1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Luận văn thạc sĩ các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi gian lận thuế thu nhập cá nhân từ chuyển nhượng quyền sử dụng đất

88 14 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Hành Vi Gian Lận Thuế Thu Nhập Cá Nhân Từ Chuyển Nhượng Quyền Sử Dụng Đất
Tác giả Thang Vĩnh Quang
Người hướng dẫn PGS.TS. Sử Đình Thành
Trường học Trường Đại Học Kinh Tế Tp.Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Chính sách công
Thể loại luận văn thạc sĩ
Năm xuất bản 2015
Thành phố Tp. Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 88
Dung lượng 1,51 MB

Cấu trúc

  • BÌA

  • LỜI CAM ĐOAN

  • MỤC LỤC

  • DANH MỤC CÁC BẢNG

  • DANH MỤC CÁC HÌNH VÀ BIỂU ĐỒ

  • TÓM TẮT LUẬN VĂN

  • CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN

    • 1.1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

    • 1.2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU

    • 1.3. CÂU HỎI NGHIÊN CỨU

    • 1.4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

    • 1.5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

    • 1.6. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI

    • 1.7. KẾT CẤU LUẬN VĂN

  • CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN

    • 2.1. CÁC KHÁI NIỆM

      • 2.1.1. Hành vi gian lận

      • 2.1.2. Hành vi gian lận thuế

    • 2.2. CÁC HÌNH THỨC GIAN LẬN THUẾ TNCN TỪ CHUYỂN NHƯỢNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

    • 2.3. TÓM LƯỢC CÁC NGHIÊN CỨU VỀ HÀNH VI GIAN LẬN

    • 2.4. TÓM LƯỢC CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY VỀ HÀNH VI GIAN LẬN THUẾ

    • 2.5. MÔ HÌNH VÀ GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU

      • 2.5.1. Mô hình nghiên cứu đề xuất

      • 2.5.2. Giả thuyết nghiên cứu

  • CHƯƠNG 3: THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU

    • 3.1. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

    • 3.2. QUY TRÌNH NGHIÊN CỨU

    • 3.3. XÂY DỰNG THANG ĐO CHO CÁC BIẾN ẢNH HƯỞNG ĐẾN HÀNH VI GIAN LẬN THUẾ TNCN TỪ VIỆC CHUYỂN NHƯỢNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

    • 3. 4. PHƯƠNG THỨC LẤY MẪU

      • 3.4.1. Kích thước mẫu

      • 3.4.2. Xử lý và phân tích dữ liệu

        • 3.4.2.1. Kiểm định và đánh giá thang đo

        • 3.4.2.2 Kiểm định và đánh giá mô hình nghiên cứu

  • CHƯƠNG 4: PHÂN TÍCH KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

    • 4.1. THỐNG KÊ MÔ TẢ MẪU KHẢO SÁT

    • 4.2. KẾT QUẢ KIỂM ĐỊNH ĐỘ TIN CẬY CỦA THANG ĐO

    • 4.3. KẾT QUẢ PHÂN TÍCH NHÂN TỐ KHÁM PHÁ EFA

      • 4.3.1. Kết quả phân tích EFA các nhân tố độc lập

      • 4.3.2. Phân tích EFA nhân tố phụ thuộc

    • 4.4. KIỂM ĐỊNH MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CÁC GIẢ THIẾT

      • 4.4.1 Phân tích tương quan

      • 4.4.2 Phân tích hồi quy bội

      • 4.4.3. Dò tìm sự vi phạm giả định cần thiết trong hồi quy bội

      • 4.4.4. Kiểm định các giả thuyết

  • CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

    • 5.1. KẾT LUẬN

    • 5.2. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỀ HẠN CHẾ HÀNH VI GIAN LẬN THUẾ TNCN TỪ VIỆC CHUYỂN NHƯỢNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT TẠI HUYỆN GIỒNG TRÔM, TỈNH BẾN TRE

      • 5.2.1. Động cơ gian lận thuế TNCN

      • 5.2.2. Khả năng hợp lý hóa hành vi gian lận thuế TNCN

      • 5.2.3. Liên quan đến yếu tố cơ hội gian lận thuế TNCN

    • 5.3. HẠN CHẾ CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU

  • TÀI LIỆU THAM KHẢO

  • Phụ lục 1:THỐNG KÊ MÔ TẢ

  • PHỤ LỤC 2KẾT QUẢ CRONBACH’S ALPHA

  • PHỤ LỤC 3PHÂN TÍCH NHÂN TỐ

  • PHỤ LỤC 4PHÂN TÍCH HỒI QUI

  • PHỤ LỤC 5

  • PHỤ LỤC 6

Nội dung

TỔNG QUAN

LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Thuế, đặc biệt là thuế thu nhập cá nhân, đóng vai trò quan trọng trong việc tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước, phục vụ cho các chi tiêu liên quan đến an ninh, quốc phòng và hoạt động của bộ máy hành chính công.

Luật thuế thu nhập cá nhân (TNCN) đã được nhiều quốc gia áp dụng từ lâu, và tại Việt Nam, luật thuế quan trọng này chính thức có hiệu lực thi hành từ ngày

Ngày 01 tháng 01 năm 2009 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong việc tăng cường số lượng sắc lệnh thuế và nguồn thu cho ngân sách Nhà nước Luật thuế thu nhập cá nhân (TNCN) đã được triển khai hiệu quả, tác động tích cực đến nhiều lĩnh vực kinh tế và xã hội, đạt được các mục tiêu đề ra Đặc biệt, nguồn thu từ thuế TNCN liên quan đến chuyển nhượng quyền sử dụng đất chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu ngân sách, góp phần đảm bảo nguồn thu ổn định cho Nhà nước, hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội, giảm nghèo, và củng cố an ninh quốc phòng.

Trong quá trình thực hiện, tình trạng gian lận thuế ngày càng phổ biến đã tạo ra nhiều thách thức cho cơ quan thuế và ảnh hưởng nghiêm trọng đến ngân sách Cụ thể, năm 2013, toàn ngành thuế đã kiểm tra 64.119 doanh nghiệp, dẫn đến việc thanh tra và kiến nghị truy thu, truy hoàn, phạt tổng cộng 13.657,08 tỷ đồng; giảm khấu trừ 1.233,83 tỷ đồng; giảm lỗ 15.711,99 tỷ đồng; và đôn đốc nộp vào ngân sách nhà nước 9.672,83 tỷ đồng.

Trong những tháng đầu năm 2014, cơ quan thuế đã tiến hành thanh tra và kiểm tra 20.983 doanh nghiệp, thu về tổng số thuế tăng 4.119,2 tỷ đồng Đồng thời, tổng số giảm lỗ đạt 6.479 tỷ đồng, với số thuế truy thu, truy hoàn và phạt là 2.034,81 tỷ đồng Đặc biệt, trong hoạt động thanh tra chuyển giá, 557 doanh nghiệp báo lỗ đã được kiểm tra, dẫn đến việc truy thu, truy hoàn và xử phạt 579,3 tỷ đồng, giảm khấu trừ 25,6 tỷ đồng và giảm lỗ 1.517,2 tỷ đồng.

