Khóa luận được nghiên cứu với mục tiêu nhằm xác định nguyên nhân của suy hô hấp ở trẻ sơ sinh non tháng. Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng suy hô hấp ở trẻ sơ sinh non tháng. Mời các bạn cùng tham khảo!
TỔNG QUAN
Định nghĩa và phân loại trẻ sơ sinh non tháng
Trẻ sơ sinh non tháng được định nghĩa là những trẻ ra đời trước 37 tuần tuổi thai và có khả năng sống sót Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), trẻ có thể sống sót nếu được sinh ra từ 22 tuần tuổi hoặc có trọng lượng tối thiểu 500 gram.
Trẻ sơ sinh non tháng được phân loại theo tuổi thai dựa vào kỳ kinh cuối hoặc bảng điểm New Ballard, chia thành ba nhóm.
Đặc điểm sinh lý hệ hô hấp ở trẻ sơ sinh non tháng
1.2.1 Quá trình hình thành và phát triển phổi ở trẻ sơ sinh
Hệ hô hấp của thai nhi bắt nguồn từ mặt trước của ống tiêu hóa nguyên thủy vào tuần thứ 3 và 4, hình thành rãnh thanh khí quản và tiếp tục phát triển qua 5 giai đoạn chính: giai đoạn phôi thai (4-6 tuần), giai đoạn tuyến (7-16 tuần), giai đoạn hình ống tuyến (17-27 tuần), giai đoạn túi (28-35 tuần) và giai đoạn phế nang (từ 36 tuần đến 3 tuổi).
Các phế nang phát triển và hoàn thiện về cấu trúc lẫn chức năng, đóng vai trò quan trọng trong quá trình hô hấp Để duy trì sức căng bề mặt của phế nang sau lần hô hấp đầu tiên, cần có đủ chất surfactant - chất diện hoạt giúp giảm sức căng bề mặt của phế nang.
1.2.2 Đặc điểm sinh lý hệ hô hấp ở trẻ sơ sinh non tháng Đặc điểm chung của trẻ sơ sinh non tháng là chức năng của các cơ quan, bộ phận chưa phát triển hoàn chỉnh Sự thiếu sót về sự trưởng thành của các hệ cơ quan trong cơ thể nói chung và hệ hô hấp nói riêng dẫn đến khả năng thích nghi của trẻ với môi trường bên ngoài tử cung kém hơn.Ở trẻ non tháng, trung tâm hô hấp chưa hoàn chỉnh, bất kỳ tình trạng nào gây thiếu oxy máu, dẫn đến nồng độ CO2 máu tăng cao đều có thể ức chế trung tâm hô hấp, gây rối loạn nhịp thở, thở rên, thở không đều, kiểu Cheyne - Stock, thời gian ngừng thở dài (7- 10 giây) Tình trạng này có thể kéo dài 2 - 3 tuần sau sinh hoặc lâu hơn tùy mức độ non tháng [5]
Phổi của trẻ sinh non chưa phát triển đầy đủ cả về cấu trúc lẫn chức năng, khiến chúng dễ bị tổn thương do áp lực và thể tích trong quá trình thở máy, cũng như do viêm nhiễm Ở những trẻ non tháng, tổ chức liên kết phát triển mạnh, trong khi tổ chức đàn hồi lại ít, dẫn đến khó khăn trong việc giãn nở của phế nang.
Thời kỳ phôi thai Thời kỳ thai nhi
Phổi của trẻ sinh non có thể tích khí thấp (20-40 ml/kg) so với trẻ đủ tháng (50 ml/kg) và người lớn (80 ml/kg), điều này gây ra khó khăn trong hô hấp Lồng ngực của trẻ đẻ non thường hẹp, xương sườn mềm dễ biến dạng, và cơ liên sườn chưa phát triển đầy đủ, dẫn đến khả năng giãn nở kém và hạn chế di động của lồng ngực.
