GIỚI THIỆU
Bối cảnh nghiên cứu
Với 67,8% dân số sống và làm việc tại nông thôn, nông nghiệp giữ vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế Việt Nam, đóng góp 20% GDP và chiếm 1/4 doanh thu xuất khẩu quốc gia Ngành này tạo việc làm cho một nửa lực lượng lao động và trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu, nông nghiệp vẫn tăng trưởng cả về số lượng lẫn giá trị, là ngành duy nhất xuất siêu, góp phần ổn định cán cân thương mại Sản phẩm nông, lâm, ngư nghiệp Việt Nam hiện diện tại 128 quốc gia và vùng lãnh thổ, với nhiều mặt hàng như gạo, cà phê, và cao su đứng đầu thế giới.
Ngành nông nghiệp Việt Nam đang đối mặt với nhiều thách thức trong phát triển, bao gồm tổ chức sản xuất phân tán và manh mún, ứng dụng công nghệ cao còn hạn chế, và rủi ro cao trong sản xuất Sự tham gia phát triển thị trường còn yếu, chưa nâng cao được vị thế trên thị trường quốc tế, và phụ thuộc vào hàng hóa nhập khẩu từ nước ngoài Do đó, nền nông nghiệp Việt Nam chưa phát triển bền vững.
Kinh tế trang trại là một hình thức kinh tế quan trọng trong các ngành nông, lâm, ngư nghiệp, đã tồn tại và phát triển trên toàn cầu từ lâu Tại Việt Nam, kinh tế trang trại đã có sự phát triển mạnh mẽ trong những năm gần đây, góp phần khai thác và phát huy tiềm năng sẵn có của nông thôn, đồng thời thúc đẩy quá trình cơ giới hóa, công nghiệp hóa và ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất kinh doanh.
Tây Ninh, một tỉnh thuộc miền Đông Nam Bộ, nổi bật với địa hình chuyển tiếp từ đồi núi thấp đến đồng bằng châu thổ Đặc biệt, 85% diện tích đất của tỉnh được bao phủ bởi các loại hình tự nhiên đa dạng, tạo nên cảnh quan phong phú và hấp dẫn.
Tỉnh Tây Ninh, với địa hình bằng phẳng và chất phù sa cổ, đã chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ trong sản xuất nông nghiệp trong những năm gần đây, đặc biệt là kinh tế trang trại Theo thống kê tính đến ngày 01/7/2014, tỉnh có 1.092 trang trại, tăng 10,64% so với năm 2012, trong đó 965 trang trại trồng trọt chiếm 88,37% và 125 trang trại chăn nuôi chiếm 11,45% Mặc dù một số trang trại hoạt động hiệu quả, nhưng vẫn còn nhiều trang trại gặp khó khăn trong tổ chức sản xuất, áp dụng khoa học kỹ thuật và tìm kiếm thị trường.
Theo Báo cáo tổng kết của Sở NN&PTNT Tây Ninh năm 2013, một số vấn đề của KTTT ở tỉnh Tây Ninh trong giai đoạn hiện nay là:
Sự phát triển của trang trại phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên và hiệu quả kinh tế, tuy nhiên thu nhập từ các trang trại vẫn còn thấp Việc khai thác và sử dụng tài nguyên chưa đạt hiệu quả cao, chưa có sự kết nối giữa quy hoạch trang trại với đa dạng sinh học và bảo vệ môi trường sinh thái.
Điều kiện kinh tế và pháp lý cho sự tồn tại và phát triển kinh tế trang trại hiện vẫn còn nhiều bất cập, đặc biệt là trong các vấn đề liên quan đến quy mô đất đai, thuê mướn lao động, vốn đầu tư, kiến thức khoa học kỹ thuật và trình độ quản lý của các chủ trang trại Hơn nữa, tâm lý e ngại của các chủ trang trại về các vấn đề hạn điền và việc xin “Giấy chứng nhận trang trại” để được hưởng ưu đãi từ chính sách Nhà nước cũng là một rào cản lớn.
Sự kết hợp giữa sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm trong nông nghiệp hiện nay còn lỏng lẻo, dẫn đến chất lượng sản phẩm tuy đồng đều về hình thức nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường Kinh tế nông hộ vẫn gặp khó khăn trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh và nắm bắt nhu cầu thị trường, gây ra tình trạng trồng rồi chặt bỏ sản phẩm.
Trong giai đoạn đầu, các trang trại đã tự phân công công việc trong sản xuất kinh doanh tổng hợp và dịch vụ nông nghiệp, dẫn đến sự hình thành một số hợp tác xã hoạt động hiệu quả Tuy nhiên, mô hình này vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn và bất cập.
Mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu
Bài viết phân tích cơ sở khoa học của kinh tế trang trại và đánh giá hiệu quả kinh tế dựa trên lợi nhuận và thu nhập, so sánh với nông hộ Đồng thời, nghiên cứu xác định các nhân tố chính ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế trang trại và đề xuất giải pháp phát triển mô hình này tại tỉnh Tây Ninh Để thực hiện mục tiêu, luận văn sẽ trả lời ba câu hỏi chính.
