LÝ DO CH ỌN ĐỀ TÀI
Khiếu nại và tố cáo là quyền cơ bản của công dân, được ghi nhận trong Hiến pháp, nhằm bảo vệ quyền lợi của họ trước những xâm phạm Đây là công cụ pháp lý quan trọng, thể hiện bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Khiếu nại và tố cáo là hiện tượng xã hội quan trọng trong quản lý hành chính nhà nước, đóng vai trò như một kênh thông tin khách quan Chúng phản ánh việc thực thi quyền lực của bộ máy nhà nước và tình hình thực hiện công vụ của cán bộ, công chức.
Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo đóng vai trò quan trọng trong quản lý nhà nước, đồng thời thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Giải quyết khiếu nại và tố cáo giúp Đảng và Nhà nước kiểm tra tính chính xác và sự phù hợp của các đường lối, chính sách, pháp luật đã ban hành Qua đó, tạo cơ sở thực tiễn để nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng và quản lý Nhà nước.
Vì vậy, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân là một vấn đề được Đảng, Nhà nước và nhân dân đặc biệt quan tâm
Trong quản lý đất đai, khiếu nại và tố cáo về đất đai ngày càng phổ biến, đặc biệt trong bối cảnh chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường Việc Nhà nước thực hiện cơ chế đất có giá và giao đất, cho thuê đất phi nông nghiệp đã dẫn đến sự gia tăng về số lượng và tính chất phức tạp của các vụ khiếu nại Nhiều vụ việc đông người kéo đến trụ sở tiếp công dân của trung ương Đảng và Nhà nước đã gây ảnh hưởng lớn đến trật tự an ninh, tổn thất kinh tế, cũng như tác động đến tình hình chính trị và văn hóa xã hội của đất nước.
Hiện nay, tình hình khiếu nại, tố cáo tại Đà Nẵng và cả nước đang diễn ra phức tạp, với số lượng đơn thư khiếu nại, tố cáo tăng hàng năm Đặc biệt, lĩnh vực đất đai và giải phóng mặt bằng chiếm hơn 91% tổng số đơn thư, cho thấy sự gia tăng đáng kể trong các vấn đề liên quan đến quyền sử dụng đất.
Trong những năm gần đây, các vụ khiếu nại và tố cáo về đất đai trở nên gay gắt và kéo dài, với nhiều trường hợp khiếu nại đông người và vượt cấp đến các cơ quan Trung ương, tỉnh và nhà riêng của lãnh đạo Một số vụ việc đã vi phạm pháp luật hình sự, trong khi có những công dân liên tục khiếu nại, tố cáo không đúng sự thật và lôi kéo người khác tham gia vào các vụ khiếu nại kéo dài từ thời điểm trước khi tỉnh Quảng được chia tách.
Tình hình tại Nam – Đà Nẵng hiện nay đang tác động đến sự ổn định chính trị và xã hội, dẫn đến việc giảm hiệu quả trong quản lý nhà nước.
Từ năm 2010 đến 2014, hoạt động thi hành pháp luật về khiếu nại, tố cáo đất đai tại Đà Nẵng đã đạt được những kết quả nhất định, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước Tuy nhiên, vẫn còn nhiều hạn chế, như một số cơ quan và lãnh đạo chưa nhận thức đầy đủ về trách nhiệm trong giải quyết khiếu nại, dẫn đến chất lượng thi hành pháp luật thấp và nhiều vụ việc giải quyết sai Vi phạm quy định về thẩm quyền, trình tự và thời hạn giải quyết vẫn xảy ra, cùng với việc chậm thi hành các quyết định đã có hiệu lực Công tác thanh tra và kỷ luật hành chính trong lĩnh vực này cũng chưa được chú trọng đúng mức Để nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng đất đai, cần hoàn thiện cơ chế giải quyết khiếu nại, tố cáo Nghiên cứu và đánh giá công tác thi hành pháp luật trong lĩnh vực này là cần thiết, không chỉ giúp Nhà nước thiết lập cơ chế hiệu quả mà còn đóng góp vào việc hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật đất đai trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Dựa trên các quy định của pháp luật về đất đai, khiếu nại và tố cáo, cùng với thực tiễn thi hành pháp luật liên quan đến khiếu nại và tố cáo về đất đai tại thành phố Đà Nẵng, tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu cho Luận văn thạc sỹ với tiêu đề: “Thực trạng và đề xuất giải pháp giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai tại thành phố Đà Nẵng” nhằm mục đích đổi mới và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về đất đai trong khu vực.