Theo báo cáo năm 2013 của Chi cục Thuế huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre, hơn 80% giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại huyện này thường kê khai giá trị thấp hơn hoặc bằng mức giá do Ủy ban nhân tỉnh quy định, dẫn đến thất thu thuế từ chuyển nhượng quyền sử dụng đất rất lớn.

Gian lận thuế phản ánh sự tuân thủ pháp luật chưa cao của người dân, gây bất công giữa những người có đất chuyển nhượng Tình trạng này không chỉ làm giảm nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước mà còn ảnh hưởng đến niềm tin của người dân vào Nhà nước Để giải quyết vấn đề này, cần nhận diện các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi gian lận thuế TNCN từ chuyển nhượng quyền sử dụng đất Vì vậy, tôi đã chọn nghiên cứu đề tài “Các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi gian lận thuế TNCN từ chuyển nhượng quyền sử dụng đất của người dân tại huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre” cho luận văn tốt nghiệp của mình.

MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU

Mục tiêu nghiên cứu của đề tài này là:

Xác định các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi gian lận thuế thu nhập cá nhân từ việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất của cư dân tại huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre là rất quan trọng.

Đo lường mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến hành vi gian lận thuế TNCN từ chuyển nhượng quyền sử dụng đất là cần thiết tại huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre Việc này giúp xác định nguyên nhân và tác động của các yếu tố đến hành vi gian lận thuế trong cộng đồng dân cư.

Tác giả đã phân tích và đưa ra một số hàm ý chính sách nhằm hạn chế hành vi gian lận thuế thu nhập cá nhân từ việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất của người dân tại huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre.

CÂU HỎI NGHIÊN CỨU

Với mục tiêu nghiên cứu trên, đề tài tập trung trả lời các câu hỏi nghiên cứu sau đây:

Hành vi gian lận thuế TNCN từ chuyển nhượng quyền sử dụng đất của người dân tại huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre chịu ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố, bao gồm nhận thức của người dân về nghĩa vụ thuế, chính sách quản lý thuế của cơ quan chức năng, và các yếu tố kinh tế xã hội như thu nhập và tình hình tài chính của hộ gia đình Những yếu tố này có thể tạo ra áp lực hoặc động lực cho người dân trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế một cách chính xác và minh bạch.

Sự tác động của các nhân tố đến hành vi gian lận thuế TNCN từ chuyển nhượng quyền sử dụng đất của người dân tại huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre là một vấn đề quan trọng cần được nghiên cứu Các yếu tố này không chỉ ảnh hưởng đến nhận thức của người dân về nghĩa vụ thuế mà còn tác động đến cách thức thực hiện các giao dịch chuyển nhượng đất đai Việc hiểu rõ mối liên hệ giữa các nhân tố này sẽ giúp đưa ra các giải pháp hiệu quả nhằm giảm thiểu gian lận thuế và nâng cao ý thức chấp hành pháp luật trong cộng đồng.

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

Đối tượng nghiên cứu: Mối quan hệ giữa các yếu tố ảnh hưởng với hành vi gian lận thuế TNCN từ chuyển nhượng quyền sử dụng đất

Phạm vi nghiên cứu: Thuế TNCN từ chuyển nhượng quyền sử dụng đất của người dân tại huyện Giồng Trôm giai đọan từ năm 2009 đến năm 2013.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính kết hợp với định lượng

Nghiên cứu định tính thông qua phỏng vấn sâu và nghiên cứu tại bàn được thực hiện nhằm xác định các khái niệm trong thang đo lường các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi gian lận thuế TNCN từ chuyển nhượng quyền sử dụng đất của người dân tại huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre.

Nghiên cứu định lượng được thực hiện bằng cách thu thập dữ liệu qua bảng câu hỏi, sử dụng phương pháp chọn mẫu phi xác suất và mẫu thuận tiện Để gạn lọc các khái niệm, nghiên cứu áp dụng hệ số tin cậy Cronbach’s Alpha và phân tích nhân tố khám phá EFA Dữ liệu được xử lý bằng phần mềm thống kê SPSS-20, và phép hồi quy tuyến tính được sử dụng để phân tích mối tác động của các yếu tố đến hành vi gian lận thuế TNCN từ chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre.

Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI

Việc thực hiện nghiên cứu của đề tài này có ý nghĩa quan trọng về mặt khoa học cũng như thực tiễn cụ thể như sau:

- Về mặt khoa học, từ lý luận áp dụng để kiểm chứng thực tiễn, ngược lại thực tiễn bổ sung đóng góp hoàn thiện lý luận

Kết quả nghiên cứu sẽ hỗ trợ các nhà quản lý thuế và chính sách trong việc hướng dẫn thực hiện thuế thu nhập cá nhân liên quan đến chuyển nhượng quyền sử dụng đất, từ đó nâng cao hiệu quả quản lý thuế và đảm bảo tính minh bạch trong quy trình này.

Nghiên cứu này sẽ cung cấp cho các nhà làm chính sách cái nhìn sâu sắc về các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi gian lận thuế TNCN từ chuyển nhượng quyền sử dụng đất Thông tin này sẽ hỗ trợ trong việc ban hành các hướng dẫn thực hiện chính sách thuế hiệu quả hơn, từ đó nâng cao ý thức chấp hành pháp luật thuế của người dân.

Kết quả nghiên cứu cung cấp thông tin quan trọng cho các nhà quản lý thuế, đặc biệt là tại huyện Giồng Trôm, giúp họ hiểu rõ tâm lý chung của người dân.

KẾT CẤU LUẬN VĂN

Luận văn được chia làm 5 Chương

Chương 2: Cơ sở lý luận

Chương 3: Thiết kế nghiên cứu

Chương 4: kết quả nghiên cứu

Chương 5: Kết luận và kiến nghị

CƠ SỞ LÝ LUẬN

CÁC KHÁI NIỆM

Hành vi gian lận, theo từ điển tiếng Việt, là sự thiếu trung thực và dối trá nhằm lừa gạt người khác Gian lận được hiểu rộng hơn là các hành động bất hợp pháp để thu lợi ích, có thể mang lại lợi cho cá nhân hoặc tổ chức Đối với cá nhân, lợi ích có thể là tiền bạc, tài sản hoặc quyền lực, trong khi tổ chức thường thu được lợi nhuận trực tiếp qua việc tăng thu nhập Ba hình thức gian lận phổ biến nhất bao gồm chiếm đoạt, lừa đảo và biển thủ.

Theo chuẩn mực kế toán quốc tế số 10, gian lận trong kế toán được định nghĩa là những sai sót trong tính toán, áp dụng chính sách kế toán không đúng, giải thích sai thực tế, hoặc cố ý bỏ sót thông tin.

