Khóa luận được nghiên cứu với mục tiêu nhằm mô tả đặc điểm lâm sàng của bệnh xơ cứng bì khu trú tại Bệnh viện Da liễu Trung Ương năm 2017. Mô tả đặc điểm cận lâm sàng của bệnh xơ cứng bì khu trú tại Bệnh viện Da liễu Trung Ương năm 2017.
TỔNG QUAN
Giải phẫu mô học, sinh lý học da người
Da là một trong những cơ quan lớn, chiếm tới khoảng 6% trọng lượng cơ thể Một người trưởng thành nặng 60kg thì trọng lượng của da khoảng 4kg
Nếu tính cả hạ bì và mô mỡ trọng lượng da khoảng 15kg Da người lớn có độ dày từ 1,5 – 4mm; diện tích 1,5m 2 – 1,8m 2 – 2m 2
Da bao bọc toàn bộ diện tích bề mặt cơ thể và được cấu tạo từ ba lớp chính: lớp biểu bì ở trên cùng, lớp chân bì bên dưới, và lớp hạ bì lỏng lẻo hơn nằm dưới chân bì Ở một số vùng, hạ bì chuyển thành mô mỡ dưới da và kết nối lỏng lẻo với các màng sâu hơn như màng cơ và màng xương Ngoài ra, da còn tiếp xúc với niêm mạc của môi, mũi, mi mắt, âm hộ, bao quy đầu và hậu môn Da cũng có các thành phần phụ như lông, tuyến và móng.
1.1.1 Giải phẫu mô học da người [1, 3, 25]
Da người có ba lớp: thượng bì, trung bì và hạ bì
Thượng bì là một biểu mô vảy có nhiều lớp, dày khoảng 0,1mm, ở lòng bàn tay, bàn chân khoảng 0,8 – 1,4mm
Tế bào chính của thượng bì là tế bào sừng (keratinocyte), chịu trách nhiệm sản xuất chất sừng (protein keratin) Thượng bì được chia thành 4 lớp từ dưới lên, bao gồm lớp đáy, lớp gai, lớp hạt và lớp sừng Đặc biệt, lòng bàn tay và bàn chân có 5 lớp, trong đó có thêm lớp sáng Lớp đáy (stratum basale) còn được gọi là lớp cơ bản hoặc lớp sinh sản (basal cells).
Lớp sâu nhất của thượng bì gồm các tế bào hình trụ nằm ngay trên màng đáy, với nhân hình bầu dục ở giữa Nguyên sinh chất của tế bào này chứa hạt melanin, có tính ưa kiềm.
Trong lớp biểu bì, xen kẽ giữa các tế bào cơ bản là các tế bào sắc tố (melanocyte) có nhiệm vụ sản xuất sắc tố Tế bào sắc tố chiếm khoảng 5-10% tổng số tế bào đáy và thường tập trung nhiều ở mặt và những vùng tiếp xúc với ánh sáng, đồng thời là nguồn gốc của các mào thần kinh.
Copyright @ School of Medicine and Pharmacy, VNU
Ở lớp đáy, tế bào Meckel được tìm thấy, có liên quan đến các sợi thần kinh da và đóng vai trò cảm giác Các tế bào đáy được kết nối với nhau thông qua desmosome và liên kết chặt chẽ với màng đáy nhờ hemidesmosome.
Lớp đáy của da sản xuất tế bào mới để thay thế các tế bào cũ đã biệt hóa, góp phần vào sự đổi mới của thường bì Thông thường, quá trình biệt hóa từ tế bào đáy đến lớp sừng mất khoảng 4 tuần (28 ngày) Tuy nhiên, ở một số bệnh nhân mắc bệnh như vảy nên hoặc vảy phấn, quá trình này diễn ra nhanh hơn, chỉ khoảng 3 tuần Lớp gai (stratum spinosum) cũng đóng vai trò quan trọng trong cấu trúc da.
Lớp gai, hay còn gọi là lớp nhày, lớp malpighi, là lớp tế bào hình đa diện được hình thành từ sự di chuyển của các tế bào Nguyên sinh chất của lớp này bắt màu toan, trong khi nhân tế bào có hình bầu dục và có hốc sáng Các tế bào gai nằm sát nhau và được kết nối bởi các cầu nối gian bào, được gọi là các gai.
Lớp spinosum giúp thượng bì trở nên vững chắc, ngăn ngừa sự thẩm thấu nước từ môi trường bên ngoài vào cơ thể và hạn chế sự thoát nước từ cơ thể ra ngoài Đồng thời, lớp này cũng có khả năng chống lại các tác nhân có hại từ môi trường như sinh học, cơ học, lý học và hóa học Bên cạnh đó, lớp hạt (stratum granulosum) đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì sức khỏe của da.
Lớp tế bào hạt (granular cells) gồm bốn hàng tế bào dẹt hơn tế bào gai
Nhân tế bào trở nên sáng hơn và có dấu hiệu thoái hóa, với hình dạng dẹt do sự phân hủy bởi các men thủy phân Các chất nhiễm sắc bị vón cục, trong khi nhân sáng chứa nhiều hạt Nguyên sinh chất có nhiều hạt keratohyalin, được hình thành từ mỡ và sợi tơ keratin (tonofibril) Giữa các tế bào lớp hạt, các cầu nối gian bào xuất hiện ngắn hơn và to hơn so với cầu nối ở lớp gai.
