Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Công tác thi hành án dân sự (THADS) và thi hành án trong lĩnh vực tín dụng ngân hàng (TDNH) luôn thu hút sự quan tâm của nhiều người Nhiều tác giả đã nghiên cứu và tìm hiểu sâu về vấn đề này Đến nay, đã có một số công trình khoa học và tài liệu nghiên cứu được công bố nhằm giải quyết các vấn đề liên quan đến THADS và TDNH.
Luận án tiến sĩ luật học năm 2017 của tác giả Lê Anh Tuấn, Đại học Luật
Hà Nội, “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về cưỡng chế thi hành án dân sự ở
Tác giả nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam Bài viết đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự, đặc biệt là các quy định liên quan đến cưỡng chế thi hành án.
Luận văn thạc sĩ luật học năm 2018 của tác giả Trần Thị Xuân Lan tại Đại học Kinh tế Luật nghiên cứu thực trạng áp dụng pháp luật về kê biên tài sản nhằm đảm bảo thi hành án tại tỉnh Bến Tre Tác giả phân tích các quy định liên quan đến kê biên tài sản, thực tiễn áp dụng pháp luật, cũng như những khó khăn và vướng mắc trong việc kê biên quyền sử dụng đất và tài sản nhà ở Bên cạnh đó, luận văn cũng đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong kê biên tài sản để đảm bảo thi hành án tại tỉnh Bến Tre.
Luận văn thạc sĩ luật học năm 2019 của tác giả Võ Thị Mỹ Nhân tại Đại học Kinh tế Luật nghiên cứu về việc bán đấu giá quyền sử dụng đất nhằm thi hành án, thông qua thực tiễn áp dụng Nghiên cứu này phân tích các quy định pháp luật liên quan và đánh giá hiệu quả của hoạt động bán đấu giá trong việc thực hiện các quyết định thi hành án Tác giả cũng chỉ ra những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện và đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện quy trình này.
Trung tâm dịch vụ đấu giá tài sản thuộc Sở Tư pháp tỉnh Bến Tre nghiên cứu các quy định pháp luật và thực tiễn liên quan đến đấu giá tài sản, đặc biệt là quyền sử dụng đất Bài viết đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc bán đấu giá tài sản để thi hành án tại tỉnh Bến Tre.
Nhiều bài viết nghiên cứu và trao đổi về hoạt động thi hành án ngân hàng đã được công bố trên các báo, tạp chí và tài liệu hội nghị, hội thảo của ngành tư pháp Một trong số đó là bài viết "Bảo vệ quyền lợi của người mua được tài sản bán đấu giá để thi hành án dân sự" của tác giả Lê Thị, góp phần quan trọng vào việc nâng cao nhận thức và hiểu biết về quy trình thi hành án trong lĩnh vực ngân hàng.
Trong bài viết đăng trên tạp chí Dân chủ & Pháp luật số 8(329)-2019, tác giả chỉ ra những bất cập trong quy định pháp luật về thi hành án dân sự và Nghị quyết số 42/2017/QH14 của Quốc hội liên quan đến việc xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng Bài viết cũng đề cập đến quan điểm khác nhau về việc xử lý tiền bán đấu giá khi bản án của Tòa án bị hủy, như được phân tích bởi tác giả Lê Lanh trong tạp chí Dân chủ & Pháp luật số 4(301)-2017 Tác giả nêu rõ những khó khăn và vướng mắc phát sinh khi tài sản thế chấp đã được kê biên, bán đấu giá thành công và người mua đã thanh toán đầy đủ, nhưng bản án quyết định của Tòa án lại bị hủy.
Các công trình nghiên cứu hiện tại chủ yếu mang tính khái quát và chưa đi sâu vào phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật thi hành án dân sự trong việc xử lý tài sản thế chấp ngân hàng, đặc biệt là từ khi Nghị quyết số 42 được triển khai Tại tỉnh Bến Tre, chưa có công trình nghiên cứu cụ thể nào về vấn đề này Do đó, luận văn này là công trình đầu tiên nghiên cứu chuyên sâu và hệ thống về thực tiễn áp dụng pháp luật thi hành án dân sự trong việc xử lý tài sản thế chấp tại ngân hàng trên địa bàn tỉnh Bến Tre.
Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu của luận văn là nghiên cứu và phân tích những vướng mắc trong việc áp dụng pháp luật thi hành án dân sự (THADS) liên quan đến xử lý tài sản thế chấp ngân hàng Luận văn sẽ xác định những bất hợp lý của pháp luật hiện hành và kiến nghị sửa đổi, bổ sung các quy định để nâng cao hiệu quả xử lý tài sản thế chấp nhằm thu hồi nợ xấu ngân hàng Để đạt được mục tiêu này, luận văn sẽ giải quyết các vấn đề từ các quy định pháp luật về xử lý tài sản thế chấp, đặc biệt sau khi Quốc hội ban hành Nghị quyết số 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu Từ đó, đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm khắc phục những hạn chế giữa pháp luật và thực tiễn.
Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện luận văn, tác giả tuân thủ các quy định của pháp luật về thi hành án dân sự (THADS) và xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng (TCTD) Tác giả sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học, bao gồm khảo sát và thu thập thông tin về kết quả thi hành án từ các cơ quan THADS tại tỉnh Bến Tre Bên cạnh đó, tác giả áp dụng phương pháp so sánh, phân tích số liệu và tham khảo tài liệu cùng với các phương pháp khác để đảm bảo tính phù hợp với nội dung đề tài.
Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu với 2 chương như sau
Chương 1 Hạn chế, bất cập của pháp luật thi hành án dân sự khi xử lý tài sản thế chấp ngân hàng để thi hành án
Chương 2 Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật THADS trong xử lý tài sản thế chấp ngân hàng trên địa bàn tỉnh Bến Tre.
HẠN CHẾ, BẤT CẬP CỦA PHÁP LUẬT THADS KHI XỬ LÝ TÀI SẢN THẾ CHẤP NGÂN HÀNG
Khái niệm, đặc điểm xử lý tài sản thế chấp ngân hàng
1.1.1 Khái niệm về xử lý tài sản thế chấp ngân hàng
Hoạt động tín dụng ngân hàng là mối quan hệ giữa bên cho vay và bên vay, trong đó bên cho vay cung cấp một khoản tiền cho bên vay theo thỏa thuận Bên vay cam kết sử dụng số tiền này vào mục đích xác định và trả gốc, lãi đúng hạn, thường kèm theo tài sản thế chấp hoặc bảo lãnh Quan hệ này đáp ứng nhu cầu vốn cho đầu tư, sản xuất kinh doanh và tiêu dùng Khi phát sinh tranh chấp do không thực hiện đúng cam kết, các bên có thể giải quyết thông qua Tòa án hoặc Trọng tài thương mại Nếu một bên không thi hành nghĩa vụ theo bản án, bên kia có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự thực hiện để bảo vệ quyền lợi Việc xử lý tài sản thế chấp chủ yếu liên quan đến nghĩa vụ thanh toán cho tổ chức tín dụng, thường có giá trị lớn Do đó, việc không chấp hành bản án có thể dẫn đến hậu quả pháp lý và áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án Xử lý tài sản thế chấp để thi hành án tín dụng ngân hàng là hoạt động của cơ quan thi hành án có thẩm quyền, thực hiện theo quy trình pháp luật để buộc cá nhân, tổ chức thực hiện nghĩa vụ trả nợ.
1.1.2 Đặc điểm xử lý tài sản thế chấp ngân hàng
Thi hành án dân sự là hoạt động hành chính và tư pháp của Nhà nước, nhằm đảm bảo các bản án, quyết định có hiệu lực được thực hiện theo trình tự và thủ tục pháp luật quy định Hoạt động này có tính chất bắt buộc đối với các bên liên quan, bao gồm người được thi hành án và người phải thi hành án Tuy nhiên, các bên vẫn có quyền thỏa thuận về việc thi hành án, miễn là thỏa thuận đó không vi phạm pháp luật và đạo đức xã hội Qua đó, có thể nhận diện một số đặc điểm cơ bản liên quan đến xử lý tài sản thế chấp trong thi hành án.
Trong mối quan hệ giữa các bên trong thi hành án dân sự (THADS), có hai chủ thể chính: người được thi hành án và người phải thi hành án Người được thi hành án có thể là cá nhân, cơ quan, tổ chức được hưởng quyền lợi từ bản án, trong khi người phải thi hành án là cá nhân, cơ quan, tổ chức có nghĩa vụ thực hiện theo bản án Đặc biệt trong xử lý tài sản thế chấp ngân hàng, mối quan hệ giữa bên vay và bên cho vay có tính chất riêng Trong giai đoạn thi hành án, tổ chức tín dụng (TCTD) sẽ là bên có quyền yêu cầu xử lý tài sản thế chấp nhằm đảm bảo thu hồi nợ.
Theo Điều 3 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008, đã được sửa đổi bổ sung năm 2014, bên thế chấp có trách nhiệm thực hiện các biện pháp pháp lý để xử lý tài sản thế chấp nếu không thanh toán đầy đủ các khoản nợ.
Thi hành án dân sự, đặc biệt trong việc xử lý tài sản thế chấp để thi hành án tín dụng ngân hàng (TDNH), luôn chú trọng đến sự tự thỏa thuận giữa các bên liên quan Chấp hành viên đóng vai trò cầu nối, tạo điều kiện cho các bên thực hiện quyền tự định đoạt về thời gian, biện pháp thi hành án và phương thức xử lý tài sản Đặc thù của thi hành án TDNH thường liên quan đến số tiền lớn và khả năng thực hiện nghĩa vụ của người phải thi hành án thấp, do sử dụng các khoản vay không hiệu quả, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống và sản xuất kinh doanh của họ Vì vậy, việc đề cao sự tự thỏa thuận và lựa chọn phương thức xử lý tài sản là cần thiết để tạo điều kiện cho họ trả nợ vay Bên bảo đảm và bên nhận bảo đảm có quyền thỏa thuận phương thức xử lý tài sản, như bán đấu giá hoặc tự bán tài sản, nhằm đảm bảo nghĩa vụ của bên bảo đảm Quyền lựa chọn phương thức xử lý tài sản tự định đoạt và tự thỏa thuận giữa người phải thi hành án và các tổ chức tín dụng là một trong những đặc điểm quan trọng trong việc xử lý tài sản thế chấp thi hành án ngân hàng.
Trong quá trình thi hành bản án, các quyết định về tín dụng ngân hàng thường yêu cầu tài sản thế chấp để đảm bảo nghĩa vụ trả nợ của khách hàng, ngoại trừ trường hợp vay tín chấp Tài sản thế chấp có thể bao gồm bất động sản, động sản và tài sản hình thành trong tương lai Do hoạt động tín dụng ngân hàng tiềm ẩn nhiều rủi ro, các tổ chức tín dụng thường ưu tiên sử dụng biện pháp này khi cấp vốn.
Điều 303 BLDS năm 2015 quy định các biện pháp bảo đảm nhằm phòng tránh rủi ro cho các khoản tín dụng đã cấp Khi ký kết hợp đồng, các tổ chức tín dụng và khách hàng cần thiết lập giao dịch đảm bảo cho khoản vay, trong đó khách hàng phải cung cấp tài sản thế chấp Tài sản này có thể là một phần hoặc toàn bộ tài sản của khách hàng, hoặc theo thỏa thuận giữa các bên, đảm bảo luôn có tài sản để xử lý theo quy trình thi hành án dân sự.
Việc không thực hiện đúng cam kết trong hợp đồng có thể dẫn đến tranh chấp, và để giải quyết, các bên thường phải xử lý tài sản thế chấp nhằm thu hồi nợ Trong những năm gần đây, thực tiễn thi hành án cho thấy nhiều tài sản thế chấp không đủ để thực hiện nghĩa vụ với ngân hàng Do đó, các tổ chức tín dụng yêu cầu chấp hành viên tiến hành kê biên và bán đấu giá tài sản, nhằm đảm bảo tính công khai và minh bạch về giá trị thực của tài sản thế chấp.
Vào ngày thứ năm, pháp luật về thi hành án dân sự (THADS) và Nghị quyết số 42 được áp dụng để xử lý tài sản thế chấp ngân hàng Các cơ quan THADS cần tuân thủ đầy đủ quy trình và thủ tục theo quy định của Luật THADS Do tính đa dạng của các chủ thể thi hành án như cá nhân, tổ chức và doanh nghiệp, cùng với sự phong phú của tài sản bảo đảm (bao gồm quyền sử dụng đất, nhà ở, nhà xưởng, dây chuyền sản xuất, tàu cá, ô tô), các cơ quan THADS cũng phải áp dụng các quy định từ nhiều lĩnh vực khác như Bộ luật dân sự, Luật Đất đai, Luật Doanh nghiệp, Luật các Tổ chức tín dụng, Luật Nhà ở và Luật Ngân hàng Nhà nước Đặc biệt, trong trường hợp các Tổ chức tín dụng xác định khoản vay là nợ xấu, cần tuân thủ Nghị quyết số 42 của Quốc hội về xử lý nợ xấu, và nếu có sự khác biệt giữa Nghị quyết số 42 và các luật khác về xử lý nợ xấu, quy định của Nghị quyết số 42 sẽ được ưu tiên áp dụng.
Nghị quyết 3 quy định việc xử lý số tiền thu được từ tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu, sau khi trừ chi phí bảo quản và chi phí xử lý tài sản, sẽ ưu tiên thanh toán cho nghĩa vụ nợ được bảo đảm cho các TCTD trước khi thực hiện nghĩa vụ thuế và nghĩa vụ khác không có bảo đảm Điều này nhấn mạnh rằng trong 5 năm thực hiện Nghị quyết số 42 về xử lý nợ xấu của các TCTD, các trường hợp thi hành án TDNH phải đảm bảo quyền ưu tiên thanh toán cho nghĩa vụ nợ được bảo đảm.
Hạn chế, bất cập của pháp luật về THADS, Nghị quyết số 42 khi xử lý tài sản thế chấp ngân hàng để thi hành án
xử lý tài sản thế chấp ngân hàng để thi hành án
1.2.1 Thi hành án tín dụng ngân hàng
Qua nghiên cứu, đánh giá kết quả công tác THADS trong hai năm 2018,
Năm 2019, Cục THADS tỉnh Bến Tre ghi nhận những chuyển biến tích cực trong kết quả thi hành án, với việc các cơ quan THADS tổ chức thực hiện vượt chỉ tiêu lãnh đạo ngành giao, đặc biệt là trong lĩnh vực thi hành án tín dụng ngân hàng (TDNH), góp phần giảm tỷ lệ nợ xấu của các tổ chức tín dụng (TCTD) trên địa bàn xuống còn 0,58% tổng dư nợ Tuy nhiên, công tác THADS vẫn gặp phải một số tồn tại và khó khăn, bao gồm thể chế và thực tiễn, với số lượng án thụ lý lớn Mặc dù kết quả thi hành án hoàn thành năm sau cao hơn năm trước, nhưng số vụ việc chuyển sang năm tiếp theo vẫn còn đáng kể.
3 điều 17 Nghị Quyết số 42/2017/QH14 ngày 21/6/2017 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu
4 Điều 12 Nghị quyết 42/2017/QH14 ngày 21/6/2017 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu
Trong năm 2018, tổng số vụ thụ lý đạt 20.802, tỷ lệ giải quyết xong là 76,47%, vượt chỉ tiêu 4,47% Tổng số tiền thụ lý là 1.139 tỷ đồng, tỷ lệ giải quyết đạt 38,77%, vượt chỉ tiêu 6,77% Năm 2019, tổng số vụ thụ lý là 21.951, tỷ lệ giải quyết xong đạt 75,95%, vượt chỉ tiêu 2,95% Tổng số tiền thụ lý đạt 1.409 tỷ đồng, với tỷ lệ giải quyết là 42,73%, vượt chỉ tiêu 9,73% Trong hai năm 2018 và 2019, có tổng cộng 775 vụ án liên quan đến tổ chức tín dụng với số tiền lên đến 557 tỷ đồng.
Trong tổng số 175 tỷ đồng, doanh nghiệp phải thi hành án với 39 vụ việc trị giá 173,766 tỷ đồng, trong khi cá nhân có 736 vụ việc với số tiền 383,417 tỷ đồng Mặc dù kết quả thi hành án tại địa phương còn thấp so với 63 tỉnh, thành phố, nhưng vẫn cao hơn mức trung bình cả nước, cho thấy tính chất phức tạp trong việc thi hành án liên quan đến các vụ việc Doanh nghiệp có số vụ việc không nhiều nhưng số tiền phải thi hành lại lớn; tài sản thế chấp rất đa dạng như nhà xưởng, dây chuyền sản xuất, máy móc chuyên dụng, bất động sản, tàu thuyền và ô tô giá trị lớn, đòi hỏi nhiều thời gian để xác minh và truy tìm Hơn nữa, giá trị tài sản bảo đảm thường không đủ để thanh toán cho ngân hàng.
Trong năm 2018, đã thụ lý 357 vụ việc với tổng số tiền là 254.256.488.841 đồng, đạt tỷ lệ giải quyết 34,89% về số vụ và 35,41% về số tiền Sang năm 2019, số vụ thụ lý tăng lên 418 vụ, tương ứng với số tiền 302.919.026.000 đồng, với tỷ lệ giải quyết đạt 32,49% về số vụ và 38,04% về số tiền.
Trong năm 2018, tổng số vụ án thụ lý là 19 vụ với số tiền 57.949.158.595 đồng, chiếm 5.32% về số vụ và 22.97% về số tiền so với tổng số án thụ lý của Tòa án Dân sự; đồng thời, chiếm 0.091% về số vụ và 5.08% về số tiền so với tổng số vụ thụ lý chung của toàn tỉnh Sang năm 2019, số vụ thụ lý tăng lên 20 vụ với số tiền 115.817.733.745 đồng, chiếm 4.78% về số vụ và 38.23% về số tiền so với tổng số án thụ lý của Tòa án Dân sự; và chiếm 0.009% về số vụ và 8.22% về số tiền so với tổng số vụ thụ lý chung của toàn tỉnh.
Theo báo cáo số 1463BC-CTHADS ngày 10/10/2018 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bến Tre, có 338 vụ việc tương ứng với số tiền 196.307.330.246 đồng, chiếm 94.68% về số vụ và 77.03% về số tiền so với tổng số vụ thụ lý án TDNH, đồng thời chiếm 1.62% về số vụ và 17.22% về số tiền so với tổng số vụ thụ lý chung của toàn tỉnh Trong báo cáo số 1601/BC-CTHADS ngày 05/11/2019, số vụ việc tăng lên 398 với số tiền 187.110.293.000 đồng, chiếm 95.22% về số vụ và 61.77% về số tiền so với tổng số vụ thụ lý án TDNH, và chiếm 1.81% về số vụ và 13.27% về số tiền so với tổng số vụ thụ lý chung của toàn tỉnh.
Báo cáo số 313/BC-TCTHADS ngày 22/10/2019 của Tổng cục THADS - Bộ Tư pháp cho thấy tỷ lệ thi hành án năm 2019 chỉ đạt 23,42% về việc và 22,41% về tiền, trong khi nhiều doanh nghiệp tài chính gần như không còn khả năng thanh toán nghĩa vụ Số vụ việc cá nhân phải thi hành án ngày càng tăng, với tỷ lệ thi hành án thành công cao hơn Tuy nhiên, tài sản thế chấp chủ yếu là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, dẫn đến nhiều trường hợp không đủ tài sản để thi hành án, khiến người thi hành án rơi vào tình trạng không còn nhà ở Việc áp dụng pháp luật trong những trường hợp này còn nhiều quan điểm khác nhau, ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả xử lý tài sản thế chấp.
Xu hướng giải quyết tranh chấp giữa các TCTD ngày càng nghiêng về việc tuân thủ quy định pháp luật, nhằm đảm bảo thực hiện nghĩa vụ thanh toán Điều này dẫn đến sự gia tăng số lượng vụ việc và số tiền mà các cơ quan THADS phải xử lý hàng năm Tính chất và mức độ phức tạp trong việc thi hành án cũng ngày càng cao, trong khi tâm lý của người phải thi hành án thường không muốn tự nguyện thực hiện nghĩa vụ Hơn nữa, một số quy định pháp luật về THADS và các luật liên quan thiếu tính đồng bộ và khả thi, gây khó khăn trong việc xử lý tài sản thế chấp ngân hàng Sự thiếu đồng bộ này cùng với nhận thức của người áp dụng pháp luật đã tạo ra áp lực lớn cho các cơ quan THADS và các chấp hành viên.
1.2.2 Hạn chế, bất cập của pháp luật về THADS, Nghị quyết số 42 khi xử lý tài sản thế chấp ngân hàng
Nghị quyết số 42 về xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng đã đưa ra nhiều giải pháp đột phá, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xử lý nợ xấu và tài sản đảm bảo Tuy nhiên, trong thực tế, quá trình xử lý tài sản thế chấp ngân hàng gặp nhiều bất cập, ảnh hưởng đến kết quả thi hành án.
Thứ nhất, khó khăn, vướng mắc trong việc xử lý tài sản thế chấp:
Hợp đồng thế chấp là thỏa thuận giữa bên thế chấp và bên nhận thế chấp, trong đó bên thế chấp cam kết sử dụng tài sản của mình để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ Nếu bên thế chấp không thực hiện nghĩa vụ, bên nhận thế chấp có quyền xử lý tài sản theo thỏa thuận hoặc quy định pháp luật Để đảm bảo việc xử lý tài sản thế chấp diễn ra đúng quy định và hạn chế tranh chấp, hợp đồng thế chấp cần phải có tính pháp lý rõ ràng Bất kỳ sai sót nào trong hợp đồng đều có thể ảnh hưởng đến kết quả xử lý tài sản Khi tài sản bị xử lý, bên thế chấp thường đưa ra lý do để tranh chấp, và thường tìm kiếm lỗi trong quá trình thẩm định và nhận thế chấp của tổ chức tín dụng, dẫn đến nhiều tranh chấp trong thi hành án.
-Tranh chấp về việc thực hiện quyền đối với tài sản:
Pháp luật quy định rằng các đối tượng thế chấp rất đa dạng, bao gồm động sản, bất động sản và tài sản thuộc quyền sở hữu riêng hoặc chung Mỗi loại tài sản có các quyền và nghĩa vụ tương ứng cho các bên giao dịch Việc lựa chọn tài sản thế chấp và nhận thế chấp phụ thuộc vào thỏa thuận giữa các bên, nhằm bảo đảm quyền lợi của họ Khi hợp đồng được ký kết, quyền và nghĩa vụ phát sinh; nếu có bên vi phạm, tranh chấp sẽ được giải quyết thông qua thương lượng hoặc pháp luật Tuy nhiên, thực tế cho thấy việc thẩm định hồ sơ và xác định quyền sở hữu chưa được các TCTD chú trọng, dẫn đến tranh chấp trong quá trình thi hành án Ví dụ, trong trường hợp ông Đào Văn Tuấn và bà Nguyễn Thị Thanh không thực hiện nghĩa vụ trả nợ, ngân hàng có quyền phát mãi tài sản thế chấp, nhưng việc xử lý gặp khó khăn do con cái của họ không đồng ý Trách nhiệm của TCTD trong việc thực hiện quy trình nhận thế chấp chưa đúng, không xem xét đầy đủ ý chí của tất cả thành viên trong hộ gia đình, dẫn đến việc các thành viên không đồng ý với việc xử lý tài sản Theo hướng dẫn của Tổng cục THADS, việc thế chấp tài sản mà không có sự đồng ý của tất cả thành viên hộ gia đình có thể bị khiếu nại để bảo vệ quyền lợi hợp pháp.
Theo Điều 3, Khoản 29 Luật Đất đai 2013, hộ gia đình sử dụng đất bao gồm những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng theo quy định pháp luật, sống chung và có quyền sử dụng đất chung tại thời điểm Nhà nước giao đất, cho thuê đất, hoặc công nhận quyền sử dụng đất Khi xảy ra tranh chấp, cơ quan thi hành án dân sự (THADS) cần hướng dẫn các bên đương sự kiến nghị và đồng thời kiến nghị Tòa án có thẩm quyền xem xét lại bản án, quyết định đang được thi hành.
- Tranh chấp về việc xác định tài sản thế chấp:
Tài sản thế chấp là kết quả của sự lựa chọn và thống nhất ý chí giữa các bên, được ghi rõ trong hợp đồng thế chấp Tuy nhiên, thực tế cho thấy việc xác định tài sản thế chấp ngay từ giai đoạn lập hồ sơ của tổ chức tín dụng thường không đảm bảo tính chính xác và đầy đủ Nhiều trường hợp chỉ thế chấp quyền sử dụng đất mà không bao gồm tài sản gắn liền với đất, dẫn đến sự không thống nhất giữa ngân hàng và người thi hành án khi xử lý tài sản Ví dụ điển hình là hồ sơ thi hành bản án số 180/2013/KDTM-PT ngày 14/11/2013 của TAND tối cao tại TP Hồ Chí Minh liên quan đến bà Nguyễn Thị Thu.
Bà Nguyệt phải trả cho Ngân hàng thương mại cổ phần công thương số tiền 10.655.971.970 đồng, nếu không sẽ bị yêu cầu phát mãi tài sản thế chấp theo 07 hợp đồng đã ký, bao gồm hợp đồng thế chấp QSDĐ 9.400m2 của hộ ông Huỳnh Văn Triêm Tuy nhiên, hồ sơ hiện chỉ thế chấp QSDĐ mà không bao gồm nhà ở và cây lâu năm trên đất của ông Triêm Pháp luật cho phép thế chấp QSDĐ và tài sản gắn liền với đất độc lập, nhưng việc xử lý tài sản thế chấp trong trường hợp này gây ra nhiều quan điểm khác nhau Một số chấp hành viên cho rằng tài sản gắn liền với đất không thể thế chấp và không được Tòa án xử lý, dẫn đến việc cần yêu cầu Tòa án đính chính hoặc kiến nghị xem xét kháng nghị bản án, kéo dài quá trình thi hành án.
Theo Điều 716 BLDS 2005, khi người sử dụng đất thế chấp quyền sử dụng đất, các tài sản gắn liền như nhà, công trình xây dựng, rừng trồng và vườn cây chỉ thuộc tài sản thế chấp nếu có thỏa thuận Luật THADS năm 2008 quy định nếu hợp đồng chỉ thế chấp quyền sử dụng đất mà không thế chấp tài sản gắn liền, nhưng người sử dụng đất là chủ sở hữu tài sản đó, thì khi kê biên, cả quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền sẽ bị kê biên nếu người đó là người phải thi hành án Tuy nhiên, trong quá trình kê biên và xử lý tài sản, việc bán đấu giá quyền sử dụng đất cùng với tài sản không thế chấp gắn liền với quyền sử dụng đất của người phải thi hành án dẫn đến những cách giải quyết khác nhau ở từng địa phương Một số nơi coi tài sản không thế chấp là của người phải thi hành án và gộp vào thanh toán nghĩa vụ bảo đảm, trong khi những nơi khác hoàn lại giá trị tài sản không thế chấp cho chủ sở hữu.
