tố như quy mô ban giám đốc, tỷ lệ thành viên độc lập, tính kiêm nhiệm của CEO, và quyền sở hữu bởi tổ chức có ảnh hưởng tích cực đến CLBCTC Ngược lại, quy mô công ty, triển vọng phát triển, quyền sở hữu bởi nước ngoài, quyền sở hữu của các thành viên trong gia đình, và sự tập trung quyền sở hữu lại có tác động tiêu cực đến CLBCTC.
Chalaki và cộng sự (2012) đã tiến hành nghiên cứu để kiểm định ảnh hưởng của các đặc điểm quản trị công ty đến chất lượng báo cáo tài chính (CLBCTC) Sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng, dữ liệu được thu thập từ 136 công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Tehran trong giai đoạn 2003-2011 Kết quả cho thấy không có mối quan hệ rõ ràng giữa các thuộc tính quản trị doanh nghiệp như quy mô hội đồng quản trị, tính độc lập của hội đồng quản trị, sự tập trung quyền sở hữu và CLBCTC Hơn nữa, không có bằng chứng nào chứng minh mối liên hệ đáng kể giữa các biến kiểm soát như quy mô kiểm toán, quy mô doanh nghiệp và tuổi thọ công ty với CLBCTC.
Hassan (2013) đã nghiên cứu các đặc điểm quản lý ảnh hưởng đến chất lượng báo cáo tài chính (CLBCTC) của 32 công ty sản xuất niêm yết tại Nigeria trong giai đoạn 2007-2011 Nghiên cứu sử dụng mô hình của Dechow và Dichev (2002) để đo lường CLBCTC Kết quả cho thấy các yếu tố ảnh hưởng đến CLBCTC bao gồm đòn bẩy tài chính, tính độc lập của ban giám đốc, quy mô ban kiểm soát, tỷ lệ sở hữu của tổ chức, tính độc lập của ban kiểm soát, số cuộc họp của hội đồng quản trị, và sự tập trung quyền sở hữu.
1.1.3 Các nghiên cứu về sử dụng dịch vụ thuê ngoài kế toán ảnh hưởng đến CLBCTC doanh nghiệp
Nghiên cứu của Barrar và cộng sự (2002) trong bài viết “The efficiency of accounting service provision” trên tạp chí Business Process Management Journal đã phân tích hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp tại Anh và Ý thông qua phương pháp phân tích dữ liệu (DEA) Nghiên cứu so sánh hiệu quả giữa các doanh nghiệp thuê ngoài dịch vụ kế toán và những doanh nghiệp tự thực hiện công việc kế toán, đồng thời xem xét ảnh hưởng của quy mô và trình độ chuyên môn đến hiệu quả hoạt động Kết quả cho thấy việc thuê ngoài dịch vụ kế toán mang lại nhiều lợi thế cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV), giúp gia tăng hiệu quả hoạt động Hơn nữa, trình độ chuyên môn của kế toán viên nội bộ chưa đáp ứng đủ nhu cầu, do đó, việc thuê ngoài dịch vụ kế toán sẽ giúp DNNVV quản lý công tác kế toán hiệu quả hơn và tiết kiệm chi phí, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình cạnh tranh.
Henrik Hửglund và Dennis Sundvik (2016) đã nghiên cứu ảnh hưởng của việc thuê ngoài dịch vụ kế toán đến chất lượng báo cáo tài chính (CLBCTC) của các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) tại Phần Lan Nghiên cứu khảo sát 1386 DNNVV trong giai đoạn 2010-2013, cho thấy 78% DNNVV ở Phần Lan thuê ngoài dịch vụ kế toán CLBCTC được đo lường thông qua hành vi quản trị lợi nhuận theo mô hình dồn tích của Jones (1991) Kết quả cho thấy, thời gian thuê ngoài dịch vụ kế toán càng lâu thì chất lượng báo cáo tài chính càng được cải thiện Những phát hiện này phù hợp với các nghiên cứu trước đó, cho rằng các doanh nghiệp nhỏ thường thiếu nguồn lực và chuyên môn để chuẩn bị báo cáo tài chính chất lượng cao Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng các yếu tố như quy mô DNNVV, thời gian hoạt động, số lượng thành viên ban quản trị, tính độc lập của hội đồng quản trị, ngành kinh doanh, đòn bẩy và dòng tiền từ hoạt động kinh doanh đều ảnh hưởng đến CLBCTC của DNNVV sử dụng dịch vụ kế toán thuê ngoài.
