ĐỐI TƯỢNG NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là phụ nữ trong các hộ gia đình trên địa bàn xã Chiềng Hoa – huyện Mường La – tỉnh Sơn La
Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung: Đề tài nghiên cứu về vai trò của phụ nữ trong phát triển kinh tế hộ
- Phạm vi về thời gian: Thời gian nghiên cứu được khai triển từ ngày 20/02/2019 đến ngày 20/5/2019
- Phạm vi về không gian: Đề tài được nghiên cứu trên địa bàn xã Chiềng Hoa – huyện Mường La – tỉnh Sơn La.
Nội dung nghiên cứu
- Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội tại địa bàn xã Chiềng Hoa – huyện Mường La – tỉnh Sơn La Chiềng Hoa
Phụ nữ đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế hộ gia đình tại xã Chiềng Hoa, nhưng họ cũng gặp nhiều khó khăn và trở ngại trong việc phát huy tiềm năng này Những thách thức như thiếu nguồn lực, hạn chế về kiến thức và kỹ năng, cùng với định kiến xã hội đã cản trở sự tham gia tích cực của phụ nữ trong các hoạt động kinh tế Để nâng cao vai trò của họ, cần có các biện pháp hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi, giúp phụ nữ phát triển năng lực và khẳng định vị thế của mình trong nền kinh tế hộ gia đình.
Để phát huy vai trò của phụ nữ xã Chiềng Hoa, huyện Mường La, tỉnh Sơn La trong phát triển kinh tế hộ gia đình, cần thực hiện một số giải pháp chủ yếu như: nâng cao nhận thức và năng lực cho phụ nữ thông qua các chương trình đào tạo nghề; khuyến khích phụ nữ tham gia vào các hoạt động sản xuất kinh doanh và hợp tác xã; tạo điều kiện tiếp cận nguồn vốn vay ưu đãi; và xây dựng mạng lưới hỗ trợ, kết nối giữa các phụ nữ trong cộng đồng Những biện pháp này không chỉ giúp cải thiện thu nhập cho hộ gia đình mà còn góp phần nâng cao vị thế của phụ nữ trong xã hội.
Phương pháp nghiên cứu
3.4.1 Phương pháp chọn mẫu nghiên cứu
* Chọn địa điểm nghiên cứu
Địa điểm nghiên cứu được lựa chọn cần phản ánh đầy đủ các điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, văn hóa và môi trường, đặc biệt là cộng đồng người dân tộc Thái Mục tiêu là làm rõ vai trò của phụ nữ dân tộc Thái trong việc phát triển kinh tế hộ gia đình Tôi đã chọn ba bản đại diện cho nghiên cứu: bản Pia, Nà Cưa và Huổi Lay.
Số lượng mẫu lựa chọn nghiên cứu được xác định theo công thức của Slowin
(1960), độ tin cậy 90%, sai số 10%: n = N
(1+N.e 2 ) Trong đó: n là cỡ mẫu e là sai số cho phép
N là tổng số hộ trong khu vực nghiên cứu
Sau khi xác định vùng nghiên cứu, chúng tôi đã thực hiện việc chọn ngẫu nhiên 60 hộ gia đình từ danh sách có sẵn, đảm bảo đại diện cho ba nhóm thu nhập: khá, trung bình khá và nghèo Kết quả thu được như sau:
+ Hộ trung bình khá 30 hộ
Sau khi xác định số lượng mẫu và địa điểm điều tra, bước tiếp theo là thiết lập phiếu điều tra để thu thập thông tin về tình hình sản xuất và kinh doanh của các hộ được khảo sát.
Phiếu điều tra xây dựng trước sẽ được sử dụng để thu thập thông tin định tính và định lượng về tình hình của hộ, từ đó xác định các vấn đề liên quan đến sản xuất và nguyên nhân nghèo đói của hộ.
3.4.2 Phương pháp thu thập số liệu
Thu thập thông tin thứ cấp là những thông tin có sẵn, được tổng hợp từ trước và đã được công bố
Số liệu trong bài viết được thu thập từ các thống kê và báo cáo tổng kết của UBND cùng với báo cáo tổng kết các hoạt động của Hội Liên Hiệp Phụ Nữ xã Chiềng Hoa.
- Một số sách, báo, công trình nghiên cứu có liên quan đến vấn đề về vai trò phụ nữ trong phát triển kinh tế hộ gia đình
* Phương pháp thu thập: Qua việc ghi chép, thống kê các dữ liệu cần thiết cho đề tài với số chỉ tiêu được chuẩn bị sẵn
* Nguồn số liệu: Trên cơ sở các mẫu điều tra 60 hộ đã chọn, thu thập thông tin bằng cách tiến hành phỏng vấn trực tiếp
Thu thập thông tin sơ cấp là quá trình thu thập dữ liệu trực tiếp thông qua các cuộc điều tra và phỏng vấn cán bộ, người lao động Việc này giúp xác định nguyên nhân của những vấn đề tồn tại và các biện pháp ứng phó của địa phương, từ đó cho phép phân tích sâu sắc và đưa ra các kiến nghị cũng như biện pháp kịp thời.
* Phương pháp phỏng vấn vấn trực tiếp thông qua bảng câu hỏi:
Thu thập các số liệu bằng hệ thống các câu hỏi đã được soạn thảo trước
- Câu hỏi được soạn thảo bao gồm các câu hỏi đóng và câu hỏi mở
- Nội dung các câu hỏi phục vụ cho đề tài nghiên cứu được thiết kế theo các nhóm thông tin sau:
1 Nhóm thông tin chung về hộ gia đình
2 Nhóm thông tin về ngành nghề phân loại hộ và vốn vay của h ộ
3 Nhóm thông tin về vai trò phụ nữ trong hoạt động sản xuất
4 Nhóm thông tin về vai trò phụ nữ trong hoạt động cộng đồng
5 Nhóm thông tin về tiếp nguồn tiếp cận thông tin của phụ nữ
6 Nhóm thông tin về vai trò phụ nữ trong hoạt động khác: Tái sản xuất, khinh doanh hàng hóa, dịch vụ
7 Nhóm thông tin về một số ý kiến đóng góp nhằm nâng cao vị thế và vai trò của phụ nữ
3.4.3 Phương pháp tổng hợp và phân tích số liệu
3.4.3.1 Phương pháp xử lý số liệu
Dựa vào số liệu đã thu thập, tiến hành tổng hợp và phân tích, đánh giá vai trò của phụ nữ trong phát triển kinh tế hộ gia đình
Các số liệu định lượng được tổng hợp trên phần Exel
3.4.3.2 Phương pháp thông kê so sánh
Bài viết so sánh các số liệu qua các năm và giữa các nhóm hộ giàu, khá, trung bình và nghèo, nhằm làm rõ sự khác biệt trong vai trò của người phụ nữ theo thời gian và trong từng nhóm hộ Qua đó, chúng ta có thể đưa ra những nhận xét và đánh giá về thực trạng này.