Hội chứng suy hô hấp ở trẻ đẻ non
SHH là tình trạng suy giảm khả năng trao đổi khí của hệ hô hấp, dẫn đến giảm oxy máu (hypoxemia) và/hoặc tăng CO2 máu (hypercapnia) Hội chứng này có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau, bao gồm bệnh lý tại cơ quan hô hấp hoặc các cơ quan khác Trong số đó, bệnh màng trong (BMT) là nguyên nhân chính, chủ yếu do thiếu tổng hợp surfactant.
Hội chứng SHH ở trẻ đẻ non được phát hiện lần đầu bởi nhà vật lý học người Đức Hochheim vào năm 1903 Đến năm 1947, nhà bệnh lý học Mỹ Gruenwand đã nhấn mạnh tầm quan trọng của xẹp phổi trong BMT và công nhận rằng việc bổ sung hoạt chất bề mặt có thể cải thiện tình trạng này Năm 1959, Avery và Mead đã xác định nguyên nhân bệnh là do giảm sức căng bề mặt phế nang và thiếu surfactant Giải phẫu tử thi của trẻ tử vong do BMT cho thấy phế nang bị xẹp, huyết tương tràn vào phế nang và hình thành lớp màng fibrin bên trong Hiện nay, bệnh vẫn được gọi là BMT và SHH ở trẻ đẻ non để tôn vinh công lao của những người đầu tiên nghiên cứu và phát hiện ra bệnh.
Nguyên nhân hàng đầu dẫn đến SHH và tử vong ở trẻ đẻ non là BMT
Tỉ lệ mắc bệnh thay đổi tuỳ từng nước Tại Mỹ có khoảng 10% trẻ sơ sinh
Trẻ càng non tháng, nguy cơ mắc SHH càng cao Trẻ sơ sinh có tuổi thai dưới
Nguy cơ mắc SHH ở trẻ sinh non ở tuần thứ 29 lên tới 60% và có liên quan đến BMT Tại Ấn Độ, nghiên cứu cho thấy BMT chiếm từ 6,8% đến 14,1% trong số trẻ đẻ non sống, với 32% trong số đó là trẻ có tuổi thai từ 29 đến 30 tuần Ngoài ra, các yếu tố nguy cơ khác bao gồm gia đình có tiền sử trẻ mắc SHH, trẻ sinh mổ không có chuyển dạ, trẻ sinh ra từ mẹ mắc tiểu đường, cũng như trẻ bị ngạt hoặc viêm ối - màng ối.
Tại Việt Nam, tỷ lệ suy hô hấp cấp ở trẻ sơ sinh non tháng đang ở mức cao, với bệnh màng trong (BMT) là nguyên nhân hàng đầu Nghiên cứu của Nguyễn Thị Kiều Nhi và cộng sự tại Bệnh viện Trung ương Huế cho thấy tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh non tháng lên đến 67,4%, trong đó 12,5% trường hợp tử vong do suy hô hấp cấp.
Nghiên cứu của Phạm Văn Dương và cộng sự về tình hình trẻ em tử vong trước 24 giờ tại Hải Phòng chỉ ra rằng tỷ lệ tử vong do bệnh lý mẹ thai (BMT) đạt 8,24%.
1.3.3 Nguyên nhân suy hô hấp ở trẻ đẻ non [10,20,26,31]
1.3.3.1 Một số nguyên nhân suy hô hấp thường gặp
Bệnh màng trong (BMT) là nguyên nhân hàng đầu gây bệnh lý phổi ở trẻ sơ sinh, chiếm 0,5 - 1% tại Pháp, với tỷ lệ cao nhất ở trẻ dưới 28 tuần tuổi (80%) và giảm xuống còn 5% ở trẻ trên 32 tuần Tại Ấn Độ, tỷ lệ BMT ở trẻ sơ sinh non tháng dao động từ 6,8 - 14,1%, trong đó trẻ 29 - 30 tuần tuổi chiếm 32% Ở Việt Nam, nghiên cứu cho thấy tỷ lệ tử vong do BMT là 8,24% trong số trẻ em tử vong trước 24 giờ tại Hải Phòng BMT xảy ra do thiếu hụt surfactant ở phổi, do phế bào type II tiết ra, và được xác định liên quan đến hai yếu tố chính: đẻ non và thai ngạt trong tử cung.