Các nghiên cứu trong nước
1.2.1 Nghiên cứu về đo lường CLBCTC doanh nghiệp
Theo Nguyễn Thị Phương Hồng (2016), CLBCTC có thể được đánh giá thông qua các thang đo dựa trên các đặc điểm chất lượng thông tin do các tổ chức nghề nghiệp quy định, nhằm đánh giá mức độ hữu ích của thông tin tài chính và phi tài chính trong BCTC Phương pháp này có ưu điểm là đo lường chất lượng thông tin một cách trực tiếp, nhưng cũng tồn tại hạn chế do kết quả thu được có độ tin cậy không cao và phụ thuộc vào ý kiến chủ quan của người đánh giá Bên cạnh đó, việc xác định thang đo cho các đặc điểm chất lượng gặp khó khăn, dẫn đến việc chưa phản ánh đúng thực trạng chất lượng thông tin trên BCTC Ngoài ra, CLBCTC cũng được đo lường qua phân tích thông tin lợi nhuận từ dữ liệu có sẵn trên BCTC và báo cáo thường niên, phương pháp này được coi là đáng tin cậy Đo lường CLBCTC thông qua CLLN cũng rất hữu ích từ quan điểm của người sử dụng BCTC như nhà đầu tư, chủ nợ và các nhà soạn thảo chuẩn mực kế toán.
Ngô Thị Khánh Linh và Nguyễn Thị Mai Lê (2018) trong nghiên cứu “Điều chỉnh lợi nhuận: Góc nhìn tổng quan từ một số nghiên cứu” nhấn mạnh rằng độ tin cậy của lợi nhuận là chỉ tiêu quan trọng phản ánh chất lượng báo cáo tài chính (BCTC) dựa trên kế toán Do đó, việc nghiên cứu điều chỉnh lợi nhuận có ý nghĩa lớn đối với người sử dụng thông tin Tuy nhiên, việc thực hiện điều chỉnh lợi nhuận trong thời gian dài có thể dẫn đến giảm chất lượng và độ tin cậy của thông tin trong BCTC.
1.2.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến CLBCTC doanh nghiệp
Võ Văn Nhị và Trần Thị Thanh Hải (2013) trong nghiên cứu “Một số ý kiến về chất lượng báo cáo tài chính của doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” đã phân tích các đặc điểm của doanh nghiệp nhỏ và vừa, nhấn mạnh sự khác biệt về quy mô và quản lý so với doanh nghiệp lớn, từ đó ảnh hưởng đến thông tin trên báo cáo tài chính (BCTC) Các yếu tố tác động đến chất lượng BCTC bao gồm công tác tổ chức quản lý, nhân sự kế toán, khung pháp lý và nhu cầu thông tin Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng sự yếu kém trong kế toán và quản lý ở doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) đã ảnh hưởng lớn đến chất lượng BCTC Đặng Thị Kiều Hoa (2016) đã thực hiện nghiên cứu “Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng báo cáo tài chính của doanh nghiệp nhỏ và vừa – bằng chứng thực nghiệm tại TP.HCM”, sử dụng phần mềm SPSS 22.0 để xử lý dữ liệu và kiểm định các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng BCTC Kết quả cho thấy bốn yếu tố chính tác động đến chất lượng BCTC bao gồm quy định thuế, quy mô công ty, người lập BCTC và các quy định pháp lý về kế toán.
Nguyễn Thị Phương Hồng (2016) trong nghiên cứu “Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng BCTC của công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán - bằng chứng thực nghiệm tại Việt Nam” đã phân tích chất lượng báo cáo tài chính (CLBCTC) dựa trên cơ sở kế toán và thị trường Nghiên cứu sử dụng dữ liệu từ các BCTC đã được kiểm toán và khảo sát tác động của 5 nhóm nhân tố độc lập: cơ cấu sở hữu vốn, quản trị công ty, cơ cấu vốn, đặc điểm thị trường và hiệu quả công ty Kết quả cho thấy trong 23 nhân tố, chỉ có 17 nhân tố tác động đến CLBCTC, trong khi 6 nhân tố như quyền sở hữu nhà nước và quy mô công ty không ảnh hưởng Bên cạnh đó, CLBCTC của các công ty niêm yết tại Việt Nam hiện chưa cao và có nhiều khác biệt so với các quốc gia khác, từ đó mở ra cơ hội cải thiện cho các doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam.
1.2.3 Các nghiên cứu về sử dụng dịch vụ thuê ngoài kế toán ảnh hưởng đến CLBCTC doanh nghiệp
Nguyễn Thị Yến Trinh (2017) đã thực hiện nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định thuê ngoài dịch vụ kế toán của các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Thành phố Hồ Chí Minh Nghiên cứu này cung cấp cái nhìn sâu sắc về các yếu tố quyết định, giúp các doanh nghiệp hiểu rõ hơn về lợi ích và thách thức khi sử dụng dịch vụ kế toán bên ngoài.