1 Hiệu quả phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn tỉnh Tây Ninh ra sao?
2 Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả của kinh tế trang trại ở Tây Ninh?
3 Giải pháp khả thi nhằm phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn tỉnh Tây Ninh?
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Các yếu tố chính ảnh hưởng đến thu nhập và lợi nhuận của trang trại bao gồm quy mô đất, vốn đầu tư, vốn vay, và quy mô máy móc thiết bị Ngoài ra, kiến thức nông nghiệp của chủ hộ cũng đóng vai trò quan trọng Việc so sánh và đối chiếu giữa các loại hình trang trại nông nghiệp và nông hộ sẽ giúp hiểu rõ hơn về hiệu quả kinh tế trong lĩnh vực này.
Đề tài này tập trung vào việc nghiên cứu, phân tích và đánh giá số liệu thống kê từ tỉnh Tây Ninh Các số liệu chung của cả nước và những thông tin khác chỉ được sử dụng một cách hạn chế nhằm phục vụ cho việc so sánh và đánh giá.
Mô hình kinh tế trang trại tại tỉnh Tây Ninh rất đa dạng, tuy nhiên bài viết này chỉ tập trung vào nghiên cứu và khảo sát các loại hình trang trại chuyên trồng cây lâu năm.
CƠ SỞ LÝ THUYẾT
Cơ sở lý luận chung
Hiệu quả kinh tế là khái niệm quan trọng trong việc đánh giá các ngành sản xuất, hiểu đơn giản là việc sử dụng nguồn lực một cách hợp lý để tối đa hóa lợi ích với chi phí thấp nhất Mỗi ngành kinh tế có những chỉ tiêu riêng để đánh giá hiệu quả, trong đó lợi nhuận là chỉ tiêu chung cho cả ngành nông nghiệp và các ngành khác Bên cạnh lợi nhuận, các chỉ tiêu về thu nhập, doanh thu và chi phí cũng được xem xét để đánh giá quy mô sản xuất, trong khi chỉ tiêu về vốn, bao gồm vốn vay và vốn tự có, giúp đánh giá khả năng đầu tư mở rộng của ngành.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Khung phân tích
Thu thập dữ liệu
3.2.1 Thông tin cần thu thập
Thông tin thứ cấp gồm các thống kê về số lượng, tình hình phát triển của nông nghiệp nói chung, kinh tế trang trại nói riêng
Thông tin sơ cấp bao gồm dữ liệu thực tế về tình hình của trang trại và hộ gia đình thông qua khảo sát, như giới tính, số lượng lao động, doanh thu và lợi nhuận.
3.2.2 Nguồn dữ liệu và phương pháp thu thập
Thông tin thứ cấp được tổng hợp từ Tổng cục Thống kê, Cục Thống kê Tây Ninh và Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Tây Ninh, nhằm cung cấp cái nhìn tổng quan về các đối tượng nghiên cứu.
Thông tin sơ cấp thông qua khảo sát các hộ và trang trại trên địa bàn, tiến
- Đặc trưng(tuổi, giới tính, học vấn, chuyên môn)
- Vốn vay, máy móc thiết bị, tài sản cố định
Thu nhập và lợi nhuận của nông hộ
Thu nhập và lợi nhuận của trang trại
Hiệu quả của kinh tế trang trại
Nghiên cứu hiệu quả kinh tế của nông hộ thông qua phỏng vấn chuyên gia trong lĩnh vực này được thực hiện dựa trên số liệu thống kê trang trại tỉnh Tây Ninh năm 2013 Mẫu điều tra được xác định với tỷ lệ khoảng 10% tổng số trang trại hiện có, sử dụng phương pháp điều tra trực tiếp Để đánh giá hiệu quả kinh tế của trang trại so với nông hộ, nghiên cứu tập trung vào các khu vực có trang trại và nông hộ chuyên trồng cây lâu năm và cây ăn trái.
Trong cuộc điều tra, tổng số mẫu được khảo sát là 186, trong đó khu vực huyện Tân Châu đóng góp một phần quan trọng.
Trong khoảng thời gian từ 20/10/2014 đến 30/11/2014, đã tiến hành điều tra 82 mẫu, trong đó khu vực huyện Tân Biên chiếm 73 mẫu và Thành phố Tây Ninh có 31 mẫu Sự hỗ trợ từ Trung tâm khuyến nông tỉnh Tây Ninh cùng với các cán bộ tại các chi cục thống kê của các huyện đã góp phần quan trọng trong quá trình này.
Luận văn áp dụng phương pháp nghiên cứu kết hợp thống kê, phân tích, so sánh và định lượng, sử dụng phần mềm SPSS 20 để nhập và xử lý dữ liệu điều tra Sau khi làm sạch dữ liệu, tiến hành lọc và tạo các bảng số liệu thống kê, thực hiện kiểm định và phân tích Anova Mô hình hồi quy phân tích đa biến được sử dụng, với các biến phụ thuộc là thu nhập và lợi nhuận, và các biến độc lập bao gồm diện tích, chuyên môn, giới tính, và vốn vay.