Hình 1.2 Cơ chế bệnh sinh của BMT theo Farell.P [trích dẫn từ 31]
BMT thường gặp ở trẻ đẻ non và tỉ lệ bệnh tăng theo cân nặng và thời gian xuất hiện bệnh
Hội chứng chậm tiêu dịch phổi
Hội chứng chậm tiêu dịch phổi (SHH) thường xảy ra ở trẻ sơ sinh có tiền sử mổ đẻ, đặc biệt là trong các trường hợp mổ khẩn cấp như vỡ tử cung Tỷ lệ mắc hội chứng này là 1-2% ở trẻ đủ tháng và lên đến 9% ở trẻ có mẹ mổ lấy thai Bệnh thường tự khỏi mà không để lại di chứng Nghiên cứu tại Mỹ cho thấy tỷ lệ mắc SHH do hội chứng chậm tiêu dịch phổi chiếm 33-50%, trong khi nghiên cứu của Saeed Zaman và cộng sự cho thấy đây là nguyên nhân phổ biến nhất gây SHH với tỷ lệ 35,7% Ở những bệnh nhân này, dịch còn tồn tại trong lòng phế nang gây cản trở hô hấp.
Trẻ em có triệu chứng thở nhanh trên 80 lần/phút, kèm theo thở rên và co kéo cơ hô hấp, thường kéo dài từ một đến vài giờ Bệnh tình thường tiến triển thuận lợi trong vòng dưới 24 giờ.
X-quang sớm: thấy hình ảnh hội chứng kẽ, dày rãnh liên thùy Phổi kém sáng do phế nang chứa nhiều dịch Có thể thấy ít dịch ở góc màng phổi
Hội chứng hít phân su (Meconium aspiration syndrome)
Hít phân su ở trẻ sơ sinh chiếm tỷ lệ từ 9-25%, với khoảng 5-10% trẻ sinh ra trong nước ối nhuốm phân su bị hội chứng hít phân su (MAS), trong đó gần 50% cần hỗ trợ thở máy Nghiên cứu tại Mỹ cho thấy tỷ lệ hít phân su ở trẻ sinh non dưới 34 tuần tuổi lên đến 8-25% Theo nghiên cứu của Saeed Zaman năm 2013, tỷ lệ trẻ bị suy hô hấp do hít phân su là 17,9% Trẻ thường có dấu hiệu thở sớm trước khi sinh do bị suy thai, dẫn đến việc hít phải nước ối Sau khi sinh, trẻ có thể bị ngạt tím, với mũi miệng và da dính nước ối lẫn phân su, thậm chí cả trong dịch dạ dày Khi kiểm tra phổi, có thể nghe thấy ran ứ đọng và đôi khi không có thông khí, khiến trẻ dễ bị toan máu và nhịp tim nhanh.
Trẻ có thể bị nhiễm khuẩn phổi trong hoặc sau khi sinh, thường do nhiễm trùng bào thai và có thể dẫn đến các biến chứng nghiêm trọng như nhiễm khuẩn máu và nhiễm khuẩn toàn thân Đây là một tình trạng bệnh lý phổ biến và là nguyên nhân hàng đầu gây suy hô hấp ở trẻ Mặc dù theo thống kê của Alok Kumar, tỉ lệ nhiễm khuẩn phổi đang giảm dần qua các năm, nhưng vẫn chiếm tỉ lệ cao (17,0%).
Các vi khuẩn gây bệnh thường gặp: Liên cầu, vi khuẩn Gram (-) có sẵn ở bộ phận sinh dục của người mẹ
- Do tắc nghẽn đường hô hấp trên: tắc lỗ mũi sau, thông thực quản- khí quản, hội chứng Piere- Robin,…
Bệnh đường hô hấp dưới bẩm sinh như bất sản phổi, thiểu sản phổi và phổi chưa trưởng thành có thể gây ra nhiều vấn đề nghiêm trọng Ngoài ra, các bệnh mắc phải như hội chứng hít phân su, hội chứng chậm tiêu dịch phổi, nhiễm khuẩn phổi, tràn khí và tràn dịch màng phổi cũng là những nguyên nhân phổ biến dẫn đến tình trạng suy hô hấp ở trẻ em.