Nghiên cứu về quyết định thuê ngoài dịch vụ kỹ thuật (DVKT) của các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) tại TP.HCM đã xác định 9 nhân tố ảnh hưởng chính Các yếu tố này bao gồm tần suất thực hiện công việc kế toán, tính chất đặc thù của công ty, sự phù hợp của giá phí dịch vụ, lợi ích từ việc thuê ngoài DVKT, định hướng thuê ngoài, mối quan hệ giữa hai bên, uy tín của công ty cung cấp DVKT và chất lượng dịch vụ chăm sóc khách hàng.
Mối quan hệ giữa CLBCTC và quyết định thuê ngoài dịch vụ kế toán là một yếu tố mới quan trọng BCTC, với vai trò là kết quả đầu ra của kế toán, khi được cung cấp kịp thời và chính xác từ bên cung cấp dịch vụ, sẽ giúp thông tin được trình bày một cách trung thực và dễ hiểu, từ đó nâng cao mức độ hài lòng của bên thuê.
Lê Nguyễn Bích Trâm (2017) đã thực hiện nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng thông tin trong báo cáo tài chính do công ty dịch vụ kế toán cung cấp cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa, tập trung vào khu vực TP Hồ Chí Minh Nghiên cứu này cung cấp cái nhìn sâu sắc về tầm quan trọng của chất lượng thông tin tài chính đối với sự phát triển của doanh nghiệp.
Nghiên cứu sử dụng phương pháp PPNC hỗn hợp, kết hợp giữa nghiên cứu định tính và định lượng, đã xác định 6 nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng thông tin trên báo cáo tài chính (BCTC) do công ty dịch vụ kế toán cung cấp cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại TP.HCM Các nhân tố này bao gồm hệ thống pháp lý, nhận thức của người quản lý, trình độ nhân viên kế toán, hoạt động kiểm tra giám sát, giá phí dịch vụ kế toán, và mối quan hệ giữa doanh nghiệp với công ty dịch vụ kế toán Dựa trên kết quả nghiên cứu, đề tài đưa ra các kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng thông tin kế toán trên BCTC, giúp các doanh nghiệp nhỏ và vừa tiết kiệm chi phí và tập trung vào hoạt động kinh doanh cốt lõi, từ đó tạo ra lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp.
Nghiên cứu của Lâm Nhật Vi (2018) về “Ảnh hưởng của các yếu tố thuê ngoài dịch vụ kế toán đến chất lượng báo cáo tài chính của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Thành phố Hồ Chí Minh” đã chỉ ra rằng có năm yếu tố chính của thuê ngoài dịch vụ kế toán ảnh hưởng đến chất lượng báo cáo tài chính (CLBCTC) Những yếu tố này bao gồm năng lực kế toán, tần số công việc, niềm tin của chủ sở hữu, đặc tính tài sản và thời gian thuê ngoài Tác giả cũng đã đề xuất các kiến nghị nhằm nâng cao CLBCTC cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa thông qua việc tăng cường các yếu tố liên quan đến thuê ngoài dịch vụ kế toán.
Nhận xét các nghiên cứu trước và xác định khe hổng nghiên cứu
Nghiên cứu về CLBCTC đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu cả ở trong và ngoài nước, với nhiều công trình được thực hiện Các tác giả nước ngoài chủ yếu tập trung vào việc phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến CLBCTC của doanh nghiệp Đặc biệt, nghiên cứu của Hürglund và Dennis Sundvik (2016) liên quan đến CLBCTC của các công ty thuê ngoài dịch vụ kế toán là một ví dụ tiêu biểu Tuy nhiên, mô hình nghiên cứu này vẫn chưa có bằng chứng thực nghiệm tại Việt Nam, do sự khác biệt về môi trường kinh doanh và pháp lý giữa Việt Nam và Phần Lan, khiến cho việc áp dụng kết quả nghiên cứu này vào các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam gặp khó khăn.
Tại Việt Nam, nhiều nghiên cứu đã được thực hiện về chất lượng báo cáo tài chính (CLBCTC) và các yếu tố ảnh hưởng đến CLBCTC của doanh nghiệp, chủ yếu tập trung vào báo cáo tài chính của các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Một số nghiên cứu cũng xem xét doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV), nhưng chưa có nghiên cứu nào phân tích việc các DNNVV sử dụng dịch vụ kế toán thuê ngoài để lập và trình bày báo cáo tài chính Hơn nữa, chưa có nghiên cứu nào đo lường CLBCTC thông qua các chỉ số chất lượng lãnh đạo (CLLN), mà chủ yếu dựa vào đặc điểm chất lượng thông tin Phương pháp này có hạn chế là độ tin cậy của kết quả thu thập có thể không cao và phụ thuộc vào ý kiến chủ quan của người đánh giá, gây khó khăn trong việc xác định thang đo cho các đặc điểm chất lượng.
