Đối với huyện Kim Sơn là một huyện đồng bằng ven biển của tỉnh Ninh Bình có 25 xã nông thôn và 02 thị trấn, trong những năm qua thực hiện Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới diện mạ
Cơ sở lý luận và thực tiễn
Cơ sở lý luận của đề tài
2.1.1 Một số khái niệm cơ bản
Huy động là quá trình tạo ra đám đông, nhóm, và tổ chức nhằm theo đuổi các mục tiêu chung Điều này liên quan đến việc tập hợp nhân lực và tài nguyên cho những công việc lớn, bao gồm cả huy động nguồn lực và kinh phí cho các dự án.
Phương thức huy động: Bằng tiền, hiện vật, ngày công lao động, trí tuệ.
Huy động vốn được thực hiện dựa trên nguyên tắc tự nguyện, đảm bảo tính dân chủ trong việc bàn bạc, công khai và minh bạch, với quyết định được đưa ra theo sự đồng thuận của đa số (Phạm Thị Hiệp, 2014).
Trong những năm qua, khi thảo luận về các chủ trương phát triển kinh tế, hai vấn đề cơ bản là nguồn lực và động lực phát triển luôn được đặt ra Tuy nhiên, vẫn còn nhiều khía cạnh cần làm rõ về nguồn lực, bao gồm cách định nghĩa, huy động và sử dụng hiệu quả Hiện tại, nhận thức về nguồn lực vẫn chưa đầy đủ, thiếu sự định lượng và không chỉ rõ chủ thể Cách nhìn nhận về nguồn lực cũng chưa nhất quán, và vấn đề lãng phí nguồn lực chưa được xem xét đúng mức.
Nguồn lực phải bao gồm những yếu tố có khả năng sử dụng trong giai đoạn phát triển dự kiến Những tiềm năng chưa được khai thác hoặc không thể sử dụng thì không được coi là nguồn lực.
Các nguồn lực được phân loại thành nhiều loại khác nhau để có cách ứng xử và thái độ phù hợp Việc phân chia này được thực hiện theo hai phương pháp chính, dựa trên cách nhận thức và quan điểm thiết thực.
* Cách thứ nhất, người ta chia ra thành nhóm nguồn lực vật chất và nguồn lực con người
Nhóm nguồn lực vật chất bao gồm tài nguyên thiên nhiên như đất, rừng, biển, thuỷ điện, nước, khí hậu, và vị trí địa kinh tế, cùng với cơ sở vật chất kỹ thuật đã được xây dựng như nhà ở, công trình công cộng, đường sá, hải cảng, sân bay, hệ thống sản xuất và truyền tải điện, hệ thống cung cấp và thoát nước, hệ thống xử lý chất thải, và hệ thống viễn thông.
Nhóm nguồn lực con người, gắn liền với tài nguyên trí thức và thông tin, đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển trí tuệ con người Trí tuệ không thể tự có mà cần sự nỗ lực và điều kiện thuận lợi để hình thành Để xây dựng trí tuệ, cả giáo dục và cải tạo nòi giống đều cần được chú trọng Trong quá trình phát triển nguồn lực con người, việc bồi dưỡng sức dân là yếu tố không thể xem nhẹ.
Căn cứ vào nguồn gốc, các nguồn lực được phân loại thành hai nhóm lớn: nguồn lực trong nước và nguồn lực ngoài nước, trong đó nguồn lực trong nước đóng vai trò quyết định Chính sách và cơ chế được thiết lập nhằm tạo môi trường hấp dẫn để thu hút nguồn lực bên ngoài, đặc biệt là nhân tài Qua đó, nhà nước và doanh nghiệp có thể biến ngoại lực thành nội lực Do phần lớn nguồn lực là hữu hạn, việc sử dụng tiết kiệm và hiệu quả, cũng như dự trữ nguồn lực khi có thể, trở thành một trong những quốc sách quan trọng.
Nguồn lực có thể được phân loại dựa trên nguồn hình thành, bao gồm nguồn lực ngân sách Nhà nước, nguồn lực vốn tín dụng, nguồn lực từ doanh nghiệp đầu tư hỗ trợ và nguồn lực của cộng đồng nhân dân (Thủ tướng Chính phủ, 2010).
