1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng qua thực tiễn tại tòa án nhân dân tỉnh bến tre (luận văn thạc sỹ luật)

81 24 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Giải Quyết Tranh Chấp Phát Sinh Từ Hợp Đồng Tín Dụng Qua Thực Tiễn Tại Tòa Án Nhân Dân Tỉnh Bến Tre
Tác giả Huỳnh Thị Mười
Người hướng dẫn PGS.TS Lê Vũ Nam
Trường học Đại học Kinh tế - Luật
Chuyên ngành Luật kinh tế
Thể loại luận văn thạc sỹ luật
Năm xuất bản 2019
Thành phố Thành phố Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 81
Dung lượng 2,86 MB

Cấu trúc

  • 1.1. TRANH CHẤP PHÁT SINH TỪ HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG (11)
    • 1.1.1. Khái niệm về tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng (11)
    • 1.1.2. Đặc điểm tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng (11)
    • 1.1.3. Phân loại tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng (14)
  • 1.2. QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT ÁP DỤNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP PHÁT (20)
    • 1.2.1. Quy định về chủ thể của hợp đồng tín dụng (20)
    • 1.2.2. Quy định về hình thức của hợp đồng tín dụng (21)
    • 1.2.3. Quy định về nội dung của hợp đồng tín dụng (21)
    • 1.2.4. Quy định về lãi suất trong hợp đồng tín dụng (23)
    • 1.2.5. Quy định về thời hạn trong hợp đồng tín dụng (24)
  • CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP VỀ XỬ LÝ TÀI SẢN BẢO ĐẢM LÀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT CỦA HỘ GIA ĐÌNH THEO THỎA THUẬN TRONG HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG QUA THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN CÁC CẤP TỈNH BẾN TRE (27)
    • 2.1. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ TÀI SẢN BẢO ĐẢM LÀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT CỦA HỘ GIA ĐÌNH THEO THỎA THUẬN (27)
      • 2.1.1. Căn cứ xác định thành viên hộ gia đình, đại diện hộ gia đình .............Error! (34)
      • 2.2.1. Về tài sản chung của hộ gia đình, việc định đoạt tài sản chung của hộ gia đình (39)
  • CHƯƠNG 3. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP PHÁT SINH TỪ HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG VỀ LÃI SUẤT, PHẠT LÃI CHẬM TRẢ QUA THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN CÁC CẤP TỈNH BẾN TRE (49)
    • 3.1. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ LÃI SUẤT, PHẠT LÃI CHẬM TRẢ TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG (49)
    • 3.2. MỘT SỐ VƯỚNG MẮC KHI ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ LÃI SUẤT, PHẠT LÃI CHẬM TRẢ TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG (56)
      • 3.2.1. Vướng mắc trong áp dụng các quy định về lãi suất và vấn đề phạt vi phạm (57)
      • 3.2.2. Vướng mắc khi áp dụng các quy định cách tính lãi chậm trả sau thời điểm xét xử sơ thẩm (64)
    • 3.3. KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ LÃI SUẤT, PHẠT LÃI CHẬM TRẢ (68)

Nội dung

TRANH CHẤP PHÁT SINH TỪ HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Khái niệm về tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng

Tranh chấp hợp đồng tín dụng (HĐTD) nảy sinh từ sự không thống nhất về quyền, nghĩa vụ hoặc lợi ích giữa các tổ chức tín dụng (TCTD) và khách hàng trong quá trình thực hiện hợp đồng Một HĐTD chỉ được coi là có tranh chấp khi có sự xung đột rõ ràng về quyền lợi giữa các bên, được thể hiện qua các bằng chứng cụ thể và có thể xác định được.

Tranh chấp hợp đồng và vi phạm hợp đồng là hai khái niệm khác nhau Vi phạm hợp đồng xảy ra khi các bên không tuân thủ các điều khoản đã cam kết, trong khi tranh chấp hợp đồng là sự không thống nhất giữa các bên về hành vi vi phạm và cách giải quyết hậu quả Không phải mọi vi phạm hợp đồng đều dẫn đến tranh chấp; có thể xảy ra vi phạm mà không có tranh chấp nếu các bên không thể hiện sự bất đồng hay xung đột lợi ích một cách rõ ràng.

Tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng (HĐTD) liên quan đến tình trạng pháp lý của quan hệ giữa các bên, khi có sự xung đột hoặc bất đồng ý kiến về quyền và nghĩa vụ hoặc lợi ích phát sinh Một HĐTD chỉ được coi là có tranh chấp khi sự xung đột về quyền lợi giữa các bên được thể hiện ra bên ngoài một cách khách quan, thông qua các bằng chứng cụ thể và rõ ràng.

Đặc điểm tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng

Tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng (HĐTD) có những đặc điểm chung của tranh chấp hợp đồng, nhưng cũng mang những dấu hiệu nhận diện riêng biệt do đặc trưng của HĐTD Những đặc điểm này giúp phân biệt tranh chấp HĐTD với các loại hợp đồng khác.

Thứ nhất, giá trị của tranh chấp phát sinh từ HĐTD thường có giá trị lớn hoặc thậm chí là rất lớn

Khi ký hợp đồng vay, bên vay thường gặp khó khăn trong việc huy động vốn Nhu cầu vay vốn này thường nhằm bổ sung nguồn tài chính cho hoạt động kinh doanh của tổ chức hoặc để phát triển kinh tế cho cá nhân và hộ gia đình.

Các TCTD không chỉ là nhà cung cấp vốn cho nền kinh tế mà còn là bên đi vay từ các nguồn khác để cho vay lại Để tối đa hóa lợi nhuận, họ thường ký kết hợp đồng tín dụng lớn dựa trên giá trị tài sản đảm bảo Tuy nhiên, nếu bên vay không tuân thủ cam kết và không trả nợ, TCTD sẽ gặp khó khăn nghiêm trọng, dẫn đến tình trạng nợ xấu và mất khả năng chi trả Khi khách hàng không thể thanh toán và xảy ra tranh chấp, TCTD sẽ chịu thiệt hại lớn về vốn, buộc phải thực hiện các biện pháp khắc phục, làm gián đoạn mục tiêu lợi nhuận Đặc biệt, nếu tranh chấp phải đưa ra Tòa án, việc thu hồi vốn càng trở nên khó khăn hơn, vì người vay sẽ không còn khả năng trả nợ cho TCTD.