- Bệnh tim bẩm sinh: Chuyển gốc các động mạch lớn, thiểu năng thất trái, hẹp động mạch chủ,…
- Bệnh của hệ thần kinh: phù não, xuất huyết não- màng não, mẹ bị gây mê, dùng thuốc an thần,…
- Chuyển hóa: hạ đường huyết, hạ calci huyết, hạ magie huyết, toan máu,…
- Các nguyên nhân khác: thoát vị cơ hoành, nhược cơ tiên phát hoặc thứ phát,…
1.3.4 Lâm sàng và cận lâm sàng suy hô hấp ở trẻ đẻ non[1,5,11,25]
* Các triệu chứng chính: SHH biểu hiện chủ yếu bởi 3 dấu hiệu chính:
Khó thở ở trẻ em có thể biểu hiện qua nhiều dấu hiệu như thở nhanh (≥ 60 lần/phút), thở chậm (< 30 lần/phút), hoặc có cơn ngừng thở do tắc nghẽn đường thở Ngoài ra, thở rên, chủ yếu là thở ra, có thể nghe thấy bằng tai hoặc ống nghe cũng là một triệu chứng quan trọng Rối loạn nhịp thở là một biểu hiện đặc trưng của suy hô hấp ở trẻ, đặc biệt là khi trẻ mắc bệnh màng trong (BMT), dẫn đến xẹp phế nang, giảm diện tích trao đổi khí, thiếu oxy và tăng CO2 máu Điều này kích thích trung tâm hô hấp, làm tăng nhịp thở, nhưng ở trẻ đẻ non, khả năng điều hòa nhịp thở kém, dẫn đến cơn ngừng thở sau một thời gian ngắn Theo nghiên cứu của Phạm Thị Ngọc, có 49,9% trẻ thở nhanh và 29,4% trẻ thở chậm kèm theo cơn ngừng thở.
Thở rên là dấu hiệu phổ biến ở trẻ sinh non mắc Bệnh màng trong (BMT), giúp duy trì dung tích cặn chức năng của phổi Khi gặp tình trạng suy hô hấp (SHH), trẻ phải nỗ lực để giữ khí trong phổi bằng cách khép dây thanh âm, dẫn đến âm thanh thở rên Ở trẻ bị BMT, phổi thường bị xẹp do thiếu surfactant, khiến thở rên trở nên thường gặp Một nghiên cứu tại Hải Phòng cho thấy tỷ lệ thở rên đạt 87,9%, tương tự như kết quả nghiên cứu của Nguyễn Văn Tuấn.
Rút lõm lồng ngực mạnh là triệu chứng phổ biến trong suy hô hấp, với tỷ lệ gặp lên tới 80,4% ở bệnh nhân, theo nghiên cứu của Phạm Thị Ngọc Tuy nhiên, ở một số trẻ em, do thở nhanh và nông, dấu hiệu này có thể khó nhận diện trong lâm sàng.
Tím tái, xuất hiện quanh môi, đầu chi hoặc toàn thân, là dấu hiệu do PaO2 trong máu động mạch giảm dưới 60mmHg Nghiên cứu của Phạm Thị Ngọc tại Bệnh viện trẻ em Hải Phòng cho thấy tím là triệu chứng lâm sàng phổ biến, chiếm 60,3% trường hợp ở bệnh nhân bị bệnh mãn tính Triệu chứng tím có thể xuất hiện muộn, do đó không nên chờ đến khi có dấu hiệu tím mới chỉ định cho trẻ thở oxy Việc chỉ định thở oxy sớm là cần thiết, vì nếu PaO2 giảm dưới 50mmHg, có thể dẫn đến tình trạng thiếu oxy tế bào não, gây ra di chứng thần kinh và tinh thần nghiêm trọng, thậm chí tử vong.
* Biểu hiện ở các cơ quan khác:
Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam và trên thế giới
Năm 1999, Yusuf và nhóm nghiên cứu đã thực hiện đánh giá hồ sơ và kết quả điều trị của trẻ sơ sinh bị hội chứng SHH tại Bệnh viện Đại học Aga Khan ở Karachi, Pakistan.