Huy động nguồn lực là lý thuyết xã hội học nghiên cứu các phong trào xã hội từ những năm 1970, nhấn mạnh khả năng của các thành viên trong việc thu hút tài nguyên và mobilize cộng đồng để đạt được các mục tiêu của phong trào.
Huy động nguồn lực là quá trình sử dụng các nguồn lực, chủ yếu là nội lực, nhằm nâng cao năng lực tổ chức và mang lại lợi ích cho cộng đồng.
Mục đích của huy động nguồn lực là xác định cách thức tổ chức có thể gây quỹ cần thiết để thực hiện sứ mệnh của mình Các tổ chức cần tìm ra nguồn lực đang có và cách duy trì hoạt động của mình Những câu hỏi này rất quan trọng để đảm bảo sự bền vững và phát triển của tổ chức trong tương lai.
Xây dựng một kế hoạch huy động nguồn lực hiệu quả giúp tổ chức tận dụng tối đa tài sản của mình, từ đó thu hút sự ủng hộ cần thiết Việc đa dạng hóa các nguồn tài trợ không chỉ tăng cường tính độc lập mà còn mang lại sự linh hoạt trong việc triển khai các chương trình, đồng thời giảm thiểu sự phụ thuộc vào quỹ bên ngoài (Phạm Thị Hiệp, 2014).
Theo Korten (1987), cộng đồng được định nghĩa là một nhóm người sinh sống trong một môi trường có những đặc điểm tương đồng và thiết lập những mối quan hệ nhất định với nhau (Trần Thị Thanh Hà, 2012).
Cộng đồng là một tập hợp có tổ chức của các cá nhân sống chung tại một khu vực nhất định, chia sẻ các đặc điểm xã hội hoặc sinh học, và cùng nhau hưởng lợi từ những giá trị vật chất hoặc tinh thần chung.
Phương pháp nghiên cúu
Đặc điểm của địa bàn nghiên cứu
Kim Sơn là huyện ven biển thuộc tỉnh Ninh Bình, nằm ở phía Đông Nam Huyện này giáp với huyện Yên Mô và Yên Khánh ở phía Bắc, huyện Nghĩa Hưng tỉnh Nam Định ở phía Đông, huyện Nga Sơn tỉnh Thanh Hóa ở phía Tây, và Vịnh Bắc Bộ ở phía Nam.
Năm 1829, huyện Kim Sơn được thành lập với 7 tổng và 60 ấp, lý, trại, cùng với 14.620 mẫu ruộng khẩn hoang được phân chia cho 1.260 dân đinh Ban đầu, huyện lỵ đặt tại Quy Hậu (hiện nay là xã Hùng Tiến) trước khi chuyển về Phát Diệm.
Huyện Kim Sơn hiện nay bao gồm 27 đơn vị hành chính, trong đó có 02 thị trấn là Phát Diệm và Bình Minh, cùng với 25 xã như Ân Hòa, Chất Bình, Chính Tâm, và nhiều xã khác Tổng cộng, huyện có 277 thôn, tạo nên một bức tranh đa dạng về cộng đồng và hành chính địa phương (Trần Hồng Quảng, 2015).
Kim Sơn, một huyện ven biển, có bờ biển dài 15km và được bảo vệ bởi hòn Nẹ, tạo ra mặt nước yên tĩnh bên trong Khu vực bãi bồi Kim Sơn hàng năm bồi tụ ra biển từ 80 đến 100 mét Ba con sông chính trong huyện là sông Đáy, sông Vạc và sông Càn, cùng với các sông phụ như sông Yêm dài 4,5km chảy từ sông Vạc vào sông Cà Mau, và sông Ân nối liền sông Đáy với sông Càn Hệ thống sông ngòi này không chỉ phục vụ tưới tiêu nông nghiệp mà còn là tuyến giao thông đường thủy quan trọng, hỗ trợ vận chuyển hàng hóa lên huyện Yên.