Thứ hai, tranh chấp HĐTD đƣợc giải quyết dựa trên nguyên tắc tự do thỏa thuận trong khuôn khổ pháp luật của các bên tham gia tranh chấp

Pháp luật Việt nam tôn trọn sự thỏa thuận giữa các bên, cự thể, BLDS năm

Năm 2015 ghi nhận rằng mọi cam kết và thỏa thuận không vi phạm pháp luật và đạo đức xã hội đều có hiệu lực và cần được tôn trọng Hợp đồng tín dụng (HĐTD) thực chất là một loại hợp đồng dân sự, trong đó các bên có quyền tự thỏa thuận và định đoạt Việc giải quyết tranh chấp phát sinh từ HĐTD cũng có thể được các bên thỏa thuận để đạt hiệu quả tối ưu, điều này rất quan trọng vì quan hệ dân sự giữa các bên mang tính bình đẳng Khi các bên có thể đạt được thỏa thuận, việc giải quyết tranh chấp sẽ diễn ra nhanh chóng và thuận lợi, đồng thời giảm thiểu thiệt hại về thời gian, tiền bạc và công sức Đối với cơ quan tài phán và thi hành án, việc này cũng giúp giảm áp lực công việc trong bối cảnh các tranh chấp ngày càng gia tăng.

1 Khoản 2 Điều 3 BLDS năm 2015 nhiều và phức tạp nhƣ hiện nay

Trong các tranh chấp hợp đồng tín dụng (HĐTD) vào thứ ba, thường có sự tham gia của một bên là tổ chức tín dụng (TCTD) Phần lớn các vụ tranh chấp này có nguyên đơn là TCTD cho vay, trong khi bị đơn là bên đi vay.

Trong hoạt động tín dụng, Tổ chức tín dụng (TCTD) đóng vai trò trung gian giữa những tổ chức, cá nhân có nhu cầu vay vốn và những người có nguồn vốn thừa trong xã hội Sự tham gia của TCTD là yếu tố phân biệt rõ ràng giữa tranh chấp hợp đồng tín dụng và tranh chấp hợp đồng vay tài sản thông thường Mặc dù TCTD và khách hàng có địa vị ngang bằng khi ký kết hợp đồng, nhưng với nguồn vốn dồi dào, TCTD thường áp đặt các điều kiện cho vay Hợp đồng tín dụng thường do TCTD soạn thảo, trong khi khách hàng có trình độ pháp lý thấp hơn, dẫn đến việc các điều khoản trong hợp đồng thường nghiêng về quyền lợi của TCTD Khi xảy ra tranh chấp, TCTD thường nắm lợi thế với các điều khoản chặt chẽ, và việc vi phạm hợp đồng thường xảy ra từ phía bên vay.

Vào thứ Tư, hầu hết các tranh chấp liên quan đến hợp đồng tín dụng (HĐTD) chủ yếu xoay quanh việc thực hiện nghĩa vụ hoàn trả vốn và lãi suất của bên vay đối với tổ chức tín dụng (TCTD), cũng như các vấn đề liên quan đến lãi suất vay và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong HĐTD.

Hợp đồng tín dụng (HĐTD) bao gồm các điều khoản cụ thể do các bên thỏa thuận, với các điều khoản chủ yếu như điều kiện vay vốn, đối tượng hợp đồng, thời hạn sử dụng tiền vay, mục đích sử dụng khoản vay, bảo đảm nghĩa vụ và phương thức thanh toán Do bản chất rủi ro của tín dụng ngân hàng, bên vay thường gặp khó khăn trong việc thanh toán nợ đúng hạn Khi xảy ra tranh chấp, các nội dung nhạy cảm thường liên quan đến việc hoàn trả vốn, lãi suất, mức lãi suất vay và xử lý tài sản bảo đảm.

Vào thứ năm, tranh chấp từ hợp đồng tín dụng thường dẫn đến và liên quan đến một hợp đồng khác, đó là hợp đồng bảo đảm tiền vay, có thể được thực hiện thông qua hình thức cầm cố, thế chấp hoặc bảo lãnh từ bên thứ ba.

Các tổ chức tín dụng (TCTD) tham gia vào hợp đồng tín dụng (HĐTD) với mục đích lợi nhuận từ việc cho vay, vì bản chất của HĐTD là doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ Để giảm thiểu rủi ro khi bên vay không trả nợ, TCTD thường yêu cầu bên vay phải có tài sản cầm cố, thế chấp hoặc bảo lãnh từ bên thứ ba Các biện pháp bảo đảm này là dự phòng cho TCTD trong trường hợp rủi ro xảy ra Để đảm bảo nghĩa vụ trong HĐTD, các bên ký kết hợp đồng bảo đảm cho khoản vay, có thể là hợp đồng cầm cố, thế chấp hoặc chứng thư bảo lãnh Các điều khoản về quyền và nghĩa vụ trong các hợp đồng bảo đảm này nhằm đảm bảo việc vay vốn và cuối cùng là bảo đảm cho việc trả nợ của bên vay.

Thứ sáu, tranh chấp HĐTD phát sinh từ sự xung đột về lợi ích giữa các bên tham gia tranh chấp

Tranh chấp hợp đồng tín dụng (HĐTD) xuất phát từ xung đột lợi ích giữa các bên trong hợp đồng Theo quy định pháp luật hiện hành, chỉ có các bên liên quan hoặc người đại diện của họ mới có quyền khởi kiện để bảo vệ lợi ích hợp pháp trong quan hệ tín dụng Không có tổ chức hay cá nhân nào khác có quyền khởi kiện để bảo vệ quyền lợi cho các bên tham gia HĐTD Do đó, tranh chấp HĐTD chỉ xảy ra khi các bên tự khởi kiện nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Phân loại tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng

Trong thực tiễn hoạt động kinh doanh ngân hàng, có thể nhận diện nhiều tranh chấp phổ biến phát sinh từ hợp đồng tín dụng (HĐTD), bao gồm các vấn đề liên quan đến điều khoản hợp đồng, lãi suất, và nghĩa vụ thanh toán của các bên.

(i) Tranh chấp về hiệu lực của HĐTD:

Theo quy định pháp luật, khi hợp đồng tín dụng (HĐTD) có hiệu lực, các quyền và nghĩa vụ pháp lý của các bên sẽ phát sinh ngay từ thời điểm hợp đồng được ký kết, trừ khi có thỏa thuận khác HĐTD có thể bị coi là vô hiệu nếu không đáp ứng các điều kiện có hiệu lực theo quy định của pháp luật Một số trường hợp có thể dẫn đến việc HĐTD bị tuyên vô hiệu bao gồm việc vi phạm các điều khoản pháp lý cần thiết.

Hợp đồng tín dụng (HĐTD) là thỏa thuận giữa tổ chức tín dụng (TCTD) và bên vay, trong đó bên vay nhận một khoản tiền và có nghĩa vụ trả gốc cùng lãi suất HĐTD gắn liền với rủi ro tài chính cho bên cho vay nếu không thu hồi đủ hoặc đúng hạn Để đảm bảo tính hợp pháp, bên cho vay phải có thẩm quyền ký kết HĐTD; nếu không, HĐTD sẽ vô hiệu Đối với cá nhân vay, HĐTD sẽ không có giá trị nếu bên vay là người chưa thành niên hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự Đối với tổ chức vay, HĐTD có thể bị vô hiệu nếu người ký không có giấy ủy quyền hợp pháp từ cấp có thẩm quyền của tổ chức, bao gồm người đại diện theo pháp luật và cơ quan phê duyệt giao dịch vay vốn Trong trường hợp này, cần có cả văn bản ủy quyền và văn bản phê duyệt để đảm bảo tính hợp lệ của HĐTD.