DỰ KIẾN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Đặc điểm địa bàn nghiên cứu
Xã Chiềng Hoa, thuộc huyện Mường La, nằm cách trung tâm huyện 29,61 km và có điều kiện giao thông khó khăn Dân cư tại đây sống thưa thớt, trải dài dọc theo hai bên bờ Sông Đà Xã giáp với xã Chiềng Công và Chiềng Ân ở phía Đông, xã Pắc Ngà huyện Bắc Yên ở phía Nam, xã Mường Chùm ở phía Tây, và xã Tạ Bú, Chiềng San ở phía Bắc.
Xã có tổng diện tích tự nhiên là 7.091,55 ha, với 1.536 hộ và 7.233 nhân khẩu, trong đó có 3.831 nam và 3.403 nữ Tại đây, có 4.013 lao động và 21 bản, với mật độ dân số bình quân đạt 102 người/km² Hai dân tộc chủ yếu sinh sống tại xã là dân tộc Thái và dân tộc Mông.
Xã Chiềng Hoa có địa hình phức tạp, nằm dọc hai bên bờ Sông Đà và bị chia cắt bởi nhiều khe suối lớn nhỏ Khu vực này chủ yếu là các dãy núi cao với độ dốc tương đối lớn, đất bạc màu và tầng canh tác mỏng, có độ cao trung bình khoảng 700m so với mực nước biển.
Xã Chiềng Hoa có khí hậu nhiệt đới gió mùa, với mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 9, tập trung chủ yếu vào các tháng 6, 7 và 8 Trong khi đó, mùa khô kéo dài từ tháng 10 đến tháng 4 năm sau, thường gặp gió tây khô nóng, dẫn đến tình trạng thiếu nước nghiêm trọng trong mùa này.
+ Lượng mưa trung bình 1.500- 1.800 mm/năm
+ Lượng bốc hơi nước trung bình từ 750- 800 mm/năm Tổng số giờ năng bình quân 1.825 giờ/năm
Xã Chiềng Hoa có nguồn nước chính phục vụ cho đời sống, sinh hoạt và sản xuất Dân cư nơi đây sống thưa thớt, phân bố dọc theo hai bên bờ Sông Đà Phía Đông giáp xã Chiềng Công và Chiềng Ân, phía Nam giáp xã Pắc Ngà huyện Bắc Yên, phía Tây giáp xã Mường Chùm, và phía Bắc giáp xã Tạ Bú, Chiềng San.
Bảng 4.1: Hiện trạng sử dụng đất năm 2018
STT Chỉ tiêu Diện tích
Tổng diện tích đất tự nhiên 7091,55 100
1.1 Đất sản xuất nông nghiệp 4360,31 61,486
1.1.1 Đất trồng cây hàng năm 4021,01 56,701
1.1.1.2 Đất trồng cây hàng năm khác 3687,7 52,001
1.1.2 Đất trồng cây lâu năm 339,3 4,785
1.3 Đất nuôi trồng thủy sản 35,12 0,495
2 Nhóm đất phi nông nghiệp 548,89 7,74
2.2.1 Đất xây dựng trụ sở cơ quan 0,02 0
2.2.2 Đất xây dụng công trình sự nghiệp 5,45 0,077
2.2.3 Đất sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp 0,07 0,001
2.2.4 Đất sử dụng vào mục đích công cộng 96,74 1,364
2.3 Đất nghĩa trang, nghĩa địa, nhà tang lễ, hỏa táng 16,12 0,227
2.4 Đất sông, ngòi, kênh, rạch,suối 368,42 5,195
3 Nhóm đất chưa sử dụng 333,83 4,707
3.1 Đất đồi núi chưa sử dụng 333,83 4,707
(Nguồn: Ban địa chính xã Chiềng Hoa, 2018)
Chiềng Hoa có tổng diện tích tự nhiên là 7.091,55 ha, với hai loại đất chính Nhóm đất mùn đỏ vàng trên núi có tầng đất dày từ 0,6 đến 1,2m, với thành phần cơ giới trung bình và nhẹ Mặc dù đất có hàm lượng mùn và đạm ở tầng mặt khá nghèo lân, nhưng lại giàu kali trao đổi Khu vực có độ dốc lớn thích hợp cho việc trồng cây lâm nghiệp và tạo rừng đầu nguồn, trong khi những nơi có địa hình thoải hoặc lượn sóng phù hợp cho việc trồng cây ăn quả, rau cỏ ôn đới và các cây đặc sản như quế, hồi.
Nhóm đất đỏ vàng có tầng đất dày trên 1,5m, với thành phần cơ giới trung bình và nặng, có kết cấu cục, hạt, và lớp đất mặt tơi xốp Mặc dù hàm lượng mùn và đạm tổng số trung bình, nhưng các chất dinh dưỡng như lân và kali lại nghèo Đây là loại đất chiếm diện tích lớn nhất và có tính chất tốt trong các loại đất đồi núi, được sử dụng hiệu quả trong sản xuất nông lâm nghiệp, thích hợp cho cây cao su, sở, cà phê, cũng như các cây nông sản như ngô, lạc, sắn, và lúa nương Các khu vực bị xói mòn nên trồng cây lâm nghiệp Ngoài đất đỏ vàng, xã còn có đất mầu nâu vàng trên phù sa cổ và đất feralít biến đổi do trồng lúa nước, nhưng diện tích không đáng kể Diện tích đất nông nghiệp chiếm 87,552% tổng diện tích đất tự nhiên, tạo tiềm năng lớn cho phát triển nông - lâm nghiệp của xã.