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
M ụ c tiêu chung
Nghiên cứu này tập trung vào việc phân tích các khiếu nại và tố cáo liên quan đến đất đai tại thành phố Đà Nẵng, đồng thời đánh giá thực trạng công tác giải quyết các vấn đề này trong giai đoạn từ 2010 đến 2014 Kết quả nghiên cứu nhằm cung cấp cái nhìn tổng quan về tình hình khiếu nại, tố cáo đất đai, từ đó đề xuất các giải pháp cải thiện hiệu quả giải quyết khiếu nại trong tương lai.
M ụ c tiêu c ụ th ể
Tình hình kinh tế xã hội, an ninh và chính trị tại thành phố Đà Nẵng có ảnh hưởng sâu sắc đến các khiếu nại và tố cáo liên quan đến đất đai Những yếu tố này không chỉ tác động đến nhận thức của người dân về quyền lợi đất đai mà còn ảnh hưởng đến quy trình giải quyết các khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực này Do đó, việc cải thiện tình hình kinh tế và an ninh chính trị là cần thiết để nâng cao hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại về đất đai trên địa bàn thành phố.
- Tình hình khiếu nại, tố cáo giai đoạn từ 2010-2014
- Công tác thi hành pháp luật giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai trong công tác quản lý nhà nước về đất đai giai đoạn từ 2010-2014
- Đánh giá và đề xuất những giải pháp chủ yếu để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thi hành pháp luật giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN
Ý nghĩa khoa họ c
Hệ thống pháp luật hiện hành về khiếu nại và tố cáo liên quan đến đất đai đang gặp nhiều vướng mắc và bất cập, ảnh hưởng đến quyền lợi của người dân Để hoàn thiện hệ thống này, cần đề xuất sửa đổi và bổ sung các quy định pháp lý, nhằm nâng cao tính minh bạch và hiệu quả trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo Việc cải cách các quy trình và thủ tục sẽ giúp bảo vệ quyền lợi hợp pháp của công dân, đồng thời tăng cường trách nhiệm của các cơ quan chức năng trong việc xử lý các vấn đề liên quan đến đất đai.
Ý nghĩa thực tiễn
- Đánh giá tình hình khiếu nại, tố cáo về đất đai
- Thực và thực trạng công tác thi hành pháp luật giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất.
- Những bài học kinh nghiệm.
- Đề xuất các giải pháp.
T Ổ NG QUAN CÁC V ẤN ĐỀ NGHIÊN C Ứ U
CƠ SỞ LÝ LU Ậ N V ẤN ĐỀ NGHIÊN C Ứ U
1.1.1 Khái niệm và vai trò quan hệ về đất đai Đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành phần quan trọng của môi trường sống, là địa bàn phân bố các khu dân cư, cơ sở kinh tế, chính trị, văn hóa, an ninh quốc phòng, là nguồn nội lực to lớn của đất nước Đất đai gắn liền với hoạt động sản xuất, đời sống của con người, gắn liền với chủ quyền, lãnh thổ của một quốc gia, nhà nước nhất định. Đất đai là tặng vật của thiên nhiên cho không loài người, không phải do con người làm ra Đất đai là yếu tố cấu thành nên lãnh thổ của một quốc gia Đất đai được cố định bỡi mặt số lượng.Mỗi quốc gia, mỗi vùng địa lý có những đặc trưng khác nhau về khí hậu, địa hình… thì tính chất đất cũng khác nhau)[11] Đất đai là sản phẩm tự nhiên nhưng nó chứa đựng những yếu tố lao động sống và lao động vật hóa của con người.
Hiến pháp Việt Nam năm 1992 quy định rằng đất đai, rừng núi, sông hồ, và tài nguyên thiên nhiên thuộc sở hữu của toàn dân Theo Luật Đất đai năm 2003, đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu Đất đai không chỉ là môi trường sống mà còn bao gồm các nguồn lợi tự nhiên như khí hậu, nước, không khí và khoáng sản Đất đai là công cụ lao động chung, cần thiết cho mọi quá trình sản xuất Mặc dù đất đai thuộc sở hữu toàn dân, các tổ chức, cộng đồng và cá nhân chỉ có quyền sử dụng đất, không phải quyền sở hữu.