Lớp hạt là lớp tế bào thượng bì cuối cùng còn nhân và cầu nối d) Lớp sáng (stratum lucidum)
Lớp sáng, nằm giữa lớp hạt và lớp sừng, gồm 2-3 hàng tế bào dẹt song song với bề mặt da Tại lớp này, các tế bào không có nhân và nguyên sinh chất, chỉ chứa những sợi Lớp sáng chỉ xuất hiện ở lòng bàn tay và bàn chân.
Các vùng da khác không có lớp sáng
Copyright @ School of Medicine and Pharmacy, VNU e) Lớp sừng (stratum corneum)
Lớp tế bào sừng (hory cells) là lớp ngoài cùng của thượng bì, có độ dày khoảng 1 micromet, là kết quả của quá trình biệt hóa tế bào thượng bì Tế bào sừng là những tế bào dẹt, không có nhân, chứa đầy mảnh sừng và mỡ, tạo thành một màng bảo vệ cơ thể khỏi nước và tác động từ môi trường, đồng thời ngăn ngừa mất nước Độ dày của lớp sừng thay đổi tùy theo vùng da; ví dụ, lớp sừng ở lòng bàn tay và bàn chân dày hơn so với các vùng da khác Các tế bào sừng bên ngoài thường tách rời và bong ra liên tục, tạo thành những vảy nhỏ như phấn, kết hợp với mồ hôi và chất bã để hình thành ghét.
Trung bì bao gồm các lớp, trong đó lớp trung bì nông (papillary dermis) là lớp nuôi dưỡng quan trọng Lớp này có các gai nhô lên, được gọi là nhú bì hay gai bì (papille), thâm nhập sâu vào thượng bì.
Các gai do tổ chức liên kết non tạo thành, chứa nhiều mao mạch, với chiều cao và kích thước nhú bì khác nhau tùy theo vùng da Ở lòng bàn tay và bàn chân, các nhú có thể cao tới 0,2mm, trong khi ở da mặt, lớp nhú rất mỏng Trung bì chính thức, hay còn gọi là trung bì sâu (reticular dermis), là lớp da tiếp theo.
Trung bì chính thức gồm có:
+ Sợi keo hay còn gọi là sợi hồ (collagen fiber) Đó là những sợi thẳng không phân nhánh, dài vài micron Cấu tạo bởi những chuỗi polypeptid, gồm
Sợi keo chủ yếu được cấu tạo từ 20 loại acid amin, trong đó glycin và argenin là hai loại quan trọng nhất Chúng có khả năng bị phá hủy bởi men collagenase do vi khuẩn tiết ra, nhưng sẽ được thay thế bằng các sợi mới Sợi keo đóng vai trò quan trọng trong việc giữ cho da vững chắc trước các tác động cơ học, lý học và hóa học từ môi trường Chúng tập trung chủ yếu ở trung bì sâu, cũng như một phần nhỏ ở nhú bì, nang lông, tuyến bã, tuyến mồ hôi và quanh mạch máu.
Sợi chun, hay còn gọi là sợi đàn hồi, là những sợi mỏng, nhẵn và có cấu trúc phân nhánh lượn sóng Chúng được tạo ra từ sợi keo và có khả năng bắt màu đen khi nhuộm bạc, cũng như màu nâu khi nhuộm bằng accin.
Copyright @ School of Medicine and Pharmacy, VNU
Sợi lưới: tạo thành mạng lưới mỏng bao quanh mạch máu, tuyến mồ hôi, cấu trúc giống sợi keo
Sợi liên võng (reticulum fiber): là dạng đặc biệt của sợi tạo keo, tập trung ở trung bì nông, phần phụ của da, mạch máu
Các chất cơ bản là một màng nhày gồm tryptophan; tyrosin; mucopolysaccharid; hyaluronic
Các tế bào xơ hình thoi hoặc hình amíp, có nhân to hình bầu dục, chứa nhiều hạt ty lạp thể, có tác dụng làm da lên sẹo
Tổ chức bào hình thoi hoặc hình sao, nó có thể biến thành thực bào, đại thực bào
Dưỡng bào (mastocyte) tham gia quá trình chuyển hóa heparin, histamin, acid hyaluronic
Mạch máu, trung bì chỉ có những mạch máu nhỏ tập trung ở gai bì và quanh các tuyến
Thần kinh: Ở da có hai loại thần kinh:
Thần kinh não tủy có vỏ myêlin, có nhánh đi riêng
Thần kinh giao cảm không có vỏ myêlin chạy trong các bao mạch máu
Tổng quan tài liệu về xơ cứng bì khu trú
Một dạng bệnh với triệu chứng dày da được nhắc tới lần đầu tiên từ rất sớm, từ năm 400 trước công nguyên bởi Hippocrates Thuật ngữ
Scleroderma, tên gọi xuất phát từ tiếng Hy Lạp với "sklero" có nghĩa là cứng và "derma" nghĩa là da, là một bệnh tự miễn dịch đặc trưng bởi triệu chứng dày lên của da.
Bệnh xơ cứng bì, được đặt tên bởi bác sĩ người Pháp Gintrac vào năm 1847, đã được Thomas Addison mô tả chi tiết lần đầu tiên vào năm 1854 như một hội chứng có biểu hiện sẹo của Alibert Đến năm 1924, Matsui đã mô tả hình ảnh mô bệnh học điển hình của bệnh này, với sự tăng collagen và dày thành mạch máu trong da Năm 1930, O’Leary và Nomland đã phân tích và chỉ ra các điểm khác nhau giữa xơ cứng bì khu trú và xơ cứng bì toàn thể.
Mặc dù xơ cứng bì khu trú (Morphea) đã được công nhận là một vấn đề rõ ràng, nhưng nghiên cứu về đặc điểm dịch tễ của bệnh này vẫn còn hạn chế Tại Mỹ, nghiên cứu đáng chú ý nhất về Morphea được thực hiện tại Olmsted, Minnesota.
Từ năm 1960 đến 1993, tỷ lệ mắc bệnh đạt 27 người trên 1 triệu dân mỗi năm, với xu hướng tăng dần theo từng năm Nghiên cứu cho thấy 56% bệnh nhân có tổn thương da dạng mảng bám, 20% dạng dải, 13% dạng kết hợp, và 11% tổn thương sâu.
Tỷ lệ mắc bệnh XCBKT gia tăng theo độ tuổi, với 500 ca trên một triệu dân ở tuổi 18 và 2200 ca trên một triệu dân ở tuổi 80 Bệnh này phổ biến hơn ở phụ nữ so với nam giới, với tỷ lệ mắc khoảng 2,6/1, ngoại trừ dạng dải của XCBKT, biểu hiện tương đương ở cả hai giới.
Trong nghiên cứu tại Olmsted, tỷ lệ sống sót của bệnh nhân mắc XCBKT không khác biệt đáng kể so với tỷ lệ sống chung của dân số, cho thấy đây không phải là một bệnh nguy hiểm tới tính mạng Tuy nhiên, 11% bệnh nhân gặp phải tình trạng tàn tật ở nhiều mức độ, đặc biệt là ở dạng dải của XCBKT, thường khởi phát sớm.
18 tuổi (ở khoảng hai phần ba bệnh nhân) [10]
Căn nguyên và cơ chế bệnh sinh của XC KT vẫn chưa được làm rõ Các nghiên cứu về xơ cứng bì hệ thống đã cung cấp thông tin quan trọng về cơ chế bệnh sinh của XC KT, với giả thuyết cho rằng hai rối loạn này có nguồn gốc từ nguyên nhân tương tự Việc thực hiện xét nghiệm mô bệnh có thể giúp hiểu rõ hơn về tình trạng này.
Theo một số tác giả, tổn thương da đơn độc ở bệnh XC KT và XC HT không thể phân biệt được qua kết quả mô bệnh học Hơn nữa, sự tiến triển của tổn thương da ở cả hai bệnh này diễn ra khá tương đồng, cho thấy chúng có chung một số đặc điểm về bệnh sinh và mô bệnh học.
Hiện nay, cơ chế bệnh sinh của XCBKT được hiểu qua ba yếu tố chính có mối liên hệ chặt chẽ: tổn thương mạch máu, sự kích hoạt tế bào lympho T và sự thay đổi trong quá trình sản sinh mô liên kết.
1.2.3.1 Cơ chế tổn thương mạch máu
Một đặc điểm nổi bật trong mô bệnh học của XCBKT là sự giảm số lượng mao mạch Nghiên cứu trên XCBHT cho thấy tổn thương mạch xuất hiện sớm và có thể là nguyên nhân chính gây ra các triệu chứng bệnh Sinh thiết tổn thương XC KT cho thấy giảm mao mạch ở da, bất thường trong cấu trúc thành mạch, tổn thương tế bào nội mô, viêm quanh mạch, và tăng cường hoạt động của nguyên bào sợi quanh mạch Điều này gợi ý rằng rối loạn chức năng mạch máu đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của XC KT.
Các mạch máu bị tổn thương là các mao mạch và tiểu động mạch có đường kính từ 50-500 micron Một giả thiết cho rằng, cơ chế bệnh sinh của
XC KT gây tổn thương lớp nội mạc mạch máu trong giai đoạn viêm, kích thích sản xuất cytokine làm tăng biểu lộ các phân tử kết dính như ICAM-1, VCAM-1 và E-selectin Tổn thương ban đầu thể hiện qua sự dính các phân tử và sưng phù lớp tế bào nội mô, tiếp theo là sự dày lên của lớp đáy, viêm quanh mạch và tăng hoạt động của nguyên bào sợi quanh mạch.
1.2.3.2 Cơ chế kích hoạt tế bào lympho T và Cơ chế làm thay đổi sản sinh của mô liên kết
Khi tế bào lympho T được kích hoạt, chúng tiết ra nhiều Cytokin, ảnh hưởng đến quá trình sản xuất collagen tuýp I, II, III từ các nguyên bào sợi Nghiên cứu của Leroy cho thấy, khi tách nguyên bào sợi từ mô bệnh nhân, có sự gia tăng collagen và một số protein liên kết khác, tình trạng này kéo dài nhiều tuần Kết quả này đặt ra câu hỏi về cơ chế kích hoạt hoạt động của các nguyên bào sợi.
Các dữ liệu hiện có ủng hộ giả thuyết rằng sự tăng hoạt động bất thường của các nguyên bào sợi được điều hòa bởi các tế bào xung quanh.
Hiện nay dữ liệu từ các nghiên cứu [7, 13, 21, 48] đều cho thấy tế bào
T trợ giúp tuýp 2 tiết ra các cytokine như interleukin (IL)-4, IL-5, và IL-13, có vai trò quan trọng trong việc tăng cường hoạt động sản xuất collagen của các nguyên bào sợi.
13, TGF-β, trong khi tế bào T trợ giúp tuýp 1 tiết ra các TGF-α và TGF-γ có tác dụng ức chế nguyên bào sợi
1.2.4 Đặc điểm lâm sàng của xơ cứng bì khu trú 1.2.4.1 Phân loại [4]
Hiện nay, chưa có sự thống nhất trong phân loại XCBKT Các phân loại được sử dụng chủ yếu bao gồm:
Peterson và cộng sự đã chia XC KT thành 5 nhóm Phân loại này đã được chấp nhận và sử dụng rộng rãi
Bảng 1.1 Phân loại theo Peterson và cộng sự năm 1995
Thể lâm sàng Mô tả
- Teo da của Pasini và Pierini
- Dạng dải (thương tổn ở chi và thân mình)
- Dạng teo nửa mặt tiến triển (hội chứng Parry- Romberg)
Dạng toàn thể Dạng lan tỏa
- Viêm cân tăng bạch cầu ái toan
- Dạng xơ cứng toàn bộ ở trẻ nhỏ
Copyright @ School of Medicine and Pharmacy, VNU
Trong hội nghị Padua (Italy) năm 2004, theo Laxer và Zulian XC KT được chia làm 4 nhóm [25, 43]
Bảng 1.2 Phân loại xơ cứng bì khu trú theo Laxer và Zulian
Thể lâm sàng Lâm sàng
Nông Một hoặc nhiều tổn thương hình tròn/oval giới hạn ở thượng bì và trung bì
Một hoặc nhiều tổn thương hình tròn hoặc oval tổn thương bao gồm cả mô dưới da, cân hoặc cơ
Thân mình/chi Tổn thương tiên phát ở mô dưới da, có/ không có tổn thương da, trung bì, cân hoặc cơ Đầu
Vết chém, teo nửa mặt tiến triển, tổn thương dạng dải ở mặt (có thể tổn thương ngay sát trên xương)
≥ 4 mảng tại ít nhất 2 vị trí của 7 vùng giải phẫu
Dạng xơ cứng toàn bộ
Tổn thương dạng mảng xuất hiện trên phần lớn cơ thể, ngoại trừ ngón tay và ngón chân, với tổn thương sâu ở da, mô dưới da, cơ và xương, nhưng không có tổn thương nội tạng.
Dạng hỗn hợp Phối hợp các týp ở trên: ví dụ: dải- mảng
Copyright @ School of Medicine and Pharmacy, VNU
1.2.4.2 Tiến triển tổn thương da [25]
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thời gian nghiên cứu
Địa điểm nghiên cứu
Bệnh viện Da liễu Trung ương
Copyright @ School of Medicine and Pharmacy, VNU
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả cắt ngang, sử dụng số liệu hồi cứu
2.4.3 Các bước tiến hành nghiên cứu 2.4.3.1 Xây dựng bệnh án nghiên cứu: xem phần phụ lục
Hồ sơ cần đầy đủ các tiêu chuẩn về hành chính, lâm sàng và cận lâm sàng
+ Hành chính: tuổi, giới, nghệ nghiệp, nơi ở, tuổi khởi phát, thời gian mắc bệnh
Trong lâm sàng, việc đánh giá các dấu hiệu và triệu chứng là rất quan trọng, bao gồm cả tiền sử và tình trạng hiện tại Các triệu chứng toàn thân như sốt, gầy sút và mệt mỏi cần được ghi nhận, bên cạnh đó là các triệu chứng cơ năng như ngứa và đau Ngoài ra, các biểu hiện trên da và các cơ quan khác cũng đóng vai trò quan trọng trong quá trình chẩn đoán và điều trị.
+ Cận lâm sàng: Bệnh nhân XC KT đến khám được làm xét nghiệm:
- Sinh thiết da, nhuộm HE (theo quy trình của ệnh viện Da liễu Trung Ương)
- Sinh hóa máu: theo thường quy của ệnh viện Da liễu Trung Ương
- Công thức máu: số lượng hồng cầu, bạch cầu và tiểu cầu, chỉ số hemoglobin
- Tổng phân tích nước tiểu để xác định chỉ số protein niệu, hồng cầu niệu, bạch cầu niệu, trụ niệu
- HBsAg, anti-HCV với những bệnh nhân có tăng enzym gan
- XQ, siêu âm nếu nghi ngờ tổn thương xương và nội tạng
- Xét nghiệm ANA bằng phương pháp Hep-2: theo thường quy của ệnh viện Da liễu Trung Ương
- Xét nghiệm ANA, ds DNA và anti Topo-I bằng phương pháp ELISA: Theo thường quy của ệnh viện Da liễu Trung Ương
Copyright @ School of Medicine and Pharmacy, VNU
Sử dụng bảng kiểm, máy móc: máy siêu âm, xét nghiệm huyết học, sinh hóa…
Cách thu thập thông tin: thực hiện theo quy trình sau:
Chọn mẫu bao gồm tất cả các bệnh án được chẩn đoán là xơ cứng bì khi ra viện, đáp ứng đầy đủ tiêu chuẩn lâm sàng với tổn thương da dạng xơ cứng bì và các tiêu chí cận lâm sàng như bằng chứng từ giải phẫu bệnh, miễn dịch học, huyết học và hóa sinh.
Bệnh án nghiên cứu bao gồm các thông tin được thu thập theo mẫu thống nhất, bao gồm tên, tuổi, giới tính, nghề nghiệp, tiền sử bệnh lý và các biểu hiện lâm sàng cũng như cận lâm sàng.
Lấy số liệu từ các xét nghiệm đã thực hiện
+ Điền các thông tin trên vào bảng kiểm (bệnh án nghiên cứu)
2.4.4 Xử lý và phân tích số liệu
Dữ liệu được nhập và phân tích bằng phần mềm SPSS 23.0, với thống kê bao gồm tần số và tỷ lệ được tính toán cho các biến số và chỉ số quan tâm.
Vấn đề đạo đức trong nghiên cứu
Đề tài phải được thông qua Bệnh viện Da liễu Trung Ương
Luôn bảo vệ đối tượng nghiên cứu: đặt quyền lợi, sự an toàn và bảo mật cho đối tượng nghiên cứu lên hàng đầu
Mục đích và lợi ích của nghiên cứu sẽ được giải thích rõ ràng cho tất cả bệnh nhân tham gia Thông tin thu thập sẽ được bảo mật và chỉ được sử dụng cho nghiên cứu này theo quy định pháp luật.
Chỉ tiến hành nghiên cứu trên đối tượng nghiên cứu khi đã được sự chấp thuận của đối tượng nghiên cứu.
Hạn chế của đề tài
- Thời gian nghiên cứu ngắn nên không theo dõi được lâu dài diễn biến của bệnh và sự tái phát bệnh
Copyright @ School of Medicine and Pharmacy, VNU
KẾT QUẢ
Đặc điểm lâm sàng của bệnh nhân xơ cứng bì khu trú
3.1.1 Phân bố xơ cứng bì khu trú theo nhóm tuối
Bảng 3.1 Phân bố xơ cứng bì khu trú theo nhóm tuối (n0)
Bệnh XC KT xuất hiện ở nhiều nhóm tuổi khác nhau, với tỷ lệ mắc cao nhất ở nhóm tuổi ≤19, chiếm 55,00% Đối tượng bệnh nhân có độ tuổi nhỏ nhất là 4 tuổi và lớn nhất là 75 tuổi.
Tuổi trung bình của bệnh nhân trong nghiên cứu là 25,21 ± 17,68
3.1.2 Phân bố xơ cứng bì khu trú theo giới
Hình 3.1 Phân bố xơ cứng bì khu trú theo giới (n0) ệnh chủ yếu gặp ở nữ giới, chiếm 82,00%
Copyright @ School of Medicine and Pharmacy, VNU
3.1.3 Phân bố xơ cứng bì khu trú theo nơi ở
Hình 3.2 Phân bố xơ cứng bì khu trú theo nơi ở (n0)
Trong 100 bệnh nhân, tỷ lệ bệnh nhân ở thành phố là lớn nhất (50,00%), sau đó đến nông thôn (41,00%) và miền núi là ít nhất (9,00%)
3.1.4 Phân bố xơ cứng bì khu trú theo nghề nghiệp
Hình 3.3 Phân bố xơ cứng bì khu trú theo nghề nghiệp (n0)
Tỷ lệ XCBKT cao nhất được ghi nhận ở học sinh - sinh viên với 57,00%, tiếp theo là người lao động tự do chiếm 16,00%, và nội trợ 11,00% Trong khi đó, tỷ lệ nông dân và công nhân lần lượt là 6,00% và 4,00%.
Thành thị Nông thôn Miền núi
Cán bộ HS-SV Công nhân Nông dân Nội trợ Khác
Copyright @ School of Medicine and Pharmacy, VNU
3.1.5 Phân bố bệnh theo tiền sử bệnh của đối tượng nghiên cứu 3.1.5.1 Phân bố xơ cứng bì khu trú theo thời gian mắc bệnh
Dưới dây là biểu đồ thể hiện tỷ lệ và thời gian bị bệnh của bệnh nhân tính đến thời điểm làm nghiên cứu
Bảng 3.2 Phân bố xơ cứng bì khu trú theo thời gian bị bệnh (n0)
Thời gian bệnh ≥ 5 năm < 5 năm Tổng
Qua biểu đồ ta thấy, đa số các bệnh nhân bị bệnh dưới 5 năm (71,00%)
Tỉ lệ bệnh nhân bị bệnh ≥5 năm chiếm 29,00%
3.1.5.2 Thời gian từ khi bắt đầu có triệu chứng đến khi chẩn đoán bệnh
Hình 3.4 Thời gian chẩn đoán bệnh (n0)
Thời gian chẩn đoán bệnh, từ khi triệu chứng đầu tiên xuất hiện đến khi có chẩn đoán chính thức, thường kéo dài từ 6 tháng đến 1 năm, chiếm tỷ lệ cao lên đến 57%.
Copyright @ School of Medicine and Pharmacy, VNU
Khoảng 20% trẻ em dưới 18 tuổi được chẩn đoán bệnh trong vòng 6 tháng, trong khi tỷ lệ này ở người lớn chỉ là 12% Đặc biệt, có tới 33% người lớn được chẩn đoán bệnh trong khoảng thời gian từ 6 tháng đến 1 năm.
Nhìn chung, tỉ lệ bệnh nhân có thời gian chẩn đoán bệnh sau 1 năm thấp (11,00%) trong đó người lớn là 4,00% và trẻ em là 7,00%.
3.1.5.3 Tiền sử gia đình ở bệnh nhân xơ cứng bì khu trú
Bảng 3.3 Tiền sử gia đình ở bệnh nhân xơ cứng bì khu trú (n0)
Gia đình có người mắc bệnh tự miễn Số bệnh nhân %
Tỉ lệ bệnh nhân có người trong gia đình cũng bị bệnh chiếm 3,00%
3.1.6 Tác nhân kích thích bệnh
Bảng 3.4 Tác nhân kích thích bệnh (n0)
Tác nhân kích thích bệnh Số bệnh nhân %
Tỉ lệ bệnh nhân XCBKT có yếu tố kích thích bệnh chiếm 8,00%
Trong nghiên cứu của chúng tôi, 100% bệnh nhân đều không có triệu chứng toàn thân nào như sốt, sút cân hay mệt mỏi
Copyright @ School of Medicine and Pharmacy, VNU
Bảng 3.5 Triệu chứng cơ năng của xơ cứng bì khu trú (n0)
TC cơ năng Ngứa Đau Dát Không có Tổng
Tỷ lệ bệnh nhân có ngứa tại vị trí tổn thương chiếm 10,00%, đau 1,00%, và hầu hết không có triệu chứng cơ năng
3.1.9 Tổn thương da 3.1.9.1 Tổn thương ban đầu
Bảng 3.6 Tổn thương ban đầu (n0)
Vị trí Đầu mặt cổ
Ngón tay Chân Bàn chân Tổng
Bệnh nhân XC KT thường có vị trí tổn thương ban đầu xuất hiện trên toàn bộ cơ thể, với tỷ lệ cao nhất ở chân (27,00%), tiếp theo là thân (25,00%), cánh tay (23,00%) và đầu mặt cổ (21,00%) Tổn thương ít gặp hơn ở bàn tay (3,00%) và ngón tay (1,00%).
Copyright @ School of Medicine and Pharmacy, VNU
Bảng 3.7 Biểu hiện lâm sàng (n0)
Biểu hiện xơ cứng da được chia làm 3 mức độ: da dày, giảm cử động và không véo được
Hầu hết tổn thương trên da ở mức da dày, biểu hiện lâm sàng chủ yếu ở vùng chân (38 BN) và thân mình (33 BN), bệnh ít biểu hiện ở vùng bàn chân
(6 BN) và bàn tay, ngón tay (11 BN)
Tại vùng bàn tay và chân, tỷ lệ tổn thương dày da và giảm cử động gần như tương đương nhau Cụ thể, ở bàn tay, có 45,45% bệnh nhân gặp tình trạng dày da và 54,55% bệnh nhân giảm cử động Trong khi đó, ở vùng chân, tỷ lệ này lần lượt là 44,74% bệnh nhân dày da và 42,11% bệnh nhân giảm cử động.
Copyright @ School of Medicine and Pharmacy, VNU
Mức độ xơ cứng nặng nhất là không véo được, trong đấy, vị trí chân có
5 bệnh nhân và hầu như không biểu hiện ở vùng bàn tay
Hình 3.5 Phân loại tổn thương (n0)
Hình 3.5 cho thấy dạng mảng là dạng thường gặp nhất chiếm 53,00%
Dạng dải và dạng lan tỏa chiếm tỷ lệ thấp hơn (27,00% & 16,00%)
Có 4,00% bệnh nhân có tổn thương dạng sâu và không có bệnh nhân nào tổn thương dạng bọng nước
Dạng dải Dạng mảng Dạng lan tỏa Dạng sâu Dạng bọng nước Dạng tổn thương
Copyright @ School of Medicine and Pharmacy, VNU
3.1.9.4 Biểu hiện của bệnh trên da
Hình 3.6 Biểu hiện trên da (n0)
Rối loạn sắc tố là tổn thương phổ biến nhất, chiếm 89,00%, tiếp theo là teo da với tỷ lệ 70,00%, xơ cứng 67,00% Các dạng tổn thương ít gặp hơn bao gồm viêm đỏ (14,00%) và giãn mạch (4,00%).
3.1.10 Tổn thương cơ quan khác
Bảng3.8 Tỉ lệ bệnh nhân có tổn thương các cơ quan ngoài da (n0)
Biến dạng khớp 8 (8,00%) 92 100 Ảnh hưởng tăng trưởng cơ xương 7 (7,00%) 93 100
Viêm đỏ Giãn mạch Xơ cứng Teo da Rối loạn sắc tố
Copyright @ School of Medicine and Pharmacy, VNU
Trong nghiên cứu XCBKT, tất cả 100% bệnh nhân đều không có tổn thương về tim, phổi, tiêu hóa và thận Tuy nhiên, có 8,00% bệnh nhân gặp phải biến dạng khớp và 7,00% có sự ảnh hưởng đến sự phát triển của cơ xương Đáng chú ý, 1,00% bệnh nhân mắc các bệnh tự miễn khác.
Mô tả đặc điểm cận lâm sàng của xơ cứng bì khu trú
Bảng 3.9 Tỷ lệ bệnh nhân có thay đổi về huyết học (n0)
Tăng bạch cầu ái toan Thiếu máu Giảm tiểu cầu
Các rối loạn huyết học thường gặp là tăng bạch cầu ái toan (11,00%), tăng tốc độ máu lắng (9,00%)
Bảng 3.10 Tỷ lệ bệnh nhân có rối loạn tự kháng thể
Dương tính Âm Tính Tổng
Kháng thể kháng nhân dương tính ở 14 bệnh nhân (43,75%), ds DNA dương tính ở 48,72% bệnh nhân, Anti Topo-I chỉ dương tính ở 3,51% bênh nhân
Copyright @ School of Medicine and Pharmacy, VNU
Hình 3.7 Rối loạn tự kháng thể ở dạng dải
Tỷ lệ bệnh nhân dương tính với các xét nghiệm tự kháng thể như ANA đạt 22,22%, dsDNA là 25,93%, và anti Topo-I chỉ 3,70% Trong khi đó, tỷ lệ bệnh nhân âm tính với ANA và dsDNA đều là 14,81%, còn anti Topo-I là 66,67% Đáng chú ý, có một tỷ lệ cao bệnh nhân không thực hiện các xét nghiệm này.
Hình 3.8 Rối loạn tự kháng thể ở dạng mảng
Dương tính Âm tính Không làm
Dương tính Âm tính Không làm
Copyright @ School of Medicine and Pharmacy, VNU
Tỷ lệ các bệnh nhân dạng dải dương tính với ANA, dsDNA, và Anti Topo-I lần lượt là 9,43%, 11,32% và 1,89% Tỷ lệ âm tính lần lượt là:
Hình 3.9 Rối loạn tự kháng thể ở dạng lan tỏa
Tỷ lệ cao các bệnh nhân dạng lan tỏa dương tính với dsDNA (37,50%) tiếp theo là ANA (18,75%), không có bệnh nhân nào dương tính với Anti Topo-I
Các tự kháng thể thường xuất hiện dưới dạng dải và dạng mảng, trong khi dạng lan tỏa ít gặp hơn Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy không có bệnh nhân nào có tổn thương dạng bọng nước và dạng sâu kèm theo sự hiện diện của các tự kháng thể.
3.2.3 Kết quả giải phẫu bệnh
Trong 100 bệnh nhân mà chúng tôi tiến hành nghiên cứu, tất cả đều có tổn thương dạng xơ cứng bì trên giải phẫu bệnh
Dương tính Âm tính Không làm
Copyright @ School of Medicine and Pharmacy, VNU
Đặc điểm lâm sàng
1.1 Đặc điểm về tuổi và giới
Theo y văn thế giới, XC KT là bệnh có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi, với bệnh nhân nhỏ nhất là 4 tuổi và lớn nhất là 75 tuổi, tuổi trung bình là 25,21 ± 17,68 Kết quả này cao hơn so với nghiên cứu của Ths SNT Phạm ích Ngọc, trong đó tuổi trung bình là 22,2 Sự khác biệt này có thể do cỡ mẫu nghiên cứu, với 100 bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi so với 57 bệnh nhân trong nghiên cứu của Ths SNT Phạm ích Ngọc.
Tỷ lệ mắc ở nhóm ≤19 tuổi tương đối cao 55%), điều này phù hợp với y văn thế giới cho rằng XC KT gặp chủ yếu ở trẻ em
Giống như nhiều bệnh lý mô liên kết khác, bệnh XC KT chủ yếu ảnh hưởng đến nữ giới, với tỷ lệ nữ: nam là 4,56, trong đó nữ giới chiếm 82,00% và nam giới chiếm 18,00% Tỷ lệ này tương tự như các nghiên cứu trước đây của Phạm ích Ngọc (5,5) và Toledano (4,78), nhưng cao hơn so với nghiên cứu ở trẻ em của Christen-Zaech (2,42) và Zulian (2,4) Sự khác biệt này có thể do tỷ lệ nam bị bệnh thường cao hơn (42,3%) trong nghiên cứu của Uziel và cộng sự, đặc biệt là ở thể dải, dạng bệnh thường gặp ở trẻ em.
1.2 Phân bố bệnh theo nghề nghiệp và địa dư
Trong nghiên cứu với 100 bệnh nhân, tỉ lệ mắc bệnh cao nhất thuộc về học sinh - sinh viên với 57,00%, tiếp theo là nghề tự do (16,00%) Nhóm nội trợ chiếm 11,00%, trong khi nông dân và cán bộ có tỉ lệ bằng nhau là 6,00% Nhóm công nhân có tỉ lệ mắc thấp nhất, chỉ đạt 4,00%.
Về địa dư chúng tôi nhận thấy số bệnh nhân ở thành phố chiếm tỉ lệ cao nhất (50,00%), tiếp theo là nông thôn (41,00%) và miền núi (9,00%)
Tỷ lệ mắc bệnh cao ở học sinh và sinh viên, trong khi thấp hơn ở nhóm cán bộ và công nhân, có thể được giải thích bởi sự phân bố độ tuổi trong nghiên cứu của chúng tôi.
Trong đó nhóm bệnh nhân dưới 16 tuổi (độ tuổi đang đi học) chiếm tỷ lệ
Tỷ lệ mắc bệnh ở nhóm lao động tự do và nội trợ (49,00%) cao hơn ở nông dân và công nhân, cho thấy sự phụ thuộc vào nhận thức về bệnh tật và ý thức chăm sóc sức khỏe của mỗi người Người dân thành phố thường có nhiều điều kiện và thời gian để khám và điều trị tại bệnh viện tuyến trung ương hơn so với các khu vực khác Bệnh XC KT thường không có biểu hiện nguy hiểm đến tính mạng, dẫn đến nhiều bệnh nhân ở vùng xa, không có thời gian và điều kiện, tự chữa bệnh mà không đi khám.
1.3 Thời gian chẩn đoán bệnh của bệnh nhân xơ cứng bì khu trú
Tổn thương hoạt tính sớm của XC KT có dấu hiệu đặc trưng như dát đỏ, bờ viêm đỏ hoặc tím hoa cà, cùng với da cứng hoặc phù nề Sau đó, bệnh nhân sẽ thấy các tổn thương phá hủy với biểu hiện dày da, teo da, và thay đổi sắc tố Những dấu hiệu sớm này thường bị bỏ qua, dẫn đến thời gian chẩn đoán kéo dài Nghiên cứu cho thấy 57% bệnh nhân được chẩn đoán sau 6 tháng và 11% sau 1 năm khởi phát bệnh Việc chẩn đoán muộn ảnh hưởng đến điều trị, khi các tổn thương đã xuất hiện Do đó, cần tăng cường giáo dục sức khỏe để giúp bệnh nhân phát hiện và điều trị kịp thời.
Nghiên cứu của Johnson cho thấy trẻ em thường được chẩn đoán bệnh sớm hơn người lớn, với 20% trẻ em được chẩn đoán trong vòng 6 tháng sau khi khởi phát bệnh, trong khi chỉ có 12% người trưởng thành được chẩn đoán trong khoảng thời gian tương tự Sự khác biệt này có thể xuất phát từ nhận thức và sự quan tâm cao hơn của gia đình đối với trẻ em mắc bệnh.
Trong một nghiên cứu với 100 bệnh nhân, có 29,00% bệnh nhân mắc bệnh trên 5 năm, cho thấy tỷ lệ cao bệnh nhân gặp phải tổn thương teo da và cứng da do tình trạng bệnh tiến triển lâu năm.
Copyright @ School of Medicine and Pharmacy, VNU
1.4 Yếu tố kích thích bệnh
Trong nghiên cứu của chúng tôi, yếu tố kích thích được ghi nhận ở 8,00% bệnh nhân, chủ yếu liên quan đến chấn thương Kết quả này tương đồng với nghiên cứu của Phạm Ích Ngọc (7%) nhưng thấp hơn so với nghiên cứu của Christen-Zaech trên 136 bệnh nhân.
Nghiên cứu XC KT cho thấy 13,2% bệnh nhân có liên quan đến yếu tố kích thích bệnh, trong khi nghiên cứu của Zulian trên 750 trường hợp ghi nhận 13,8% có yếu tố này Điều này cho thấy yếu tố kích thích đóng vai trò quan trọng trong sự khởi phát bệnh, phù hợp với các tài liệu y học quốc tế.
1.5 Tiền sử bản thân và gia đình ệnh nhân XC KT có tiền sử gia đình bị bệnh tự miễn đã được ghi nhận ở 3,00% bệnh nhân Các bệnh tự miễn hay gặp là XC HT, lupus ban đỏ hệ thống, XCBKT Có rất ít y văn báo cáo về vấn đề này Vanchesswanran và cộng sự [41] đã ghi nhận tiền sử gia đình có bệnh tự miễn ở 12,7% trong 47 bệnh nhân XC KT Zulian và cộng sự [13] nghiên cứu trên 750 trẻ XC KT cũng thấy 12,1% bệnh nhân có tiền sử gia đình bị bệnh tự miễn, hay gặp nhất là viêm khớp dạng thấp và XC HT Tác giả khác cũng đã báo cáo trường hợp
XC HT trong gia đình của 5 bệnh nhân XC KT với tỷ lệ 2,6% [18]
Tiền sử bệnh lý của bệnh nhân mắc Xơ cứng bì (XC KT) đã được ghi nhận qua hai thế hệ trong một gia đình và giữa bố và con gái Nghiên cứu của chúng tôi phát hiện hai chị em gái trong cùng một gia đình đều mắc XC KT Gần đây, bệnh lupus ban đỏ hệ thống cũng đã được phát hiện ở các thành viên trong gia đình của bệnh nhân XC KT, thậm chí có sự kết hợp giữa hai bệnh này ở một số trường hợp Đặc biệt, trong nghiên cứu của chúng tôi có một bệnh nhân XC KT có chị gái mắc lupus ban đỏ.
Nhiều nghiên cứu, bao gồm cả nghiên cứu của Leitenberger, đã báo cáo về sự xuất hiện của các bệnh lý tự miễn khác ở bệnh nhân XC KT với tỷ lệ khá cao.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ bệnh lý thường gặp là viêm tuyến giáp Hashimoto, bạch biến và đái tháo đường không phụ thuộc insulin, với 30% và 16% tương ứng theo Harrington Chúng tôi ghi nhận chỉ 1 trường hợp bạch biến (1,00%), tương tự như nghiên cứu của Phạm ích Ngọc (5,3%) nhưng thấp hơn so với nghiên cứu của Weibel và cộng sự trên 34 bệnh nhân.
According to research from the School of Medicine and Pharmacy at VNU, 9.00% of cases with vitiligo or Christen-Zaech reported a second autoimmune disease, occurring in 9.6% of patients with XC KT.
Tiền sử bản thân hay gia đình bị các bệnh tự miễn giúp củng cố giả thiết bệnh tự miễn trong cơ chế bệnh sinh của XC KT