Theo chuẩn mực kiểm toán số 240, gian lận được định nghĩa là hành vi cố ý của cá nhân hoặc nhóm người, bao gồm nhân viên, ban giám đốc hoặc bên thứ ba, nhằm lừa gạt để thu lợi bất chính Gian lận có thể biểu hiện qua việc thay đổi, làm giả các chứng từ kế toán, ghi chép sai, hoặc cố ý bỏ sót thông tin quan trọng trong báo cáo tài chính Ngoài ra, việc không tuân thủ các nguyên tắc và chuẩn mực kế toán, cũng như việc giấu diếm hoặc ghi chép sai các nghiệp vụ phát sinh, đều là những hành vi gian lận nghiêm trọng.

Hành vi gian lận trong tài chính là việc cố ý không ghi chép các nghiệp vụ phát sinh hoặc công bố thông tin tài chính không đầy đủ, nhằm mục đích đánh lừa người sử dụng thông tin, đặc biệt là nhà đầu tư và chủ nợ.

2.1.2 Hành vi gian lận thuế

Gian lận thuế là hành vi vi phạm pháp luật luôn tồn tại song song với hoạt động thuế của Nhà nước, xuất phát từ mong muốn giảm nghĩa vụ thuế của người nộp thuế Mặc dù không thể tránh khỏi khi có thuế, nhưng chúng ta không thể chấp nhận các hành vi này Hiệu quả của hoạt động quản lý thuế có thể làm giảm thiểu tình trạng gian lận thuế (Lê Xuân Trường và Nguyễn Đình Chiến, 2003).

Theo Nghị định 100/2004/NĐ-CP, hành vi trốn thuế được định nghĩa là hành vi của cá nhân hoặc tổ chức vi phạm các quy định pháp luật về thuế, dẫn đến việc giảm số thuế phải nộp hoặc tăng số thuế được hoàn, miễn, giảm.

CÁC HÌNH THỨC GIAN LẬN THUẾ TNCN TỪ CHUYỂN NHƯỢNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Gian lận thuế TNCN từ chuyển nhượng quyền sử dụng đất là hành vi làm giảm số thuế phải nộp, nhằm tối đa hóa lợi nhuận và tăng thu nhập cho cá nhân Mục tiêu chính của hành vi này là giảm thiểu chi phí thuế bằng cách hạn chế số thuế phải nộp cho Ngân sách Nhà nước.

Minh Khuê (2010), các hành vi gian lận thuế TNCN từ chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở nước ta hiện nay thể hiện ở một số hình thức sau đây:

Tự khai là tài sản duy nhất

Luật Thuế TNCN quy định rằng cá nhân chỉ có một nhà ở, đất ở duy nhất sẽ được miễn thuế khi chuyển nhượng Người chuyển nhượng phải tự khai và chịu trách nhiệm về tính chính xác của thông tin Tuy nhiên, do hệ thống thông tin quản lý cá nhân chưa hoàn thiện và công tác kiểm tra mất nhiều thời gian, cơ quan chức năng khó kiểm soát số lượng nhà ở, đất ở của từng cá nhân Điều này tạo ra kẽ hở cho những người sở hữu nhiều bất động sản có thể kê khai sai để tránh nộp thuế, dẫn đến thất thu lớn cho Ngân sách Nhà nước.

Giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo hệ thống văn bản pháp luật thuế TNCN được xác định là giá thực tế ghi trong hợp đồng tại thời điểm chuyển nhượng, tuy nhiên không được thấp hơn mức giá đất do ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố quy định.

Trên thị trường bất động sản, giá đất thực tế thường cao hơn giá do ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố quy định Để giảm thuế thu nhập cá nhân và lệ phí trước bạ, người mua và người bán thường thỏa thuận ghi giá trên hợp đồng chuyển nhượng thấp hơn giá thực tế Họ chỉ ghi mức giá bằng hoặc nhỉnh hơn một chút so với giá quy định của ủy ban, giúp giảm thuế phải nộp Kết quả là, cả hai bên đều có lợi, trong khi Nhà nước chịu thất thu thuế.

Khoản 1 Điều 4 Luật Thuế TNCN quy định: “thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản giữa vợ với chồng, cha đẻ, mẹ đẻ với con đẻ; cha nuôi, mẹ nuôi với con nuôi; cha chồng, mẹ chồng với con dâu; cha vợ, mẹ vợ với con rể; ông nội, bà nội với cháu nội; ông ngoại, bà ngoại với cháu ngoại; anh chị em ruột với nhau” thì được miễn thuế TNCN Lợi dụng quy định này, nhiều trường hợp đã sử dụng mối quan hệ bắc cầu để trốn thuế

Hai chị em dâu phải nộp thuế khi chuyển nhượng bất động sản cho nhau Để tránh thuế, người chị dâu chuyển nhượng tài sản cho bố chồng, sau đó bố chồng lại chuyển nhượng cho em dâu Cả hai giao dịch này đều được miễn thuế, giúp hai chị em dâu lách luật một cách hiệu quả.

Gian lận thuế TNCN từ chuyển nhượng quyền sử dụng đất thường diễn ra dưới hình thức đơn giản hơn so với các loại thuế khác, nhưng việc kiểm tra và phát hiện rất khó khăn Những hành vi gian lận này không chỉ gây thất thu lớn cho ngân sách Nhà nước mà còn tạo ra sự bất công trong nghĩa vụ nộp thuế của người dân.

Tại huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre, các hành vi gian lận thuế thu nhập cá nhân từ việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất cũng phổ biến với nhiều hình thức tương tự như đã đề cập trước đó.

Hành vi gian lận thuế tại Chi cục Thuế Giồng Trôm có thể diễn ra dễ dàng thông qua việc mua bán bằng giấy tay hoặc hợp đồng chuyển nhượng, chỉ đăng ký với Nhà nước khi chuyển nhượng lần cuối Điều này dẫn đến thất thu thuế nghiêm trọng, đặc biệt khi khoảng cách giữa lần sang tay đầu tiên và lần cuối cùng kéo dài qua nhiều lần và nhiều chủ sở hữu khác nhau.

Hành vi gian lận thuế là việc người nộp thuế sử dụng các thủ đoạn bất hợp pháp để trốn thuế hoặc giảm số thuế phải nộp Đối với thuế thu nhập cá nhân từ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, các hành vi gian lận phổ biến bao gồm tự khai là nhà ở duy nhất, chuyển nhượng bắc cầu, chuyển nhượng sang tay và hạ giá chuyển nhượng.

Gian lận thuế gây thất thu ngân sách Nhà nước và tạo ra sự bất công giữa các người nộp thuế, đồng thời ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường đầu tư và kinh doanh Mức độ gian lận thuế ở mỗi quốc gia phụ thuộc vào chính sách thuế có kẽ hở, hiệu quả quản lý thuế, chế tài xử lý vi phạm pháp luật thuế và ý thức tuân thủ pháp luật của người nộp thuế.

TÓM LƯỢC CÁC NGHIÊN CỨU VỀ HÀNH VI GIAN LẬN

Donald R Cressey, một nhà nghiên cứu tội phạm tại Đại học Indiana vào những năm 1940, đã chọn nghiên cứu vấn đề tham ô và biển thủ làm chủ đề cho luận án tiến sĩ của mình.

