NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Cây ba kích tím ở giai đoạn sinh trưởng năm thứ nhất
Nghiên cứu khả năng sinh trưởng và bệnh vàng lá thối rễ trên cây ba kích tại tỉnh Thái Nguyên.
Địa điểm và thời gian nghiên cứu
Thí nghiệm về mật độ, phân bón và thuốc hóa học được thực hiện tại khu cây trồng cạn trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên
Nội dung nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu ảnh hưởng của mật độ trồng đến sinh trưởng và bệnh vàng lá thối rễ cây ba kích
- Nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón đến sinh trưởng và bệnh vàng lá thối rễ cây ba kích
- Nghiên cứu hiệu lực của một số thuốc bảo vệ thực vật hóa học đến bệnh vàng lá thối rễ cây ba kích trong điều kiện đồng ruộng
3.3.2.1 Thí nghiệm 1: Nghiên cứu ảnh hưởng của mật độ trồng đến sinh trưởng và bệnh vàng lá thối rễ cây ba kích
Khu đất thí nghiệm có hàm lượng dinh dưỡng trung bình và độ chua trung tính, với tầng đất dày và khả năng thấm nước tốt Đất tại khu vực này giàu mùn, tơi xốp và đảm bảo đủ nước cho cây trồng Địa hình thí nghiệm tương đối đồng đều, ít bị ảnh hưởng bởi các điều kiện ngoại cảnh bất lợi.
* Phương pháp bố trí thí nghiệm:
Thí nghiệm được thiết kế theo kiểu khối ngẫu nhiên hoàn toàn (CRD) với ba công thức mật độ và diện tích ô thí nghiệm là 30 m² (6,0 m x 5,0 m), được thực hiện với ba lần nhắc lại Xung quanh khu vực thí nghiệm có dải bảo vệ rộng 1,0 m, tổng diện tích thí nghiệm, không bao gồm rãnh và dải bảo vệ, là 270 m².
Công thức 1: Mật độ 12.000 cây/ha, (0,8 m x 1,0 m)
Công thức 2: Mật độ 10.000 cây/ha (1,0 m x 1,0 m) (đc)
Công thức 3: Mật độ 8.300 cây/ha (1,2 m x 1,0 m)
-Sơ đồ bố trí thí nghiệm:
- Thời gian trồng: Ngày 25 tháng 02 năm 2018
- Giống: Cây giống cao 20 cm trở lên, đường kính gốc 0,2 cm, số lá 4 đôi
* Quy trình kỹ thuật: Áp dụng Quy trình kỹ thuật của Viện Dược liệu
+ Phương pháp bón phân: Lượng phân bón trong vòng 1 năm tính cho 1 ha là
10 tấn phân chuồng + 3 tấn phân hữu cơ vi sinh + 150 kg N + 90 kg P2O5 + 80 kg
Cách bón: chia làm 3 lần bón Bón lót toàn bộ phân chuồng, phân hữu cơ vi sinh và lân trước khi trồng
Bón thúc lần 1: Sau khi trồng 2 tháng bón 30% đạm Urê và 30% Kali
Bón thúc lần 2: Sau khi trồng 5 tháng, 40% đạm Urê, 40% Kali
Bón thúc lần 3 sau trồng 8 tháng 30% đạm Urê, 30% Kali
+ Chăm sóc phòng trừ sâu, bệnh hại theo quy trình kỹ thuật
* Các chỉ tiêu nghiên cứu và phương pháp theo dõi
- Chỉ tiêu về sinh trưởng:
Chiều dài thân chính (cm) được theo dõi từ 5 cây mẫu bằng cách sử dụng thước dây chia độ Đo từ điểm gốc sát mặt đất đến đỉnh sinh trưởng của thân chính vào thời điểm 12 tháng sau khi trồng.
Chiều dài thân chính TB/cây =
Tổng chiều dài thân chính
(cm) Tổng số cây theo dõi
Tốc độ tăng trưởng chiều dài thân chính (cm/ngày) được xác định bằng cách sử dụng thước dây để đo khoảng cách từ điểm gốc sát mặt đất đến đỉnh sinh trưởng của thân chính Đo lần đầu sau 20 ngày trồng và thực hiện các lần đo tiếp theo cách nhau 30 ngày.