Trên địa bàn xã đang triển khai khoan thăm dò để tìm kiếm nguồn khoáng sản trong lòng đất chưa phát hiện nguồn khoáng sản lớn
Xã có tổng diện tích tự nhiên là 7.091,55 ha, với 1.536 hộ và 7.233 nhân khẩu, bao gồm 3.831 nam và 3.403 nữ Trong số đó, có 4.013 lao động và 21 bản làng Mật độ dân số trung bình đạt 102 người/km², chủ yếu gồm hai dân tộc là Thái và H’mông cùng sinh sống.
+ Dân tộc thái: có 1,373 hộ; có: 6.326 người chiếm 87,46%
+ Dân tộc mông: có 163 hộ; có: 907 người chiếm 12,54%
Xã Chiềng Hoa là một vùng đất cổ với lịch sử hình thành và phát triển sớm, nơi cư dân các dân tộc luôn giữ gìn những nét văn hóa truyền thống độc đáo Sự hòa nhập giữa các nền văn hóa đã làm phong phú thêm bản sắc văn hóa chung của xã Mặc dù không có làng nghề truyền thống và trình độ dân trí không đồng đều, nhưng dưới sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng và chính quyền, cán bộ và nhân dân xã Chiềng Hoa luôn đoàn kết và thống nhất.
Xã Mường La, một vùng sâu vùng xa, đã chứng kiến sự gia tăng diện tích rừng nhờ vào sự quan tâm của các cấp, các ngành trong những năm gần đây Phong trào trồng rừng và phủ xanh đất trống đã mang lại sự đa dạng và phong phú cho cây trồng Ngoài ra, việc trồng cây xanh để làm đẹp cơ quan và đường làng cũng được chú trọng, tạo nên cảnh quan tươi đẹp và môi trường trong sạch, mát mẻ, chưa có dấu hiệu ô nhiễm không khí và nguồn nước.
Mỗi mảnh đất đều mang trong mình một nền văn hóa độc đáo, và xã Chiềng Hoa là một ví dụ điển hình với vị trí vùng sâu, vùng xa Nơi đây nổi bật với công trình thủy điện hùng vĩ và lòng hồ rộng lớn, cùng với những bản làng giàu bản sắc văn hóa của các dân tộc anh em Tiềm năng du lịch tại Chiềng Hoa không chỉ đến từ thủy điện mà còn từ các hoạt động du thuyền trên lòng hồ sông Đà, cùng với du lịch văn hóa cộng đồng dân tộc Thái với những lễ hội truyền thống đặc sắc.
Lễ hội Khuống, lễ hội Khắp Then, lễ hội Mừng cơm mới Đây chính là cơ sở, điều kiện thuận lợi để phát triển ngành dịch vụ - du lịch
Xã Mường La có điều kiện địa hình, khí hậu và đất đai thuận lợi cho phát triển nông – lâm nghiệp, cần khai thác triệt để lợi thế địa phương để xây dựng nền kinh tế ổn định Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế là cần thiết, đồng thời cần tăng cường áp dụng khoa học kỹ thuật và công nghệ tiên tiến vào sản xuất Đầu tư vào giống cây trồng mới với năng suất và chất lượng cao cũng là một yếu tố quan trọng để nâng cao hiệu quả sản xuất.
Xã miền núi gặp nhiều khó khăn do địa hình chia cắt, trình độ dân trí không đồng đều và chủ yếu phụ thuộc vào sản xuất nông nghiệp Các ngành nghề chưa phát triển, nguồn vốn hạn chế, và hoạt động thương mại, dịch vụ còn chậm và đơn lẻ Việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi diễn ra chậm, trong khi hàng năm, lũ lụt, xói mòn và sạt lở đất xảy ra ở một số vùng canh tác, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất và đời sống sinh hoạt của người dân.
4.1.2 Tình hình kinh tế xã hội
4.1.2.1 Tình hình phát triển kinh tế
Năm 2018, xã Chiềng Hoa, huyện Mường La, đối mặt với nhiều thách thức trong phát triển kinh tế xã hội do trình độ dân trí không đồng đều và tỷ lệ hộ nghèo cao Người dân chủ yếu phụ thuộc vào sản xuất nông lâm nghiệp, nhưng việc ứng dụng khoa học kỹ thuật còn hạn chế, giá vật tư nông nghiệp cao và giá nông sản không ổn định, đặc biệt là giá thịt lợn hơi giảm mạnh, ảnh hưởng đến thu nhập Thêm vào đó, thiên tai từ mưa lũ và bão số 2 đầu tháng 10 đã gây thiệt hại lớn, ước tính khoảng 81,8 tỷ đồng Tuy nhiên, dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy, HĐND – UBND xã và sự quyết tâm của các ban ngành đoàn thể, nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội và quốc phòng – an ninh năm 2018 đã đạt được những kết quả quan trọng.
- Tổng sản lượng lương thực cây có hạt năm 2018 đạt 52066 tấn
- Hướng dẫn và thực hiện các thủ tục hành chính cho người lao động đi làm ăn xa Đăng ký cho 1 công dân đi xuất khẩu lao động
- Tỷ lệ hộ nghèo là 41,28%
- Tỷ lệ hộ cận nghèo là 9,2 %
- Tỷ lệ trẻ em được tiêm phòng đầy đủ các loại vacxin đạt 95%
- Tỷ lệ người sử dụng nước hợp vệ sinh là 70%
- Tỷ lệ hộ được xem Đài truyền hình Việt Nam, nghe Đài tiếng nói Việt Nam 100%
- Tỷ lệ đàn gia súc, gia cầm đạt 85,5%
Bảng 4.2: Diện tích, năng xuất, sản lượng một số cây trồng chính của xã năm 2018 Chỉ tiêu Diện tích (ha) Năng suất (tạ/ha) Sản lượng (tấn)
(Nguồn: Ban địa chính xã Chiềng Hoa, 2018)
Diện tích gieo trồng đã đạt theo kế hoạch của NQHĐND xã, nhưng cơn lũ lịch sử từ 9 đến 13 tháng 8 năm 2017 đã gây thiệt hại nghiêm trọng, làm vùi lấp cây gỗ và cuốn trôi ruộng vườn, dẫn đến diện tích thu hoạch giảm sút.