Phỏng vấn các chủ trang trại tiêu biểu là một phương pháp hiệu quả để nắm bắt tình hình hoạt động và những khó khăn mà họ gặp phải trong quá trình sản xuất.
PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG
Thực tiễn phát triển kinh tế trang trại ở Việt Nam
4.1.1 Khái niệm kinh tế nông hộ
Nghị quyết số 03/2000/NQ-CP ngày 02/02/2000 của Thủ tướng Chính phủ xác định rằng kinh tế hộ gia đình ở nông thôn là hình thức tổ chức sản xuất trong các lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp và tiểu thủ công nghiệp Mô hình này chủ yếu nhằm đáp ứng nhu cầu của hộ gia đình, mang tính tự cấp tự túc và chưa gắn kết với thị trường.
4.1.2 Khái niệm về kinh tế trang trại
Nghị quyết số 03/2000/NQ-CP định nghĩa kinh tế trang trại là hình thức tổ chức sản xuất hàng hóa trong nông nghiệp và nông thôn, chủ yếu dựa vào hộ gia đình Mục tiêu của kinh tế trang trại là mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả sản xuất trong các lĩnh vực như trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, và trồng rừng, đồng thời gắn kết sản xuất với chế biến và tiêu thụ nông, lâm, thủy sản.
4.1.3 Các đặc trưng chủ yếu và tiêu chí định lượng của kinh tế trang trại
Vào ngày 23/06/2000, liên bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cùng Tổng cục Thống kê đã ban hành thông tư liên tịch số 69/2000/TTLT/BNN-TCTK, nhằm thực hiện Nghị quyết của Chính phủ về kinh tế trang trại Thông tư này quy định hướng dẫn các tiêu chí liên quan đến kinh tế trang trại.
Các đặc trưng chủ yếu:
- Mục đích sản xuất của trang trại là sản xuất nông, lâm, thủy sản hàng hóa với qui mô lớn
Mức độ tập trung hóa và chuyên môn hóa trong sản xuất nông nghiệp của các hộ nông dân cao hơn hẳn so với quy mô sản xuất truyền thống, thể hiện rõ qua các yếu tố như diện tích đất đai, số lượng gia súc, nguồn lao động và giá trị hàng hóa nông lâm thủy sản.
Chủ trang trại sở hữu kiến thức và kinh nghiệm trong quản lý sản xuất, áp dụng tiến bộ khoa học-kỹ thuật và tiếp nhận công nghệ mới Họ sử dụng lao động gia đình và thuê lao động bên ngoài để đạt hiệu quả cao, mang lại thu nhập vượt trội so với kinh tế hộ.
Để được công nhận là kinh tế trang trại, một hộ sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp hoặc nuôi trồng thủy sản cần phải đáp ứng hai tiêu chí định lượng quan trọng.
Giá trị sản lượng hàng hóa và dịch vụ bình quân hàng năm ở các tỉnh phía Bắc và Duyên hải miền Trung đạt từ 40 triệu đồng trở lên, trong khi đó, các tỉnh phía Nam và Tây Nguyên có mức giá trị này từ 50 triệu đồng trở lên.
- Qui mô sản xuất Đối với trang trại trồng trọt:
+Trang trại trồng cây hàng năm
Từ 2 ha trở lên đối với các tỉnh phía Bắc và Duyên hải miền Trung
Từ 3 ha trở lên đối với các tỉnh phía Nam và Tây Nguyên
+Trang trại trồng cây lâu năm
Từ 3 ha trở lên đối với các tỉnh phía Bắc và Duyên hải miền Trung
Từ 5 ha trở lên đối với các tỉnh phía Nam và Tây Nguyên
Từ 10 ha trở lên đối với các vùng trong cả nước Đối với trang trại chăn nuôi
+Chăn nuôi đại gia súc: trâu, bò v.v
Chăn nuôi sinh sản, lấy sữa có thường xuyên từ 10 con trở lên
Chăn nuôi lấy thịt có thường xuyên từ 50 con trở lên
+Chăn nuôi gia súc: lợn, dê v.v
Chăn nuôi sinh sản có thường xuyên đối với 20 con trở lên; đối với dê, cừu từ 100 con trở lên
Chăn nuôi lợn thịt có thường xuyên từ 100 con trở lên (không kể lợn sữa); dê thịt từ 200 con trở lên
+Chăn nuôi gia cầm: gà, vịt, ngang, ngỗng v.v có thường xuyên từ 2000 con trở lên (không tính số đầu con dưới 7 ngày tuổi)
Trang trại nuôi trồng thủy sản
Diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản cần đạt từ 2 ha trở lên, trong khi đối với nuôi tôm thịt theo kiểu công nghiệp, diện tích tối thiểu là 1 ha Đối với các sản phẩm nông lâm nghiệp và thủy sản có tính chất đặc thù như trồng hoa, cây cảnh, nấm, nuôi ong, giống thủy sản và thủy đặc sản, tiêu chí xác định sẽ dựa vào giá trị sản lượng hàng hóa.