Tốc độ tăng trưởng chiều dài thân chính =
Trong đó: H1 : Chiều dài thân chính TB/cây ở lần đo thứ nhất trong cùng một lần đo
Chiều dài thân chính của từng cây được ghi nhận tại lần đo thứ hai trong cùng một lần đo, với thời gian đo lần thứ nhất là t1 và thời gian đo lần thứ hai là t2.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã theo dõi số lượng nhánh cấp 1 và cấp 2 trên 5 cây mẫu Việc đếm tất cả các nhánh cấp 1 và cấp 2 được thực hiện lần đầu sau 20 ngày trồng, sau đó định kỳ mỗi 30 ngày.
Số nhánh cấp 1 và cấp 2 TB/cây =
Tổng số nhánh cấp 1 và cấp 2
(nhánh) Tổng số cây theo dõi
Tốc độ ra nhánh cấp 1 và cấp 2 =
Trong đó : N1 : Số nhánh cấp 1 và cấp 2 TB/cây ở lần đo thứ nhất trong cùng một lần đo
Trong lần đo thứ hai của cùng một lần đo, số nhánh cấp 1 và cấp 2 trung bình trên mỗi cây được ký hiệu là N2 Thời gian đo lần thứ nhất được gọi là t1, trong khi thời gian đo lần thứ hai là t2.
Để đo đường kính gốc cây, sử dụng thước kẹp panme có độ chính xác 0,1mm Cần thực hiện việc đo định kỳ trên 5 cây mẫu theo dõi vào các thời điểm 2, 4, 6, 8, 10 và 12 tháng sau khi trồng Kết quả đo sẽ bao gồm đường kính gốc trung bình trên mỗi cây (cm), tổng đường kính gốc và tổng số gốc.
Trong bài viết này, chúng tôi sẽ theo dõi tỷ lệ bệnh của cây bằng cách điều tra 5 cây cố định sau mỗi lần nhắc lại, với tần suất 20 ngày một lần trong suốt 12 tháng Chúng tôi sẽ ghi nhận thời gian bắt đầu xuất hiện bệnh và tỷ lệ cây bị nhiễm bệnh để có cái nhìn tổng quan về tình hình sức khỏe của cây trồng.
Trong đó: TLB (%): Tỷ lệ bệnh
A: Tổng số cây biểu hiện triệu chứng
B: Tổng số cây điều tra
3.3.2.2 Thí nghiệm 2: Nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón đến sinh trưởng và bệnh vàng lá thối rễ cây Ba kích
Khu đất thí nghiệm có hàm lượng dinh dưỡng trung bình và độ chua trung tính, với tầng đất dày và chế độ thấm nước tốt Đất chứa nhiều mùn, tơi xốp, đảm bảo đủ nước, nhiệt độ và không khí, tạo điều kiện thuận lợi cho các quá trình lý hoá diễn ra Địa hình thí nghiệm tương đối đồng đều và ít bị ảnh hưởng bởi các điều kiện ngoại cảnh bất lợi.
* Phương pháp bố trí thí nghiệm:
Thí nghiệm được thiết kế theo kiểu khối ngẫu nhiên hoàn toàn (CRD) với ba công thức phân bón, mỗi ô thí nghiệm có diện tích 30 m² (6,0 m x 5,0 m) và được lặp lại ba lần Khu vực thí nghiệm được bao quanh bởi dải bảo vệ rộng 1 m, tổng diện tích thí nghiệm, không bao gồm rãnh và dải bảo vệ, là 270 m².
Công thức 1: 10 tấn phân chuồng + 3 tấn phân hữu cơ vi sinh + 170 kg N +
Công thức 2 (đc): 10 tấn phân chuồng + 3 tấn phân hữu cơ vi sinh + 150 kg
Công thức 3: 10 tấn phân chuồng + 3 tấn phân hữu cơ vi sinh + 130 kg N +
+ Công thức 1: 10 tấn phân chuồng + 3 tấn phân hữu cơ vi sinh + 170 kg N +
Để cung cấp đủ dinh dưỡng cho 1 ha đất canh tác, cần sử dụng 100 kg P2O5 và 90 kg K2O Tương ứng với diện tích khu thí nghiệm 270 m², cần bổ sung 270 kg phân chuồng, 81 kg phân hữu cơ vi sinh, 10 kg phân đạm Urê, 15,9 kg supe lân và 4 kg Kali clorua.