Donald R Cressey đã nghiên cứu gian lận từ góc độ tham ô và biển thủ thông qua việc khảo sát khoảng 200 trường hợp tội phạm kinh tế để tìm ra nguyên nhân của các hành vi vi phạm pháp luật Ông đã phát triển mô hình Tam giác gian lận (Fraud Triangle), trình bày các yếu tố dẫn đến gian lận, và mô hình này đã trở thành công cụ quan trọng trong nhiều lĩnh vực nghiên cứu gian lận hiện nay.

HỢP LÝ HÓA HÀNH VI ĐỘNG CƠ CƠ HỘI

Hình 2.1 Mô hình tam giác gian lận

Kết quả nghiên cứu: Theo Donald R Cressey, gian lận chỉ phát sinh khi hội đủ 3 nhân tố sau:

Động cơ gian lận thường xuất hiện khi nhân viên, quản lý hoặc tổ chức phải đối mặt với áp lực Áp lực này có thể đến từ những khó khăn trong cuộc sống cá nhân, chẳng hạn như vấn đề tài chính hoặc sự rạn nứt trong mối quan hệ giữa chủ lao động và người lao động.

Khi đối mặt với áp lực, con người có thể dễ dàng bị cám dỗ để gian lận nếu có cơ hội Hai yếu tố chính liên quan đến cơ hội gian lận là khả năng nắm bắt thông tin và kỹ năng thực hiện hành vi đó.

Hành vi gian lận không phải là lựa chọn của tất cả mọi người khi đối mặt với khó khăn, mà phụ thuộc vào thái độ và tính cách cá nhân Một số người dù gặp áp lực và có cơ hội vẫn giữ vững đạo đức, trong khi những người khác có thể chọn con đường gian lận.

Khi lần đầu thực hiện gian lận, nhiều người thường tự nhủ rằng họ sẽ không tái phạm Tuy nhiên, nếu tiếp tục, họ sẽ dần quen với hành vi này, khiến cho việc gian lận trở nên dễ dàng và dễ được chấp nhận hơn.

Hành vi gian lận chỉ xảy ra khi người thực hiện cảm thấy có thể biện minh cho hành động của mình, và khả năng che giấu gian lận này bị ảnh hưởng bởi tư duy và nhân cách Mỗi cá nhân có tính cách riêng, nếu xem việc lừa gạt là bình thường, họ sẽ có xu hướng thực hiện hành vi này Ngược lại, những người trung thực và liêm chính sẽ không gian lận, ngay cả khi đối mặt với áp lực và cơ hội.

Tam giác gian lận của Cressey là một mô hình hữu ích trong việc lý giải nhiều vụ gian lận, nhưng không phải là một tiên đề tuyệt đối Mặc dù không thể khẳng định rằng mô hình này áp dụng cho mọi trường hợp, nó vẫn được sử dụng rộng rãi trong việc nghiên cứu và đánh giá rủi ro gian lận trong nhiều ngành nghề khác nhau.

Ông là nhà tội phạm học tại trường Đại học Brigham Young, Mỹ, cùng với hai đồng sự Keith Howe và Marshall Rommey, đã phân tích 212 trường hợp gian lận vào những năm 1980 với sự tài trợ của Hiệp hội các nhà sáng lập nghiên cứu về kiểm toán nội bộ Ông đã xuất bản tác phẩm “Chôn vùi gian lận, viễn cảnh của kiểm toán nội bộ”.

Phương pháp nghiên cứu của Albrecht sử dụng bảng câu hỏi để khảo sát thông tin từ các kiểm toán viên nội bộ tại các công ty ở Mỹ Ông đã xác định các biến số liên quan đến gian lận và xây dựng danh sách 50 dấu hiệu đỏ chỉ dẫn gian lận và lạm dụng, tập trung vào hai vấn đề chính: dấu hiệu từ nhân viên và đặc điểm của tổ chức Mục tiêu của nghiên cứu là giúp người quản lý nhận diện và ngăn chặn các dấu hiệu quan trọng của gian lận.

Nghiên cứu đã chỉ ra 10 dấu hiệu của nhân viên có nguy cơ gian lận cao, bao gồm: sống dưới mức trung bình, nợ nần cao, khao khát thu nhập cao, mối quan hệ thân thiết với khách hàng, cảm thấy thù lao không tương xứng với đóng góp, quan hệ không tốt với chủ, mong muốn vượt qua sự kiểm soát của công ty, thói quen cờ bạc, chịu áp lực lớn và không được công ty ghi nhận thành tích Ngoài ra, nghiên cứu cũng phát hiện 10 dấu hiệu tổ chức có nguy cơ gian lận cao, như: đặt quá nhiều niềm tin vào nhân viên chủ chốt, thiếu quy trình phê chuẩn thích hợp, không công bố đầy đủ các khoản đầu tư và thu nhập cá nhân, không tách bạch chức năng quản lý và phê chuẩn, thiếu kiểm tra độc lập, không theo dõi hoạt động chi tiết, không phân tách chức năng quản lý và kế toán, không tách bạch một số chức năng kế toán, thiếu hướng dẫn rõ ràng về trách nhiệm và quyền hạn, và thiếu sự giám sát của kiểm toán viên nội bộ.

Dựa trên kết quả nghiên cứu, ông đã phát triển mô hình bàn cân gian lận nổi tiếng, bao gồm ba yếu tố chính: hoàn cảnh tạo ra áp lực, khả năng nắm bắt cơ hội và tính trung thực của cá nhân.

Theo Albert, nguy cơ gian lận tăng cao khi áp lực hoàn cảnh lớn, cơ hội thực hiện gian lận cao và tính liêm chính cá nhân thấp Ngược lại, khi áp lực hoàn cảnh giảm, cơ hội gian lận thấp và tính liêm chính cao, nguy cơ xảy ra gian lận sẽ rất thấp.

Áp lực tài chính có thể dẫn đến hành vi gian lận, thường xuất phát từ sự yếu kém trong hệ thống kiểm soát nội bộ Nghiên cứu này đã cung cấp những đóng góp quan trọng cho việc thiết lập và cải thiện hệ thống kiểm soát nội bộ, nhằm giảm thiểu nguy cơ gian lận.

Richard và John đã nghiên cứu và xuất bản cuốn sách “Khi nhân viên biển thủ” dựa trên mẫu 10.000 nhân viên tại Hoa Kỳ Cuốn sách này thu hút sự chú ý lớn từ các nhà nghiên cứu về gian lận, bởi vì nó đưa ra những kết luận khác biệt so với mô hình tam giác gian lận của Cressey.

Cách tiếp cận nghiên cứu: Richard và John (1983) thực hiện một cuộc nghiên cứu với mẫu hơn 10.000 nhân viên làm việc tại Hoa Kỳ

TÓM LƯỢC CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY VỀ HÀNH VI GIAN LẬN THUẾ

Các nghiên cứu trên thế giới

Fedeli và Forte (1999) đã cung cấp một khung lý thuyết cho hành vi trốn thuế, đặc biệt là thuế thu nhập Mô hình của họ bao gồm bốn tác nhân: nhà sản xuất, bán buôn, bán lẻ và người tiêu dùng cuối Khi thuế GTGT được áp dụng cho người tiêu dùng, họ có xu hướng trốn thuế để giảm chi phí mua sắm Mặc dù không rõ ràng tại sao các công ty và cửa hàng lại tham gia vào việc trốn thuế GTGT, các nhà kinh doanh lớn thường là những đối tượng chủ yếu trong việc này Để tối đa hóa lợi nhuận, nhiều thương nhân sẵn sàng ghi số lượng hàng hóa trên hóa đơn thấp hơn thực tế, nhằm chiếm đoạt tiền thuế.