Theo thống kê năm 2018, doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số doanh nghiệp tại Việt Nam, nhưng do quy mô nhỏ, họ gặp nhiều hạn chế về tài chính và nguồn nhân lực Một trong những vấn đề chính là việc DNNVV không đủ nguồn lực để thiết lập bộ máy kế toán nội bộ và lập báo cáo tài chính (BCTC) cho mình Do đó, nhiều doanh nghiệp phải thuê ngoài dịch vụ kế toán từ các nhà cung cấp bên ngoài Thực tế cho thấy, số lượng DNNVV sử dụng dịch vụ kế toán để lập và cung cấp BCTC tại Việt Nam rất lớn BCTC của các doanh nghiệp này không chỉ được sử dụng bởi cơ quan thuế mà còn bởi các tổ chức tín dụng và nhà cung cấp, do đó, chất lượng BCTC đóng vai trò quan trọng trong việc ra quyết định của các bên liên quan và ảnh hưởng đến hiệu quả của các quyết định đó.
Các phân tích trên chỉ ra rõ ràng sự thiếu hụt trong nghiên cứu hiện tại, đồng thời nhấn mạnh sự cần thiết của việc thực hiện nghiên cứu về "Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng báo cáo tài chính của các doanh nghiệp nhỏ và vừa sử dụng dịch vụ kế toán thuê ngoài tại Thành phố Hồ Chí Minh."
Chương này tổng quan về nghiên cứu liên quan đến chất lượng báo cáo tài chính (CLBCTC) của doanh nghiệp nhỏ và vừa tại TP.HCM, dựa trên các nghiên cứu toàn cầu và ở Việt Nam Mặc dù nhiều tác giả đã nghiên cứu CLBCTC, nhưng chưa có ai khảo sát vấn đề này đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa sử dụng dịch vụ kế toán thuê ngoài tại TP.HCM Đề tài “Các nhân tố ảnh hưởng đến CLBCTC của các doanh nghiệp nhỏ và vừa có sử dụng dịch vụ kế toán thuê ngoài” là một vấn đề mới mẻ, kết hợp phương pháp nghiên cứu định tính và định lượng để xác định và đo lường các nhân tố tác động đến CLBCTC Qua đó, nghiên cứu sẽ đề xuất các hàm ý thực tiễn nhằm nâng cao chất lượng báo cáo tài chính cho các doanh nghiệp này.
CƠ SỞ LÝ THUYẾT
Cơ sở lý thuyết về doanh nghiệp nhỏ và vừa
2.1.1 Về doanh nghiệp nhỏ và vừa
2.1.1.1 Khái niệm doanh nghiệp nhỏ và vừa
Theo tiêu chí của Nhóm Ngân hàng Thế giới, doanh nghiệp siêu nhỏ có dưới 10 lao động, doanh nghiệp nhỏ từ 10 đến dưới 50 lao động, và doanh nghiệp vừa từ 50 đến 300 lao động Tại Việt Nam, theo thông tư số 16/2013/TT-BTC ngày 8/2/2013 của Bộ Tài Chính, doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) bao gồm cả chi nhánh và hợp tác xã, được xác định là những doanh nghiệp có quy mô sử dụng dưới 200 lao động, làm việc toàn thời gian trong năm và có doanh thu hàng năm không quá 20 tỷ đồng.
Theo Nghị định 39/2018/NĐ-CP, doanh nghiệp nhỏ và vừa được phân loại thành ba nhóm: doanh nghiệp siêu nhỏ, doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp vừa Tiêu chí xác định các loại hình doanh nghiệp này được quy định chi tiết nhằm hỗ trợ phát triển doanh nghiệp tại Việt Nam.
- Thứ nhất doanh nghiệp siêu nhỏ gồm:
Doanh nghiệp siêu nhỏ trong nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, công nghiệp và xây dựng có đặc điểm là quy mô lao động không quá 10 người tham gia bảo hiểm xã hội, với tổng doanh thu hoặc tổng nguồn vốn hàng năm không vượt quá 3 tỷ đồng.
Doanh nghiệp siêu nhỏ trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ được định nghĩa là những doanh nghiệp có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội trung bình hàng năm không vượt quá 10 người Đồng thời, tổng doanh thu hàng năm của doanh nghiệp này cũng không quá 10 tỷ đồng, hoặc tổng nguồn vốn không vượt quá 3 tỷ đồng.
- Thứ hai doanh nghiệp nhỏ:
Doanh nghiệp nhỏ trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, công nghiệp và xây dựng có tối đa 100 lao động tham gia bảo hiểm xã hội hàng năm, với tổng doanh thu không vượt quá 50 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn không quá 20 tỷ đồng, nhưng không được coi là doanh nghiệp siêu nhỏ.