Tỉ lệ tử vong chung của trẻ sơ sinh có SHH là 41%, với tỉ lệ cao nhất 70% ở trẻ sơ sinh có cân nặng dưới 1000g khi sinh (P = 0.003) Ngoài ra, giá trị AaDO2 nhập viện trên 400 (P = 0.001) và sự phát triển suy thận cấp có nguy cơ tương đối RR 2,6 (95% CI 1,3-5,2), cùng với tràn khí màng phổi có RR 3,7 (95% CI 1,8-7,7) cũng được ghi nhận là những yếu tố ảnh hưởng đáng kể đến tỉ lệ tử vong.
Nghiên cứu của Alok Kumar và cộng sự năm 1996 trên 4050 trẻ sơ sinh cho thấy tỉ lệ suy hô hấp (SHH) nhập viện là 6,7%, trong đó trẻ đẻ non có tỉ lệ SHH cao nhất với 30,0%, và trẻ già tháng là 20,9% Tỷ lệ SHH theo tuổi thai cho thấy 100% trẻ dưới 26 tuần tuổi có SHH, 57,14% ở nhóm 32 tuần, và chỉ 3,70% ở nhóm 36 tuần Đặc biệt, tỉ lệ tử vong do SHH lên tới 43,61%.
Nghiên cứu của Saeed Zaman và cộng sự vào năm 2008 đã tiến hành trên 659 trẻ sơ sinh được chuyển đến Bệnh viện Quân đội Hoàng gia Sharurah, Saudi Arabia, trong vòng 12 tháng, cho thấy tỉ lệ mắc hội chứng SHH là 4,24%.
Tỉ lệ hiện mắc là 19,7% ở trẻ non tháng[45]
Nghiên cứu của Ghafoor và CS năm 2003 trên đối tượng 94 trẻ sơ sinh có SHH, tỉ lệ trẻ đẻ non chiếm 93,61% [trích dẫn từ 45]
Vào năm 2015, Maryam Saboute và cộng sự đã công bố một nghiên cứu tại khoa Hồi sức tích cực của Bệnh viện Akbarabadi ở Tehran, Iran, vào mùa xuân Nghiên cứu này đã chia tất cả các đối tượng thành ba nhóm: cực kỳ non tháng (dưới 28 tuần), rất non tháng (từ 28 đến dưới 32 tuần) và non tháng vừa phải.
Tại thời điểm 32 đến 34 tuần, tỉ lệ mắc hội chứng suy hô hấp (SHH) ở trẻ sơ sinh đạt 65,6%, nhưng không có sự khác biệt về tỉ lệ mắc SHH giữa các nhóm Có mối quan hệ tỉ lệ nghịch giữa tuổi thai và tỉ lệ tử vong (p = 0,05) Thời gian sử dụng Betamethasone trước sinh ở nhóm trẻ sống dài hơn so với nhóm trẻ tử vong (p < 0,05).
Nghiên cứu của tác giả Lê Phúc Phát và cộng sự tại Bệnh viện Nhi Trung ương từ tháng 11/1990 đến tháng 11/1997 cho thấy có 159 trường hợp sơ sinh tử vong do BMT, chiếm 16,61% tổng số tử vong chu sinh qua giải phẫu bệnh.
Nghiên cứu của Phạm Văn Dương và cộng sự về tình hình trẻ em tử vong trước 24 giờ tại Hải Phòng chỉ ra rằng tỷ lệ tử vong do bệnh màng não (BMT) là 8,24% Trong khi đó, nghiên cứu của Đinh Phương Hòa vào năm 2005 cho thấy tỷ lệ này là 5,8%.