Vào ngày 13/04/2011, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã ban hành thông tư số 27/2011/TT-BNNPTNN, quy định các tiêu chí và thủ tục cấp giấy chứng nhận kinh tế trang trại Theo đó, cá nhân và hộ gia đình hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp và nuôi trồng thủy sản cần phải đáp ứng các điều kiện nhất định để được công nhận đạt tiêu chuẩn kinh tế trang trại.
- Đối với cơ sở trồng trọt, nuôi trồng thuỷ sản, sản xuất tổng hợp phải đạt:
Có diện tích trên mức hạn điền, tối thiểu:
+ 3,1 ha đối với vùng Đông Nam Bộ và Đồng bằng Sông Cửu Long;
+ 2,1 ha đối với các tỉnh còn lại
+ Giá trị sản lượng hàng hóa đạt 700 triệu đồng/năm
- Đối với cơ sở chăn nuôi phải đạt giá trị sản lượng hàng hóa từ 1.000 triệu đồng/năm trở lên;
Cơ sở sản xuất lâm nghiệp cần có diện tích tối thiểu 31 ha và giá trị sản lượng hàng hóa bình quân đạt từ 500 triệu đồng/năm trở lên.
4.1.4 Vai trò của kinh tế trang trại đối với nền nông nghiệp nước ta
- Thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển, góp phần đưa sản xuất nông nghiệp lên công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Sự phát triển của kinh tế hộ đã thúc đẩy sản xuất nông nghiệp hàng hóa, tạo ra động lực mới và sản lượng nông sản lớn, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước cũng như xuất khẩu.
Sản phẩm từ trang trại cần đáp ứng yêu cầu thị trường về chất lượng và giá cả, do đó việc nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm là rất quan trọng Để đạt được điều này, cần xây dựng quy mô hợp lý, đầu tư vào máy móc thiết bị, ứng dụng khoa học công nghệ và cải tiến quy trình quản lý sản xuất, từ đó thúc đẩy sản xuất hàng hóa trong nông nghiệp.
Quá trình tập trung sản xuất nông nghiệp yêu cầu áp dụng cơ giới hóa trong các khâu làm đất, thu hoạch và vận chuyển sản phẩm Đồng thời, cần chủ động về nguồn nước tưới, điện và hệ thống thông tin liên lạc Những yếu tố này tạo điều kiện cho nông nghiệp tiến tới công nghiệp hóa và phát triển sản xuất hàng hóa quy mô lớn.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp và nông thôn là cần thiết để đáp ứng nhu cầu thị trường Các trang trại đang phát triển các loại cây trồng và vật nuôi có giá trị cao, từ đó khắc phục tình trạng phân tán và manh mún Việc hình thành các vùng chuyên canh và tập trung hàng hóa không chỉ tạo điều kiện cho ngành công nghiệp chế biến và thương mại dịch vụ phát triển, mà còn góp phần nâng cao thu nhập cho lao động nông nghiệp và thúc đẩy sự phát triển của nông thôn.
Các mô hình hợp tác hiện nay, bao gồm việc ứng trước vốn cho chủ trang trại, bao tiêu sản phẩm và khoán chăm sóc, bảo vệ cây rừng, đã thúc đẩy sự phân công và hợp tác trong ngành nông nghiệp Những mô hình này góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn theo hướng chuyên môn hóa và hiện đại hóa.
- Giải quyết việc làm, huy động và khai thác các nguồn lực
Phát triển kinh tế trang trại trên thế giới
4.2.1 Phát triển kinh tế trang trại gia đình ở một số nước Châu Âu
Bảng 4.3-Trang trại một số nước Châu Âu
Số trang trại (1000 đơn vị) 453 467 327 254
Diện tích bình quân (ha) 36 41 55 71
Số trang trại (1000 đơn vị) 2285 1588 1263 801
Diện tích bình quân (ha) 14 19 23 35
Số trang trại (1000 đơn vị) 2051 1709 1075 983
Diện tích bình quân (ha) 11 10 14 15
Số trang trại (1000 đơn vị) 349 308 191 128
Diện tích bình quân (ha) 7 9 12 16
Nguồn: Đào Thế Tuấn, 1997.Kinh tế hộ nông dân
Trong giai đoạn đầu, giá nông sản tăng và giá nhân công rẻ đã tạo sức hấp dẫn cho khu vực nông nghiệp, giúp các trang trại lớn chiếm ưu thế Tuy nhiên, sự xuất hiện của phân bón hóa học và máy móc nông nghiệp đã làm tăng sản lượng, giảm giá cả và nâng cao năng suất lao động, dẫn đến việc các trang trại lớn dần mất ưu thế Cuộc khủng hoảng giá nông sản cuối thế kỷ 19 đã tạo điều kiện cho các trang trại gia đình phát triển Hơn nữa, sự phát triển của công nghiệp đã thu hút lao động từ nông nghiệp, gây ra tình trạng thiếu hụt lao động làm thuê và thúc đẩy việc áp dụng máy móc trong sản xuất nông nghiệp, dẫn đến mô hình trang trại gia đình phát triển theo hướng giảm số lượng nhưng tăng quy mô.