Doanh nghiệp nhỏ trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ được định nghĩa là những doanh nghiệp có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân hàng năm không vượt quá 50 người Tổng doanh thu hàng năm của doanh nghiệp này không quá 100 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn không vượt quá 50 tỷ đồng, nhưng cần lưu ý rằng chúng không được xếp vào loại doanh nghiệp siêu nhỏ.
- Thứ ba doanh nghiệp vừa:
Doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản và công nghiệp, xây dựng có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân hàng năm không vượt quá 200 người, tổng doanh thu hàng năm không quá 200 tỷ đồng, hoặc tổng nguồn vốn không quá 100 tỷ đồng, được phân loại không phải là doanh nghiệp nhỏ hay siêu nhỏ.
Doanh nghiệp vừa trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ được xác định là có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm không quá 100 người, tổng doanh thu hàng năm không vượt quá 300 tỷ đồng, hoặc tổng nguồn vốn không quá 100 tỷ đồng Tuy nhiên, doanh nghiệp này không thuộc loại doanh nghiệp siêu nhỏ hay doanh nghiệp nhỏ.
Phân loại doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) không chỉ nhằm triển khai các chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp mà còn để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực này Việc phân loại DNNVV thể hiện sự coi trọng vai trò và vị trí quan trọng của chúng trong nền kinh tế quốc dân.
Trong nghiên cứu này, tác giả xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa là những doanh nghiệp có tổng nguồn vốn không vượt quá 100 tỷ đồng Cụ thể, đối với doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, và công nghiệp, xây dựng, số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân hàng năm không quá 200 người Đối với doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ, số lao động tham gia bảo hiểm xã hội không được vượt quá 100 người.
2.1.1.2 Đặc điểm hoạt động và quản lý của DNNVV ở Việt Nam
Trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV), doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ chiếm khoảng 90% tổng số, theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư Các hình thức sở hữu đa dạng bao gồm sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân và sở hữu hỗn hợp Loại hình doanh nghiệp chủ yếu là doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH một thành viên và công ty TNHH hai thành viên trở lên DNNVV hoạt động trong nhiều ngành nghề, nhưng chủ yếu tập trung vào lĩnh vực thương mại và dịch vụ, trong khi lĩnh vực sản xuất cũng có sự hiện diện nhất định.
DN nhỏ và siêu nhỏ vẫn hoạt động theo phương thức thủ công, bán thủ công hoặc gia công
Nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) hiện nay gặp khó khăn về tài chính, công nghệ lạc hậu và sử dụng lao động thủ công, dẫn đến sức cạnh tranh yếu và sản phẩm chủ yếu tiêu thụ trong thị trường nội địa Trình độ quản lý thấp và thường mang tính chất gia đình, cùng với việc hoạt động độc lập và hạn chế liên doanh liên kết, đã khiến hiệu quả kinh doanh của họ không cao và tuổi thọ doanh nghiệp thường ngắn Tuy nhiên, một số DNNVV trong lĩnh vực chế biến nông lâm thủy sản lại có sản phẩm xuất khẩu với giá trị kinh tế cao, tạo ra cơ hội phát triển.
2.1.1.3 Các khó khăn và thách thức đối với DNNVV ở Việt Nam hiện nay
DNNVV ở Việt Nam vẫn gặp phải sự phân biệt đối xử, mặc dù đã có những nỗ lực từ cơ quan Nhà nước So với các thành phần kinh tế khác như doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp ngoài quốc doanh và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, DNNVV chưa được hưởng sự công bằng trong các lĩnh vực như đất đai, mặt bằng sản xuất và vay vốn tín dụng.
Nền kinh tế Việt Nam gia nhập thị trường toàn cầu mang lại cơ hội lớn cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV), nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức, đặc biệt là sự cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh Hầu hết DNNVV tại Việt Nam có nguồn gốc từ mô hình kinh doanh gia đình, dẫn đến việc các nhà quản trị thiếu kinh nghiệm trong quản lý Điều này khiến cho hoạt động kinh doanh thường thiếu tầm nhìn và chiến lược dài hạn, ảnh hưởng đến tính bền vững Hiện tại, các DNNVV chủ yếu hoạt động dựa trên kinh nghiệm của chủ sở hữu, tạo ra rào cản lớn trong quá trình phát triển bền vững của họ.
Hoạt động sản xuất kinh doanh của DNNVV tại Việt Nam chịu ảnh hưởng từ nhiều yếu tố như tính bất ổn của nền kinh tế, lạm phát, sự thay đổi lãi suất và tỷ giá hối đoái Ngoài ra, thuế, chính sách hỗ trợ của Nhà nước, đối thủ cạnh tranh, thị phần và nhà cung cấp cũng đóng vai trò quan trọng trong việc tác động đến hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp.