Mô, nằm ở vị trí thuận lợi qua sông Đáy sang Nam Định, kết nối với sông Càn ra biển, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao thương hàng hóa với các tỉnh ven biển và quốc tế Điều này giúp huyện Kim Sơn dễ dàng đưa sản phẩm thủ công mỹ nghệ và nông nghiệp đến các tỉnh, thành phố trong cả nước, cũng như xuất khẩu ra nước ngoài Đồng thời, huyện cũng tiếp nhận nguyên vật liệu, đặc biệt là vật liệu xây dựng, từ các địa phương khác, phục vụ cho các hoạt động kinh tế và xây dựng, góp phần làm phong phú thêm vùng quê ven biển tỉnh Ninh Bình.
Thị trấn Phát Diệm, trung tâm của huyện, cách thành phố Ninh Bình 30km theo Quốc lộ 10 và cách thủ đô Hà Nội 120km Ngược lại, từ đây, theo Quốc lộ 10, có thể đến thị trấn Nga Sơn, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa chỉ trong 17km Ngoài ra, từ Phát Diệm, theo đường ĐT481, có thể di chuyển hơn 20km đến thị trấn Bình Minh và các xã Kim Đông, Kim Hải, Kim Trung, nằm ở vùng bãi bồi ven biển của huyện.
Tổng diện tích tự nhiên của huyện Kim Sơn năm 2015 là 21.571ha, trong đó đất nông nghiệp chiếm 62,22% với 13.401,15ha, bao gồm 9.603,99ha đất sản xuất nông nghiệp (71,67%), 3.107,26ha đất nuôi trồng thủy, hải sản (23,18%), và 685,51ha đất lâm nghiệp (5,12%) Đất phi nông nghiệp là 5.927,09ha, trong khi đất chưa sử dụng là 2.208,8ha Đất thịt nặng chiếm 70% diện tích đất canh tác, với độ pH trung bình từ 5,0 – 6,0 và độ mặn trung bình từ 0,15 - 0,25% Huyện Kim Sơn đã hoàn thành công tác dồn điền đổi thửa đất sản xuất nông nghiệp, với 21 xã thực hiện xong, ngoại trừ 02 thị trấn và 02 xã không thực hiện do đặc thù đất nông nghiệp.
3.1.1.4 Tài nguyên thiên nhiên khác
Kim Sơn có vùng đệm của khu dự trữ sinh quyển Châu thổ sông Hồng với tổng diện tích 4.854ha, bao gồm 3.454ha đất liền và 1.400ha biển Khu vực này có 685,5ha rừng phòng hộ, cùng với sự đa dạng phong phú về các loài chim và động thực vật.
- Động vật: Cò mỏ thìa, ngỗng trời, vịt trời; Thủy hải sản: Tôm, cua, cá biển, trai, sò, ngao; Thảm thực vật: Rong câu
Kim Sơn có tổng diện tích 6,15ha núi đá tại xã Lai Thành, trong đó 5,55ha được quản lý và sử dụng cho mục đích quốc phòng Diện tích 0,6ha còn lại có khả năng khai thác và đã được UBND tỉnh Ninh Bình giao cho hợp tác xã Hợp Thành để khai thác đá và sản xuất vật liệu xây dựng Ngoài ra, khu vực này còn có hai doanh nghiệp khai thác đất sét để sản xuất gạch, ngói với tổng diện tích 40ha, nằm tại các xã Yên Lộc, Như Hòa và Quang Thiện.
Trên địa bàn huyện, tổng số giếng khoan đạt 14.037 chiếc và giếng đào là 8.125 chiếc, phục vụ cho hầu hết các hộ gia đình tại các xã, thị trấn Bên cạnh đó, có 7 cụm công trình cấp nước tập trung phục vụ khoảng 3.000 hộ dân ở các xã như Hùng Tiến, Kim Trung, Văn Hải, Kim Tân, Lai Thành, Yên Lộc, cùng với thị trấn Bình Minh và Phát Diệm Tỷ lệ hộ dân sử dụng nước sạch và nước hợp vệ sinh đạt 90%.
Huyện Kim Sơn sở hữu vị trí địa lý, đất đai, khí hậu và nguồn nước thuận lợi, tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp, xây dựng và tiểu thủ công nghiệp Nhiều sản phẩm thủ công mỹ nghệ của huyện đã được xuất khẩu ra các địa phương và quốc tế, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế nông thôn.