+ Công thức 2 (đc): 10 tấn phân chuồng + 3 tấn phân hữu cơ vi sinh + 150 kg
Để cung cấp dinh dưỡng cho cây trồng trên 1 ha đất, cần sử dụng 90 kg P2O5 và 80 kg K2O, tương ứng với 270 kg phân chuồng, 81 kg phân hữu cơ vi sinh, 8,8 kg phân đạm Urê, 14,3 kg Supe lân và 3,6 kg Kali clorua cho khu thí nghiệm có diện tích 270 m2.
+ Công thức 3: 10 tấn phân chuồng + 3 tấn phân hữu cơ vi sinh + 130 kg N +
Để cung cấp đủ dinh dưỡng cho 1 ha đất canh tác, cần bổ sung 80 kg P2O5 và 70 kg K2O Đối với diện tích khu thí nghiệm 270 m², cần sử dụng 270 kg phân chuồng, 81 kg phân hữu cơ vi sinh, 7,6 kg đạm Urê, 12,7 kg Supe lân và 3,1 kg Kali clorua.
-Sơ đồ bố trí thí nghiệm:
- Thời gian trồng: Ngày 25 tháng 02 năm 2018
- Giống: Cây giống cao 20 cm trở lên, đường kính gốc 0,2 cm, số lá 4 đôi
* Quy trình kỹ thuật: Áp dụng Quy trình kỹ thuật của Viện Dược liệu
+ Ba kích được trồng với mật độ 10.000 cây/ha (1,0m x 1,0 m)
Phương pháp bón phân hiệu quả cho 1 ha trong vòng 1 năm là chia thành 3 lần bón Trước khi trồng, cần bón lót toàn bộ phân chuồng, phân hữu cơ vi sinh và lân.
Bón thúc lần 1: Sau khi trồng 2 tháng bón 30% đạm Urê và 30% Kali
Bón thúc lần 2: Sau khi trồng 5 tháng, 40% đạm Urê, 40% Kali
Bón thúc lần 3 sau trồng 8 tháng 30% đạm Urê, 30% Kali
+ Chăm sóc phòng trừ sâu, bệnh hại theo quy trình kỹ thuật
* Các chỉ tiêu nghiên cứu và phương pháp theo dõi: Như thí nghiệm 1
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Ảnh hưởng của mật độ trồng đến tốc độ tăng trưởng chiều dài thân chính cây ba kích
Chiều cao của thân chính cây ba kích là chỉ tiêu quan trọng phản ánh khả năng sinh trưởng và phát triển của cây trồng.
Theo bảng 4.1, cây ba kích cho thấy tốc độ tăng trưởng chiều dài tăng dần, đặc biệt mạnh mẽ sau 80 ngày trồng và đạt đỉnh cao nhất vào khoảng 200 ngày Tuy nhiên, sau thời điểm này, tốc độ tăng trưởng có xu hướng giảm Nguyên nhân ban đầu là do cây cần thời gian để bén rễ, hồi xanh và ảnh hưởng của nhiệt độ thấp, dẫn đến sự sinh trưởng chậm.
Sau khoảng 80 đến 200 ngày trồng, cây ba kích có sự tăng trưởng mạnh mẽ về chiều dài thân chính nhờ vào bộ rễ đã hoạt động hiệu quả Thời tiết nóng, ẩm và lượng mưa dồi dào trong giai đoạn này tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của cây ba kích.
Từ 230 đến 350 ngày sau khi trồng, tốc độ tăng trưởng chiều dài thân chính của cây ba kích giảm dần do khí hậu trở nên lạnh và khô, dẫn đến sự sinh trưởng chậm lại của cây.