2.1.2 Cơ sở lý thuyết về CLBCTC của doanh nghiệp
Các lý thuyết nền liên quan
2.2.1 Lý thuyết trao đổi xã hội
Lý thuyết của George Homans, được giới thiệu vào năm 1958, nhấn mạnh rằng mối quan hệ giữa các bên sẽ phát triển theo thời gian, dẫn đến sự gia tăng tin cậy, trung thành và lòng tin lẫn nhau.
Việc thuê ngoài dịch vụ kế toán thể hiện sự trao đổi xã hội giữa doanh nghiệp thuê và doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Do lo ngại về việc mất mát thông tin và khả năng thực hiện không đầy đủ các cam kết, các công ty cung cấp dịch vụ kế toán cần cam kết bảo mật thông tin và thực hiện nghĩa vụ của mình Theo lý thuyết trao đổi xã hội, sự tin tưởng lẫn nhau giữa hai bên là rất quan trọng để tránh xung đột, từ đó tăng cường khả năng trao đổi thông tin Khi có sự tin tưởng, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ kế toán có thể thu thập dữ liệu chất lượng, hiểu rõ môi trường hoạt động và các hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp thuê, giúp họ lập và trình bày các báo cáo tài chính chất lượng hơn.
2.2.2 Lý thuyết mối quan hệ (Relationship Theory)
Theo Dwyer et al (1987), mối quan hệ bền vững giữa các doanh nghiệp được xây dựng dựa trên những trải nghiệm trong quá khứ Khi các chủ sở hữu doanh nghiệp hướng tới sự hợp tác lâu dài, họ sẽ có động lực để tìm hiểu và khai thác lẫn nhau, cùng nhau làm việc nhằm đạt được lợi ích chung.
Nghiên cứu của Myers, Myers và Omer (2003) chỉ ra rằng mối quan hệ lâu dài giữa doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) với đơn vị cung cấp dịch vụ kế toán có thể giúp nhân viên kế toán phát triển năng lực chuyên môn Sự gắn bó này không chỉ giúp họ hiểu rõ hơn về đặc thù hoạt động kinh doanh của DNNVV mà còn ảnh hưởng đến chất lượng thông tin kế toán trong báo cáo tài chính, bao gồm doanh thu, chi phí và thuế.
Lý thuyết này được áp dụng để nghiên cứu tác động của thời gian thuê ngoài dịch vụ kế toán đến chất lượng báo cáo tài chính của các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Các nhân tố ảnh hưởng đến CLBCTC của các doanh nghiệp có sử dụng
2.3.1 Thời gian thuê ngoài DVKT của doanh nghiệp
Nghiên cứu của Myers, Myers và Omer (2003) chỉ ra rằng mối quan hệ lâu dài giữa doanh nghiệp và đơn vị cung cấp dịch vụ kế toán sẽ nâng cao chất lượng báo cáo tài chính mà công ty dịch vụ kế toán cung cấp Thời gian thuê ngoài dịch vụ kế toán được xác định bằng số năm sử dụng dịch vụ, cho thấy rằng sự hợp tác lâu dài giúp nhân viên công ty dịch vụ kế toán nắm rõ hơn về nghiệp vụ tài chính, quy định pháp lý và đặc thù môi trường hoạt động của doanh nghiệp Điều này không chỉ cải thiện chất lượng thông tin kế toán và báo cáo tài chính mà còn làm hài lòng khách hàng, từ đó kéo dài thời gian hợp đồng và sự tiếp tục sử dụng dịch vụ.
Nghiên cứu của Henrik Hửglund và Dennis Sundvik (2016) cho thấy rằng các công ty nhỏ tư nhân ở Phần Lan thuê ngoài các nhiệm vụ kế toán từ nhà cung cấp dịch vụ bên ngoài có chất lượng báo cáo tài chính cao hơn so với những công ty thực hiện kế toán nội bộ Điều này được giải thích bởi vai trò giám sát của kế toán bên ngoài, giúp giảm thiểu khả năng xảy ra các hành vi làm giảm chất lượng báo cáo tài chính Ngoài ra, kế toán viên bên ngoài thường có trình độ chuyên môn và kinh nghiệm cao hơn so với nhân viên kế toán nội bộ Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng chất lượng báo cáo tài chính tăng lên theo thời gian thuê ngoài dịch vụ kế toán, với những hợp đồng dài hạn mang lại lợi ích rõ rệt hơn cho doanh nghiệp.
Nghiên cứu của Henrik Hửglund và Dennis Sundvik (2016) chỉ ra rằng quy mô doanh nghiệp có ảnh hưởng đến chất lượng báo cáo tài chính (CLBCTC), với các công ty lớn thường có CLBCTC cao hơn nhờ vào việc sở hữu nhiều nguồn lực và mong muốn xây dựng uy tín với các bên liên quan Trong nghiên cứu của họ, tác giả sử dụng logarit tự nhiên của tổng tài sản (SIZE) làm biến kiểm soát để phân tích CLBCTC của các doanh nghiệp thuê ngoài chức năng kế toán, cho thấy rằng quy mô công ty có thể đóng vai trò thay thế cho nhiều biến khác không được đề cập trong nghiên cứu.