Trong sản xuất nông nghiệp: Xác định cây Lúa là cây trọng tâm, cây Ngô là cây mũi nhọn để phát triển kinh tế
Thực trạng chung của các hộ điều tra trên địa bàn xã Chiềng Hoa – huyện Mường La – tỉnh Sơn La
4.2.1.Thông tin chung về các hộ điều tra
4.2.1.1 Một số thông tin cơ bản của các nhóm hộ điều tra
Bảng 4.5: Tình hình chung của các hộ điều tra
Tổng số hộ điều tra Hộ 60 100
Số nhân khẩu bình quân/hộ Người/hộ 3,95 1,67
Số lao động bình quân/hộ LĐ/hộ 2,73 1,66
6 Trình độ học vấn của chủ hộ
(Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra)
Theo điều tra 60 hộ gia đình, tỷ lệ nam chủ hộ cao hơn nữ chủ hộ ở cả ba nhóm hộ khá, trung bình và nghèo, với nam chiếm 83,33% và nữ chỉ 16,66% Mặc dù phụ nữ Thái có vai trò quan trọng trong gia đình, nhưng quyền quyết định của họ lại hạn chế, chủ yếu chỉ liên quan đến việc mua bán lương thực, đáp ứng nhu cầu cơ bản của các thành viên và chăm sóc con cái.
Nhiều hộ gia đình do phụ nữ làm chủ thường xuất phát từ việc chồng qua đời hoặc không có chồng, cho thấy sự vất vả của những người phụ nữ này trong việc tự nuôi con một mình.
Tỷ lệ hộ phi nông nghiệp cao, chiếm 53,53%, nông nghiệp chiếm tỷ lệ 38,33%, chỉ có một số ít là hộ kiêm
Nhóm hộ khá chiếm 23,33%, chủ yếu là các hộ kiêm, hộ phi nông nghiệp, trong khi hộ thuần nông chiếm tỷ lệ thấp hơn Hộ trung bình chiếm 50%, chủ yếu là các hộ làm nông nghiệp Những hộ này biết chi tiêu có kế hoạch, chăm chỉ làm ăn và thường có chồng làm thêm nghề hoặc dịch vụ để tăng thu nhập Người vợ thường áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào trồng trọt và chăn nuôi.
Tỷ lệ hộ nghèo hiện nay là 26,66%, chủ yếu do nguyên nhân chủ quan như chi tiêu không kế hoạch, thiếu tích lũy, và các vấn đề sức khỏe Nhiều hộ gia đình phải đối mặt với tình trạng ốm đau, sinh đẻ không kế hoạch, thiếu đất và vốn sản xuất Ngoài ra, một số hộ không có chồng hoặc chồng không minh mẫn, khiến vợ phải gánh vác công việc gia đình Nguyên nhân chính dẫn đến nghèo đói là bệnh tật và thiếu lao động Do đó, xã hội cần triển khai các chương trình hỗ trợ và động viên để giúp các hộ nghèo vươn lên và cải thiện cuộc sống.
Sản xuất nông nghiệp yêu cầu kiến thức khoa học kỹ thuật cao, ảnh hưởng đến kinh tế gia đình và xã hội Theo thống kê, học vấn của các hộ điều tra khá đồng đều, với 11,66% người học tiểu học, 58,33% học THCS, 28,33% học THPT và chỉ 1,66% có trình độ TC – CĐ – ĐH Điều này cho thấy thế hệ con cháu trong các gia đình đang được đầu tư học tập để nâng cao trình độ.
Thực trạng hoạt động và vai trò của phụ nữ trong phát triển kinh tế trên địa bàn xã Chiềng Hoa
4.3.1 Hoạt động và vai trò của phụ nữ trong phát triển kinh tế xã hội tại địa bàn xã
4.3.1.1 Phụ nữ tham gia sinh hoạt đoàn thể năm 2018
Trên địa bàn xã, có 2.250 phụ nữ trong độ tuổi tham gia sinh hoạt đoàn thể, trong đó 1.260 người là hội viên Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, chiếm 56% Điều này cho thấy nhận thức của phụ nữ về việc tham gia các hoạt động đoàn thể là tương đối cao Hội Liên hiệp Phụ nữ xã có chức năng vận động và hướng dẫn phụ nữ thực hiện chủ trương của Đảng, đồng thời tham gia quản lý Nhà nước Hội cũng kết nối mọi tầng lớp phụ nữ để họ cùng học hỏi kinh nghiệm, hỗ trợ nhau trong cuộc sống, phát triển kinh tế, và nâng cao nhận thức về vai trò của phụ nữ trong gia đình và xã hội.
Trong số các phụ nữ tham gia sinh hoạt đoàn thể, hội nông dân chiếm tỷ lệ cao nhất với 554 hội viên, tương đương 64,3% Tiếp theo là hội viên hội cựu chiến binh với 54 chị em, chiếm 6,2%; hội viên hội người cao tuổi có 92 người, chiếm 10,7%; và chị em là cán bộ, công nhân viên chức với 162 người, chiếm 18,8%.
Bảng 4.6: Cơ cấu phụ nữ tham gia lãnh đạo cấp ủy Đảng, chính quyền và đoàn thể năm 2018
Các chức danh Tổng số
Lãnh đạo cấp Ủy Đảng 2 0 0
Lãnh đạo hội, đoàn thể 5 1 20
Tham gia ban chấp hành Đảng ủy xã 15 2 13,2
(Nguồn: Hội liên hiệp Phụ nữ xã Chiềng Hoa 2018)
Hiện nay, phụ nữ đang khẳng định vị thế trong xã hội, nhưng tại xã Chiềng Hoa, tỷ lệ cán bộ nữ tham gia lãnh đạo còn thấp, chỉ có 3 người trong tổng số cán bộ lãnh đạo, chiếm 1% trong các hội, đoàn thể Tình trạng này xuất phát từ nhận thức hạn chế về bình đẳng giới và áp lực công việc gia đình, khiến phụ nữ không thể phát huy hết năng lực Để tăng cường sự tham gia của phụ nữ trong lãnh đạo, cần có sự quan tâm từ chính quyền trong việc bồi dưỡng cán bộ nữ, gia đình cần ủng hộ họ, và bản thân phụ nữ cũng cần nâng cao trình độ và nhận thức về vai trò của mình trong xã hội.