Tính đến năm 2015, huyện có tổng dân số 172.260 người, trong đó 94.038 người trong độ tuổi lao động, chiếm 55,1% tổng dân số, tạo điều kiện thuận lợi cho tăng trưởng nhưng cũng đặt ra áp lực lớn trong việc giải quyết việc làm Đặc biệt, cộng đồng Công giáo chiếm 46,7% dân số huyện, với tỷ lệ cao nhất tập trung ở các xã như Xuân Thiện (87,8%), Chính Tâm (82,0%) và các xã khó khăn ven biển như Cồn Thoi (91,1%), Kim Tân (78,4%), Kim Mỹ (87,1%), Kim Đông (58,7%), Kim Trung (61,0%) và Kim Hải (53,3%).
3.1.3 Điều kiện kinh tế - xã hội
Trong những năm qua, sản xuất nông nghiệp tại huyện đã có sự tăng trưởng đáng kể, với cơ cấu ngành nông nghiệp chuyển dịch tích cực và sản lượng lúa cùng thủy hải sản bình quân năm tăng cao Tuy nhiên, ngành nông nghiệp vẫn phải đối mặt với nhiều thách thức do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế, dịch bệnh, giá cả thấp và thị trường tiêu thụ khó khăn, dẫn đến khó khăn cho sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi và thủy sản, ảnh hưởng đến đời sống người dân.
Ngành công nghiệp, xây dựng và tiểu thủ công nghiệp đóng góp giá trị sản xuất hàng năm chủ yếu từ sản phẩm thủ công mỹ nghệ và hàng hóa xuất khẩu Các sản phẩm cói được xuất khẩu sang nhiều thị trường quốc tế như Hàn Quốc, Nhật Bản, Philippines, cũng như các nước châu Âu như Đức, Pháp, Ý và Cộng hòa Séc, và đang mở rộng sang châu Mỹ Tuy nhiên, diện tích trồng và sản lượng cói đang có xu hướng giảm do nhiều yếu tố, đặc biệt là sự cạnh tranh từ các sản phẩm tương tự trên thị trường.
Thương mại và dịch vụ tại huyện Kim Sơn đang phát triển mạnh mẽ với hàng hóa đa dạng, phong phú, đáp ứng nhu cầu sản xuất và sinh hoạt của người dân Các ngành dịch vụ như bưu chính viễn thông và vận tải đang tích cực đầu tư vào máy móc và hiện đại hóa trang thiết bị, đồng thời đa dạng hóa các hình thức phục vụ nhằm nâng cao đời sống và đáp ứng nhu cầu thiết yếu của cộng đồng.
Kết quả nghiên cứu và thảo luận
năm 2011-2015
Đến nay, hầu hết các tuyến đường nội đồng đã được bê tông hoá đạt tiêu chuẩn mặt rộng 2m, nền đường rộng từ 4 - 6m Năm 2013, xã đã bê tông hoá 800m đường trục xã với kinh phí hơn 1 tỷ đồng Các tuyến đường liên thôn đã bê tông hoá 6,3/6,9km, với chiều rộng từ 4 - 6m Hơn 90% đường dong ngõ xóm được bê tông hoá, có hệ thống cống thoát nước đồng bộ, phấn đấu đến hết năm 2014 sẽ bê tông hoá 100% các tuyến đường trục xã, thôn, xóm và giao thông nội đồng Đồng thời, xã đưa vào sử dụng nhà máy nước sạch công suất 2.000m³/ngày đêm với tổng mức đầu tư 20 tỷ đồng, đáp ứng nhu cầu nước sạch cho 2 xã Hải An và Hải Toàn Ngoài ra, bãi xử lý rác thải mới rộng 1ha đảm bảo tập kết và chôn lấp toàn bộ rác thải trên địa bàn Xã cũng khánh thành trạm y tế với tổng mức đầu tư 2,8 tỷ đồng, đạt chuẩn quốc gia mức độ 2, và triển khai đồng bộ các chương trình quốc gia về y tế; có 3 trường học đạt chuẩn quốc gia cấp độ I Trong 5 năm qua, xã đã xây dựng mới 9/12 nhà văn hóa ở các thôn, xóm.