& Subramanyam, 1998) Trong khi theo Roodposhti và Chashmi (2011) quy mô công ty lớn thì QTLN nhiều hơn vì vậy CLBCTC thấp hơn hay Klai, N., & Omri,
Nghiên cứu của A (2011) chỉ ra mối quan hệ tác động ngược giữa một yếu tố nhất định và CLBCTC Ngược lại, Chalaki và cộng sự (2012) cho thấy quy mô công ty không ảnh hưởng đến CLBCTC.
Võ Văn Nhị và Trần Thị Thanh Hải (2013) đã phân tích những đặc điểm của doanh nghiệp nhỏ và vừa, nhấn mạnh sự khác biệt về quy mô so với doanh nghiệp lớn, ảnh hưởng đến chất lượng thông tin trên báo cáo tài chính (BCTC) Nghiên cứu của Đặng Thị Kiều Hoa (2016) cho thấy rằng yếu tố quy mô tác động tích cực đến chất lượng BCTC, trong khi đó, các nghiên cứu của Nguyễn Thị Phương Hồng (2016) và Nguyễn Hồng Thảo cũng hỗ trợ quan điểm này.
Nghiên cứu của Phạm Quốc Thuần (2016) cho thấy sự khác biệt về quy mô doanh nghiệp ảnh hưởng đến mức độ tác động của các yếu tố đến chất lượng thông tin báo cáo tài chính (BCTC) Để đánh giá quy mô doanh nghiệp, nhiều nghiên cứu thường sử dụng tổng tài sản hoặc logarit của tổng tài sản làm chỉ số đo lường.
2.3.3 Tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản
Nghiên cứu của Dechow, Sloan, & Sweeney (1995) và Kothari et al (2005) cho thấy rằng hiệu suất công ty, được đo bằng tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản (ROA), có ảnh hưởng đến chất lượng báo cáo tài chính (BCTC) Moradi et al (2012) và Shu et al (2014) khẳng định rằng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp tính bằng ROA có mối quan hệ tích cực với hành vi quản trị lợi nhuận, từ đó làm giảm chất lượng BCTC Theo Ball và Shivakumar (2005), các mục tiêu BCTC của doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) bị ảnh hưởng lớn bởi thuế, trong khi thu nhập chịu thuế chủ yếu dựa vào lợi nhuận kế toán, dẫn đến việc DNNVV có thể giảm thu nhập chịu thuế bằng cách quản trị để giảm lợi nhuận Nghiên cứu của Nguyễn Thị Phương Hồng (2016) cũng cho thấy rằng công ty có lợi nhuận càng cao thì chất lượng BCTC càng thấp.
2.3.4 Dòng tiền của doanh nghiệp
Về khái niệm dòng tiền của doanh nghiệp, theo Nguyễn Thị Đoan Trang
Dòng tiền, trong bối cảnh kế toán năm 2017, được định nghĩa là những thay đổi trong tài khoản tiền mặt trong một khoảng thời gian nhất định Theo cách hiểu hẹp trong phân tích đầu tư, dòng tiền bao gồm lợi nhuận hoặc thu nhập ròng, cộng với số tiền được trích vào quỹ khấu hao.
Nghiên cứu cho thấy rằng các khoản tích lũy bất thường, được ước tính qua mô hình Jones, có mối tương quan với dòng tiền (Jeter & Shivakumar, 1999) Theo Henrik Hửglund và Dennis Sundvik (2016), dòng tiền từ hoạt động kinh doanh ảnh hưởng đến biến phụ thuộc là biến kế toán dồn tích tự định Trong khi đó, Dechow (1994) và Sloan (1996) đã chỉ ra rằng khoản dồn tích và lưu chuyển tiền tệ có mối quan hệ nghịch chiều.
Nguyễn Thị Đoan Trang (2017) trong bài viết “Vai trò của báo cáo lưu chuyển tiền tệ trong phân tích năng lực tài chính của doanh nghiệp” nhấn mạnh rằng việc bỏ qua phân tích lưu chuyển tiền tệ có thể khiến các nhà đầu tư và đối tượng sử dụng thông tin báo cáo tài chính dễ bị lừa bởi các báo cáo lợi nhuận không phản ánh đúng tình hình tài chính thực tế của doanh nghiệp.