Năm 2015, nghiên cứu của Trần Văn Sơn và CS tại Bệnh viện Sản Nhi
Tại Cà Mau, trong số 308 trẻ sơ sinh non tháng nhập viện tại khoa Sơ sinh, tỷ lệ mắc bệnh BMT đạt 44,81% Tỷ lệ này tăng theo tuổi thai, với mỗi nhóm tuổi thai cao hơn làm tăng nguy cơ mắc bệnh lên đến 2,5 lần Đặc biệt, trẻ rất nhẹ cân có tỷ lệ mắc BMT lên tới 87,18% Ngoài ra, mẹ vỡ ối sớm có tỷ lệ mắc bệnh là 61,36%, trong khi việc sử dụng corticoid trước sinh có thể giảm nguy cơ mắc BMT đến 2,32 lần so với nhóm không sử dụng corticoid.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tƣợng nghiên cứu
Tất cả trẻ sơ sinh non tháng vào điều trị với chẩn đoán xác định suy hô hấp tại Đơn nguyên sơ sinh - Bệnh viện Sản Nhi Bắc Ninh.
Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Thời gian nghiên cứu: từ 01/06/2017 đến tháng 31/12/2017 Địa điểm nghiên cứu: Đơn nguyên sơ sinh – Bệnh viện Sản Nhi Bắc Ninh
2.2.1 Tiêu chuẩn lựa chọn bệnh nhân:
Gồm các bệnh nhân vào viện với các tiêu chuẩn sau:
- Tuổi thai từ 24-37 tuần tuổi thai theo thang điểm New Ballard (phụ lục 4)
- Được chẩn đoán suy hô hấp sơ sinh theo Surg Mathaivà CS(2007): chẩn đoán Suy hô hấp khi có ít nhất một trong các biểu hiện sau [41]
Khó thở có thể biểu hiện qua việc bỏ bú, thở nhanh với tần suất ≥ 60 lần/phút, hoặc thở chậm dưới 30 lần/phút Ngoài ra, cơn ngừng thở dài do tắc nghẽn đường thở hoặc tình trạng suy kiệt, đuối sức sau một thời gian thở nhanh cũng là dấu hiệu cần chú ý.
+ Rút lõm lồng ngực nặng hoặc có sự hỗ trợ của các cơ hô hấp phụ + Nghe phổi có thể có tiếng thở rên
SHH có thể có hoặc không liên quan đến tình trạng tím tái hoặc giảm độ bão hòa oxy máu động mạch
Cận lâm sàng: biểu hiện của SHH: pH dưới 7,3; PaO2 giảm dưới 50mmHg, PaCO2 tăng trên 70mmHg
- Gia đình trẻ đồng ý tham gia nghiên cứu
Những trẻ có dị tật bẩm sinh nặng, những gia đình từ chối hoặc không hợp tác trong quá trình thu thập số liệu làm điều tra.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả cắt ngang
2.3.2 Cỡ mẫu và cách chọn mẫu
- Cỡ mẫu: Áp dụng công thức ước lượng cho một tỉ lệ [7]:
Nghiên cứu này yêu cầu số bệnh nhân tham gia là n, với tỷ lệ SHH ở trẻ đẻ non được chọn là p = 0,197, dựa trên nghiên cứu của Saeed Zaman Để đảm bảo độ chính xác, khoảng sai lệch cho phép được xác định là d = 0,05.
Z1 - /2: Giá trị tới hạn phân bố chuẩn, với = 0,05 ta có Z1 - /2 = 1,96
Theo công thức tính cỡ mẫu, cần 243 trẻ em tham gia nghiên cứu, nhưng do thời gian nghiên cứu hạn chế, chúng tôi chỉ thu thập được 200 bệnh nhi, đây là một trong những hạn chế của đề tài này.
- Chọn mẫu thuận tiện: toàn bộ trẻ sơ sinh đẻ non đủ tiêu chuẩn nghiên cứu và không có tiêu chuẩn loại trừ đều được đưa vào nghiên cứu
2.3.3 Các bước tiến hành nghiên cứu
Tại Đơn nguyên Sơ sinh - Bệnh viện Sản Nhi Bắc Ninh, các bệnh nhi sơ sinh non tháng được khám lâm sàng và tiến hành xét nghiệm cận lâm sàng Thông tin từ bà mẹ được thu thập thông qua phỏng vấn trực tiếp hoặc bằng phiếu nghiên cứu đã thiết kế sẵn Những trường hợp đủ tiêu chuẩn chẩn đoán SHH sẽ được đưa vào nghiên cứu.