Giải pháp chung
2.1.1 Đối với các cơ quan THADS địa phương
Để xử lý nợ xấu hiệu quả, cần xác định nguyên tắc nhất quán trong áp dụng pháp luật, ưu tiên quy định của Nghị quyết số 42 khi có sự khác biệt với Luật THADS và các luật liên quan Đồng thời, cần nghiên cứu và vận dụng các hướng dẫn của Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước nhằm khắc phục những bất cập trong xử lý tài sản thế chấp ngân hàng Việc đề ra các giải pháp mới, phù hợp với tình hình biên chế giảm và số lượng án thụ lý tăng hàng năm là cần thiết để nâng cao hiệu quả thi hành án.
Thứ hai, phát huy vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan
THADS đóng vai trò quan trọng trong việc quản lý, chỉ đạo và điều hành, giúp đánh giá nguyên nhân của những khó khăn, vướng mắc Qua đó, các nhà quản lý có thể đưa ra những giải pháp phù hợp và hiệu quả hơn để khắc phục tình trạng này.
Cục THADS cần chủ động phối hợp với NHNN Chi nhánh tỉnh để thực hiện tốt quy chế hợp tác giữa hai ngành, hỗ trợ các TCTD rà soát các vụ án đang thi hành và đẩy nhanh tiến độ thực hiện các vụ án chưa hoàn tất, đặc biệt là những vụ án có giá trị lớn và tài sản thế chấp nhiều Đồng thời, cần duy trì hình thức đối thoại giữa lãnh đạo hai ngành và các TCTD để tìm giải pháp tổ chức thi hành nhanh chóng và hiệu quả các vụ án TDNH.
Áp dụng hiệu quả công nghệ thông tin giúp rút ngắn thời gian và giảm tải công việc hành chính, từ đó tập trung vào chuyên môn nghiệp vụ và nâng cao hiệu quả hoạt động thi hành án dân sự (THADS).
Vào thứ năm, cần tổ chức các buổi tập huấn và bồi dưỡng định kỳ nhằm nâng cao kỹ năng cho chấp hành viên và thư ký thi hành án Điều này đặc biệt quan trọng trong việc thực hiện các nhiệm vụ như xác minh, kê biên và bán đấu giá tài sản thế chấp ngân hàng.
Chấp hành viên có nhiệm vụ xác minh thực tế tài sản của người phải thi hành án đã thế chấp, yêu cầu các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan cung cấp tài liệu để thực hiện xác minh Biên bản xác minh cần thể hiện đầy đủ kết quả Đối với bất động sản, ngoài việc xác minh trực tiếp hiện trạng tài sản, chấp hành viên còn phải xác minh tại cơ quan có chức năng đăng ký tài sản đó Việc xác minh trực tiếp là rất quan trọng, giúp chấp hành viên tận mắt thấy được tài sản.
20 Quy chế số 41/QCLN/CTHADS/NHNN CNT ngày 25/5/2015 giữa Cục THADS và NHNN CN tỉnh
Đề án cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016-2020 được ban hành kèm theo quyết định số 1058/QĐ-TTg ngày 19/7/2017 của Thủ tướng Chính phủ nhằm cải thiện tình hình tài chính và nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức tín dụng.
Điều 20 Luật THADS sửa đổi, bổ sung năm 2014 quy định rõ về việc xác định vị trí và ước đoán giá trị tài sản Luật cũng nêu rõ quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản, bao gồm việc xác định tài sản thuộc quyền sở hữu riêng hay sở hữu chung của người phải thi hành án, cũng như việc kê biên toàn bộ hay chỉ một phần tài sản.
Tài sản thế chấp bao gồm các loại hình đa dạng như đất đai, nhà ở, công trình xây dựng, tàu thuyền và xe ô tô Khi tiến hành kê biên để thi hành án, cần tuân thủ đúng trình tự và thủ tục pháp luật quy định Đối với tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất (QSDĐ) kèm theo tài sản gắn liền với đất thuộc quyền sở hữu của người phải thi hành án, nếu tài sản không thể di dời và không được thế chấp, thì phải kê biên cả QSDĐ và tài sản gắn liền với đất.
Trong trường hợp người phải thi hành án có quyền sử dụng đất (QSDĐ) thế chấp nhưng tài sản gắn liền với đất thuộc quyền sở hữu của người khác, chấp hành viên chỉ thực hiện việc kê biên QSDĐ và thông báo cho chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất.
Khi xử lý tài sản gắn liền với đất đã kê biên thuộc sở hữu của người khác, chấp hành viên cần xác minh rõ ràng tài sản để áp dụng pháp luật phù hợp Nếu tài sản có trước khi người phải thi hành án nhận quyết định thi hành án, chấp hành viên yêu cầu người có tài sản tự nguyện di chuyển tài sản để trả quyền sử dụng đất Nếu không tự nguyện, chấp hành viên hướng dẫn các bên thỏa thuận bằng văn bản trong vòng 15 ngày; nếu không đạt được thỏa thuận, tài sản sẽ được xử lý cùng quyền sử dụng đất để bảo đảm quyền lợi hợp pháp Đối với tài sản hình thành sau khi nhận quyết định thi hành án, chấp hành viên cũng yêu cầu di chuyển trong 15 ngày; nếu không, tài sản sẽ bị xử lý Nếu tài sản không thể di chuyển, chấp hành viên sẽ tổ chức tháo dỡ, trừ khi có sự đồng ý của người nhận quyền sử dụng đất Người khác có tài sản gắn liền với đất sẽ được hoàn trả tiền bán tài sản, nhưng nếu tài sản bị tháo dỡ, họ phải chịu chi phí liên quan Đối với tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất hộ gia đình, chấp hành viên cần xác minh số lượng thành viên trong hộ và đối chiếu với hợp đồng thế chấp để giải quyết án Nếu có thành viên không đồng ý, cần yêu cầu Tòa án giải thích bản án.
Theo Điều 113 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014, trước khi tiến hành kê biên tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất (QSDĐ) cấp cho hộ gia đình, chấp hành viên cần xác minh rõ ràng số lượng thành viên trong hộ gia đình tại thời điểm xác lập QSDĐ Cần làm rõ tính hợp pháp của việc cầm cố thế chấp, khả năng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, và xác định các tài sản gắn liền với đất, cũng như quyền sở hữu và quản lý của các tài sản đó Thông tin này phải được thu thập từ nhiều nguồn, bao gồm Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất, Ủy ban nhân dân cấp xã, và các cơ quan có thẩm quyền khác.
Bán đấu giá tài sản là hoạt động cần tuân thủ nghiêm ngặt các quy định pháp luật, đảm bảo tính độc lập, trung thực, công khai, minh bạch, công bằng và khách quan Điều này bao gồm việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người có tài sản, người tham gia đấu giá, và tổ chức đấu giá Trong trường hợp bán đấu giá tài sản thế chấp ngân hàng để thi hành án, người thực hiện là chấp hành viên, không phải chủ sở hữu tài sản Hoạt động này nhằm đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả tiền theo bản án, quyết định pháp luật, và chấp hành viên phải tuân theo quy trình, thủ tục đặc biệt theo Luật THADS và Luật Đấu giá Chấp hành viên sẽ ký hợp đồng với tổ chức đấu giá, giám sát các hoạt động công khai, xây dựng quy chế đấu giá, và tiếp nhận hồ sơ đấu giá.
Theo Điều 23 Luật THADS năm 2008, sửa đổi bổ sung năm 2014, biên bản đấu giá và quyết định bước giá phải được thông báo danh sách người tham gia đấu giá cho người có tài sản trước khi mở cuộc đấu giá Chấp hành viên cần cung cấp đầy đủ thông tin về tình trạng tài sản, các khoản nợ liên quan và thuế phải nộp để người đăng ký tham gia đấu giá có thể cân nhắc Điều này rất quan trọng, ảnh hưởng đến việc ưu tiên thanh toán cho tổ chức tín dụng khi tài sản xử lý không đủ thanh toán, cũng như trong thủ tục chuyển quyền sở hữu và giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự.
2.1.2 Đối với các tổ chức tín dụng
Khi thẩm định tài sản cho vay, cần xác minh thông tin về số lượng, chủng loại, diện tích, vị trí, nguồn gốc và giá trị tài sản, đồng thời đảm bảo tài sản thế chấp không bị kê biên Cần khảo sát thực tế để xác định các tài sản gắn liền trên đất và quyết định nhận thế chấp toàn bộ hoặc một phần tài sản Đối với những tài sản như nhà ở duy nhất, nhà tình nghĩa, nhà tình thương, và khu mộ gia tộc, không nên nhận thế chấp Trong hợp đồng thế chấp, cần nêu rõ quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền, cùng với việc phân định tài sản nào được thế chấp Điều này quan trọng vì khi xử lý tài sản thế chấp, ngân hàng không thể thanh toán từ tài sản không thế chấp Nên có sự thỏa thuận rõ ràng về phần diện tích không đưa vào tài sản thế chấp để tránh rủi ro.
Giải pháp cụ thể đối với cá nhân, doanh nghiệp phải thi hành án
2.2.1 Giải pháp đối với cá nhân phải thi hành án
Cơ quan THADS cần tăng cường công tác tuyên truyền và giáo dục pháp luật để người phải thi hành án, người được thi hành án và các bên liên quan hiểu rõ quy định pháp luật Việc nâng cao ý thức chấp hành pháp luật sẽ giúp họ tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cá nhân và có trách nhiệm trong thương lượng thi hành án Đây là giải pháp ưu việt mà các chấp hành viên đang áp dụng trong quá trình tổ chức thi hành án, nhằm hạn chế việc sử dụng biện pháp cưỡng chế phức tạp và rủi ro.
Tăng cường công tác đối thoại và thỏa thuận giữa ngân hàng với người phải thi hành án và các bên liên quan là rất quan trọng Chấp hành viên cần chủ trì điều hành, ghi nhận nội dung thỏa thuận bằng biên bản để đảm bảo các bên thực hiện cam kết Phương pháp này, nếu được áp dụng liên tục trong quá trình giải quyết án, sẽ mang lại hiệu quả cao, giúp giải quyết vụ án theo mong muốn Tổ chức các buổi đối thoại không chỉ động viên, giáo dục mà còn thuyết phục các bên tự thỏa thuận thi hành án Bên thứ ba có thể sử dụng tài chính của mình để thanh toán nghĩa vụ thi hành án, từ đó nhận lại tài sản đã thế chấp Đồng thời, đối thoại cũng mở ra cơ hội cho bên phải thi hành án thuyết phục ngân hàng giảm hoặc miễn lãi, tạo điều kiện cho việc thi hành án diễn ra sớm hơn.
Vào thứ ba, chấp hành viên cần xác minh hiện trạng tài sản của người phải thi hành án, bao gồm cả tài sản của người thứ ba thế chấp để đảm bảo nghĩa vụ Đồng thời, họ phải tìm hiểu điều kiện, hoàn cảnh sống, thu nhập và các thông tin cần thiết khác liên quan đến việc thi hành án để định hướng giải quyết phù hợp Việc làm việc với chính quyền địa phương và tổ trưởng dân phố là cần thiết để tuyên truyền, giải thích rõ nghĩa vụ thi hành án của người phải thi hành án hoặc người thứ ba, nhằm giúp chính quyền nắm bắt thông tin và hỗ trợ cơ quan THADS trong quá trình kê biên, xử lý tài sản.
Trong trường hợp người phải thi hành án không hợp tác, chây ỳ hoặc chống đối, sau khi đã áp dụng các biện pháp vận động, giáo dục và thuyết phục mà không đạt hiệu quả, chấp hành viên cần kiên quyết thực hiện biện pháp cưỡng chế kê biên và bán đấu giá tài sản thế chấp để đảm bảo thi hành án.
Vào thứ năm, nếu nhà ở duy nhất của người có tài sản bị xử lý không đủ để thi hành án, cơ quan THADS cần trích một khoản tiền để người đó có thể thuê nhà với giá thuê trung bình tại địa phương trong một khoảng thời gian nhất định.
Cần giải thích cho các TCTD về việc trích tiền cho người phải thi hành án thuê nhà theo Luật THADS, nhằm đảm bảo nơi cư trú tối thiểu và ổn định an ninh chính trị địa phương Điều này cũng giúp nhận được sự đồng tình của chính quyền trong việc giao tài sản cho người mua trúng đấu giá Việc không giao tài sản đồng nghĩa với việc không thể thanh toán cho các TCTD Do đó, trước khi cưỡng chế giao tài sản, cơ quan THADS phải yêu cầu ngân hàng hỗ trợ tiền thuê nhà hoặc đề nghị địa phương cung cấp nhà tình thương, nhà đại đoàn kết để tạo nơi ở mới cho người thi hành án.
Vào thứ Sáu, việc tăng cường vận động các TCTD nhận tài sản đã bán đấu giá từ lần giảm giá thứ hai trở đi mà không có người tham gia sẽ giúp thu hồi nợ xấu một cách nhanh chóng Giải pháp này không chỉ đảm bảo việc thu hồi nợ hiệu quả mà còn rút ngắn thời gian xử lý tài sản, tránh việc phải giảm giá và bán đấu giá nhiều lần với giá trị giảm mà chưa chắc đã bán được tài sản Hơn nữa, trong trường hợp xử lý tài sản thế chấp mà vẫn chưa đủ thanh toán nghĩa vụ cho ngân hàng, người phải thi hành án có thể đề nghị TCTD xem xét miễn, giảm phần nghĩa vụ còn lại.
25 khoản 5 điều 115 Luật THADS sửa đổi bổ sung năm 2014
26 khoản 3 điều 104 Luật THADS sửa đổi bổ sung năm 2014
2.2.2 Giải pháp đối với doanh nghiệp phải thi hành án
Ngoài các giải pháp chung đã đề cập, tác giả cũng trình bày những giải pháp cụ thể cho cá nhân và doanh nghiệp trong việc thi hành án Để đạt được kết quả tối ưu, các doanh nghiệp cần áp dụng những biện pháp bổ sung mà tác giả đã gợi ý.
Các chấp hành viên cần chủ động xác minh tài khoản và tài sản doanh nghiệp, nắm rõ tình hình hoạt động của doanh nghiệp trong quá trình thi hành án Nếu phát hiện có tiền trong tài khoản, cần ngay lập tức áp dụng biện pháp phong tỏa để đảm bảo thi hành án, hoặc khấu trừ tiền từ tài khoản doanh nghiệp Trong trường hợp doanh nghiệp không tự nguyện thi hành án sau nhiều lần vận động, cần xử lý tài sản thế chấp bằng cách kê biên, thẩm định giá và bán đấu giá Nếu có cơ sở chuyển giao quyền và nghĩa vụ, cần thực hiện các thủ tục pháp lý liên quan Tùy vào từng trường hợp, có thể áp dụng quyền tạm hoãn xuất cảnh hoặc hạn chế người đại diện doanh nghiệp rời khỏi Việt Nam cho đến khi thi hành án hoàn tất.
Cục THADS tỉnh thường xuyên tổ chức các buổi tập huấn nhằm nâng cao kỹ năng nghiệp vụ cho các chấp hành viên, tập trung vào việc phân tích các quy định pháp luật liên quan đến xác minh tài khoản, phong tỏa tài khoản, và khấu trừ tiền từ tài khoản doanh nghiệp Qua đó, Cục giúp các chấp hành viên giải quyết kịp thời những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện nhiệm vụ thi hành án, đặc biệt là trong việc xác minh và xử lý tài sản thế chấp của doanh nghiệp.
27 điều 66, điều 67, điều 68, điều 69 Luật THADS sửa đổi bổ sung năm 2014
Kiến nghị
Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước và các ngành liên quan cần phối hợp hướng dẫn thi hành pháp luật về xử lý tài sản thế chấp, giải quyết khó khăn mà các cơ quan THADS, cơ quan Thuế và các TCTD gặp phải khi thực hiện Nghị quyết số 42 về xử lý nợ xấu Đồng thời, cần kiến nghị Chính phủ trình Quốc hội xem xét sửa đổi, bổ sung Nghị quyết số 42 và các luật liên quan để đảm bảo tính thống nhất trong áp dụng pháp luật trong lĩnh vực THADS và xử lý tài sản thế chấp phục vụ thi hành án TDNH.
Hướng dẫn thực hiện về nội dung ưu tiên thu hồi nợ xấu của TCTD liên quan đến nghĩa vụ nộp thuế của người phải thi hành án đối với Nhà nước cần được thống nhất Điều này áp dụng khi xử lý tài sản thế chấp theo quy định tại điều 12 và điều 15 Nghị quyết số 42, trong trường hợp tài sản thế chấp không đủ đảm bảo cho nghĩa vụ được đảm bảo Để tránh vướng mắc trong việc ưu tiên thanh toán nghĩa vụ nợ cho TCTD trước khi thực hiện nghĩa vụ thuế, cần kiến nghị Quốc hội sửa đổi, bổ sung Nghị quyết số 42 theo hướng bỏ đoạn liên quan.
Việc nộp thuế liên quan đến chuyển nhượng tài sản bảo đảm cần tuân thủ quy định pháp luật về thuế, đặc biệt trong trường hợp tài sản thế chấp không đủ để đảm bảo nghĩa vụ Để giải quyết vướng mắc trong thi hành án, cần có hướng dẫn thống nhất từ bộ, ngành trung ương, cho phép miễn nghĩa vụ thuế thu nhập cá nhân nếu số tiền thu được từ xử lý tài sản không đủ thanh toán cho các tổ chức tín dụng Điều này sẽ giúp nhanh chóng xử lý tài sản thế chấp và khắc phục bất cập trong áp dụng pháp luật Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau về việc thu thuế và quyền ưu tiên thanh toán cho ngân hàng, điều này gây khó khăn trong thực hiện Việc ưu tiên thanh toán cho ngân hàng trong thu hồi nợ xấu là cần thiết, nhưng nếu tài sản thế chấp không đủ, các khoản án phí không được thanh toán sẽ dẫn đến thất thu ngân sách và tồn đọng án Do đó, cần sửa đổi Nghị quyết số 42 để đảm bảo quyền lợi cho bên nhận cầm cố, thế chấp và thực hiện nghĩa vụ theo quy định của pháp luật.
Hướng dẫn thủ tục mua bán nợ xấu giữa tổ chức tín dụng và tổ chức mua bán nợ xấu, đặc biệt khi tài sản đảm bảo đang bị kê biên, theo quy định tại Điều 13 Nghị quyết số 42 Tổ chức tín dụng có quyền bán khoản nợ xấu có tài sản đảm bảo đang bị kê biên cho tổ chức có chức năng mua bán nợ Việc bán tài sản bảo đảm phải tuân thủ quy định pháp luật Tuy nhiên, đối với các khoản nợ xấu đang trong quy trình kê biên, thẩm định giá và bán đấu giá mà không có người mua, cần có hướng dẫn cụ thể cho các tổ chức mua bán nợ xấu về việc thực hiện mua bán tài sản thế chấp trong các trường hợp này Kiến nghị cần được đưa ra để tạo điều kiện cho các tổ chức mua bán nợ xấu có thể tham gia vào quá trình này.
Hiện nay, việc thế chấp tài sản mà không có sự đồng ý của một hoặc một số thành viên hộ gia đình là người thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ chỉ được quy định trong văn bản hướng dẫn nghiệp vụ của Tổng cục THADS Cơ quan THADS hướng dẫn người dân thực hiện quyền khiếu nại đối với bản án, quyết định của Tòa án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình Đồng thời, cơ quan này cũng có trách nhiệm kiến nghị Tòa án có thẩm quyền xem xét lại bản án, quyết định đang được thi hành Nếu đã có kiến nghị nhưng Tòa án không xem xét trong thời hạn quy định, cơ quan THADS sẽ báo cáo lên Tổng cục.
THADS cần xin ý kiến chỉ đạo cho từng vụ việc cụ thể, tuy nhiên hướng dẫn hiện tại chưa đảm bảo tính pháp lý cao và hiệu quả thực thi còn hạn chế Đề nghị sửa đổi, bổ sung điều 74 Luật THADS sửa đổi năm 2014 để bổ sung khoản xử lý tài sản chung của hộ gia đình đã thế chấp Theo đó, khi có bản án hoặc quyết định tuyên xử lý bảo đảm thi hành án, chấp hành viên có quyền kê biên và xử lý tài sản, đồng thời các tranh chấp giữa các thành viên trong hộ gia đình sẽ do Tòa án giải quyết, và chấp hành viên sẽ thực hiện xử lý tài sản theo quyết định của Tòa án.
Luật THADS quy định rằng trong trường hợp hợp đồng thế chấp chỉ liên quan đến quyền sử dụng đất (QSDĐ) mà không bao gồm tài sản gắn liền với đất, nhưng người sử dụng đất cũng là chủ sở hữu tài sản đó, thì khi kê biên QSDĐ, tài sản gắn liền cũng sẽ bị kê biên Tuy nhiên, luật không quy định rõ ràng về việc xử lý số tiền thu được từ việc bán tài sản không thế chấp, dẫn đến sự khác biệt trong cách giải quyết tại các địa phương Do đó, cần kiến nghị sửa đổi, bổ sung khoản 2 điều 113 Luật THADS để quy định rõ về việc xử lý số tiền thu được từ việc bán tài sản không thế chấp, đảm bảo hoàn lại giá trị tài sản không thế chấp cho chủ sở hữu, trừ trường hợp có quy định hoặc thỏa thuận khác.
Tài sản thế chấp là động sản mà bên thế chấp không cần chuyển giao cho bên nhận thế chấp, điều này làm cho việc kiểm soát tài sản trở nên khó khăn và ảnh hưởng đến khả năng thu hồi nợ của tổ chức tín dụng Do đó, cần thiết phải bổ sung Khoản 8 Điều 320 Bộ luật Dân sự để cải thiện quy định này.
2015 quy định rõ hơn trách nhiệm pháp lý của bên thế chấp khi mua, bán, trao đổi, cất giấu tài sản thế chấp để trốn tránh nghĩa vụ
Tòa án nhân dân tối cao đã chỉ đạo các Tòa án thực hiện nghiêm quy định tại điều 179 Luật THADS, yêu cầu bản án và quyết định phải rõ ràng, chính xác và phù hợp thực tế Nếu bản án không rõ ràng, cần có văn bản giải thích trong vòng 15 ngày sau khi nhận yêu cầu Trong trường hợp bản án vi phạm tố tụng, các kiến nghị phải được xem xét và trả lời trong 90 ngày Tuy nhiên, việc đính chính, giải thích và xem xét lại bản án hiện nay còn chậm, gây khó khăn trong tổ chức thi hành án và dẫn đến khiếu nại.
28 Điều 170 Luật THADS năm 2008 sửa đổi, bổ sung năm 2014
Bộ, ngành liên quan đang nghiên cứu xây dựng báo cáo Chính phủ trình Quốc hội ban hành Luật về đăng ký và quản lý tài sản Mục tiêu của luật này là kiểm soát tài sản cá nhân và doanh nghiệp, từ đó quản lý tài sản thế chấp hiệu quả hơn Điều này sẽ giúp khắc phục tình trạng tẩu tán tài sản, giảm thiểu khó khăn trong việc truy tìm tài sản thế chấp, đồng thời tiết kiệm chi phí và thời gian cho quá trình truy tìm.
Bộ, ngành và ủy ban nhân dân các cấp cần tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật để nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật của người dân, góp phần quan trọng vào việc tự giác chấp hành pháp luật, đặc biệt trong lĩnh vực thi hành án Tác giả đồng tình với kiến nghị của Trần Thị Xuân Lan về việc đưa pháp luật vào giảng dạy trong trường học từ bậc tiểu học đến đại học, giúp học sinh, sinh viên hiểu biết về quyền và nghĩa vụ công dân Điều này sẽ hình thành ý thức chấp hành pháp luật ngay từ khi còn học ở trường, giúp họ trở thành công dân tốt và có trách nhiệm thực hiện đúng pháp luật trong tương lai, đồng thời tác động tích cực đến gia đình và người thân.
29 Luận văn thạc sĩ luật học năm 2018 của tác giả Trần Thị Xuân Lan, Trường Đại học kinh tế luật
“Thực trạng áp dụng pháp luật về kê biên tài sản để đảm bảo thi hành án tại tỉnh Bến Tre” trang 41
Áp dụng pháp luật thi hành án dân sự (THADS) để xử lý tài sản thế chấp trong việc thi hành án liên quan đến nợ xấu tại các cơ quan THADS hiện đang gặp nhiều khó khăn và vướng mắc do sự chồng chéo giữa các quy định pháp luật Để nâng cao hiệu quả xử lý tài sản thế chấp, cần sửa đổi và bổ sung các quy định của pháp luật THADS, Nghị quyết số 42 của Quốc hội và các luật liên quan nhằm tạo ra hành lang pháp lý thống nhất và khả thi Đồng thời, việc tăng cường tuyên truyền, giáo dục pháp luật và nâng cao trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan cũng là điều cần thiết Các cơ quan THADS cần nỗ lực khắc phục các hạn chế trong việc xử lý tài sản thế chấp để đảm bảo thi hành án hiệu quả hơn.
Trong nghiên cứu về việc áp dụng pháp luật thi hành án dân sự liên quan đến tài sản thế chấp ngân hàng tại Bến Tre, tác giả đã phân tích những khó khăn và vướng mắc trong thực tiễn Mục tiêu là làm rõ những vấn đề chưa đồng bộ và đề xuất giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật, nâng cao trách nhiệm thực thi công vụ cũng như nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân liên quan trong thi hành án.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
A VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT
1 Quốc hội (2013), Luật đất đai số 45/2013/QH13 ngày 29/11/2013
2 Quốc hội (2014), Luật số 64/2014/QH13 ngày 25/11/2014 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự
3 Quốc hội (2015), Bộ luật dân sự số 92/2015/QH13 ngày 25/11/2015
4 Quốc hội (2016), Luật Đấu giá tài sản số 01/2016/QH 13 ngày 17/11/2016
5 Quốc hội (2017), Luật số 17/2017/QH 13 ngày 20/11/2017 sửa đổi bổ sung một số điều của luật các tổ chức, tín dụng
6 Quốc hội (2017), Nghị quyết số 42/2017/QH14 ngày 21/6/2017 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng, Hà Nội
7 Chính phủ (2015), Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của
Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thi hành án dân sự, Hà Nội
8 Chính phủ (2020), Nghị định 33/2020/NĐ-CP ngày 17/3/2020 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thi hành án dân sự, Hà Nội
9 Thủ tướng Chính phủ (2017), Chỉ thị số 32/CT-TTg ngày 19/7/2017 của Chính phủ triển khai thực hiện Nghị quyết số 42/2007/QH14 ngày 21/6/2017 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng