Khóa luận được nghiên cứu với mục tiêu nhằm mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của ung thư phổi không tế bào nhỏ ở bệnh nhân trên 70 tuổi tại Bệnh viện Bạch Mai. Mô tả một số yếu tố liên quan đến tiên lượng bệnh ở nhóm đối tượng trên.
TỔNG QUAN
Ung thư phổi không tế bào nhỏ
Ung thư phổi (UTP) là một loại bệnh lý nghiêm trọng, đặc trưng bởi sự hình thành khối u ác tính trong mô phổi, có nguồn gốc từ các tế bào biểu mô niêm mạc phế quản, phế nang, tuyến phế quản hoặc các thành phần khác của phổi.
UTP được chia thành hai loại chính: UTP tế bào nhỏ và ung thư phổi không tế bào nhỏ (UTPKTBN) Trong đó, UTPKTBN được phân loại thành ung thư biểu mô tuyến, ung thư biểu mô vảy, ung thư biểu mô tế bào lớn và loại không xác định.
1.1.2 Tình hình ung thư phổi trên Thế giới và tại Việt Nam
1.1.2.1 Trên Thế giới Ở thế kỷ 20, UTP hiếm gặp, mổ tử thi ở Hoa Kỳ và Tây Âu năm 1916, Adler tìm thấy UTP ở 50 % thời gian ban ngày
Điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ
Phẫu thuật là phương pháp điều trị triệt căn duy nhất cho ung thư tuyến tiền liệt bàng quang (UTPKTBN) ở các giai đoạn 0, I, II, IIIA, nhằm mục đích cắt bỏ hoàn toàn khối u và nạo vét hạch lympho xung quanh Trong một số trường hợp, có thể cần mở rộng cắt bỏ các cấu trúc bị xâm lấn.
Phẫu thuật thường áp dụng đối với trường hợp u khu trú, không xâm lấn trung thất, không di căn xa ở bệnh nhân trẻ và toàn trạng tốt [3]
Khi bệnh nhân từ chối phẫu thuật, hóa chất, xạ trị có thể được sử dụng như là phương pháp triệt căn cho giai đoạn I, II và IIIA [5]
Xạ trị có thể được thực hiện trước phẫu thuật để giảm kích thước khối u ở giai đoạn IIIB, hoặc sau phẫu thuật trong các trường hợp không thể cắt bỏ hoàn toàn tổ chức ung thư ở giai đoạn II và IIIA.
Ngoài ra xạ trị còn giúp giảm đau, chống chèn ép hoặc xạ trị toàn não [5]
Điều trị hóa chất nhằm mục đích điều trị bệnh khi đã di căn toàn thân, bao gồm di căn hạch và di căn xa từ vị trí u ban đầu Phương pháp này thường áp dụng cho các giai đoạn muộn của bệnh, cụ thể là giai đoạn IIIA, IIIB và IV Việc xác định giai đoạn bệnh là rất quan trọng trong quá trình điều trị.
IB và IIA một cách thận trọng [5]
1.2.4 Điều trị đích Áp dụng cho giai đoạn IV, tái phát, thất bại sau hóa trị và ung thư biểu mô tuyến có đột biến gen EGFR dương tính [5]
Thuốc ức chế EGFR (TKIs) như Erlotinib (Tarceva) và gefitinib (Iressa), cùng với thuốc ức chế phát triển mạch máu Bevacizumab (Avastin), được chỉ định cho bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ (UTPKTBN) giai đoạn muộn với tình trạng di căn.
Các nghiên c ứu về hiệu quả điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ ở bệnh nhân trên 70 tu ổi
1.3.1 Trên Th ế giới Ở người trên 70 tuổi xuất hiện nhiều bệnh kèm theo, bao gồm cả suy giảm chức năng gan hoặc thận đã ảnh hưởng lớn đến kết quả điều trị Nhiều nghiên cứu đánh giá hiệu quả và an toàn của điều trị hóa chất ở người trên 70 tuổi chỉ ra toàn trạng và bệnh kèm theo đóng vai trò quan trọng trong tiên lượng bệnh, chứ không phải là tuổi [14]
Nghiên cứu của Sabrina Rossi (2016) đánh giá thời gian sống không tiến triển ở 49 bệnh nhân UTPKTBN có đột biến gen EGFR, điều trị bằng TKIs, được chia thành hai nhóm tuổi: dưới 70 tuổi (29 người) và trên 70 tuổi (20 người) Tỷ lệ sống không tiến triển giữa hai nhóm này đã được so sánh để hiểu rõ hơn về ảnh hưởng của độ tuổi đối với hiệu quả điều trị.
>70 tuổi là 12,6 tháng, so với nhóm người