2.2.3 Bài học rút ra từ kinh nghiệm đối với huyện Kim Sơn
Để đạt được KCHT tốt nhất ở khu vực nông thôn, cần thiết phải có các cơ chế và chính sách phù hợp, được áp dụng rộng rãi và nhận được sự ủng hộ từ cộng đồng Chính sách xã hội hóa đầu tư cần có sự tham gia của toàn bộ hệ thống chính trị - xã hội, bao gồm chính quyền, các tổ chức đoàn thể và sự chung tay của người dân Chính quyền cần phổ biến các chính sách này đến toàn thể nhân dân để họ hiểu và thực hiện Vai trò lãnh đạo của chính quyền, đặc biệt là những người có uy tín trong cộng đồng, rất quan trọng trong việc kết nối Nhà nước với các tổ chức và người dân.
Bất kỳ chính sách nào được áp dụng đều cần đi kèm với các điều kiện ràng buộc và cam kết về nguồn lực, kinh phí thực hiện Nguồn lực đầu tư từ Nhà nước đóng vai trò quan trọng, là động lực khởi nguồn để huy động sự tham gia của cộng đồng, như việc Nhà nước hỗ trợ xi măng, sắt thép, trong khi người dân đóng góp tiền, vật liệu và công lao động cho quá trình xây dựng.
Vai trò và sự tham gia của cộng đồng và người dân là yếu tố then chốt quyết định đến thành công của chính sách, đặc biệt là trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng khu vực nông thôn Người dân có thể tham gia vào nhiều quá trình và nội dung khác nhau, đảm bảo tuân thủ quy chế dân chủ ở cơ sở.
Phát huy nội lực của nhân dân trong việc xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn là rất quan trọng, với sự tham gia của người dân trong việc bàn bạc và quyết định các công trình ưu tiên đầu tư Chính phủ sẽ hỗ trợ một phần kinh phí, nhưng việc phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân khu vực nông thôn là điều kiện then chốt để phát huy sức mạnh cộng đồng.
PHẦN 3 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CÚU
3.1 ĐẶC ĐIỂM CỦA ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU
Kim Sơn là huyện ven biển thuộc tỉnh Ninh Bình, nằm ở phía Đông Nam Huyện này giáp với huyện Yên Mô và Yên Khánh về phía Bắc, huyện Nghĩa Hưng tỉnh Nam Định ở phía Đông, huyện Nga Sơn tỉnh Thanh Hóa ở phía Tây, và Vịnh Bắc Bộ ở phía Nam.
Năm 1829, huyện Kim Sơn được thành lập với 7 tổng và 60 ấp, lý, trại, cùng với 14.620 mẫu ruộng khẩn hoang được chia cho 1.260 dân đinh Huyện lỵ ban đầu đặt tại Quy Hậu (nay là xã Hùng Tiến) và sau đó được chuyển về Phát Diệm.
Huyện Kim Sơn hiện nay bao gồm 27 đơn vị hành chính, trong đó có 2 thị trấn là Phát Diệm và Bình Minh, cùng với 25 xã như Ân Hòa, Chất Bình, Chính Tâm, và nhiều xã khác Tổng cộng, huyện có 277 thôn, thể hiện sự đa dạng và phong phú trong cấu trúc hành chính của địa phương (Trần Hồng Quảng, 2015).
Kim Sơn là khu vực bờ biển được bồi lắng, với hòn Nẹ chắn sóng, tạo nên mặt nước yên tĩnh Mỗi năm, vùng bãi bồi Kim Sơn mở rộng ra biển từ 80 đến 100 mét Huyện Kim Sơn có 15 km bờ biển, cùng với ba con sông chính là sông Đáy, sông Vạc và sông Càn Ngoài ra, còn có sông Yêm dài 4,5 km chảy từ sông Vạc vào sông Cà Mau, và sông Ân nối liền sông Đáy với sông Càn, chảy qua các xã trong huyện Hệ thống sông ngòi này không chỉ phục vụ tưới tiêu cho nông nghiệp mà còn là tuyến giao thông thủy quan trọng, hỗ trợ vận chuyển hàng hóa lên huyện Yên.