4.2.2 Phát triển kinh tế trang trại gia đình ở một số nước Châu Á
Bảng 4.4-Trang trại một số nước Châu Á
Số trang trại (1000 đơn vị) 6176 5342 4661 3691
Diện tích bình quân (ha) 0,8 1,1 1,1 1,38 Đài Loan
Số trang trại (1000 đơn vị) 744 808 916 739
Diện tích bình quân (ha) 1,12 0,91 0,83 1,21
Số trang trại (1000 đơn vị) 2249 2507 2379 1772
Diện tích bình quân (ha) 0,86 0,9 0,94 1,2
Số trang trại (1000 đơn vị) 3214 4018 4464 5245
Diện tích bình quân (ha) 0,35 3,72 3,56 4,52
Nguồn: Đào Thế Tuấn, 1997.Kinh tế hộ nông dân
Nhật Bản, Đài Loan và Hàn Quốc đều phát triển mô hình trang trại gia đình theo những quy luật chung, trong khi Thái Lan ghi nhận sự gia tăng cả về diện tích lẫn số lượng trang trại gia đình.
Trong giai đoạn kinh tế phát triển thấp, kinh tế trang trại thường mở rộng về cả số lượng và diện tích Tuy nhiên, khi phát triển đến mức cao, xu hướng chuyển sang giảm số lượng và tăng quy mô diện tích Dù vậy, nếu quy mô quá lớn, hiệu quả có thể giảm sút Thực tiễn từ một số quốc gia trên thế giới đã chứng minh vai trò quan trọng của trang trại gia đình trong sự phát triển của nông nghiệp.
Tổng quan tình hình kinh tế xã hội tỉnh Tây Ninh
4.3.1 Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
Tây Ninh, tỉnh miền Đông Nam Bộ, nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, giáp biên giới Campuchia dài 240 km Phía Đông tiếp giáp Bình Dương và Bình Phước, phía Nam giáp TP Hồ Chí Minh và Long An, tạo điều kiện thuận lợi cho giao lưu kinh tế và phát triển hạ tầng Với diện tích 4.032,61 km², Tây Ninh chiếm 1,22% diện tích cả nước và xếp thứ 35/63, trong đó có 285,5 nghìn ha đất nông nghiệp Địa hình bằng phẳng cùng với tính chất đất tốt giúp Tây Ninh phát triển nông nghiệp, công nghiệp, thương mại và du lịch hiệu quả.
Khí hậu nơi đây tương đối ôn hòa, ít bị ảnh hưởng bởi bão lũ và các yếu tố bất lợi khác Nơi này có hai mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11 và mùa khô từ tháng 12 năm trước đến tháng 4 năm sau Lượng mưa trung bình hàng năm là một yếu tố quan trọng trong việc xác định đặc điểm khí hậu của khu vực.
Vùng này có lượng mưa trung bình từ 1.800 đến 2.200mm và nhiệt độ trung bình hàng năm đạt 26,5°C Độ ẩm không khí dao động từ 80-90%, thay đổi theo mùa Với khí hậu nhiệt đới cận xích đạo, nơi đây có nền nhiệt độ cao quanh năm, độ ẩm lớn và ánh sáng phong phú.
Nguồn nước mặt chủ yếu đến từ hai con sông lớn là Sông Sài Gòn và Sông Vàm Cỏ Đông, cùng với hệ thống kênh rạch và sông suối khác Nguồn nước ngầm tại khu vực này cũng rất phong phú, với mực nước trung bình từ 50 đến 200m, cho phép khai thác ngay cả trong mùa khô, đảm bảo chất lượng nước cho sinh hoạt và sản xuất nông nghiệp.
4.3.2 Điều kiện kinh tế xã hội:
Tỉnh có dân số khoảng 1.095.583 người với mật độ 271,68 người/km², trong đó 16% sống ở thành thị và 84% ở nông thôn Số người trong độ tuổi lao động là 647.899, với 641.000 người đang làm việc, trong đó 45% làm trong lĩnh vực nông nghiệp Từ năm 2001-2010, tổng sản phẩm trên địa bàn tăng bình quân 14,1% Cơ cấu kinh tế đang chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp - dịch vụ và giảm tỷ trọng nông nghiệp, tuy nhiên, giá trị gia tăng ngành nông nghiệp vẫn chiếm khoảng 26,8%, cao hơn mức trung bình cả nước là 20,4%.