Kết quả thống kê cho thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa giữa các công thức trong chiều dài thân chính của cây ba kích (P>0,05, bảng 4.1).
Các mức mật độ khác nhau không ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng chiều dài thân chính của cây ba kích sau 350 ngày trồng.
Bảng 4.1 Ảnh hưởng của mật độ trồng đến tốc độ tăng trưởng chiều dài thân chính cây ba kích ( Thái Nguyên, 2018) Đơn vị: cm/ngày
Thời gian sau trồng … ngày
Hình 4.1 Biểu đồ ảnh hưởng của mật độ đến tốc độ tăng trưởng chiều dài thân chính cây ba kích
Ảnh hưởng của mật độ trồng đến tốc độ ra nhánh cấp 1 và cấp 2 của cây ba kích
Số nhánh trên cây ba kích là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá sự sinh trưởng của cây, ảnh hưởng đến số lượng lá và khả năng quang hợp Điều này có tác động trực tiếp đến năng suất của cây ba kích.
Nhìn chung, tốc độ ra nhánh cấp 1 và cấp 2 của cây ba kích từ khi trồng đến
Sau 110 ngày trồng, cả ba công thức đều cho thấy sự tăng trưởng chậm, nguyên nhân là do giai đoạn đầu cây cần thời gian để bén rễ và hồi xanh, dẫn đến số lượng nhánh cấp 1 phát triển ít.
Tốc độ ra nhánh cấp 1 và cấp 2 của cây ba kích tăng mạnh sau 140 ngày trồng, đạt đỉnh vào 200 ngày Thời điểm này, điều kiện khí hậu thuận lợi giúp cây sinh trưởng, dẫn đến sự gia tăng nhanh chóng số lượng nhánh.
Từ 230 đến 350 ngày sau khi trồng, tốc độ ra nhánh của cây ba kích giảm dần do thời tiết lạnh và khô, dẫn đến sự sinh trưởng chậm lại của cây.
Kết quả thống kê cho thấy mật độ trồng khác nhau không ảnh hưởng đáng kể đến tốc độ ra nhánh cấp 1 và cấp 2 của cây (P>0,05, bảng 4.2).
Ba công thức mật độ cây trồng là 12.000 cây/ha (0,8 m x 1,0 m), 10.000 cây/ha (1,0 m x 1,0 m) và 8.300 cây/ha (1,2 m x 1,0 m) không ảnh hưởng đến tốc độ phát triển của nhánh cấp 1 và cấp 2 trên cây ba kích trong vòng 350 ngày sau khi trồng.
Bảng 4.2 Ảnh hưởng của mật độ trồng đến tốc độ ra nhánh cấp 1 và cấp 2 của cây ba kích ( Thái Nguyên, 2018) Đơn vị: nhánh/ngày
Thời gian sau trồng … ngày
Hình 4.2 Biểu đồ ảnh hưởng của mật độ trồng đến tốc độ ra nhánh cấp 1 và cấp 2 của cây ba kích
Ảnh hưởng của mật độ trồng đến đường kính gốc của cây ba kích
Ngoài chiều dài thân chính, số nhánh và đường kính gốc cũng là những yếu tố quan trọng để đánh giá khả năng sinh trưởng và năng suất của cây ba kích.
Qua bảng 4.3, cho thấy đường kính gốc của ba công thức mật độ từ sau trồng
Trong nghiên cứu, sau 60 ngày, đường kính gốc tăng từ 0,26 cm đến 0,28 cm, và sau 340 ngày, tăng từ 0,73 cm đến 0,74 cm, với tổng mức tăng từ 0,45 cm đến 0,48 cm Kết quả thống kê cho thấy rằng, trong điều kiện trồng và chăm sóc giống nhau, mật độ trồng khác nhau không tạo ra sự khác biệt có ý nghĩa về đường kính gốc (P>0,05, bảng 4.3).
Các công thức mật độ trồng 12.000 cây/ha (0,8 m x 1,0 m), 10.000 cây/ha (1,0 m x 1,0 m) và 8.300 cây/ha (1,2 m x 1,0 m) không ảnh hưởng đến đường kính gốc của cây ba kích sau 340 ngày trồng.