Huyện Kim Sơn, nằm bên sông Đáy, có vị trí thuận lợi cho việc giao thương hàng hóa với các tỉnh ven biển và quốc tế Điều này giúp các sản phẩm thủ công mỹ nghệ và nông sản của huyện dễ dàng tiếp cận thị trường trong nước và xuất khẩu ra nước ngoài Đồng thời, Kim Sơn cũng tiếp nhận nguyên vật liệu, đặc biệt là vật liệu xây dựng, từ các địa phương khác, góp phần phát triển kinh tế và xây dựng, làm phong phú thêm vùng quê ven biển tỉnh Ninh Bình.
Thị trấn Phát Diệm, trung tâm huyện, cách thành phố Ninh Bình 30km và thủ đô Hà Nội 120km Theo Quốc lộ 10, thị trấn Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa nằm cách Phát Diệm 17km Ngoài ra, từ Phát Diệm, đường ĐT481 dẫn đến thị trấn Bình Minh và các xã Kim Đông, Kim Hải, Kim Trung, cách đó hơn 20km, tiếp cận vùng bãi bồi ven biển của huyện.
Huyện Kim Sơn có tổng diện tích tự nhiên là 21.571ha, trong đó đất nông nghiệp chiếm 62,22% với 13.401,15ha Cụ thể, diện tích đất sản xuất nông nghiệp là 9.603,99ha (71,67%), đất nuôi trồng thủy sản là 3.107,26ha (23,18%), đất lâm nghiệp là 685,51ha (5,12%) và đất nông nghiệp khác chỉ chiếm 0,03% Đất phi nông nghiệp là 5.927,09ha, trong khi đất chưa sử dụng là 2.208,8ha Đặc biệt, đất thịt nặng chiếm 70% diện tích canh tác, với độ pH trung bình từ 5,0 – 6,0 và độ mặn từ 0,15 - 0,25% Huyện đã hoàn thành công tác dồn điền đổi thửa đất sản xuất nông nghiệp tại 21 xã, ngoại trừ 02 thị trấn và 02 xã không thực hiện do đặc thù đất đai.
3.1.1.4 Tài nguyên thiên nhiên khác
Kim Sơn sở hữu vùng đệm của khu dự trữ sinh quyển Châu thổ sông Hồng với tổng diện tích 4.854ha, bao gồm 3.454ha đất liền và 1.400ha biển Khu vực này có diện tích rừng phòng hộ là 685,5ha, góp phần bảo vệ hệ sinh thái Đặc biệt, nơi đây còn nổi bật với sự đa dạng về động thực vật, đặc biệt là các loài chim.
- Động vật: Cò mỏ thìa, ngỗng trời, vịt trời; Thủy hải sản: Tôm, cua, cá biển, trai, sò, ngao; Thảm thực vật: Rong câu
Kim Sơn có 6,15ha núi đá tại xã Lai Thành, trong đó 5,55ha được quản lý và sử dụng cho mục đích quốc phòng Ngoài ra, 0,6ha có khả năng khai thác đã được UBND tỉnh Ninh Bình giao cho hợp tác xã Hợp Thành để khai thác đá và sản xuất vật liệu xây dựng Tại khu vực xã Yên Lộc, Như Hòa và Quang Thiện, có hai doanh nghiệp khai thác đất sét để sản xuất gạch và ngói, với tổng diện tích 40ha.
Trên địa bàn huyện, tổng số giếng khoan đạt 14.037 chiếc và giếng đào có 8.125 chiếc, chủ yếu phục vụ cho các hộ gia đình tại hầu hết các xã, thị trấn Ngoài ra, có 7 cụm công trình cấp nước tập trung phục vụ khoảng 3.000 hộ tại các xã và thị trấn như Hùng Tiến, Kim Trung, Văn Hải, Kim Tân, Lai Thành, Yên Lộc, Bình Minh và Phát Diệm Hiện tại, tỷ lệ hộ dân được sử dụng nước sạch và nước hợp vệ sinh đạt 90%.