2.3.5 Đòn bẩy tài chính Đòn bẩy tài chính đƣợc xác định là tỷ lệ giữa tổng nợ trên tổng tài sản của doanh nghiệp Các công ty có đòn bẩy tài chính cao hầu nhƣ đều vi phạm các giao ƣớc nợ, điều này có thể là động lực họ để thực hiện hành vi QTLN, từ đó làm giảm CLBCTC của đơn vị (DeFond và Jiambalvo, 1994; Sweeney, 1994) Theo Klai, N.,
Nghiên cứu của Omri và Hassan chỉ ra rằng các công ty có đòn bẩy tài chính cao hơn thường có mối liên hệ tích cực với chất lượng báo cáo tài chính (CLBCTC) và chất lượng lợi nhuận (CLLN), cho thấy rằng những công ty này có xu hướng cung cấp báo cáo tài chính kém chất lượng để tận dụng lợi ích từ các hợp đồng vay Ngược lại, Waweru và Riro phát hiện rằng tỷ lệ nợ cao có liên quan đến mức độ QTLN thấp Tuy nhiên, nghiên cứu của Liu lại cho thấy rằng đòn bẩy tài chính không có tác động đến CLBCTC.
Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thị Phương Hồng (2016) cho biết công ty có đòn bẩy tài chính càng cao thì CLBCTC càng thấp
Trong nghiên cứu về chất lượng báo cáo tài chính, tuổi công ty thường được xác định bằng số năm từ khi công ty niêm yết, thay vì từ khi thành lập Nhiều tác giả đã chỉ ra rằng các công ty có tuổi đời lâu hơn thường ổn định hơn và có độ biến động hoạt động thấp hơn, dẫn đến mức độ tích lũy bất thường thấp hơn (Hribar & Nichols, 2007) Ngoài ra, Xie, Davidson và DaDalt (2003) cho rằng doanh nghiệp có tuổi lớn hơn có mối liên hệ với mức chất lượng báo cáo tài chính thấp hơn Ngược lại, các nghiên cứu của Henrik Hửglund và Dennis Sundvik (2016) cùng Liu (2012) cho thấy rằng các công ty có thời gian hoạt động dài hơn lại có chất lượng báo cáo tài chính cao hơn Tuy nhiên, nghiên cứu của Chalaki và cộng sự (2012) lại cho thấy thời gian hoạt động không ảnh hưởng đến chất lượng báo cáo tài chính.
Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thị Phương Hồng (2016) cho thấy nhân tố thời gian hoạt động không có ảnh hưởng đến CLBCTC.
Mô hình nghiên cứu đề xuất
Tại Việt Nam, đặc biệt là TP.HCM, doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) chủ yếu là doanh nghiệp tư nhân và công ty trách nhiệm hữu hạn, do đó không có hội đồng quản trị và người sở hữu thường kiêm nhiệm chức vụ CEO Theo Điều 37 của Luật Kiểm toán độc lập và Điều 15 của Nghị định số 17/2012/NĐ-CP, phần lớn DNNVV không bắt buộc phải kiểm toán, dẫn đến việc họ thường không thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính Ngoài ra, với nguồn lực hạn chế, các DNNVV chủ yếu tập trung vào các ngành thương mại và sản xuất hàng tiêu dùng, trong khi ít tham gia vào các ngành khai thác hoặc công nghiệp nặng.
Dựa trên các phân tích và nghiên cứu trước đây, đặc biệt là nghiên cứu của Henrik Hửglund và Dennis Sundvik (2016), tác giả đề xuất mô hình nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng báo cáo tài chính của doanh nghiệp nhỏ và vừa sử dụng dịch vụ kế toán thuê ngoài tại TP.HCM Các yếu tố này bao gồm thời gian thuê dịch vụ kế toán, quy mô doanh nghiệp, tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản, dòng tiền từ hoạt động kinh doanh, đòn bẩy tài chính và tuổi thọ của công ty Mô hình nghiên cứu được trình bày như sau:
Hình 2.1: Mô hình nghiên cứu đề xuất
Thời gian thuê ngoài dịch vụ kế toán của doanh nghiệp Quy mô doanh nghiệp
Tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản
Dòng tiền từ HĐKD của doanh nghiệp Đòn bẩy tài chính
Chất lƣợng báo cáo tài chính
Trong chương 2, tác giả trình bày cơ sở lý thuyết liên quan đến doanh nghiệp nhỏ và vừa, CLBCTC, và việc thuê ngoài dịch vụ kế toán Chương này cũng đề cập đến các lý thuyết nền như lý thuyết trao đổi xã hội và lý thuyết mối quan hệ Dựa trên các lý thuyết và nghiên cứu trước, tác giả đề xuất mô hình nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng báo cáo tài chính của doanh nghiệp nhỏ và vừa sử dụng dịch vụ kế toán thuê ngoài tại TP.HCM, làm nền tảng cho các chương tiếp theo.