Nhà nước đại diện cho quyền sở hữu toàn dân đối với đất đai, với quyền sở hữu này là duy nhất và tuyệt đối, bao trùm tất cả các hình thức sử dụng đất mà không cho phép hình thức sở hữu nào khác tồn tại Việc sử dụng đất của tổ chức, cộng đồng và cá nhân cần tuân thủ quy hoạch, kế hoạch và mục đích sử dụng, đồng thời bảo vệ môi trường Đất đai, là tư liệu sản xuất đặc biệt, phản ánh sự đầu tư lao động và công sức của người dân, vì vậy người sử dụng đất phải cụ thể và được hưởng lợi ích thiết thực Chế độ sở hữu toàn dân về đất đai yêu cầu nhà nước can thiệp và quản lý thống nhất, đảm bảo sự hài hòa giữa quyền lực của nhà nước và quyền lợi của người sử dụng đất Đất đai không chỉ là tài nguyên quý giá mà còn là lãnh thổ quốc gia, đòi hỏi trách nhiệm bảo vệ từ nhà nước và mọi công dân.
Trên toàn quốc các tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai chiếm từ 50-60% tổng số đơn thư tiếp nhận[15]
Theo chế độ sở hữu toàn dân về đất đai, người sử dụng đất bao gồm tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân, đơn vị lực lượng vũ trang, cơ quan nhà nước và tổ chức chính trị, xã hội Nhà nước bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người sử dụng đất, cho phép họ chuyển nhượng, chuyển đổi, thừa kế, thế chấp và bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất Đồng thời, người sử dụng đất có trách nhiệm bảo vệ, cải tạo, bồi dưỡng và sử dụng đất một cách hợp lý và hiệu quả.
1.1.2 Khiếu nại và giải quyết khiếu nại
Khiếu nại là hành động phàn nàn, phản ứng hoặc thể hiện sự bất bình của một cá nhân liên quan đến vấn đề ảnh hưởng đến quyền lợi của họ.
Việt thì khiếu nại là “đề nghị cơ quan có thẩm quyền xét một việc làm mà mình không đồng ý, cho là trái phép hay không hợp lý” [28]
Theo cuốn sách “3450 thuật ngữ pháp lý phổ thông”, khiếu nại được định nghĩa là yêu cầu của công dân gửi đến cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội hoặc cá nhân có thẩm quyền nhằm giải quyết các vi phạm liên quan đến quyền lợi hợp pháp của bản thân hoặc của người khác.
Theo Từ điển tiếng Việt của Nguyễn Như Ý, khiếu nại được định nghĩa là việc bày tỏ thắc mắc hoặc đề nghị xem xét lại các kết luận và quyết định đã được cấp có thẩm quyền ban hành.
Khiếu nại được quy định trong Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998, định nghĩa rằng khiếu nại là hành động của công dân, cơ quan tổ chức, hoặc cán bộ, công chức, theo thủ tục luật định, yêu cầu cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính hoặc quyết định kỷ luật, khi có căn cứ cho rằng những quyết định hoặc hành vi đó vi phạm pháp luật và xâm phạm quyền lợi hợp pháp của họ.
Khái niệm khiếu nại trong quản lý hành chính nhà nước chỉ áp dụng cho các khiếu nại liên quan đến quyết định và hành vi hành chính Theo Luật Khiếu nại năm 2011, Điều 2 quy định rằng đối tượng của khiếu nại bao gồm quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan nhà nước và người có thẩm quyền, cũng như các quyết định kỷ luật đối với cán bộ, công chức.
Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998 và các sửa đổi, bổ sung năm 2004, 2005 quy định rằng quyết định hành chính phải được lập bằng văn bản Tuy nhiên, Luật Khiếu nại 2011 đã mở rộng khái niệm "quyết định hành chính" để bao gồm các văn bản do cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan này ban hành, nhằm quyết định về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước, áp dụng một lần cho một hoặc một số đối tượng cụ thể.
Giải quyết khiếu nại là quá trình xác minh, kết luận và đưa ra quyết định của người có thẩm quyền Hoạt động này của cơ quan hành chính nhà nước bao gồm việc kiểm tra và xác minh tính hợp pháp, hợp lý của các quyết định và hành vi hành chính bị khiếu nại Mục tiêu là đảm bảo quyền lợi hợp pháp của công dân, tổ chức và bảo vệ lợi ích chung của Nhà nước và xã hội, theo quy định của pháp luật.
1.1.3 Tố cáo và giải quyết tố cáo
Tố cáo, theo từ điển tiếng Việt, được định nghĩa là việc thông báo cho mọi người hoặc cơ quan có thẩm quyền về một người hoặc hành động phạm pháp Trong xã hội, tố cáo thể hiện sự bất bình của cá nhân đối với hành vi sai trái của người khác, nhằm thông báo cho các cơ quan, tổ chức và cộng đồng để có biện pháp giải quyết thích hợp.
Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998 lần đầu tiên định nghĩa về tố cáo trong pháp luật Việt Nam Theo đó, tố cáo được hiểu là hành động của công dân thông qua thủ tục quy định trong luật, nhằm thông báo cho cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền về các hành vi vi phạm pháp luật của bất kỳ tổ chức, cá nhân nào Những hành vi này có thể gây thiệt hại hoặc đe dọa đến lợi ích của Nhà nước, cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức.
Hành vi vi phạm pháp luật rất đa dạng và phức tạp, có thể xảy ra từ nhiều chủ thể khác nhau, với mức độ và tính chất vi phạm khác nhau, ảnh hưởng đến các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ Để đảm bảo trật tự xã hội, cần phát hiện và xử lý kịp thời các hành vi này Nhà nước cần xây dựng cơ chế khuyến khích người dân tố cáo và phản ánh về các vi phạm pháp luật, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc bảo vệ quyền lợi và an ninh cộng đồng.
Dựa trên quy định của Hiến pháp, Nhà nước Việt Nam đã ban hành Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998 và sửa đổi, bổ sung vào các năm 2004, 2005, cùng với việc ban hành Luật tố cáo riêng năm 2011, tạo thành hệ thống pháp luật đồng bộ về tố cáo và giải quyết tố cáo Tuy nhiên, nội dung của Luật khiếu nại, tố cáo chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu thực tiễn trong việc giải quyết các tố cáo phát sinh Để khắc phục tình trạng này, Luật tố cáo đã mở rộng phạm vi điều chỉnh, phân định rõ hành vi vi phạm pháp luật và đối tượng bị tố cáo, bao gồm tố cáo hành vi vi phạm của cán bộ, công chức, viên chức và các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong quản lý nhà nước Luật cũng bổ sung nhiều quy định mới về quyền và nghĩa vụ của người tố cáo, người bị tố cáo, và người giải quyết tố cáo, đồng thời công khai kết luận nội dung tố cáo và bảo vệ người tố cáo, nhằm tăng cường tính công khai, minh bạch và trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền trong việc giải quyết tố cáo, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác này.
CƠ SỞ TH Ự C TI Ễ N V Ề KHI Ế U N Ạ I, T Ố CÁO Ở VI Ệ T NAM VÀ TH Ế GI Ớ I
1.2.1 Thực tiễn về khiếu nại, tố cáo ở Việt Nam
1 2.1.1 Khiếu nại và tố cáo a Khiếu nại
Luật Khiếu nại đã làm rõ phạm vi điều chỉnh nhằm cụ thể hóa quyền khiếu nại theo Hiến pháp năm 1992 và sửa đổi năm 2001 Điều 1 quy định về khiếu nại và giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan nhà nước, cũng như quyết định kỷ luật cán bộ, công chức Luật cũng nhấn mạnh việc tiếp công dân và quản lý, giám sát công tác giải quyết khiếu nại Để bảo đảm quyền khiếu nại của công dân theo Điều 74 của Hiến pháp và phù hợp với Luật Tố tụng hành chính năm 2010, Điều 3 quy định cụ thể về áp dụng pháp luật liên quan đến khiếu nại và giải quyết khiếu nại.
Theo Luật Khiếu nại, tố cáo, "Quyết định hành chính" là văn bản do cơ quan hành chính nhà nước hoặc cá nhân có thẩm quyền ban hành, áp dụng một lần cho một hoặc một số đối tượng cụ thể liên quan đến vấn đề trong quản lý hành chính (Khoản 10, Điều 2).
Quy định về thuật ngữ trên của Luật khiếu nại, tố cáo dẫn đến thực tế có nhiều cách hiểu khác nhau về “quyết định hành chính” Đó là:
Quyết định hành chính là văn bản được ban hành bởi cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền, áp dụng một lần cho một hoặc một số đối tượng cụ thể về vấn đề quản lý hành chính Các văn bản khác như kết luận, thông báo hay công văn không được coi là quyết định hành chính và không thuộc đối tượng khiếu nại.