Hình 4.1- Cơ cấu kinh tế tỉnh Tây Ninh giai đoạn 2005-2013
Nguồn: NGTK tỉnh Tây Ninh năm 2013
Nông-Lâm-Thủy sản Công nghiệp-Xây dựng Dịch vụ
GDP bình quân đầu người năm 2013 đạt 44.5 triệu đồng/người So với năm
Năm 2012, giá trị sản xuất công nghiệp tăng 12,5%, nông nghiệp tăng 4,79% và dịch vụ tăng 11,6% Kim ngạch xuất khẩu đạt mức tăng 16,01%, trong khi thu ngân sách tăng 17% Tỷ lệ trạm y tế xã đạt chuẩn quốc gia là 98%, với 100% tỷ lệ y bác sĩ Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng giảm còn 14,3%, và 94% hộ nông dân sử dụng nước sạch Đến cuối năm 2012, 99% hộ dân có điện sử dụng, mật độ máy điện thoại đạt 120 máy/100 dân, và tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống còn 3,3% Năm 2013, địa phương đã giải quyết việc làm cho hơn 21.600 lao động.
4.3.3 Tổng quan tình hình phát triển nông nghiệp của tỉnh Tây Ninh:
Bảng 4.5 – Tình hình phát triển nông nghiệp tỉnh Tây Ninh các năm 2005-
Gía trị sản xuất nông nghiệp (triệu đồng)
Trong đó, giá trị sản xuất cây công nghiệp và cây ăn quả (triệu đồng)
Nguồn: NGTK tỉnh Tây Ninh năm 2013, giá so sánh năm 2010.
Tổng quan tình hình phát triển kinh tế trang trại tỉnh Tây Ninh
4.4.1 Quá trình hình thành và phát triển:
Kinh tế trang trại ở Tây Ninh có lịch sử lâu dài, bắt đầu từ thời kỳ Pháp thuộc với những đồn điền cao su quy mô lớn Sau năm 1975, nhiều đồn điền được quốc hữu hóa và chuyển đổi sang hình thức kinh tế hợp tác xã, dẫn đến sự suy giảm của kinh tế trang trại Tuy nhiên, từ năm 1986, khi thực hiện đổi mới, nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường, nhiều hợp tác xã cũ tan rã, mở ra cơ hội cho các mô hình kinh doanh mới với quy mô lớn và kỹ thuật cao Luật đất đai năm 1993 đã giúp nhiều hộ gia đình có vốn khai hoang hoặc mua đất, tạo ra những cơ sở sản xuất có quản lý chặt chẽ.
Chính sách đổi mới trong nông nghiệp, đặc biệt là Luật Đất đai năm 2013, cùng với điều kiện tự nhiên thuận lợi, đã thúc đẩy sự phát triển kinh tế hộ nông dân về quy mô và diện tích Kết quả là, nhiều trang trại tư nhân đã được hình thành và nhanh chóng thích ứng với nông nghiệp nông thôn Đến tháng 07/2014, tỉnh ghi nhận 1.092 trang trại với tổng diện tích đất sản xuất lên tới 21.348 ha, sử dụng 21.624 lao động và đạt giá trị thu từ nông, lâm, thủy sản lên đến 2.182,49 tỷ đồng.
Các trang trại ở Tây Ninh chủ yếu là trang trại trồng trọt nông nghiệp:
Bảng 4.6 – Loại hình trang trại tỉnh Tây Ninh các năm 2005- 2013
Loại hình Năm % Năm % Năm % Năm % Năm % trang trại 2005 2010 2011 2012 2013
Sản xuất kinh doanh tổng hợp
Nguồn: NGTK tỉnh Tây Ninh năm 2013
4.4.3 Quy mô đất đai và tổ chức sử dụng đất đai của trang trại:
Theo số liệu của Cục Thống kê Tây Ninh, tính đến ngày 01/7/2014, diện tích đất nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản mà các trang trại trong tỉnh sử dụng đạt 21.348 ha, tăng 20,12% so với năm 2012 Bình quân mỗi trang trại sử dụng 19,55 ha, trong đó các huyện Tân Biên và Tân Châu có diện tích cao nhất lần lượt là 21,81 ha và 21,8 ha Các loại hình trang trại có quy mô sử dụng đất khác nhau, với trang trại trồng trọt sử dụng trung bình 21,82 ha, trang trại chăn nuôi 2,18 ha và trang trại tổng hợp 8,5 ha Đặc điểm đất đai của các trang trại là có quy mô lớn, liền bờ liền khoảnh, thuận lợi cho tổ chức sản xuất, bảo vệ, vận chuyển sản phẩm, và đặc biệt là hỗ trợ cho cơ giới hóa trong khâu làm đất và thu hoạch.
Tỉnh Tây Ninh đã phê duyệt Quy hoạch vùng chuyên canh gắn với tiêu thụ nông sản theo quyết định số 44/2012-UBND vào ngày 15/10/2012 Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có đánh giá về kết quả triển khai quy hoạch này.