2.3.4 Các biến số nghiên cứu
Bệnh nhân không đủ tiêu chuẩn
Xác định nguyên nhân gây SHH
Tất cả các trẻ sơ sinh non tháng có biểu hiện SHH
Bệnh nhân đủ tiêu chuẩn chẩn đoán xác định SHH
Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng theo nguyên nhân gây SHH
(3) Tuổi thai: đánh giá dựa trên bảng điểm New Ballard (Phụ lục 2) tính theo tuần, chia làm 3 nhóm :
(4) Cân nặng lúc sinh (tính bằng gram), chia làm 3 nhóm
Trong quá trình mang thai, việc sử dụng thuốc cần được cân nhắc kỹ lưỡng, bao gồm các loại thuốc giữ thai, thuốc điều trị cao huyết áp, thuốc đái tháo đường và các thuốc nội tiết, vì chúng có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của thai nhi.
(1) Đánh giá ngạt sau sinh qua chỉ số Apgar, chia thành 3 nhóm dựa vào tổng số điểm Nếu tổng số điểm:
(2) Mức độ SHH khi vào viện: theo chỉ số Silverman Chia thành 3 nhóm theo tổng số điểm:
Trong quá trình khám lâm sàng, cần chú ý đến tần số thở, sự co kéo của các cơ hô hấp, và phát hiện các triệu chứng như cơn ngừng thở, thở rên và tím tái Nghe phổi cũng rất quan trọng để đảm bảo thông khí đều hai bên trước khi bơm surfactant Ngoài ra, khám tim mạch bao gồm việc kiểm tra tần số tim và phát hiện tiếng thổi ở tim.
(4) Theo dõi SpO2: độ bão hòa oxy qua mao mạch, được đo bằng monitoring
(5) Tần số thở (lần/phút): Thở nhanh theo tiêu chuẩn của WHO trẻ nhỏ hơn 2 tháng: ≥ 60 lần/ phút [11,31]
Chia làm 2 nhóm: + 40 - < 60 lần/phút
+ ≥ 60 lần/ phút hoặc < 40 lần/phút
(6) Tần số tim (lần/phút): được đo trên monitor; nhịp tim nhanh ≥ 160 lần/phút [26]
Chia làm 2 nhóm: + 100- < 160 lần/phút
- Biến số cận lâm sàng:
Khí máu động mạch được lấy từ động mạch quay hoặc catheter động mạch rốn, sử dụng máy đo khí máu NOVA Biomedical tại đơn vị Sơ sinh Bệnh viện Sản nhi Bắc Ninh Quá trình xét nghiệm khí máu diễn ra ngay trong giờ đầu khi bệnh nhân nhập viện, với các thông số quan trọng bao gồm pH máu, PaO2, PaCO2, HCO3 và BE.
Giá trị bình thường của khí máu [26]
Bảng 2.1 Chỉ số bình thường pH 7.35- 7.45
Sai số và cách khống chế sai số
Việc thu thập thông tin dựa vào bệnh án nghiên cứu được thiết kế sẵn có thể gặp sai số do sự không đồng nhất giữa các mẫu.
- Hướng dẫn cẩn thận và đầy đủ về cách điền phiếu khảo sát cho điều tra viên, nói cho đối tượng hiểu về mục đích sử dụng thông tin
Nhóm nghiên cứu tiến hành kiểm tra các phiếu điều tra ngay sau khi hoàn tất phỏng vấn và thu thập Đối với những phiếu thông tin thu thập không đầy đủ hoặc không hợp lý, nhóm nghiên cứu sẽ yêu cầu bổ sung ngay lập tức.
Xử lý và phân tích số liệu
Sau khi thu thập, số liệu sẽ được làm sạch và nhập vào máy tính thông qua phần mềm Epidata 3.1, sử dụng bộ nhập đã được thiết kế sẵn từ bộ câu hỏi phỏng vấn.
- Các phân tích sẽ được thực hiện bằng phần mềm SPSS 22.0 bao gồm + Thống kê mô tả: số lượng; tỉ lệ phần trăm; mode; mean; độ lệch chuẩn…
+ Thống kê suy luận đều được thực hiện với mức ý nghĩa thống kê p