Quyết định hành chính bao gồm văn bản dưới dạng Quyết định và các hình thức khác, được ban hành bởi cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan này.
Văn bản của cơ quan nhà nước không được thể hiện dưới hình thức Quyết định nhưng vẫn chứa đựng nội dung quản lý hành chính nhà nước sẽ không được xem là quyết định hành chính, mà được coi là hành vi hành chính.
Việc thi hành và giải quyết khiếu nại hiện nay gặp khó khăn do các cách hiểu khác nhau, dẫn đến sự không thống nhất trong thực tiễn Để khắc phục tình trạng này, cần có những biện pháp phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả trong việc xử lý khiếu nại.
Luật Tố tụng hành chính năm 2010 và Luật Khiếu nại đã xác định rõ ràng về quyết định hành chính là đối tượng khiếu nại Cụ thể, quyết định hành chính là văn bản do cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền ban hành, nhằm quyết định về một vấn đề cụ thể trong quản lý hành chính, áp dụng một lần cho một hoặc một số đối tượng cụ thể (Khoản 8, Điều 2).
Theo Luật Khiếu nại, tố cáo, khi có căn cứ cho rằng quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính vi phạm pháp luật và xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, người khiếu nại phải thực hiện khiếu nại lần đầu với người đã ra quyết định hoặc cơ quan có cán bộ, công chức thực hiện hành vi đó (Điều 30).
Quy định này đã làm giảm quyền khởi kiện vụ án hành chính của công dân tại Toà án Để khắc phục tình trạng này, Điều 7, Khoản 1 của Luật Khiếu nại đã được ban hành nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của công dân.
Người khiếu nại có quyền gửi khiếu nại lần đầu đến cơ quan đã ra quyết định hành chính hoặc có hành vi hành chính, hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật tố tụng hành chính Điều này cho phép người khiếu nại không chỉ giới hạn việc khiếu nại với cơ quan có quyết định hoặc hành vi bị khiếu nại như trước đây Ngoài ra, việc khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án có thể được thực hiện ở bất kỳ giai đoạn nào trong quá trình giải quyết khiếu nại.
Quy định trình tự khiếu nại giúp người dân dễ dàng lựa chọn hình thức giải quyết khiếu kiện, bảo vệ quyền tự sửa chữa của các cá nhân có quyết định hành chính khi bị khiếu nại Điều này cũng tạo ra cơ chế giải quyết khiếu nại khách quan, dân chủ, kịp thời và hiệu quả hơn.
Tình trạng khiếu nại của người dân ngày càng phổ biến, yêu cầu Nhà nước cần có biện pháp xem xét và giải quyết để đảm bảo ổn định tình hình chính trị - xã hội Để hỗ trợ các cơ quan, đơn vị trong việc xử lý loại khiếu nại này, Luật đã được ban hành nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn.
Khiếu nại đã quy định mới tại Khoản 4, 5, Điều 8, Chương II, Chương III và Chương
V về việc khiếu nại nhiều người với các quy định: nhiều người đến khiếu nại trực tiếp
Theo Khoản 4, Điều 8, nhiều người có quyền khiếu nại thông qua đơn (Khoản 5, Điều 8) và có thể chỉ định đại diện cho nhóm khiếu nại (Khoản 4, Điều 60) Địa điểm để công dân thực hiện và giải quyết khiếu nại tập thể được quy định trong Chương V, cùng với quyết định giải quyết khiếu nại theo Khoản 3, Điều 31 Trình tự và thủ tục giải quyết khiếu nại tập thể vẫn tuân theo quy định chung như đối với từng cá nhân.
Theo Điều 32 của Luật Khiếu nại, tố cáo, ngoài những khiếu nại không được thụ lý, luật còn quy định thêm một số trường hợp cụ thể khiếu nại không được giải quyết.
Quyết định hành chính và hành vi hành chính trong nội bộ cơ quan nhà nước là cần thiết để chỉ đạo và tổ chức thực hiện nhiệm vụ công vụ Chúng cũng bao gồm quyết định hành chính trong mối quan hệ giữa cơ quan hành chính cấp trên và cấp dưới Những quyết định này chứa đựng các quy phạm pháp luật do các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền ban hành theo đúng trình tự, thủ tục luật định Ngoài ra, quyết định hành chính và hành vi hành chính còn liên quan đến các lĩnh vực bí mật nhà nước như quốc phòng, an ninh và ngoại giao, được quy định trong danh mục cụ thể.
- Đơn khiếu nại không có chữ ký hoặc điểm chỉ của người khiếu nại.
- Có văn bản thông báo đình chỉ việc giải quyết khiếu nại mà sau 30 ngày người khiếu nại không tiếp tục khiếu nại.
Việc bổ sung quy định mới này nhằm thống nhất với Luật Cán bộ công chức năm
CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN C Ứ U CÓ LIÊN QUAN
Hiện nay, có nhiều nghiên cứu tập trung vào lĩnh vực khiếu nại tố cáo và đất đai, trong đó một số công trình đã đề xuất các giải pháp liên quan đến thẩm quyền, trình tự và thủ tục giải quyết khiếu nại tố cáo Điển hình là đề tài "Thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan hành chính nhà nước" của tác giả Nguyễn Thị Minh Hà, thuộc Luận văn Thạc sĩ Luật học tại Trường Đại học.
Đề tài đã phân tích rõ thẩm quyền của các cơ quan hành chính nhà nước trong việc giải quyết khiếu nại hành chính, đồng thời đưa ra những giải pháp hiệu quả Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng chỉ ra các bất cập trong việc áp dụng các quy định pháp luật liên quan.
Tác giả Vũ Thị Vân Dung (2012) đã phân tích thực trạng công tác giải quyết khiếu nại tố cáo của cơ quan hành chính nhà nước tại tỉnh Hà Nam, chỉ ra các ưu và nhược điểm trong quy trình này Từ đó, tác giả đề xuất các giải pháp tổ chức và pháp lý, bao gồm việc nắm vững tư tưởng chỉ đạo của Đảng, nâng cao năng lực chuyên môn và ý thức trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức Đồng thời, đề tài “Thủ tục giải quyết khiếu nại của các cơ quan hành chính nhà nước – một số vấn đề lý luận và thực tiễn tại thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên” của Nguyễn Thị cũng góp phần làm rõ những vấn đề này.
Thúy Hồng (2010) đã nghiên cứu sâu về lý luận thủ tục hành chính, nhấn mạnh vai trò quan trọng của thủ tục giải quyết khiếu nại tố cáo trong việc nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại của các cơ quan hành chính nhà nước.
Tác giả Nguyễn Thị Thu Hương (2011) đã nghiên cứu thẩm quyền giải quyết khiếu nại đất đai của cơ quan hành chính nhà nước tại Hà Nội, phân tích lý luận và thực tiễn, đồng thời chỉ ra những hạn chế trong công tác này Đề tài “Cơ chế giải quyết khiếu nại tố cáo” do Hoàng Ngọc Giao chủ biên đã tổng hợp ý kiến độc lập về cơ chế giải quyết khiếu nại, đánh giá thực trạng và hiệu quả của nó đối với quyền lợi của công dân và doanh nghiệp trong quản lý nhà nước.
Bài viết "Đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo và tranh chấp đất đai trên địa bàn tỉnh Quảng Bình" tập trung vào việc phân tích tình hình hiện tại liên quan đến khiếu nại và tranh chấp đất đai tại Quảng Bình Tác giả đưa ra những giải pháp cụ thể nhằm cải thiện quy trình giải quyết các vấn đề này, từ đó nâng cao hiệu quả và đảm bảo quyền lợi cho người dân.
Theo Trần Kim Anh (2013), công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo và tranh chấp đất đai tại tỉnh Quảng Bình trong giai đoạn 2004 – 2012 đã đạt được kết quả đáng khích lệ.
Tỷ lệ giải quyết khiếu nại, tố cáo và tranh chấp đất đai hàng năm tại Quảng Bình đạt
Mặc dù đạt 92%, công tác lãnh đạo và thực hiện giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế và bất cập Điều này dẫn đến một số vụ việc bị giải quyết quá hạn, hiệu quả chưa cao, và việc thi hành quyết định giải quyết khiếu nại gặp nhiều vướng mắc Đề tài “Giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai qua thực tiễn tại tỉnh Thừa Thiên Huế” của tác giả Bùi Thị Thuận Ánh, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật - Đại học, sẽ làm rõ những vấn đề này.
Quốc gia Hà Nội), đề tài đã đánh gia thực tế công tác giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực dất đai