Bảng 4.3 Ảnh hưởng của mật độ trồng đến động thái đường kính gốc cây ba kích (Thái Nguyên, 2018)
Mật độ (cây/ha) Đường kính gốc trung bình tại … ngày sau trồng (cm)
Hình 4.3 Biểu đồ ảnh hưởng của mật độ trồng đến động thái đường kính gốc của cây ba kích
Ảnh hưởng của mật độ trồng đến một số chỉ tiêu sinh trưởng của cây ba kích
Sau 350 ngày trồng, các chỉ tiêu như chiều dài thân chính, số nhánh cấp 1 và cấp 2, cùng đường kính gốc không có sự khác biệt có ý nghĩa (P>0,05) trong điều kiện trồng và chăm sóc đồng nhất.
Ba kích là loại cây lâu năm, có thể thu hoạch dược liệu sau 4 năm trồng Với các mật độ trồng khác nhau như 12.000 cây/ha (0,8 m x 1,0 m), 10.000 cây/ha (1,0 m x 1,0 m) và 8.300 cây/ha (1,2 m x 1,0 m), cây ba kích vẫn còn nhỏ trong 350 ngày đầu sau khi trồng, do đó các chỉ tiêu sinh trưởng như chiều dài thân chính, số nhánh và đường kính gốc không bị ảnh hưởng bởi mật độ trồng.
Cần tiếp tục nghiên cứu và theo dõi ảnh hưởng của các mật độ trồng đến các chỉ tiêu sinh trưởng của cây ba kích trong các giai đoạn tiếp theo để đạt được kết quả tổng thể.
Bảng 4.4 Ảnh hưởng của mật độ trồng đến một số chỉ tiêu sinh trưởng của cây ba kích (Thái Nguyên, 2018)
Mật độ (cây/ha) Chiều dài thân chính (cm)
Số nhánh cấp 1 và cấp
2 (nhánh) Đường kính gốc (cm) CT1: 12.000 (0,8m x 1,0m) 236,17 17,00 0,74
Ảnh hưởng của mật độ trồng đến tỷ lệ bệnh vàng lá thối rễ cây ba kích
Thay đổi mật độ trồng có thể ảnh hưởng đến tiểu vùng khí hậu trong đồi trồng ba kích, từ đó tác động đến tỷ lệ nhiễm bệnh vàng lá thối rễ do nấm Fusarium proliferatum Bệnh này gây héo rũ, làm cây chết rải rác, với triệu chứng ban đầu là lá gốc biến vàng và lan ra toàn cây Vết bệnh xuất hiện trên thân gần mặt đất hoặc ở cổ rễ, ban đầu có màu nâu và dần lớn hơn, làm khô tóp đoạn thân sát mặt đất Củ bị nứt đen dọc theo củ, trong khi vỏ ngoài vẫn tươi, nhưng khi bổ dọc, mạch dẫn chuyển sang màu nâu hoàn toàn Sau một thời gian, phần thân cây trên mặt đất sẽ chết khô và teo tóp màu đen.
Kết quả theo dõi ảnh hưởng của mật độ trồng đến bệnh vàng lá thối rễ tại Đại học Nông lâm Thái Nguyên cho thấy bệnh bắt đầu xuất hiện vào ngày 13/04/2018, với tỷ lệ bệnh là 3,33% sau 46 ngày trồng Tỷ lệ cây bị hại tăng dần ở cả ba mật độ trồng, đặc biệt cao vào mùa mưa, đạt mức cao nhất vào tháng 8-9 và giảm dần khi chuyển sang mùa khô vào giữa tháng 10.
Kết quả thống kê cho thấy tỷ lệ bệnh vàng lá thối rễ không có sự khác biệt có ý nghĩa giữa các mật độ trồng (P>0,05, bảng 4.5).
Các công thức mật độ trồng cây ba kích như 12.000 cây/ha (0,8 m x 1,0 m), 10.000 cây/ha (1,0 m x 1,0 m) và 8.300 cây/ha (1,2 m x 1,0 m) không làm tăng tỷ lệ bệnh vàng lá thối rễ trong khoảng thời gian từ khi trồng cho đến 350 ngày sau trồng.