2 Xem Điều 117, Điều 125 và Điều 128 BLDS năm 2015

Nếu bên đi vay là công ty cổ phần, Hội đồng quản trị phải thông qua các hợp đồng mua, bán, vay, cho vay và các hợp đồng khác có giá trị bằng hoặc lớn hơn 35% tổng giá trị tài sản ghi trong báo cáo tài chính gần nhất, trừ khi Điều lệ công ty quy định tỷ lệ hoặc giá trị khác (theo điểm h khoản 2 Điều 149 Luật Doanh nghiệp năm 2014).

Thứ hai, vô hiệu do từ đối tƣợng của hợp đồng (đồng tiền cho vay)

Việc cho vay ngoại tệ phải tuân thủ các quy định của Ngân hàng Nhà nước, và nếu khách hàng không đủ điều kiện, hợp đồng tín dụng sẽ bị vô hiệu Để quản lý ngoại hối theo chính sách tiền tệ và cân đối vĩ mô, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành các văn bản pháp quy, chủ yếu dưới dạng Thông tư, quy định việc cho vay ngoại tệ nhằm phục vụ thanh toán nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ, máy móc và thiết bị, với điều kiện khách hàng có nguồn thu ngoại tệ từ hoạt động sản xuất kinh doanh để trả nợ.

Trước ngày 01/5/2011, các tổ chức tín dụng (TCTD) có quyền cho khách hàng vay vốn bằng vàng Tuy nhiên, từ ngày 01/5/2011, việc cho vay vàng của các TCTD đối với khách hàng đã trở thành hành vi không hợp pháp.

Thứ ba, vô hiệu về hình thức của hợp đồng

Pháp luật quy định rằng hợp đồng tín dụng (HĐTD) phải được lập thành văn bản Mặc dù phần lớn HĐTD được lập thành văn bản, vẫn tồn tại một số trường hợp mà quan hệ vay vốn phát sinh từ HĐTD gốc không được ghi lại, dẫn đến tính vô hiệu về hình thức Điều này thường xảy ra trong các giao dịch tín dụng trung và dài hạn, khi tổ chức tín dụng (TCTD) thỏa thuận nhập lãi vào gốc trong thời gian nhất định, nhưng không đáp ứng các quy định về nội dung HĐTD theo Điều 23 Thông tư số 39/TT-NHNN Trong một số trường hợp khác, khách hàng không trả được lãi và TCTD muốn tránh khoản nợ trở thành nợ xấu mà không ký kết HĐTD, dẫn đến việc duy trì các khoản vay với lãi nhập gốc mà không có thỏa thuận chính thức.

4 Từ ngày 01/01/2015, việc cho vay ngoại tệ thực hiện theo quy định của Thông tƣ số 43/2014/TT-NHNN ngày 25/12/2014 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 11/2011/TT-NHNN ngày 29/4/2011 của Ngân hàng Nhà nước quy định về việc chấm dứt huy động và cho vay vốn bằng vàng của các tổ chức tín dụng, đã được sửa đổi, bổ sung bởi Thông tư số 24/2012/TT-NHNN ngày 23/8/2012.

Theo Điều 23, Thông tư 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016, trong suốt quá trình thực hiện hợp đồng tín dụng (HĐTD), nếu có trường hợp nhập lãi vào gốc, việc này phải tuân thủ đúng quy định của pháp luật Tuy nhiên, quan hệ HĐTD đối với phần nợ gốc hình thành từ lãi vay vẫn sẽ bị coi là vô hiệu về mặt hình thức.

Thứ tư, vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật

Hợp đồng tín dụng (HĐTD) chịu sự điều chỉnh của nhiều quy định pháp luật, khiến việc nhận diện các vi phạm pháp luật trong HĐTD trở thành thách thức đối với tổ chức tín dụng (TCTD), khách hàng và các cơ quan giải quyết tranh chấp.

Pháp luật hiện hành yêu cầu việc vay vốn phải có mục đích rõ ràng và bên vay phải sử dụng khoản vay đúng mục đích (khoản 2 Điều 4 Thông tư số 39/2016/TT-NHNN) Mục đích vay vốn cần được nêu trong đơn xin vay và các dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh, dịch vụ hoặc phục vụ đời sống do khách hàng lập, sau đó sẽ được TCTD thẩm định để xác minh tính hợp pháp Theo Điều 9 Quy chế cho vay 1627, một số nhu cầu vay vốn bị cấm bao gồm: mua sắm tài sản và chi phí cho tài sản mà pháp luật cấm, thanh toán chi phí cho giao dịch trái pháp luật, và vay để mua vàng, trừ trường hợp được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cho phép.

Tuy nhiên, không phải lúc nào TCTD cũng đảm bảo HĐTD đƣợc ký kết có mục đích vay vốn hoàn toàn hợp pháp

Trường hợp hợp đồng tín dụng (HĐTD) vay vốn không phù hợp với ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp là rất phổ biến Khi đó, cơ quan thanh tra giám sát ngân hàng không công nhận hiệu lực của HĐTD và yêu cầu thu hồi nợ trước hạn Do đó, sự không phù hợp giữa mục đích vay vốn và chức năng của tổ chức có thể được xem là căn cứ để tuyên bố HĐTD vô hiệu.

(ii) Tranh chấp do các bên vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng tín dụng:

7 Được bổ sung bởi Điều 2 Thông tư số 33/2011/TT-NHNN ngày 08/10/2011 của Ngân hàng Nhà nước

Tranh chấp hợp đồng thương mại do vi phạm nghĩa vụ là loại tranh chấp phổ biến nhất trong thực tiễn giải quyết Những tranh chấp điển hình này thường liên quan đến việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các điều khoản trong hợp đồng.

Tranh chấp vi phạm nghĩa vụ giải ngân xảy ra khi bên cho vay, thường là ngân hàng, không thực hiện đúng nghĩa vụ giải ngân theo hợp đồng tín dụng đã ký Việc này có thể do nhiều lý do khác nhau, dẫn đến việc bên cho vay không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ của mình Hành vi này gây ảnh hưởng tiêu cực đến quyền và lợi ích hợp pháp của bên vay.

Vào thứ Hai, các vi phạm nghĩa vụ trả gốc và lãi của bên vay thường xảy ra, tạo thành một dạng tranh chấp phổ biến trong hợp đồng tín dụng Tranh chấp này chủ yếu liên quan đến việc khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ, bao gồm cả nợ gốc và nợ lãi Trong một số ít trường hợp, khách hàng cũng có thể vi phạm khi trả nợ trước hạn mà không thanh toán phí trả nợ trước theo thỏa thuận trong hợp đồng với tổ chức tín dụng.