4.3.2 Thực trạng vai trò phụ nữ trong phát triển kinh tế hộ gia đình
4.3.2.1 Vai trò của phụ nữ trong quản lý và điều hành sản xuất
Bảng 4.7: Tỷ lệ nữ làm chủ hộ và tham gia quản lý điều hành sản xuất
Tỷ lệ nữ làm chủ hộ 23,3
Tỷ lệ tham gia điều hành sản xuất 53,19 54,87 52,94
(Nguồn:Tổng hợp từ số liệu điều tra năm 2018)
Người phụ nữ đóng vai trò quan trọng trong công việc gia đình, sản xuất và phát triển kinh tế, nhưng theo quan niệm xưa, vai trò này thường bị xem nhẹ Tuy nhiên, trong xã hội ngày nay, sự phát triển không ngừng đã dẫn đến sự thay đổi tích cực trong vị trí của người phụ nữ.
Nghiên cứu trên 60 hộ cho thấy, mặc dù tỷ lệ nữ làm chủ hộ còn thấp, nhưng phụ nữ đã có tiếng nói hơn trong gia đình, với tỷ lệ tham gia quản lý sản xuất tăng lên Cụ thể, tỷ lệ nữ làm chủ hộ ở hộ khá là 23,3% và tham gia quản lý sản xuất đạt 53,19% Tuy nhiên, phụ nữ vẫn chỉ dừng lại ở mức độ tham gia mà chưa có quyền quyết định Để nâng cao sự chủ động của phụ nữ trong hoạt động sản xuất và tạo thu nhập, cần tăng tỷ lệ nữ làm chủ hộ và khuyến khích họ trở nên năng động hơn.
4.3.2.2 Vai trò của phụ nữ trong hoạt động sản xuất tạo thu nhập
Sự tham gia của nam và nữ trong các hoạt động sản xuất tạo thu nhập của các hộ gia đình khác nhau rất đa dạng Mặc dù cả hai giới đều đóng góp công sức, nhưng phụ nữ thường đóng góp nhiều hơn nam giới Mỗi nhóm hộ có ít nhất hai hoạt động tạo thu nhập, trong đó hộ nông dân chủ yếu tập trung vào sản xuất nông, lâm nghiệp và chăn nuôi, bên cạnh đó, một số hộ còn tham gia vào các hoạt động kinh doanh và dịch vụ cả trong và ngoài nông nghiệp.
Bảng 4.7 cho thấy sự phân công lao động trong sản xuất nông nghiệp tại xã Chiềng Hoa, trong đó nhóm hộ khá và trung bình có sự chia sẻ công việc giữa nam và nữ cao hơn nhóm hộ nghèo Tỷ lệ người được điều tra cho rằng hoạt động trồng trọt và chăn nuôi là công việc của cả hai giới rất cao, cho thấy sự thống nhất trong quyết định sản xuất của gia đình Phụ nữ đóng vai trò quan trọng trong việc chọn giống, chăm sóc, mua vật tư và bảo quản nông sản, với tỷ lệ tham gia cao hơn nam giới ở cả ba nhóm hộ Họ thường tỉ mỉ và tìm hiểu kỹ lưỡng để có được giống cây trồng hoặc vật nuôi tốt Trong khi đó, sự tham gia của nam giới trong các công việc nặng nhọc như làm đất cũng gia tăng Tuy nhiên, trong nhóm hộ nghèo, quyết định chọn giống chủ yếu do nam giới đảm nhận (41.17%), trong khi tỷ lệ ý kiến từ vợ chỉ chiếm 17.64% Ngược lại, ở nhóm hộ khá và trung bình, tỷ lệ ý kiến của cả hai vợ chồng lần lượt là 64.28% và 58.62%, cho thấy tiếng nói của phụ nữ ở hộ nghèo vẫn còn hạn chế.
Bảng 4.8 phân công lao động trong hoạt động sản xuất nông nghiệp 2018
Hoạt động Hộ khá Hộ trung bình khá Hộ nghèo vợ chồng Cả hai thuê vợ chồng Cả hai thuê vợ chồng Cả hai thuê
Chọn giống(quyết định trồng cây gì ) 10 20 70 17,64 35,29 47,08 7,69 46,15 46,15
Chăm sóc (bón phân, làm cỏ ) 60 10 30 52,94 11,76 35,29 30,76 15,38 53,84
Bảo quản sau thu hoạch (Phơi, sấy ) 50 10 40 64,70 11,76 23,52 15,38 61,53 23,07
Tìm thị trường tiêu thụ 10 60 30 5,88 76,47 17,64 15,38 61,53 23,07
Bán nông sản (quyết định thời điểm bán) 20 30 50 50,92 30,05 19,91 7,71 61,53 30,76
Chọn giống (quyết định nuôi con gì ) 20 30 50 11,76 29,41 58,82 19,65 41,17 39,18
Mua vật tư, làm chuồng ( cám tăng trọng, ) 0 60 40 0 82,35 17,69 0 76,92 23,07
Chăm sóc 60 20 20 70,88 11,76 17,29 53,84 23,07 23,09 Đi bán (quyết định thời điểm bán ) 10 30 60 10,35 27,61 62,04 0 29,41 61,53
(Nguồn:Tổng hợp từ số liệu điều tra năm 2018)
Theo bảng 4.8, phân công lao động trong sản xuất nông nghiệp tại xã Chiềng Hoa cho thấy nhóm hộ khá có sự chia sẻ công việc đồng áng cao nhất Trong hoạt động trồng trọt, nhiều người cho rằng đây là công việc của cả hai vợ chồng, cho thấy sự bàn bạc trong quyết định sản xuất và chăn nuôi Ở nhóm hộ khá, phụ nữ tham gia nhiều hơn trong các khâu sản xuất, với 11,76% quyết định chọn giống do phụ nữ, 17,29% do chồng, và 53,84% là kết quả của sự bàn bạc giữa cả hai.
Tỷ lệ tham gia của phụ nữ trong các quyết định gia đình ở nhóm hộ trung bình khá và hộ nghèo thấp, với mức thấp nhất ở hộ nghèo chỉ đạt 37,5% Quyền quyết định về việc trồng cây hay nuôi con chủ yếu thuộc về nam giới (50%) Trong các hoạt động như làm đất và phun thuốc trừ sâu, nam giới vẫn là người đảm nhận chính do yêu cầu sức khỏe cao, tuy nhiên tỷ lệ này có xu hướng giảm ở nhóm hộ trung bình và khá Đặc biệt, ở nhóm hộ nghèo, sự tham gia của phụ nữ trong các hoạt động này tuy thấp hơn nam giới nhưng vẫn cao hơn so với hai nhóm hộ kia Nhóm hộ khá có xu hướng thuê ngoài nhiều hơn do điều kiện kinh tế tốt, trong khi các hoạt động mua vật tư và chăm sóc chủ yếu do phụ nữ đảm nhiệm.