Gordon và Neilsen (1997) nghiên cứu vấn đề trốn thuế giá trị gia tăng (GTGT) trong nền kinh tế mở, đặc biệt là ở Đan Mạch, và cho rằng cả thuế thu nhập và thuế GTGT đều có khả năng bị né tránh cao Trong khi thuế thu nhập thường bị trốn bằng cách chuyển thu nhập chịu thuế ra nước ngoài, thuế GTGT có thể bị trốn thông qua các giao dịch mua sắm xuyên biên giới.

Srinivasan (1973) đã giới thiệu mô hình lý thuyết tinh và nghiên cứu các yếu tố quyết định trốn thuế, trong đó ông giải thích rằng hành vi trốn thuế phụ thuộc vào mức độ ngại rủi ro, mức phạt và xác suất bị kiểm toán Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng có một mối quan hệ không rõ ràng giữa mức thuế suất cận biên hoặc thu nhập với việc trốn thuế.

Nghiên cứu của Alligham và Sandmo (1972) đã chỉ ra rằng hành vi trốn thuế bị ảnh hưởng bởi mức độ lo ngại về rủi ro, mức phạt và xác suất bị kiểm toán Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng cho thấy mối quan hệ không rõ ràng giữa mức thuế suất cận biên hoặc thu nhập với hành vi trốn thuế.

Nghiên cứu của Orewa (1957) về hành vi trốn thuế chỉ ra rằng nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc này là sự biến động trong thu nhập của người lao động, bao gồm cả người làm công ăn lương và người tự làm chủ, cũng như việc họ thường xuyên thay đổi địa chỉ nơi lưu giữ hàng hóa Thêm vào đó, nhiều thương nhân không duy trì hồ sơ kế toán đầy đủ, góp phần vào tình trạng trốn thuế.

Nghiên cứu của Kugler Publications (1996) tại Liên minh Châu Âu chỉ ra rằng gian lận thuế GTGT xuất phát từ những sơ hở trong cơ chế chính sách, thiếu kiểm tra và kiểm soát, cùng với quản lý yếu kém và số lượng nhân viên quản lý hạn chế Lòng tham của con người, nhằm tối đa hóa lợi ích cá nhân hoặc tổ chức, đã dẫn đến việc hình thành các tổ chức gian lận không chỉ trong nước mà còn đa quốc gia, chiếm đoạt tiền thuế của từng quốc gia.

Các nghiên cứu ở trong nước

Mặc dù trong nước chưa có nhiều nghiên cứu chuyên sâu về hành vi gian lận thuế, nhưng các cuộc thanh tra và kiểm tra thuế cùng với báo cáo đánh giá từ cơ quan thuế đã chỉ ra một số nhận xét quan trọng về hành vi này.

- Theo đánh giá của UBND tỉnh Hậu Giang (Chỉ thị Số: 03/2012/CT-UBND của Ủy ban nhân dân tỉnh Hậu Giang ngày 21 tháng 3 năm 2012)

Theo UBND tỉnh Hậu Giang, hành vi gian lận thuế trong tỉnh xuất phát từ ý thức chấp hành pháp luật thuế chưa nghiêm của một số đối tượng nộp thuế Nhiều doanh nghiệp lợi dụng cơ chế tự khai, tự tính, tự nộp để trốn thuế, và tình trạng này vẫn diễn ra do chưa có biện pháp ngăn chặn hiệu quả Hơn nữa, sự phối hợp giữa các ngành và cơ quan Thuế trong quản lý thuế và tuyên truyền chính sách pháp luật thuế chưa thường xuyên và chặt chẽ, ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý thuế toàn tỉnh.

Hành vi gian lận thuế xuất phát từ ý thức chấp hành nghĩa vụ thuế của người dân còn thấp, cùng với đó là sự kém hiệu quả trong công tác quản lý thuế của nhà nước, tạo điều kiện cho tình trạng gian lận diễn ra.

- Theo đánh giá của Tổng cục Thuế Tổng cục Thuế, (2013)

Một số nguyên nhân dẫn đến hành vi gian lận thuế bao gồm:

Số lượng cán bộ công chức thuế hiện nay còn hạn chế, dẫn đến việc không thể theo dõi đầy đủ tình trạng trốn thuế và gian lận thuế của người nộp thuế và doanh nghiệp Tỷ lệ văn bản tồn đọng cao cũng góp phần làm chậm trễ trong việc giải đáp các vướng mắc, tạo điều kiện cho hành vi gian lận thuế phát triển do năng lực của cán bộ thuế còn yếu kém.

Hiện nay, nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh doanh và xuất khẩu hàng hóa qua biên giới, đã lợi dụng sự lỏng lẻo trong chính sách quản lý hóa đơn để thực hiện mua bán và sử dụng hóa đơn bất hợp pháp Hành động này không chỉ nhằm khấu trừ thuế giá trị gia tăng mà còn để chiếm đoạt tiền hoàn thuế, cho thấy rằng cơ chế chính sách thuế hiện tại còn nhiều lỗ hổng, tạo điều kiện cho các hành vi gian lận thuế.

Việc tổ chức “Tuần lễ lắng nghe ý kiến NNT” và các Hội nghị đối thoại với DN vẫn còn nhiều hạn chế, với một số địa phương chưa đáp ứng đầy đủ và đồng bộ Sự thiếu phân loại NNT để áp dụng các biện pháp tuyên truyền và hỗ trợ phù hợp cho thấy ý thức thực hiện nghĩa vụ thuế của người dân còn thấp Điều này xuất phát từ việc tuyên truyền giáo dục pháp luật thuế chưa hiệu quả và những yếu kém trong quản lý thuế, tạo điều kiện cho hành vi gian lận thuế xảy ra.

- Đánh giá hành vi gian lận thuế từ thanh tra Tổng cục Thuế

Theo bà Lê Thị Chinh từ Tổng cục Thuế, một số doanh nghiệp trên toàn quốc đã lợi dụng những kẽ hở trong hệ thống pháp luật và sự quản lý lỏng lẻo, cũng như sự tha hóa của một số cán bộ, để thực hiện các hành vi gian lận nhằm chiếm đoạt tiền thuế.