4.4.4 Vốn đầu tư của trang trại:
Vào năm 2013, vốn đầu tư bình quân cho mỗi trang trại đạt 354 triệu đồng, với nhiều trang trại gia đình ở Tây Ninh vay vốn từ thị trường tín dụng Đặc biệt, 94% các trang trại ở đây tập trung vào trồng cây lâu năm như cao su và cây ăn trái Mặc dù giá cao su liên tục giảm, nhưng giá trị của các trang trại vẫn tăng nhờ vào việc mở rộng diện tích khai thác, với giá trị thu được từ nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 10.89% vào năm 2014 so với năm 2012.
4.4.5 Lao động của trang trại
Trong các trang trại gia đình gồm có lao động chủ hộ, lao động quản lý, lao động thuê ngoài thường xuyên và lao động thuê ngoài thời vụ
Bảng 4.7 – Lao động của trang trại
Số lượng lao động năm 2014 (người)
Lao động bình quân/trang trại 19,8 0,49 2,54
LĐ thuê ngoài thường xuyên 8,58 0,35 4,25
LĐ thuê ngoài thời vụ 11,22 0,14 1,26
Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Tây Ninh, năm 2014
Chia theo loại hình trang trại:
Bảng 4.8 – Lao động theo loại hình của trang trại
Lao động bình quân/trang trại 21,45 7,26 9
LĐ thuê ngoài thường xuyên bình quân 9,05 4,96 6,5
LĐ thuê ngoài thời vụ bình quân 12,39 2,3 2,5
Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Tây Ninh, năm 2014
Đa số lao động trong các trang trại hiện nay chủ yếu là lao động phổ thông chưa qua đào tạo, trong khi chỉ có một số ít lao động được đào tạo cho các công việc yêu cầu kỹ thuật như điều khiển máy móc hay kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi Tình trạng này cho thấy nhu cầu cấp bách trong việc đào tạo nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn để đáp ứng yêu cầu phát triển tại khu vực nông thôn.
Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp sang công nghiệp - dịch vụ đang gia tăng, nhờ vào việc nâng cao năng suất lao động thông qua cơ giới hóa và ứng dụng kỹ thuật mới trong nông nghiệp Điều này đã dẫn đến sự chuyển dịch lao động từ trang trại và lĩnh vực nông nghiệp sang làm việc trong khu vực công nghiệp - dịch vụ.
Phân tích hiệu quả phát triển kinh tế trang trại
4.5.1 Phân tích sơ bộ về kết quả điều tra, khảo sát:
Dữ liệu được thu thập từ 17 xã thuộc hai huyện phía Bắc và thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh, cụ thể là huyện Tân Châu, Tân Biên và thành phố Tây Ninh Tổng số mẫu khảo sát bao gồm 186 hộ và trang trại, trong đó có 100 trang trại và 86 hộ gia đình.
Bảng 4.9 - Thống kê mẫu điều tra theo khu vực địa giới hành chính
Nguồn:Tác giả tổng hợp theo phiếu khảo sát
Dữ liệu từ các mẫu điều tra cho thấy, trình độ học vấn và chuyên môn trung bình của chủ trang trại gia đình cao hơn so với chủ nông hộ, khi xem xét các yếu tố giới tính, độ tuổi và trình độ học vấn.
Bảng 4.10 - Thống kê về giới tính, độ tuổi,học vấnvà trình độ chuyên môn
STT Chủ hộ/trang trại Đơn vị tính Hộ Trang trại
3 Trình độ học vấn Bình quân 8,81 10,08
Từ sơ cấp trở lên % 0 71
Nguồn:Tác giả tổng hợp theo phiếu khảo sát
Kết quả điều tra cho thấy rằng một số chỉ tiêu về nguồn lực đầu vào trong quá trình sản xuất của kinh tế trang trại cao hơn nhiều lần so với nguồn lực đầu vào của hộ gia đình.
Bảng 4.11 – Tổng hợp về lao động, vốn, chi phí
Min Max Bình quân Min Max Bình quân
Lao động gia đình (người) 0 7 0,07 0 5 2,3
Lao động thuê thường xuyên
Lao động thuê thời vụ
Diện tích đất nông nghiệp
Tài sản cố định (ngàn đồng)
Máy móc thiết bị (ngàn đồng)
Nguồn:Tác giả tổng hợp theo phiếu khảo sát
Quy mô đất nông nghiệp của các trang trại hiện nay dao động từ 6 hecta đến 50 hecta, với diện tích bình quân đạt 20,54 hecta/trang trại, gấp đôi so với bình quân quy mô đất của nông hộ, chỉ khoảng 10,5 hecta/hộ.
Hầu hết diện tích đất nông nghiệp đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, với 96,4% trong tổng số 186 hộ và trang trại đã có giấy chứng nhận, 3,2% chưa có và 0,4% đang chờ cấp Kết quả này tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp cận vốn vay, hỗ trợ đầu tư vào quá trình sản xuất.
Số liệu cho thấy mối liên hệ giữa quy mô diện tích đất nông nghiệp và lợi nhuận từ hoạt động sản xuất, được minh họa qua đồ thị 4.1 Mối quan hệ này thể hiện rõ ràng ảnh hưởng của diện tích đất đến thu nhập lao động gia đình.