Bảng 4.5 Ảnh hưởng của mật độ trồng đến tỷ lệ bệnh vàng lá thối rễ cây ba kích (Thái Nguyên, 2018)
Tỷ lệ bệnh vàng lá thối rễ tại các ngày điều tra (%) 13/04 03/05 23/05 12/06 02/07 22/07 11/08 31/08 20/09 09/10 29/10 18/11
Hình 4.4 Biểu đồ ảnh hưởng của mật độ trồng đến tỷ lệ bệnh vàng lá thối rễ cây ba kích
Ảnh hưởng của phân bón đến quá trình sinh trưởng và bệnh vàng lá thối rễ của cây ba kích
Quá trình sinh trưởng và phát triển của cây trồng, bao gồm cây ba kích, phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó phân bón đóng vai trò quan trọng Phân bón không chỉ giúp cây phát triển mạnh mẽ và đạt năng suất cao, mà còn nâng cao chất lượng sản phẩm và khả năng chống chịu với sâu bệnh Do đó, việc nghiên cứu và xác định liều lượng phân bón phù hợp là cần thiết để tối ưu hóa sự phát triển của cây trồng.
4.2.1 Ảnh hưởng của phân bón đến tốc độ tăng trưởng chiều dài thân chính cây ba kích
Chiều cao của cây không chỉ phản ánh khả năng sinh trưởng và phát triển mà còn thể hiện khả năng tổng hợp và tích lũy vật chất hữu cơ Một cây sinh trưởng tốt sẽ đạt được chiều cao phù hợp và cân đối trong từng giai đoạn phát triển.
Theo bảng 4.6, từ khi trồng đến 80 ngày, tốc độ tăng trưởng chiều dài thân chính của cây ba kích diễn ra chậm, sau đó tăng mạnh và đạt đỉnh vào 200 ngày Giai đoạn đầu sau trồng, cây cần thời gian để bén rễ và hồi xanh, dẫn đến sinh trưởng chậm Tuy nhiên, sau 110 ngày, cây bắt đầu sinh trưởng nhanh nhờ vào khí hậu nóng, ẩm và lượng mưa dồi dào Sau 230 ngày, khi điều kiện khí hậu trở nên lạnh và khô, tốc độ sinh trưởng của cây ba kích lại chậm lại.
Trong ba công thức phân bón thì công thức 1 (10 tấn phân chuồng + 3 tấn phân hữu cơ vi sinh + 170 kg N + 100 kg P2O5 + 90 kg K2O / ha) và công thức 2
(10 tấn phân chuồng + 3 tấn phân hữu cơ vi sinh + 150 kg N + 90 kg P2O5 + 80 kg
Công thức 3 (bao gồm 10 tấn phân chuồng, 3 tấn phân hữu cơ vi sinh, 130 kg N, 80 kg P2O5 và 70 kg K2O) cho thấy tốc độ tăng trưởng chiều dài thân chính thấp hơn so với các công thức khác, được xếp ở mức b, trong khi các công thức còn lại có tốc độ tăng trưởng tương đương nhau, xếp ở mức a (bảng 4.6).
Kết quả nghiên cứu cho thấy, trong điều kiện mật độ 10.000 cây/ha (1,0m x 1,0m) và các mức phân bón khác nhau, không có sự khác biệt có ý nghĩa về chiều dài thân chính cây ba kích từ khi trồng đến 80 ngày (P>0,05) Tuy nhiên, từ 110 đến 350 ngày sau trồng, liều lượng phân bón đã ảnh hưởng đáng kể đến chiều dài thân chính (P0,05) Tuy nhiên, từ 80 đến 350 ngày sau trồng, liều lượng phân bón khác nhau có ảnh hưởng rõ rệt đến tốc độ ra nhánh cấp 1 và cấp 2 của cây (P0,05) Tuy nhiên, từ 120 ngày trở đi, có thể sẽ có những biến đổi đáng chú ý trong hiệu quả của các công thức này.
340 ngày sau trồng, các mức phân bón khác nhau có sự sai khác có ý nghĩa đối với đường kính gốc của ba kích (P