Các doanh nghiệp "đen" hiện đang thực hiện nhiều hành vi vi phạm pháp luật về thuế một cách tinh vi, bao gồm việc lợi dụng cơ chế xuất khẩu tiểu ngạch qua biên giới để lập hồ sơ xuất khẩu khống nhằm chiếm đoạt tiền hoàn thuế từ ngân sách nhà nước Một số cá nhân còn sử dụng chứng minh thư nhân dân bị thất lạc hoặc thuê mướn để thành lập doanh nghiệp, từ đó tham gia vào hoạt động mua bán hóa đơn bất hợp pháp Ngoài ra, họ cũng tạo chứng từ qua ngân hàng cho hàng hóa xuất khẩu để gian lận tiền hoàn thuế, nhập lậu hàng hóa có thuế nhập khẩu cao và mua hóa đơn từ doanh nghiệp ma để hợp thức hóa đầu vào, dẫn đến thất thu thuế GTGT và thuế nhập khẩu Hệ thống doanh nghiệp này thường có người thân trong gia đình giữ các vị trí quan trọng như giám đốc, kế toán trưởng, nhưng lại thực hiện hai hệ thống sổ sách kế toán để trốn thuế.

Động cơ gian lận thuế chủ yếu xuất phát từ việc chiếm đoạt tiền thuế để tối đa hóa lợi nhuận cho cá nhân và doanh nghiệp Cơ chế chính sách lỏng lẻo cùng với sự tha hóa của cán bộ thuế đã tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức và cá nhân thực hiện hành vi gian lận Khi bị phát hiện, họ thường tìm cách biện minh cho hành vi của mình.

MÔ HÌNH VÀ GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU

2.5.1 Mô hình nghiên cứu đề xuất

Gian lận xuất hiện cùng với sự tồn tại của con người, nhưng nghiên cứu về gian lận và phát hiện gian lận vẫn còn ở mức độ khiêm tốn Trên thế giới, có một số công trình nghiên cứu kinh điển về gian lận, như của Donald (1987), Albrecht và các cộng sự (1983), Richard & John (1983), mỗi công trình dựa trên giả thuyết khác nhau để đưa ra kết luận về hành vi gian lận Tác giả áp dụng mô hình lý thuyết tam giác gian lận của Donald (1987) để phát triển lý thuyết về hành vi gian lận thuế TNCN của người dân có chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre Mô hình này được mô tả cụ thể trong bài viết.

HỢP LÝ HÓA HÀNH VI ĐỘNG CƠ CƠ HỘI

Hình 2.2 Mô hình lý thuyết hành vi gian lận thuế TNCN

Mô hình lý thuyết về hành vi gian lận thuế TNCN bao gồm ba yếu tố chính: động cơ gian lận thuế, cơ hội gian lận thuế và khả năng hợp lý hóa hành vi gian lận thuế.

Nguyên nhân dẫn đến gian lận thuế TNCN thường xuất phát từ động cơ cá nhân hoặc áp lực trong cuộc sống Khi không có hệ thống kiểm soát hiệu quả, cơ hội cho hành vi gian lận gia tăng Kiểm soát kém khiến việc phát hiện gian lận trở nên khó khăn, tạo điều kiện cho các hành vi sai trái diễn ra Tính cách của từng người cũng ảnh hưởng đến khả năng gian lận; những người thiếu trung thực dễ dàng hợp lý hóa hành động của mình hơn Ngược lại, những người có tiêu chuẩn đạo đức cao hơn sẽ phải tự thuyết phục bản thân để biện minh cho hành vi gian lận, thường bắt đầu bằng việc nghĩ rằng đây chỉ là hành động tạm thời và không lặp lại Tuy nhiên, theo thời gian, hành vi này có thể trở thành thói quen và dần trở nên bình thường hơn.

Khi không còn băn khoăn về việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mọi quy trình trở nên dễ dàng và dễ được chấp nhận hơn Tuy nhiên, điều này cũng làm gia tăng khả năng xảy ra gian lận, đặc biệt khi có động cơ và cơ hội thuận lợi cho hành vi này.

Áp lực công việc, điều kiện sống cá nhân, khó khăn tài chính, và sự mơ hồ trong hệ thống pháp luật về thuế dẫn đến việc nhiều cá nhân có xu hướng gian lận Khi mưu đồ gian lận phát sinh, họ thường cân nhắc khả năng bị phát hiện; nếu xác suất phát hiện cao, họ sẽ từ bỏ hành vi gian lận, ngược lại, nếu khả năng bị phát hiện thấp, họ sẽ tiếp tục thực hiện hành vi đó.

Nghiên cứu này nhằm kiểm định các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi gian lận thuế TNCN từ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, đồng thời phân tích sự khác biệt của các yếu tố này theo giới tính, trình độ học vấn và vị trí xã hội (dân thường, người môi giới, công chức liên quan đến đất đai) Dựa trên các giả thuyết nghiên cứu và mục tiêu đề ra, tác giả xây dựng mô hình nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi gian lận thuế TNCN.

Mô hình hồi quy nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi gian lận thuế TNCN: Y = a + β 1 X 1 + β 2 X 2 + β 3 X 3 + e

Biến phụ thuộc (Y): Hành vi gian lận thuế TNCN

Các biến độc lập gồm có:

X1 : Yếu tố cơ hội gian lận

X2 : Yếu tố động cơ gian lận

X3 : Yếu tố khả năng hợp lý hóa hành vi gian lận

Donald R Cressey (1987) cho rằng động cơ gian lận thuế TNCN bị ảnh hưởng bởi các yếu tố bên ngoài như thu nhập, việc làm, địa vị xã hội và mối quan hệ với các nhân viên quản lý nhà nước trong lĩnh vực đất đai Hành vi gian lận thường xuất phát từ áp lực tài chính hoặc xã hội, khiến cá nhân, đặc biệt là những người chuyển nhượng quyền sử dụng đất, phải gian lận để thu lợi cá nhân, duy trì cuộc sống hoặc giảm chi phí giao dịch Mức độ nghiêm trọng của hành vi gian lận phụ thuộc vào vị trí xã hội của cá nhân; những người ở vị trí cao hơn thường gây ra tổn thất lớn hơn khi thực hiện hành vi này.

Theo Donald R Cressey (1987), hành vi gian lận của con người bị ảnh hưởng bởi yếu tố cơ hội Khi một cá nhân đã có động cơ gian lận, họ sẽ dễ dàng hành động khi nhận thấy cơ hội Nếu không có biện pháp ngăn chặn hiệu quả, hoặc nếu các biện pháp hiện có không đủ mạnh, cơ hội gian lận sẽ gia tăng Vấn đề then chốt là cách mà người có động cơ và cơ hội sẽ hành động trong thực tế Hành động của họ phụ thuộc vào nhận thức về tình huống, được hình thành từ việc nắm bắt thông tin như kẽ hở trong luật pháp, chính sách thuế không rõ ràng, và sự lỏng lẻo trong quản lý Khi cá nhân có kỹ thuật thực hiện gian lận và nhận thức được những cơ hội này, họ sẽ có xu hướng tiến hành hành vi gian lận.

Yếu tố hợp lý hóa hành vi gian lận là rất quan trọng trong việc thực hiện các hành vi gian lận Hành vi này chỉ xảy ra khi người gian lận cảm thấy có khả năng biện minh cho hành động của mình Tư duy và nhân cách của mỗi cá nhân ảnh hưởng lớn đến khả năng che giấu gian lận; nếu họ xem việc lừa gạt là bình thường, họ sẽ có xu hướng thực hiện hành vi này Ngược lại, những người trung thực và liêm chính, dù phải đối mặt với áp lực hay cơ hội, vẫn sẽ không gian lận Từ những lập luận này, tác giả đưa ra giả thuyết.