Thứ ba, tranh chấp về lãi suất

QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT ÁP DỤNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP PHÁT

Quy định về chủ thể của hợp đồng tín dụng

Quan hệ hợp đồng tín dụng là mối quan hệ tài sản giữa ngân hàng và các tổ chức, cá nhân, diễn ra trong quá trình sử dụng vốn tạm thời Quan hệ này tuân theo nguyên tắc có hoàn trả, dựa trên tín nhiệm hoặc bảo đảm, và được điều chỉnh bởi các quy định pháp luật Tham gia vào quan hệ này có ít nhất hai bên: bên cho vay và bên đi vay.

Bên cho vay luôn là tổ chức tín dụng, được thành lập và hoạt động theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng Các loại hình tổ chức tín dụng bao gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng hợp tác xã, tổ chức tín dụng phi ngân hàng, tổ chức tài chính vi mô, quỹ tín dụng nhân dân và chi nhánh ngân hàng nước ngoài.

Bên đi vay (khách hàng) bao gồm:

- Nhóm khách hàng thứ nhất: pháp nhân đƣợc thành lập và hoạt động tại Việt Nam

- Nhóm khách hàng thứ hai: pháp nhân được thành lập ở nước ngoài và hoạt động hợp pháp tại Việt Nam

- Nhóm khách hàng thứ ba: cá nhân có quốc tịch Việt Nam, cá nhân có quốc tịch nước ngoài 12

Hiện nay, pháp luật ngân hàng Việt Nam, cụ thể là Thông tư số 39/2016/TT-NHNN, chỉ công nhận cá nhân và pháp nhân là chủ thể đi vay Do đó, các đối tượng khác như doanh nghiệp tư nhân và hộ kinh doanh sẽ không được coi là bên trong hợp đồng tín dụng Quy định này dựa trên nguyên tắc "cá thể hóa" trách nhiệm tài sản của các chủ thể trong quan hệ dân sự theo Bộ luật Dân sự năm 2015.

11 Luật CTCTD và Điều 2, Thông tƣ số 39/2016/TT-NHNN của NHNN

12 Xem: Điều 1 và Điều 2, Thông tƣ số 39/2016/TT-NHNN của NHNN

Điều 1 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về địa vị pháp lý và chuẩn mực ứng xử của cá nhân, pháp nhân Luật xác định quyền và nghĩa vụ liên quan đến nhân thân và tài sản của các bên trong các quan hệ pháp lý, đảm bảo nguyên tắc bình đẳng, tự do ý chí, độc lập về tài sản và tự chịu trách nhiệm.

Quy định về hình thức của hợp đồng tín dụng

Mặc dù hợp đồng tín dụng (HĐTD) có nguồn gốc từ quan hệ vay tài sản, nhưng pháp luật yêu cầu HĐTD phải được lập bằng văn bản, khác với hợp đồng vay tài sản có thể được giao kết bằng miệng, hành vi hoặc văn bản Thông thường, HĐTD được các tổ chức tín dụng (TCTD) soạn thảo, và khách hàng, đặc biệt là những khách hàng không lớn, thường chấp nhận nội dung hợp đồng do TCTD đề xuất.

Hợp đồng tín dụng (HĐTD) thường khác với hợp đồng thương mại ở chỗ có nhiều văn bản liên quan như đơn đề nghị vay vốn, hợp đồng tín dụng và khế ước vay nợ Đơn đề nghị vay vốn thường chứa các nội dung quan trọng của HĐTD như số tiền vay, mục đích vay, thời hạn vay, lãi suất và cam kết của bên vay Khi ngân hàng chấp nhận các nội dung này, chúng có thể thay thế cho một bản HĐTD Tương tự, khế ước vay nợ cũng liệt kê đầy đủ các điểm chính của HĐTD, do đó trong nhiều trường hợp, nó cũng có thể được coi là một HĐTD Nhờ vào sự chi tiết trong việc lập HĐTD, tranh chấp liên quan đến HĐTD rất hiếm khi xảy ra.

Theo Thông tư số 39/TT-NHNN ban hành ngày 30/12/2016, hoạt động cho vay giữa tổ chức tín dụng (TCTD) và khách hàng phải được thực hiện thông qua "thỏa thuận cho vay" bằng văn bản cụ thể Thỏa thuận này cần bao gồm các điều khoản quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 23 của Thông tư 39/2016/TT-NHNN.

Theo quy định tại Điều 405 và Điều 406 Bộ luật Dân sự năm 2015, Thông tư 39/2016/TT-NHNN nêu rõ rằng khi sử dụng hợp đồng mẫu hoặc điều kiện giao dịch chung trong thỏa thuận cho vay, tổ chức tín dụng (TCTD) phải tuân thủ các quy định này.

Các tổ chức tín dụng (TCTD) cần niêm yết công khai hợp đồng theo mẫu và điều kiện giao dịch chung liên quan đến cho vay tại trụ sở của mình, đồng thời đăng tải thông tin này trên trang thông tin điện tử để đảm bảo minh bạch và dễ tiếp cận cho khách hàng.

Trước khi ký kết thỏa thuận cho vay, khách hàng cần được cung cấp đầy đủ thông tin về hợp đồng theo mẫu và điều kiện giao dịch chung Điều này đảm bảo rằng khách hàng đã nhận thức rõ ràng về các điều khoản và có xác nhận rằng tổ chức tín dụng đã cung cấp thông tin cần thiết.

Quy định về nội dung của hợp đồng tín dụng

Nội dung của hợp đồng thương mại (HĐTD) bao gồm các điều khoản được thỏa thuận giữa các bên dựa trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, không vi phạm pháp luật và đạo đức xã hội Những điều khoản này xác định rõ ràng quyền và nghĩa vụ của từng bên trong hợp đồng Tùy thuộc vào tính chất và vai trò, các điều khoản trong HĐTD có thể được phân loại thành nhiều loại khác nhau.

Điều khoản chủ yếu là những điều khoản cơ bản và quan trọng nhất trong hợp đồng tín dụng (HĐTD) Khi thiết lập hợp đồng, các bên cần thỏa thuận và ghi rõ các điều khoản chủ yếu; nếu không có các điều khoản này, hợp đồng sẽ không có giá trị pháp lý.

- Điều khoản chủ yếu quy định về vốn vay, số lƣợng vốn vay, thời hạn vay và mục đích sử dụng tiền vay

Điều khoản về điều kiện vay vốn yêu cầu bên vay phải đáp ứng các tiêu chí như: có năng lực pháp lý, khả năng tài chính để đảm bảo khả năng trả nợ, lập phương án sử dụng vốn vay hợp lý, và có tài sản đảm bảo cho khoản vay.

Điều khoản hợp đồng xác định giá trị khoản vay, lãi suất cho vay, số tiền cần thanh toán khi đáo hạn và phương thức giải ngân.