Trang trại có số lao động thuê mướn thường xuyên cao gấp 13 lần so với nông hộ, với trung bình khoảng 6 lao động/trang trại/năm, trong khi nông hộ chỉ có 1 lao động/hộ/năm Thời điểm cao nhất, trang trại thuê 6 lao động, trong khi nông hộ thuê tối đa 5 lao động.
Thống kê cho thấy 100% trang trại trong số 100 quan sát đều có thuê mướn lao động thường xuyên, với số lượng lao động cao nhất là 17 người Đặc biệt, chỉ có các trang trại trồng cây mãng cầu thuê mướn lao động thời vụ, với số lượng cao nhất là 6 lao động vào thời điểm cao Tuy nhiên, phần lớn các trang trại không ký hợp đồng lao động, chỉ có 15% trang trại thực hiện việc ký hợp đồng với lao động thuê mướn thường xuyên, và thời hạn hợp đồng thường từ 6 tháng trở lên.
Theo điều tra, 36% hộ gia đình thường xuyên thuê mướn lao động, trong khi 13% hộ gia đình chỉ thuê lao động thời vụ Số lượng lao động thuê theo hình thức thời vụ cao nhất là 05 người, và phần lớn trong số họ không có hợp đồng lao động chính thức.
Theo điều tra, thu nhập bình quân của lao động thuê mướn tại trang trại gia đình dao động từ 25.000.000 đồng đến 70.000.000 đồng mỗi năm, trong khi thu nhập cao nhất của lao động ở nông hộ chỉ đạt 28.000.000 đồng/năm Điều này cho thấy mức thu nhập bình quân của lao động tại trang trại cao gấp nhiều lần so với nông hộ, phản ánh vai trò tích cực của kinh tế trang trại trong việc tạo ra việc làm và nâng cao thu nhập cho lao động nông nghiệp ở nông thôn.
Dữ liệu thu thập cho thấy có mối liên hệ rõ ràng giữa yếu tố lao động thuê mướn trong sản xuất và lợi nhuận thu được, như được minh họa qua đồ thị 4.2.
Vốn đầu tư cho sản xuất tại các trang trại cao hơn nhiều so với nông hộ, với mức đầu tư cao nhất đạt 2,1 tỷ đồng, gấp 14 lần mức cao nhất của nông hộ Vốn lưu động cho sản xuất kinh doanh năm 2013 của một trang trại bình quân cũng cao gấp 9,7 lần tổng chi phí kinh doanh của nông hộ Đặc biệt, chi phí sản xuất cao nhất tại một trang trại lên tới 1,05 tỷ đồng, gấp 5,8 lần mức chi phí cao nhất của nông hộ.
Bảng 4.12 - Vốn đầu tư của trang trại
Vốn đầu tư (triệu đồng) Số lượng trang trại Tỷ lệ phần trăm
Nguồn:Tác giả tổng hợp theo phiếu khảo sát
Vốn đầu tư của trang trại gia đình chủ yếu đến từ nguồn vốn tự có, với khoảng 18% trang trại vay vốn từ ngân hàng và 35% vay từ người thân hoặc tổ chức khác, chủ yếu để phục vụ sản xuất nông nghiệp Mức vay vốn thường thấp, chỉ đạt tối đa 600 triệu đồng, trong khi mức cho vay phổ biến dao động từ 75 đến 400 triệu đồng, chiếm 83% số trang trại vay vốn Hầu hết các khoản vay đều thấp hơn thu nhập năm 2013 của trang trại, cho thấy việc cho vay trong khu vực này là an toàn Tuy nhiên, 18% người vay cho rằng ngân hàng thường cho vay với thời hạn ngắn, 33% thấy thủ tục vay rườm rà và 20% cho rằng số tiền vay không đủ nhu cầu Người vay đề nghị ngân hàng nên tăng thời hạn vay để giảm áp lực thiếu vốn, từ đó có thể đầu tư vào trang thiết bị và ứng dụng kỹ thuật mới nhằm nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm Đồ thị 4.3 cho thấy mối quan hệ tuyến tính giữa vốn đầu tư và lợi nhuận từ sản xuất, phù hợp với giả định trong mô hình lý thuyết.
Trong số các trang trại, 15% sở hữu máy cày và xe tải, trong khi 88% có máy bơm nước cùng các thiết bị hỗ trợ sản xuất và chăm sóc cây trồng như máy xịt thuốc và máy thổi lá Đáng chú ý, chỉ 4,8% nông hộ có máy cày và 1 hộ sở hữu xe tải Ngoài việc sử dụng cho sản xuất, máy móc thiết bị còn được cho thuê cho các hộ khác nhằm tăng thêm thu nhập Thống kê này cho thấy mối quan hệ giữa tài sản cố định, máy móc thiết bị và lợi nhuận trong ngành nông nghiệp.
Phân tích thống kê cho thấy quy mô đất đai, lao động, vốn đầu tư, máy móc thiết bị và vốn vay của trang trại vượt trội hơn hẳn so với nông hộ.