Theo Donald R Cressey (1987), động cơ gian lận thường xuất hiện khi nhân viên, quản lý hoặc tổ chức phải đối mặt với áp lực Áp lực này có thể đến từ những khó khăn trong cuộc sống cá nhân, như vấn đề tài chính hoặc sự rạn nứt trong mối quan hệ giữa chủ và nhân viên Dựa trên những yếu tố này, tác giả đã đưa ra giả thuyết về nguyên nhân của hành vi gian lận.

H1: Cơ hội có tác động dương (+) và cùng chiều lên Hành vi gian lận thuế

Theo Donald R Cressey (1987), khi đối mặt với áp lực, con người có xu hướng thực hiện hành vi gian lận nếu có cơ hội Dựa trên điều này, tác giả đã đưa ra giả thuyết về mối liên hệ giữa áp lực và hành vi gian lận.

H2: Khả năng hợp lý hóa hành vi có tác động dương (+) và cùng chiều lên Hành vi gian lận thuế

Theo Donald R Cressey (1987), không phải ai cũng thực hiện gian lận khi đối mặt với khó khăn và cơ hội, mà điều này phụ thuộc vào thái độ và cá tính của từng người Một số người, dù chịu áp lực và có cơ hội, vẫn không gian lận, trong khi những người khác lại làm điều ngược lại Dựa trên cơ sở này, tác giả đưa ra giả thuyết.

H3: Động cơ có tác động dương (+) lên Hành vi gian lận thuế TNCN từ chuyển nhượng quyền sử dụng đất.

THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Bảng 3.1: Tiến độ thực hiện nghiên cứu

Dạng nghiên cứu Phương pháp Kỹ thuật sử dụng Thời gian Địa điểm

Sơ bộ Định tính Phỏng vấn chuyên sâu kết hợp với nghiên cứu tại bàn 11/2014 Giồng Trôm

Chính thức Định lượng Phỏng vấn trực tiếp bằng bảng câu hỏi 01/2015 Giồng Trôm

Nghiên cứu sơ bộ được thực hiện thông qua phương pháp nghiên cứu định tính, một hình thức khám phá dữ liệu dưới dạng định tính (Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc, 2008) Phương pháp này sử dụng kỹ thuật phỏng vấn sâu nhằm khám phá và điều chỉnh các biến quan sát, từ đó giúp đo lường các khái niệm nghiên cứu một cách hiệu quả.

Nghiên cứu được thiết kế thông qua hai giai đoạn: nghiên cứu định tính và nghiên cứu định lượng

Giai đoạn 1 của nghiên cứu định tính được thực hiện thông qua phỏng vấn các cá nhân có chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre, những người có dấu hiệu gian lận thuế TNCN Đối tượng phỏng vấn được chọn lọc kỹ lưỡng dựa trên các tiêu chí như khai giá chuyển nhượng thấp hơn bảng giá quy định, chuyển nhượng bắc cầu, hay chuyển nhượng trao tay Tác giả đã gửi bảng câu hỏi thăm dò ý kiến đến 8 xã trong tổng số 22 xã và thị trấn của huyện Giồng Trôm, thu thập 80 bảng câu hỏi, trong đó có 63 bảng câu hỏi hợp lệ Thời gian khảo sát diễn ra từ 01/11/2014 đến 30/11/2014 Kết quả khảo sát sẽ được tổng hợp để rút ra những ý kiến chung và khám phá các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi gian lận thuế, phục vụ cho nghiên cứu định lượng sau này.

Giai đoạn 2 của nghiên cứu bao gồm việc thực hiện nghiên cứu định lượng thông qua phỏng vấn trực tiếp với bảng câu hỏi chính thức Mục đích của nghiên cứu định lượng này là để kiểm định lại mô hình nghiên cứu và các giả thuyết liên quan.

QUY TRÌNH NGHIÊN CỨU

Quy trình nghiên cứu được trình bày trong hình 3.1

Hình 3.1: Quy trình nghiên cứu

- Loại các biến quan sát có hệ số tương quan biến – tổng nhỏ

- Kiểm tra hệ số Alpha

- Loại các biến có trọng số EFA nhỏ

- Kiểm tra yếu tố trích được

- Phân tích sự tác động của các yếu tố đến biến HVGL

- Phỏng vấn chuyên sâu kết hợp với nghiên cứu tại bàn

- Điều chỉnh mô hình thang đo

Xây dựng mô hình và thang đo

Kiểm định mô hình thang đo

Phân tích nhân tố khám phá EFA

Phân tích và thảo luận

Xác định vấn đề và mục tiêu nghiên cứu

XÂY DỰNG THANG ĐO CHO CÁC BIẾN ẢNH HƯỞNG ĐẾN HÀNH VI

Nghiên cứu này tập trung vào các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi gian lận thuế TNCN từ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, phản ánh thái độ con người trong một khía cạnh cụ thể của cuộc sống Để đánh giá thái độ của người tham gia, nghiên cứu sử dụng hai loại câu hỏi: câu hỏi mở cho phép người trả lời tự do diễn đạt ý kiến và câu hỏi đóng với các lựa chọn sẵn có như hoàn toàn đồng ý, đồng ý, không chắc, không đồng ý và hoàn toàn không đồng ý Câu hỏi mở mang lại sự đa dạng trong câu trả lời nhưng khó kiểm soát và lượng hóa, trong khi câu hỏi đóng giúp làm rõ hơn vấn đề nghiên cứu và dễ dàng thu thập dữ liệu cụ thể.

Việc sử dụng câu hỏi đóng trong nghiên cứu thái độ mang lại nhiều lợi ích, đặc biệt khi mục tiêu là xác định các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi gian lận thuế TNCN từ chuyển nhượng quyền sử dụng đất Câu hỏi dạng đóng với thang đo Likert là lựa chọn phù hợp, cho phép đánh giá mức độ ảnh hưởng của từng yếu tố Thang đo Likert với năm hoặc bảy mức độ cung cấp dữ liệu định lượng, giúp phân tích và xác định mối quan hệ tương quan và tuyến tính giữa các biến độc lập và biến phụ thuộc.

Donald (1987) đã tiến hành phân tích gian lận từ góc độ tham ô và biển thủ thông qua khảo sát khoảng 200 trường hợp tội phạm kinh tế để xác định nguyên nhân dẫn đến các hành vi vi phạm pháp luật Nghiên cứu của ông đã kết luận rằng hành vi gian lận chỉ xảy ra khi ba yếu tố trong mô hình tam giác gian lận (Fraud Triangle) hội đủ.

Bài viết đề cập đến ba nhân tố chính ảnh hưởng đến hành vi gian lận thuế TNCN từ chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại huyện Giồng Trôm, bao gồm cơ hội, động cơ và hợp lý hóa hành vi Để đo lường các nhân tố này, một thang đo được xây dựng dựa trên nghiên cứu về thái độ hành vi thuế và tính tuân thủ tại Ireland năm 2008/2009 (Lefebvre et al, 2011) Thang đo bao gồm ba thành phần với tổng cộng 15 câu hỏi, được đánh giá ở 5 mức độ khác nhau.