Điều khoản về thời hạn sử dụng và phương thức thanh toán tiền vay quy định rõ ràng về ngày tháng năm thanh toán, cách thức thanh toán có thể là trả một lần hoặc trả góp Bên cạnh đó, cũng nêu rõ các trường hợp gia hạn hợp đồng hoặc điều chỉnh phương thức trả nợ khi cần thiết.

- Điều khoản về mục đích sử dụng vốn vay ghi nhận rõ số vốn vay sử dụng vào mục đích gì để phục vụ tiêu dùng hay kinh doanh

- Điều khoản về phương thức thanh toán tiền vay vốn và lãi; điều khoản về giải quyết tranh chấp hợp đồng

Việc quy định nội dung của hợp đồng tín dụng (HĐTD) với các điều khoản chủ yếu là rất quan trọng để đảm bảo sự thống nhất trong quan hệ cho vay giữa ngân hàng thương mại và khách hàng Những điều khoản này không chỉ bảo vệ quyền lợi của khách hàng vay, mà còn giúp họ hiểu rõ hơn về các quy định pháp luật liên quan Sự hiện diện của các điều khoản này quyết định trực tiếp đến hiệu lực và giá trị pháp lý của HĐTD.

Điều khoản thường lệ là những quy định được pháp luật công nhận Nếu các bên không ghi rõ trong hợp đồng, thì được xem như các bên đã thừa nhận và có nghĩa vụ thực hiện những điều khoản này.

Điều khoản tùy nghi là những điều khoản được các bên tự thỏa thuận và đưa vào hợp đồng, miễn là không vi phạm các chuẩn mực đạo đức và xã hội.

Việc ký kết hợp đồng bảo đảm tiền vay cần tuân thủ các quy định pháp luật liên quan đến nội dung, hình thức, cũng như các yêu cầu về đăng ký, công chứng và chứng thực hợp đồng bảo đảm.

Hợp đồng bảo đảm tiền vay sẽ có hiệu lực khi bên cuối cùng ký tên, trừ khi pháp luật quy định khác Trong trường hợp hợp đồng yêu cầu phải đăng ký giao dịch bảo đảm hoặc công chứng, hiệu lực của hợp đồng sẽ bắt đầu từ ngày hoàn thành thủ tục đăng ký hoặc công chứng tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Khi ký kết hợp đồng có điều kiện bảo đảm bằng tài sản như cầm cố, thế chấp hoặc bảo lãnh, các bên có thể thỏa thuận một điều khoản riêng trong hợp đồng tín dụng hoặc lập một hợp đồng riêng biệt để quy định rõ ràng về các điều kiện này.

Quy định về lãi suất trong hợp đồng tín dụng

Tranh chấp lãi suất thường không phải là vấn đề chính trong các vụ việc, mà thường chỉ phát sinh khi khách hàng vi phạm nghĩa vụ trả nợ, dẫn đến việc tranh chấp được đưa ra giải quyết tại Tòa án.

Những dạng tranh chấp về lãi suất có thể xảy ra trong quá trình thực hiện hợp đồng là:

Thứ nhất, tranh châp về mức lãi trong hợp đồng tín dụng và cách tính lãi trong hạn;

Thứ hai, tranh chấp về lãi suất nợ quá hạn và cách tính lãi đối với khoản nợ quá hạn;

Thứ ba, tranh chấp về lãi phạt chậm trả

Theo Điều 91 của Luật các TCTD năm 2010, các TCTD và khách hàng có quyền thỏa thuận về lãi suất và phí cấp tín dụng Trong trường hợp hoạt động ngân hàng diễn biến bất thường, NHNN có quyền quy định cách xác định phí và lãi suất nhằm bảo đảm an toàn cho hệ thống TCTD Quy định này tạo ra cơ chế mới trong việc xác định lãi suất, đồng thời đảm bảo sự quản lý của Nhà nước.

Theo Điều 468 BLDS năm 2015, lãi suất vay không được vượt quá 20%/năm, trừ khi có quy định khác từ luật liên quan Quy định này nhằm cụ thể hóa nguyên tắc giới hạn quyền dân sự, đảm bảo các bên trong hợp đồng vay tuân thủ mức lãi suất hợp pháp Việc đặt ra trần lãi suất giúp nhà nước điều tiết thị trường vay, ổn định kinh tế - xã hội và ngăn chặn cho vay nặng lãi Tuy nhiên, cần đảm bảo tính linh hoạt để lãi suất có thể điều chỉnh kịp thời theo biến động kinh tế và xã hội, tránh việc lãi suất trần trở thành công cụ hành chính hóa quan hệ dân sự.

Năm 2015, quy định về lãi suất đã được thiết lập linh hoạt qua hai cơ chế: thứ nhất, Ủy ban thường vụ Quốc hội có thể điều chỉnh lãi suất dựa trên tình hình thực tế theo đề nghị của Chính phủ; thứ hai, các luật khác có thể quy định lãi suất riêng cho các quan hệ cho vay đặc thù Điều này có nghĩa là nếu có luật liên quan quy định khác về lãi suất, thì lãi suất đó sẽ được áp dụng cho các quan hệ vay theo phạm vi điều chỉnh của luật đó Quy định này không chỉ áp dụng cho quan hệ tín dụng của các ngân hàng thương mại mà còn có thể mở rộng cho các loại vay đặc thù như vay chính sách xã hội, vay đầu tư phát triển, vay vàng và ngoại tệ, nếu Nhà nước thấy cần điều chỉnh bằng cơ chế lãi suất riêng.

Quy định về thời hạn trong hợp đồng tín dụng

Thời hạn là khoảng thời gian xác định từ thời điểm này đến thời điểm khác, có thể tính bằng phút, giờ, ngày, tuần, tháng, năm hoặc sự kiện cụ thể Trong lĩnh vực tín dụng ngân hàng, thời hạn cho vay được tính từ ngày sau khi tổ chức tín dụng giải ngân cho đến ngày khách hàng hoàn trả nợ gốc và lãi Nếu ngày cuối cùng trùng với ngày lễ hoặc cuối tuần, thời hạn sẽ được chuyển sang ngày làm việc tiếp theo Đối với thời hạn cho vay ngắn hơn một ngày, sẽ áp dụng quy định của Bộ luật dân sự về thời điểm bắt đầu thời hạn Các tổ chức tín dụng huy động vốn với nhiều kỳ hạn khác nhau, do đó có thể đáp ứng nhu cầu vay vốn với các kỳ hạn linh hoạt cho khách hàng.

Khoản 8 Điều 2 Thông tư số 39/2016/TT-NHNN quy định rằng các bên có thể thỏa thuận về thời gian của chu kỳ sản xuất, khả năng trả nợ của người đi vay và tính chất nguồn vốn mà tổ chức tín dụng huy động được.

Hiện nay, pháp luật ngân hàng quy định, khi TCTD xem xét quyết định cho khách hàng vay, có thể cho vay theo các thời hạn sau: 17

(i) Cho vay ngắn hạn là các khoản vay có thời hạn cho vay tối đa 01

(ii) Cho vay trung hạn là các khoản vay có thời hạn cho vay trên 01 (một) năm và tối đa 05 (năm) năm

(iii) Cho vay dài hạn là các khoản vay có thời hạn cho vay trên 05 (năm) năm

Các thời hạn cho vay khác nhau đi kèm với yêu cầu, điều kiện, quy trình thẩm định và lãi suất khác nhau Thời gian cho vay dài hơn thường dẫn đến rủi ro tín dụng cao hơn, do đó lãi suất cũng tăng để hạn chế rủi ro Đối với hợp đồng kinh doanh thương mại, thời hạn được xác định từ ngày ký hợp đồng, trong khi hợp đồng tín dụng tính từ ngày nhận khoản vay đầu tiên cho đến khi thanh toán hết nợ theo thỏa thuận.

16 Trường Đại học Luật Tp Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình Luật Ngân hàng, Nxb Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, tr 303

17 Điều 10 Thông tƣ số 39/2016/TT-NHNN

18 Xem http://www.luatdaiviet.vn/xem-tin-tuc/hop-dong-tin-dung-quy-dinh-va-thuc-tien, truy cập ngày 10/10/2018

Chương 1 của Luận văn đã trình bày một cách tổng quan về tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng và quy định pháp luật áp dụng giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng với các nội dung quan trọng: (i) làm rõ các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng thông qua việc trình bày các vấn đề mang tính lý luận cơ bản: khái niệm về tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng; đặc điểm tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng; phân loại tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng; vai trò của việc giải quyết vụ án phát sinh từ hợp đồng tín dụng tại Tòa án; (ii) làm rõ quy định pháp luật áp dụng giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng với các vấn đề về: quy định về chủ thể của hợp đồng tín dụng, quy định về hình thức của hợp đồng tín dụng, quy định về nội dung của hợp đồng tín dụng, quy định về lãi suất trong hợp đồng tín dụng, quy định về thời hạn trong hợp đồng tín dụng.

THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP VỀ XỬ LÝ TÀI SẢN BẢO ĐẢM LÀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT CỦA HỘ GIA ĐÌNH THEO THỎA THUẬN TRONG HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG QUA THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN CÁC CẤP TỈNH BẾN TRE

THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ TÀI SẢN BẢO ĐẢM LÀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT CỦA HỘ GIA ĐÌNH THEO THỎA THUẬN

Tình hình áp dụng pháp luật tại tòa án tỉnh Bến Tre liên quan đến việc xác lập và thực hiện hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất của hộ gia đình trong tín dụng ngân hàng được minh chứng qua hai vụ án tiêu biểu.

19 Trường Đại học Luật Hà Nội (2016), Giáo trình Luật ngân hàng Việt Nam, Nxb Công an Nhân dân, tr.16

Vụ án thứ nhất, Quyết định giám đốc thẩm số 33/2017/DS-GĐT ngày

7/7/2017 của TAND cấp cao tại TP Hồ Chí Minh về tranh chấp hợp đồng tín dụng

Vụ án kinh doanh, thương mại liên quan đến tranh chấp hợp đồng thế chấp giữa nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Thu, bà Đoàn Thị Hường, ông Đoàn Minh Hiếu, ông Đoàn Văn Hiếu Em và bị đơn là Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam đã được TAND thành phố Bến Tre xét xử sơ thẩm với Bản án số 03/2015/KDTM-ST ngày 21/7/2015 Sau đó, vụ án được xét xử phúc thẩm bởi TAND tỉnh Bến Tre với Bản án số 19/2015/KDTM-PT ngày 14/12/2015, và cuối cùng là xét xử giám đốc thẩm bởi TAND cấp cao tại TP Hồ Chí Minh với Quyết định số 33/2017/DS-GĐT ngày 7/7/2017.

Vào năm 2012, ông Đoàn Văn Mộng đã sử dụng 09 quyền sử dụng đất để bảo lãnh cho Công ty TNHH Thông Thuận vay 817.860.000 đồng từ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam Ông đã ký hai hợp đồng thế chấp vào ngày 8/3/2012, liên quan đến 12 thửa đất thuộc 09 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất khác nhau Tuy nhiên, khi Công ty Thông Thuận vi phạm hợp đồng và nợ quá hạn, Ngân hàng đã tiến hành phát mãi tài sản vào ngày 15/3/2015 để thu hồi nợ Ngân hàng cũng đã yêu cầu ông Mộng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, dẫn đến việc bà Nguyễn Thị Thu, bà Đoàn Thị Hương, ông Đoàn Minh Hiếu và ông Đoàn Văn Hiếu Em khởi kiện Ngân hàng, yêu cầu hủy bỏ các hợp đồng thế chấp.

Tại tòa án, các nguyên đơn trình bày rằng theo sổ hộ khẩu số 01161 ngày 23/9/1995 do Công an huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre cấp, hộ gia đình ông Mộng bao gồm: ông Mộng (chủ hộ), bà Thu (vợ ông Mộng), bà Hương (con), ông Hiếu (con) và ông Em (con).

12 GCNQSDĐ được cấp cho hộ gia đình ông Mộng, không phải cho cá nhân ông Các nguyên đơn không ký vào hai hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất, dẫn đến việc hai hợp đồng này bị coi là vô hiệu theo quy định của Bộ luật Dân sự và pháp luật đất đai Bà Thu khẳng định rằng bà không ký vào hợp đồng thế chấp và chữ ký “Thu” trong hai hợp đồng này là giả mạo Vì vậy, các nguyên đơn yêu cầu tòa án hủy bỏ hai hợp đồng thế chấp giữa ông Mộng và Ngân hàng Nông nghiệp.

Ngân hàng Nông nghiệp khẳng định đã nhiều lần yêu cầu ông Mộng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh trả nợ cho Công ty Thông Thuận Ngân hàng không chấp nhận yêu cầu hủy hợp đồng thế chấp từ các nguyên đơn vì hợp đồng đã được chứng thực và đăng ký giao dịch bảo đảm theo quy định pháp luật.

Tòa án cấp sơ thẩm đã chấp nhận yêu cầu của các nguyên đơn, tuyên vô hiệu Hợp đồng thế chấp số 2012.0001.09/HĐTD và Hợp đồng thế chấp số 2012.0001.10/HĐTD do thiếu chữ ký của các thành viên khác trong hộ gia đình ông Mộng Theo khoản 2 Điều 223 BLDS năm 2005, việc định đoạt tài sản chung phải dựa trên thỏa thuận của các chủ sở hữu hoặc quy định pháp luật Vì Hợp đồng thế chấp số 2012.0001.09/HĐTD chỉ có chữ ký của ông Mộng, các thành viên còn lại không ký nên hợp đồng này bị tuyên vô hiệu.

Tòa án cấp phúc thẩm nhận định rằng, trong số 9 GCNQSDĐ, dù đất được cấp cho các chủ thể khác nhau nhưng nguồn gốc đều do ông Mộng và bà Thu sang nhượng, và con cái chưa có đóng góp gì nên không có quyền sử dụng đất Ông Mộng đã sử dụng 12 thửa đất để đảm bảo khoản vay từ Công ty Thông Thuận nhằm mua thức ăn nuôi tôm phục vụ nhu cầu gia đình Mặc dù bà Thu không ký hợp đồng thế chấp, nhưng việc bà không phản đối cho thấy bà đã thừa nhận hợp đồng này Ông Mộng là chủ hộ, nên các giao dịch do ông thực hiện vì lợi ích chung của hộ gia đình phát sinh quyền và nghĩa vụ theo quy định của BLDS năm 2005 Do đó, bà Thu có phần nghĩa vụ đối với hợp đồng thế chấp mà ông Mộng đã ký Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn không có cơ sở chấp nhận, dẫn đến việc tòa án cấp phúc thẩm hủy một phần bản án sơ thẩm và công nhận các hợp đồng thế chấp giữa ông Mộng và Ngân hàng Nông nghiệp.

TAND cấp cao có quan điểm khác với tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) cho hộ gia đình ông Mộng, gồm 5 thành viên Quan hệ hôn nhân giữa ông Mộng và bà Thu vẫn còn tồn tại Theo khoản 2 Điều 217 BLDS 2005, "các chủ sở hữu chung hợp nhất có quyền, nghĩa vụ ngang nhau đối với tài sản thuộc sở hữu chung", do đó, việc thế chấp tài sản phải có sự đồng ý của tất cả các thành viên trong hộ gia đình.

Theo kết luận giám định số 1952/C54B ngày 17/9/2014 của phân viện Khoa học hình sự tại Tp Hồ Chí Minh, chữ ký trong hai hợp đồng thế chấp ngày 8/3/2012 không phải của bà Thu, điều này cũng được xác nhận bởi đại diện Ủy ban nhân dân cấp xã và các bên liên quan Ngoài ra, tài sản thế chấp bao gồm 12 thửa đất nằm trong 09 GCNQSDĐ cần được xác định lại.

Trong vụ án liên quan đến quyền sử dụng đất của ông Mộng và bà Thu, cần làm rõ rằng nếu ông Mộng không cung cấp chứng cứ chứng minh quyền sử dụng đất là riêng của mình, thì các thửa đất này sẽ được coi là tài sản chung của hai vợ chồng Đối với năm Giấy Chứng Nhận Quyền Sử Dụng Đất (GCNQSDĐ) cấp cho hộ gia đình ông Mộng, cần xác định rõ liệu đây có phải là tài sản chung của hộ hay chỉ của ông Mộng và bà Thu Việc xác định sự đóng góp của các thành viên trong hộ gia đình cũng rất quan trọng, cùng với việc xem xét tính hợp pháp trong quy trình cấp GCNQSDĐ Tòa án phúc thẩm đã nhận định rằng 12 thửa đất thế chấp cho Ngân hàng Nông nghiệp là tài sản chung của vợ chồng ông Mộng và bà Thu, và mặc dù bà Thu không ký vào hợp đồng thế chấp, nhưng bà vẫn có trách nhiệm liên quan đến các hợp đồng này Tòa án nhân dân cấp cao đã chỉ ra rằng các nhận định trước đó không chính xác, ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của các bên liên quan, do đó đã chấp nhận kháng nghị và hủy các bản án trước đó, giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử lại.

Theo tác giả luận văn, quyết định của tòa án cấp sơ thẩm tuyên vô hiệu hợp đồng thế chấp số 2012.0001.09/HĐTD và hợp đồng thế chấp số 2012.0001.10/HĐTD chỉ dựa vào việc các thành viên khác trong hộ gia đình ông Mộng không ký tên là chưa thỏa đáng Tòa án chưa xem xét kỹ lưỡng ba điều kiện quan trọng để xác định tư cách thành viên hộ gia đình sử dụng đất, bao gồm: (i) các thành viên có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng theo quy định pháp luật; (ii) đang sống chung trong hộ gia đình; và (iii) có quyền sử dụng đất chung tại thời điểm Nhà nước giao đất, cho thuê đất hoặc công nhận quyền sử dụng đất.

Tòa án cấp phúc thẩm đã xác định 12 thửa đất thế chấp cho Ngân hàng Nông nghiệp là tài sản chung của vợ chồng ông Mộng và bà Thu, nhưng chưa làm rõ tư cách của các thành viên khác trong gia đình, đặc biệt là con cái Trong 9 Giấy Chứng Nhận Quyền Sử Dụng Đất (GCNQSDĐ), có 5 GCNQSDĐ cấp cho hộ gia đình ông Mộng, cho thấy quyền sử dụng đất thuộc về toàn bộ thành viên trong hộ Tòa án cần xác định công sức đóng góp của từng thành viên để làm rõ quyền lợi Mặc dù 9 GCNQSDĐ được cấp cho các chủ thể khác nhau, nhưng nguồn gốc sử dụng đất đều do ông Mộng và bà Thu chuyển nhượng và tạo lập Các thành viên khác còn nhỏ tuổi không có công sức đóng góp nên không có quyền sử dụng đất Tác giả cho rằng nhận định của tòa án cấp phúc thẩm chưa chính xác và đồng quan điểm với TAND cấp cao rằng cần xem xét các yếu tố như mối quan hệ hôn nhân, huyết thống, và quyền sử dụng đất chung của các nguyên đơn tại thời điểm xác lập quyền sử dụng đất.

Tòa án cấp phúc thẩm nhận định rằng ông Mộng là chủ hộ và hợp đồng thế chấp do ông đại diện cho hộ ký kết nhằm phục vụ lợi ích chung, do đó bà Thu cũng phải chịu trách nhiệm từ hợp đồng này Tuy nhiên, lập luận này trái ngược với quyền thỏa thuận và bàn bạc về việc xác lập cũng như thực hiện các giao dịch, hợp đồng theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 và năm 2015.

Vụ án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 07/2017/KDTM-PT ngày 29/8/2017 của TAND tỉnh Bến Tre liên quan đến tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa Ngân hàng Thương mại cổ phần S và bà Phạm Thúy L cùng ông Nguyễn Minh T Vụ án được xét xử sơ thẩm tại TAND huyện Mỏ Cày Bắc với bản án số 01/2017/KDTM-ST ngày 30/5/2017, sau đó được kháng cáo và xử phúc thẩm bởi TAND tỉnh Bến Tre.

THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP PHÁT SINH TỪ HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG VỀ LÃI SUẤT, PHẠT LÃI CHẬM TRẢ QUA THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN CÁC CẤP TỈNH BẾN TRE

Ngày đăng: 12/07/2021, 11:06

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Lưu Thị Tuyết Bàn (2018), Bàn về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bàn về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình
Tác giả: Lưu Thị Tuyết Bàn
Nhà XB: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật
Năm: 2018
4. Đỗ Văn Đại (2016), thực trạng giải quyết tranh chấp tín dụng tại Việt Nam: Kinh nghiệm xử lý và những điểm cần lưu ý, tham luận hội thảo “Xử lý tranh chấp tín dụng tại Trọng tài và Tòa án” do VIAC và Hiệp Hội Ngân Hàng Việt Nam phối hợp tổ chức Sách, tạp chí
Tiêu đề: thực trạng giải quyết tranh chấp tín dụng tại Việt Nam: Kinh nghiệm xử lý và những điểm cần lưu ý
Tác giả: Đỗ Văn Đại
Nhà XB: VIAC
Năm: 2016
5. Đỗ Văn Đại (2018), Lãi chậm trả tiền trong án lệ năm 2016, Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lãi chậm trả tiền trong án lệ năm 2016
Tác giả: Đỗ Văn Đại
Năm: 2018
6. Phạm Thị Hồng Đào (2016), Lãi suất theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015 và kiến nghị, Cổng Thông tin điện tử Bộ Tƣ pháp Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lãi suất theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015 và kiến nghị
Tác giả: Phạm Thị Hồng Đào
Nhà XB: Cổng Thông tin điện tử Bộ Tƣ pháp
Năm: 2016
7. Trương Thanh Đức (2012), Bình luận chế định hộ gia đình trong Bộ luật Dân sự năm 2005, Tham luận hội thảo Các quy định về chủ thể, giao dịch, và đại diện trong Bộ luật Dân sự năm 2005 – Định hướng sửa đổi, bổ sung, Bộ Tư pháp và KAS (CHLB Đức) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bình luận chế định hộ gia đình trong Bộ luật Dân sự năm 2005
Tác giả: Trương Thanh Đức
Nhà XB: Bộ Tư pháp
Năm: 2012
8. Hà Thị Diệu Hằng (2017), Nhận diện tranh chấp về lãi suất phát sinh từ hợp đồng tín dụng, Khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật - Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nhận diện tranh chấp về lãi suất phát sinh từ hợp đồng tín dụng
Tác giả: Hà Thị Diệu Hằng
Năm: 2017
9. Bùi Xuân Hải (2013), Bàn về tư cách chủ thể hộ gia đình và tổ hợp tác Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bàn về tư cách chủ thể hộ gia đình và tổ hợp tác
Tác giả: Bùi Xuân Hải
Năm: 2013
10. Ngô Gia Hoàng (2018), Hộ gia đình sử dụng đất theo Luật Đất đai năm 2013, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 4 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hộ gia đình sử dụng đất theo Luật Đất đai năm 2013
Tác giả: Ngô Gia Hoàng
Nhà XB: Tạp chí Nhà nước và Pháp luật
Năm: 2018
11. Phan Huy Hồng – Nguyễn Thanh Tú (2017), Tư cách tham gia quan hệ dân sự của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân theo Bộ luật Dân sự năm 2015, Tạp chí Khoa học pháp lý số 7 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tư cách tham gia quan hệ dân sự của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân theo Bộ luật Dân sự năm 2015
Tác giả: Phan Huy Hồng, Nguyễn Thanh Tú
Nhà XB: Tạp chí Khoa học pháp lý
Năm: 2017
12. Vũ Thị Thanh Huyền (2016), Bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình trong giao dịch dân sự, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 292 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình trong giao dịch dân sự
Tác giả: Vũ Thị Thanh Huyền
Nhà XB: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật
Năm: 2016
13. Nguyễn Văn Phương (2018), Vấn đề lãi suất và phạt vi phạm trong hợp đồng cho vay - Thực trạng và kiến nghị, Tạp chí Ngân hàng số 10 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Vấn đề lãi suất và phạt vi phạm trong hợp đồng cho vay - Thực trạng và kiến nghị
Tác giả: Nguyễn Văn Phương
Năm: 2018
14. Trường Đại học Luật Hà Nội (2016), Giáo trình Luật ngân hàng Việt Nam, Nxb. Công an Nhân dân Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình Luật ngân hàng Việt Nam
Tác giả: Trường Đại học Luật Hà Nội
Nhà XB: Nxb. Công an Nhân dân
Năm: 2016
15. Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình Luật Ngân hàng, Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình Luật Ngân hàng
Tác giả: Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh
Nhà XB: Nxb. Hồng Đức
Năm: 2013
16. Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2015), Giáo trình Luật Đất đai, Nxb. Hồng đức – Hội Luật gia Việt Nam Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình Luật Đất đai
Tác giả: Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh
Nhà XB: Nxb. Hồng đức
Năm: 2015
17. Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2017), Giáo trình Pháp luật về Thương mại hàng hóa và dịch vụ, Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam.C. Tài liệu tham khảo trên Internet Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình Pháp luật về Thương mại hàng hóa và dịch vụ
Tác giả: Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh
Nhà XB: Nxb. Hồng Đức
Năm: 2017
2. Lê Xuân Cảnh (2018), Kiến nghị hủy bỏ án lệ số 08/2016/AL, Tạp chí điện tử Luật Sƣ Việt Nam Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kiến nghị hủy bỏ án lệ số 08/2016/AL
Tác giả: Lê Xuân Cảnh
Nhà XB: Tạp chí điện tử Luật Sƣ Việt Nam
Năm: 2018
3. Lưu Quốc Chính (2015), Xác định thành viên hộ gia đình khi thực hiện công chứng, chứng thực liên quan “Hộ gia đình sử dụng đất”, Cổng thông tin điện tử Bộ Tƣ pháp, http://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=1851, truy cập ngày 11/10/2018 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Xác định thành viên hộ gia đình khi thực hiện công chứng, chứng thực liên quan “Hộ gia đình sử dụng đất”
Tác giả: Lưu Quốc Chính
Nhà XB: Cổng thông tin điện tử Bộ Tƣ pháp
Năm: 2015
4. Phạm Văn Võ – Nguyễn Thị Cam (2017), Căn cứ nào xác định hộ gia đình sử dụng đất?, Báo Báo mới, https://baomoi.com/can-cu-nao-xac-dinh-ho-gia-dinh-su-dung-dat/c/24069951.epi.D. Danh mục bản án, quyết định của Tòa án Sách, tạp chí
Tiêu đề: Căn cứ nào xác định hộ gia đình sử dụng đất
Tác giả: Phạm Văn Võ, Nguyễn Thị Cam
Nhà XB: Báo Báo mới
Năm: 2017
2. Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 19/2015/KDTM-PT ngày 14/12/2015 của TAND tỉnh Bến Tre về tranh chấp hợp đồng tín dụng Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 19/2015/KDTM-PT
Nhà XB: TAND tỉnh Bến Tre
Năm: 2015
4. Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 07/2017/KDTM-PT ngày 29/8/2017 của TAND tỉnh Bến Tre về tranh chấp hợp đồng tín dụng Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 07/2017/KDTM-PT
Nhà XB: TAND tỉnh Bến Tre
Năm: 2017

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w