Tất cả ba nhóm hộ đều có sự chia sẻ công việc trong các hoạt động kinh tế, với mức độ chia sẻ cao nhất ở nhóm hộ khá và thấp nhất ở nhóm hộ nghèo Trong nhóm hộ khá, phụ nữ chủ yếu đảm nhận việc bán sản phẩm gia đình, trong khi ở nhóm hộ nghèo, công việc này thường do nam giới quyết định.
Theo bảng phân công lao động 4.8, phụ nữ đóng góp đáng kể vào các hoạt động sản xuất và khẳng định vai trò quan trọng trong việc tạo thu nhập Sự chia sẻ công việc đồng áng rõ rệt ở nhóm hộ khá và trung bình, trong khi nhóm hộ nghèo thường để lại hầu hết công việc nặng nề cho phụ nữ Họ phải gánh vác nhiều trách nhiệm mà thiếu sự hỗ trợ từ nam giới trong gia đình.
4.3.2.3 Phân công lao động trong trong hoạt động nội trợ và chăm sóc con cái
Bảng 4.9: Phân công lao động trong trong hoạt động nội trợ và chăm sóc con cái 2018
Hộ khá Hộ trung bình khá Hộ nghèo vợ chồng Cả hai vợ chồng Cả hai Vợ chồng Cả hai
Nội trợ: nấu cơm, giặt
Chăm sóc sức khỏe gia đình
Kèm con cái học hành
(Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra)
Sự phân công trong các hoạt động ngoài sản xuất nông nghiệp được thể hiện rõ ràng qua bảng 4.9, cho thấy sự phân chia trong các hoạt động tái sản xuất.
Tỷ lệ phụ nữ đảm nhận công việc nhà và chăm sóc con cái rất cao, đặc biệt trong nhóm hộ nghèo, nơi 75% phụ nữ phải thực hiện các công việc như dọn dẹp, nấu ăn và giặt giũ mà không nhận được sự hỗ trợ từ chồng Ngược lại, trong nhóm hộ khá và trung bình, tỷ lệ cả hai vợ chồng cùng tham gia vào công việc này cao hơn, cho thấy nhận thức của nam giới trong những gia đình này đã cải thiện, họ không còn phân biệt công việc giữa hai giới mà xem đó là trách nhiệm chung.
4.3.2.4 Vai trò của phụ nữ trong việc kiểm soát nguồn lực của hộ
* Kiểm soát nguồn lực đất đai
Mặc dù phụ nữ đảm nhận vai trò chính trong sản xuất và chăm sóc gia đình, nhưng họ thường bị đánh giá thấp hơn nam giới trong việc kiểm soát kinh tế hộ, đặc biệt là trong việc sở hữu đất đai Thực tế cho thấy, nhiều gia đình cho rằng việc chồng đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là điều hiển nhiên, và cả hai vợ chồng đều hài lòng với điều này, thậm chí có phụ nữ từ chối quyền đứng tên Điều này dẫn đến sự bất công trong việc sở hữu và kiểm soát tài nguyên đất đai giữa nam và nữ Tỷ lệ phụ nữ đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ đạt 23,08% ở nhóm hộ khá, 20% ở hộ trung bình, và thấp nhất là 14,29% ở hộ nghèo, trong khi nam giới ở nhóm hộ nghèo chiếm 85,71% Nghiên cứu cho thấy, phụ nữ nghèo thường là những người cơ nhỡ hoặc góa chồng, trong khi chồng họ có sức khỏe kém và thu nhập thấp hơn Điều này khẳng định rằng, trong các hộ nghèo, phụ nữ vẫn chưa có quyền kiểm soát thực sự đối với nguồn lực đất đai.
* Kiểm soát nguồn lực tài chính
Bảng 4.10: Tình hình quản lý vốn vay của hộ
Người thực hiện Hộ khá Hộ trung bình khá
2 Quyết định sử dụng vốn
(Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra 2018)
Để phát triển kinh tế gia đình, phụ nữ cần kiểm soát nguồn lực tài chính bên cạnh nguồn lực đất đai Trong ba nhóm hộ, hộ trung bình có tỷ lệ vay vốn thấp nhất do lo ngại rủi ro và chỉ đầu tư khi chắc chắn, thường vay vốn cho con cái học hành hoặc sản xuất nông nghiệp quy mô nhỏ Cả hai giới đều tham gia vào quản lý tài chính, nhưng quyết định cuối cùng thường thuộc về người chồng, đặc biệt trong hộ nghèo, nơi 77,8% quyết định sử dụng vốn do chồng quản lý, trong khi vợ thực hiện 44,4% việc trả lãi Điều này cho thấy vợ đóng vai trò quản lý tài chính như thủ quỹ, nhưng quyền quyết định thuộc về chồng.
Những thuận lợi và khó khăn trong việc phát huy vai trò của phụ nữ trên địa bàn xã Chiềng Hoa – huyện Mường La – tỉnh Sơn La
Ngày càng nhiều chính sách hỗ trợ nữ giới, đặc biệt là phụ nữ nông thôn, được triển khai trong các lĩnh vực như nông nghiệp, xóa đói giảm nghèo, đào tạo nghề, hỗ trợ học tập và chăm sóc sức khỏe.
Hội phụ nữ từ trung ương đến cơ sở được kiện toàn và hoạt động sâu sắc, đóng vai trò là chỗ dựa vững chắc cho phụ nữ trong kinh tế và xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng Họ cũng là cầu nối giúp phụ nữ tiếp nhận thông tin và truyền tải tâm tư, nguyện vọng đến các cơ quan, ban ngành.
Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn tại Việt Nam tạo điều kiện cho phụ nữ nông thôn nâng cao kiến thức và kỹ năng, từ đó hoàn thiện bản thân và phát triển sự nghiệp.
Sự phát triển của khoa học kỹ thuật và các phương tiện thông tin đại chúng đã tạo điều kiện cho phụ nữ tiếp cận thông tin, từ đó giúp họ lập kế hoạch sản xuất và phát triển kinh tế hộ một cách hiệu quả.
Phụ nữ nổi bật với tính cần cù, chịu khó và tỉ mỉ, cùng khả năng lắng nghe Những phẩm chất này đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ và nâng cao năng lực của họ.
Hiện nay, vấn đề thiếu vốn là một trở ngại lớn đối với các hộ gia đình muốn phát triển sản xuất kinh doanh Thủ tục vay vốn phức tạp và lãi suất cao khiến nhiều người khó tiếp cận nguồn vốn Đặc biệt, phụ nữ thường không có tài sản lớn để thế chấp, vì quyền sử dụng đất thường thuộc về chồng Tại nông thôn, hội nông dân và hội phụ nữ là hai tổ chức đáng tin cậy, nhưng mức vay lại hạn chế và lãi suất thấp Để vay nhiều hơn, người dân phải chấp nhận lãi suất cao từ các tổ chức tín dụng hoặc ngân hàng, điều này càng làm khó khăn cho các hộ nghèo không có tài sản thế chấp, khiến họ khó có cơ hội cải thiện cuộc sống.
Phụ nữ nông thôn đóng vai trò quan trọng trong sản xuất và tạo ra của cải vật chất cho xã hội, nhưng họ phải đối mặt với nhiều khó khăn trong công việc mà không được hưởng các chế độ bảo hiểm thương tật, thai sản hay nghỉ phép như phụ nữ ở các cơ quan, doanh nghiệp Điều này ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe và khả năng sản xuất cũng như tái sản xuất của họ, tạo ra sự thiệt thòi lớn cho phụ nữ nông thôn.
Trình độ học vấn của đa số phụ nữ trong vùng nghiên cứu còn thấp, điều này ảnh hưởng đến khả năng ra quyết định trong sản xuất và việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật Hệ quả là năng suất và sản lượng không được cải thiện, đồng thời việc quản lý hộ gia đình và tham gia công tác quản lý cộng đồng cũng bị hạn chế.
Tư tưởng từ ngàn đời xưa đã ảnh hưởng sâu sắc đến nhận thức của phụ nữ về quyền lợi của chính mình, khiến nhiều người ngại bày tỏ ý kiến và tham gia tranh luận với nam giới Họ thường từ chối tham gia các lớp tập huấn kỹ thuật, sống an phận và tự ti, dẫn đến lối sống khép kín và thiếu động lực để thay đổi Chính những tư tưởng này trở thành rào cản nội tại, kìm hãm sự độc lập trong suy nghĩ, sáng tạo và khả năng cống hiến của phụ nữ.
Phụ nữ nông thôn thường gặp khó khăn trong việc tham gia và hưởng thụ các hoạt động văn hóa, tinh thần, đồng thời họ cũng có mức độ tiếp cận hạn chế đến các phúc lợi xã hội như dịch vụ y tế và nước sạch Những vấn đề trong chăm sóc sức khỏe sinh sản, cùng với tỷ lệ tử vong bà mẹ chưa giảm đáng kể, đã ảnh hưởng lớn đến tâm lý, khả năng hòa nhập cộng đồng, cũng như các hoạt động sản xuất kinh doanh và đời sống hàng ngày của họ.
Trong gia đình, tư tưởng trọng nam khinh nữ vẫn còn hiện hữu, gây ra hiện tượng mất cân bằng giới tính khi sinh Bên cạnh đó, bạo lực gia đình dưới nhiều hình thức vẫn tiếp diễn ở một số hộ gia đình.
Vấn đề việc làm tại chỗ là cần thiết để giảm thiểu thời gian lao động nông nhàn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế khó khăn Nhiều người dân, chủ yếu là nam giới, đã di cư đến các thành phố, khiến phụ nữ phải gánh vác cả công việc sản xuất lẫn nội trợ Điều này không chỉ tạo áp lực lên các khu công nghiệp và đô thị mà còn dẫn đến gia tăng tệ nạn xã hội và ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình Trong mùa vụ bận rộn, phụ nữ phải làm việc hết công suất nhưng lại rơi vào tình trạng nhàn rỗi khi hết mùa vụ Do đó, việc làm tại chỗ không chỉ giúp phát triển kinh tế địa phương mà còn tạo cơ hội cho phụ nữ nhận được sự hỗ trợ từ chồng, giảm bớt gánh nặng trong cuộc sống.
Đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò của phụ nữ xã Chiềng Hoa, huyện Mường La, tỉnh Sơn La trong phát triển kinh tế hộ
Để xã hội tiến bộ và nền kinh tế phát triển, không thể có bất kỳ bộ phận nào bị loại trừ, đặc biệt là phụ nữ, nhóm thường gặp bất lợi so với nam giới Việc xây dựng một môi trường thuận lợi giúp phụ nữ tự tin tiếp cận các điều kiện sản xuất và tiến bộ mới là rất cần thiết Cần có các chủ trương phù hợp và thường xuyên tổ chức hội nghị, hội thảo nhằm cải thiện đời sống của họ, từ đó giúp phụ nữ khẳng định năng lực trong xã hội.
4.5.1 Nâng cao nhận thức của xã hội về vai trò của phụ nữ Để thực hiện nhiệm vụ công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn thì phát triển kinh tế hộ gia đình đóng vai trò không nhỏ, muốn vậy cần quan tâm đến vai trò của người phụ nữ bằng việc:
Nâng cao kiến thức cho phụ nữ là rất quan trọng, đặc biệt trong việc tổ chức cuộc sống gia đình, nuôi dạy con cái và chăm sóc sức khỏe Phụ nữ cần được trang bị kiến thức về luật pháp, chính sách và bình đẳng giới Điều này không chỉ khuyến khích sự quan tâm của các thành viên trong gia đình mà còn thúc đẩy sự chia sẻ trong các hoạt động lao động và đời sống tinh thần, tình cảm.
Tuyên truyền và vận động trên các phương tiện truyền thông và hình thức sinh hoạt địa phương về giới và vị thế của phụ nữ trong gia đình và xã hội là rất cần thiết, phù hợp với từng đối tượng Để đạt được bình đẳng giới, cần có sự tham gia tích cực của nam giới, từ đó họ có thể thực hiện các biện pháp thúc đẩy tiến trình này Điều này không chỉ giúp nam giới nhận thức rõ hơn về vai trò của mình mà còn khuyến khích phụ nữ tự đánh giá và phấn đấu vươn lên trong cuộc sống.
Các phương tiện thông tin đại chúng cần nâng cao nhận thức xã hội về vai trò quan trọng của người phụ nữ trong gia đình Cần nhấn mạnh rằng trách nhiệm của phụ nữ không chỉ dựa vào khả năng kiếm tiền mà còn bao gồm vai trò làm mẹ, góp phần nuôi dạy những công dân tốt cho tương lai.
4.5.2 Nâng cao trình độ cho người phụ nữ
Cần chú trọng bồi dưỡng và nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ nữ đang công tác tại các thôn và cấp xã, đồng thời tạo điều kiện để họ phát huy năng lực Việc này không chỉ giúp nâng cao vị thế của phụ nữ trong xã hội địa phương mà còn đảm bảo rằng đội ngũ cán bộ nữ tương lai có đủ năng lực và trình độ tham gia vào công tác chính quyền và đoàn thể.
Đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội Liên hiệp Phụ nữ xã và các chi hội phụ nữ thôn là cần thiết Việc xây dựng các câu lạc bộ nữ thôn sẽ tạo điều kiện cho phụ nữ hỗ trợ lẫn nhau trong phát triển kinh tế và nuôi dạy con cái Đồng thời, cần chú trọng hỗ trợ các phụ nữ đơn thân để họ có thể vươn lên trong cuộc sống.
Trong sản xuất nông nghiệp, việc thúc đẩy khuyến nông và tạo điều kiện cho phụ nữ tiếp cận kiến thức và công nghệ mới là rất quan trọng Điều này không chỉ giúp phụ nữ có cơ hội tiếp cận vốn và công cụ sản xuất hiện đại, mà còn cho phép họ áp dụng kiến thức mới vào trồng trọt và chăn nuôi, từ đó nâng cao năng suất và thu nhập.
UBND xã cần chủ động phối hợp với phòng nông nghiệp, trạm khuyến nông và các trung tâm đào tạo nghề để phát triển các trung tâm dạy nghề tại địa phương, nhằm tăng cường sự tham gia của nữ giới Cần mở rộng các hình thức dạy nghề ngắn hạn và bồi dưỡng kiến thức cho phụ nữ, đặc biệt là trong quản lý kinh tế hộ, đồng thời thu hút nam giới tham gia các khóa học có lồng ghép giới Hình thành những nhóm hạt nhân gồm nông dân nam và nữ có năng lực sản xuất tốt, hiểu biết về công nghệ mới và kết nối chặt chẽ với chính quyền và các tổ chức hội đoàn thể là rất cần thiết.
4.5.3 Tăng cường khả năng tiếp cận và kiểm soát các nguồn lực của phụ nữ trong phát triển kinh tế hộ gia đình
Thực hiện đúng quy định của Luật đất đai năm 2003 và các nghị định sửa đổi, bổ sung là rất quan trọng Theo nguyên tắc, cả hai vợ chồng đều được đứng tên trong việc sử dụng đất, tuy nhiên thực tế cho thấy nam giới thường là người đứng tên chính Do đó, cần kiểm soát việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để đảm bảo tên của cả vợ và chồng được ghi trên đó, nhằm bảo vệ quyền lợi cho phụ nữ.
Trong bối cảnh kinh tế thị trường hiện nay, việc vay vốn để phát triển sản xuất là rất cần thiết đối với các hộ gia đình, tuy nhiên, nông dân địa phương đang gặp khó khăn do hạn chế về số tiền vay Ngân hàng cần cải thiện quy trình vay vốn bằng cách đơn giản hóa thủ tục, kéo dài thời gian vay và mở rộng các mục tiêu sử dụng vốn Hơn nữa, sự hợp tác giữa cán bộ ngân hàng và cán bộ khuyến nông, khuyến lâm là cần thiết để cung cấp đào tạo kỹ thuật, thông tin thị trường và kỹ năng lập kế hoạch cho người vay Đặc biệt, các hộ gia đình, đặc biệt là phụ nữ, cần được cung cấp thông tin chi tiết về các hình thức tín dụng mà họ có thể tiếp cận.
4.5.4 Tăng cường sự tham gia của phụ nữ vào hoạt động cộng đồng
Khuyến khích và tạo điều kiện cho phụ nữ tham gia sinh hoạt và hội họp từ các đoàn thể như phụ nữ, thanh niên và hội nông dân giúp họ tiếp cận kiến thức qua sách, báo và phương tiện truyền thông Hình thành các câu lạc bộ văn hóa, thể thao tại các xóm với kế hoạch sinh hoạt định kỳ hàng tháng tại nhà văn hóa xóm nhằm nâng cao trình độ phụ nữ Điều này không chỉ tạo môi trường để họ phát huy vai trò trong gia đình và xã hội mà còn giúp nâng cao nhận thức, giảm thiểu sự tự ti và rụt rè của một bộ phận phụ nữ.
4.5.5 Trong việc thực hiện các chính sách, kế hoạch, chương trình dự án phát triển của địa phương cần đặc biệt quan tâm đến vai trò, sự tham gia của phụ nữ
Để chuyển dịch cơ cấu kinh tế địa phương, cần phát triển mạnh mẽ công nghiệp và dịch vụ nông thôn, từ đó tạo thêm việc làm phi nông nghiệp cho phụ nữ Điều này không chỉ giúp tăng thu nhập cho gia đình thông qua các nguồn thu ngoài nông nghiệp mà còn giảm bớt gánh nặng và lo toan về kinh tế cho phụ nữ.
Khuyến khích thành lập các tổ nghề thủ công và nghề truyền thống ở nông thôn sẽ tạo cơ hội cho cả phụ nữ và nam giới, giúp hạn chế thời gian lao động nông nhàn và tăng thu nhập Điều này không chỉ hỗ trợ người chồng trong sản xuất và công việc gia đình mà còn giúp phụ nữ có khoản thu nhập riêng Tham gia vào các nhóm sản xuất, phụ nữ nông thôn còn có cơ hội mở rộng quan hệ giao tiếp, nâng cao nhận thức về các vấn đề xã hội và kiến thức nuôi dạy con cái.