Có thể được tóm lược như sau:

1 Mọi người nghĩ rằng họ phải nộp quá nhiều thuế

2 Số tiền gian lận từ thuế được dùng để mua những đồ dùng cần thiết

3 Người ta tin rằng có những người khác kê khai thuế trung thực

4 Tiền thuế thu được, sử dụng kém hiệu quả

5 Trốn thuế không phải là vấn đề ở Ireland

6 Cơ quan thuế thiếu cơ sở xác định người dân kê khai giá chuyển nhượng thấp để giảm số tiền thuế phải nộp

7 Lợi dụng kẻ hở pháp luật để giảm số thuế phải nộp

8 Cơ quan thuế chưa quản lý tốt các khoản thu nhập chịu thuế

III HỢP LÝ HÓA HÀNH VI

9 Đã thành công trong việc trốn thuế

10 Mọi người nghĩ rằng gian lận thuế là phạm pháp, nhưng nguy cơ bị phát hiện là rất thấp

11 Biện pháp chế tài chưa đủ sức răn đe

12 Trốn thuế có thể bị phát hiện, khi đó sẽ nộp đủ

IV HÀNH VI GIAN LẬN THUẾ

13 Sẵn sàng thực hiện trốn thuế khi có cơ hội

14 Sẵn sàng thực hiện việc trốn thuế khi hợp lý hóa được hành vi

15 Sẵn sàng trốn thuế khi mang lại lợi ích

Sau khi thực hiện phỏng vấn thử, thang đo đã được điều chỉnh để phù hợp với bối cảnh nghiên cứu và mục tiêu đề ra Đặc biệt, thang đo này còn được bổ sung thêm 3 câu hỏi mới.

Người môi giới thường có xu hướng gian lận thuế để tăng thu nhập cá nhân, điều này tạo ra rủi ro lớn cho cả họ và hệ thống thuế.

Cơ quan thuế chưa tiến hành kiểm tra để xác định giá trị thực tế của việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất, đặc biệt khi có dấu hiệu gian lận từ phía người dân.

Cuối cùng, khả năng hợp lý hóa hành vi đặt ra câu hỏi: Khi bị phát hiện gian lận thuế TNCN, người dân thường biện minh rằng họ không hiểu rõ chính sách thuế và sẽ rút kinh nghiệm cho những lần sau.

Trốn thuế không phải là vấn đề đáng lo ngại tại huyện Giồng Trôm, và tình hình này tương tự như ở Ireland Các quy định về thuế tại địa phương không cho thấy sự nghiêm trọng của hành vi trốn thuế.

Thang đo đã được hiệu chỉnh với 18 câu hỏi và sử dụng thang đo Likert 5 điểm, trong đó 1 điểm thể hiện mức độ hoàn toàn không đồng ý và 5 điểm thể hiện mức độ hoàn toàn đồng ý.

1 Mọi người nghĩ rằng họ phải nộp quá nhiều thuế DC_1

2 Số tiền gian lận từ thuế được dùng để mua những đồ dùng cần thiết DC_2

3 Người ta tin rằng có những người khác kê khai thuế trung thực DC_3

4 Tiền thuế thu được, sử dụng kém hiệu quả DC_4

5 Trốn thuế không phải là vấn đề ở địa phương DC_5

6 Người môi giới là những người có khả năng gian lận thuế cao để tạo thêm thu nhập cho bản thân họ DC_6

7 Cơ quan thuế thiếu cơ sở xác định người dân kê khai giá chuyển nhượng thấp để giảm số tiền thuế phải nộp CH_1

8 Lợi dụng kẻ hở pháp luật để giảm số thuế phải nộp CH_2

9 Cơ quan thuế chưa quản lý tốt các khoản thu nhập chịu thuế CH_3

Mười cơ quan thuế chưa tiến hành kiểm tra để xác định giá trị thực tế của việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất của người dân khi có dấu hiệu gian lận.

III HỢP LÝ HÓA HÀNH VI

11 Đã thành công trong việc trốn thuế HL_1

12 Mọi người nghĩ rằng gian lận thuế là phạm pháp, nhưng nguy cơ bị phát hiện là rất thấp HL_2

13 Biện pháp chế tài chưa đủ sức răn đe HL_3

14 Trốn thuế có thể bị phát hiện, khi đó sẽ nộp đủ HL_4

Khi bị cơ quan thuế phát hiện gian lận thuế TNCN, người dân thường cho rằng mình thiếu hiểu biết về chính sách thuế và sẽ rút kinh nghiệm cho những lần sau.

IV HÀNH VI GIAN LẬN THUẾ

16 Sẵn sàng thực hiện trốn thuế khi có cơ hội HV_1

17 Sẵn sàng thực hiện việc trốn thuế khi hợp lý hóa được hành vi HV_2

18 Sẵn sàng trốn thuế khi mang lại lợi ích HV_3

Nghiên cứu này khám phá và áp dụng phương pháp chọn mẫu phi xác suất, cụ thể là mẫu thuận tiện Dữ liệu được thu thập thông qua bảng câu hỏi trả lời trực tiếp.

Theo Hair, Anderson, Tatham và Black (1998), kích thước mẫu trong phân tích yếu tố khám phá (EFA) thường được xác định dựa trên kích thước tối thiểu và số lượng biến quan sát Để thực hiện EFA, kích thước mẫu tối thiểu cần đạt 50, lý tưởng nhất là 100, với tỷ lệ quan sát trên biến quan sát là 5:1, tức là mỗi biến quan sát cần ít nhất 5 quan sát, tốt nhất là từ 10:1 trở lên Trong nghiên cứu này, tác giả áp dụng công thức xác định kích thước mẫu: N ≥ 5*x, trong đó x là tổng số biến quan sát.

18 biến quan sát, như vậy kích thước mẫu tối thiểu là 90

3.4.2 Xử lý và phân tích dữ liệu

3.4.2.1 Kiểm định và đánh giá thang đo Đánh giá thang đo nghiên cứu các khái niệm nghiên cứu cần thực hiện kiểm tra độ tin cậy và giá trị thang đo Hệ số độ tin cậy Cronbach’s Alpha và hệ số tương quan biến – tổng (item – total correlation) giúp xem xét và loại bỏ các biến không đạt yêu cầu nhằm nâng cao hệ số tin cậy Cronbach’s Alpha cho khái niệm nghiên cứu cần đo lường Thang đo của nghiên cứu được xây dựng là thang đo đa hướng, vì vậy khi phân tích hệ số tin cậy Cronbach’s Alpha, phải tính cho từng thành phần Đồng thời, sử dụng phương pháp phân tích nhân tố EFA để kiểm tra độ giá trị của thang đo

Phân tích hệ số tin cậy Cronbach’s Alpha

PHÂN TÍCH KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Ngày đăng: 14/07/2021, 10:08

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN