1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Luận văn thạc sĩ nền kinh tế không dùng tiền mặt và những tác động của nền kinh tế không dùng tiền mặt ở việt nam

77 12 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Nền Kinh Tế Không Dùng Tiền Mặt Và Những Tác Động Của Nền Kinh Tế Không Dùng Tiền Mặt Ở Việt Nam
Tác giả Châu Thanh Hảo
Người hướng dẫn PGS.TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo
Trường học Trường Đại Học Kinh Tế Tp. Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Tài Chính – Ngân Hàng
Thể loại luận văn thạc sĩ
Năm xuất bản 2018
Thành phố Tp. Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 77
Dung lượng 3,73 MB

Cấu trúc

  • tháng 5 năm 2018 (0)
  • CHƯƠNG 1: (10)
    • 1.1. Mục tiêu nghiên cứu - Lý do nghiên cứu (10)
      • 1.1.1. Mục tiêu nghiên cứu (10)
      • 1.1.2. Lý do nghiên cứu (10)
    • 1.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu (12)
    • 1.3. Phương pháp tiếp cận (12)
    • 1.4. Ý nghĩa của nghiên cứu này (12)
    • 1.5. Cấu trúc của luận văn (13)
  • CHƯƠNG 2: (13)
    • 2.1. Lịch sử của hệ thống tiền tệ (15)
    • 2.2. Lịch sử về hình thái tiền tệ (16)
    • 2.3. Vai trò của tiền tệ trong nền kinh tế (19)
    • 2.4. Khung lý thuyết và tổng quan các nghiên cứu (22)
    • 2.5. Hệ thống tiền tệ sử dụng và không sử dụng tiền mặt, ưu nhược điểm (28)
  • CHƯƠNG 3: (13)
    • 3.1. Ngân hàng Nhà nước (Ngân hàng Trung ương) (31)
    • 3.2. Hệ thống lưu thông tiền tệ trong nền kinh tế hiện nay (31)
    • 3.2. Những bất cập (33)
  • CHƯƠNG 4: (13)
    • 4.1. Khái niệm (35)
    • 4.2. Mô hình lưu thông tiền tệ không dùng tiền mặt trong nền kinh tế (36)
      • 4.2.1. Hình thức, vai trò và chức năng của các chủ thể (36)
      • 4.2.2. Lưu thông tiền tệ giữa các chủ thể (37)
      • 4.2.3. Phương tiện lưu thông tiền tệ giữa các chủ thể (41)
    • 4.3. Các giải pháp để xây dựng nền kinh tế không dùng tiền mặt (45)
      • 4.3.1. Xây dựng hành lang pháp lý (45)
      • 4.3.2. Biện pháp hạn chế lưu thông vàng trong nền kinh tế (45)
      • 4.3.3. Biện pháp hạn chế lưu thông ngoại tệ trong nền kinh tế (46)
      • 4.3.4. Vai trò và hoạt động của Ngân hàng Thương mại trong nền kinh tế không dùng tiền mặt (46)
    • 4.4. Tốc độ lưu thông của tiền tệ trong nền kinh tế không sử dụng tiền mặt ở Việt Nam (47)
    • 4.5. Tiền thân của nền kinh tế không sử dụng tiền mặt ở Việt Nam (49)
    • 4.6. Thống kê phương tiện thanh toán trong nền kinh tế hiện nay ở Việt Nam (50)
    • 4.7. Thống kê tình hình sử dụng tiền mặt và các phương tiện thanh toán khác trong nền (52)
    • 4.8. Sự khác biệt giữa nền kinh tế có sử dụng tiền mặt hiện nay và nền kinh tế không sử dụng tiền mặt (54)
  • CHƯƠNG 5: (14)
    • 5.1.1. Tác động về mặt kinh tế (58)
    • 5.1.2. Tác động về mặt chính trị (58)
    • 5.1.3. Tác động về mặt xã hội (58)
    • 5.2. Những tác động tích cực của nền kinh tế không dùng tiền mặt ở Việt Nam (58)
      • 5.2.1. Tác động về mặt kinh tế (58)
      • 5.2.2. Tác động về mặt chính trị (59)
      • 5.2.3. Tác động về mặt xã hội (60)
    • 5.3. Những hạn chế của đề tài (61)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (77)

Nội dung

Mục tiêu nghiên cứu - Lý do nghiên cứu

Xây dựng nền kinh tế không sử dụng tiền mặt là phương pháp hiệu quả để phát triển đất nước, minh bạch hóa giao dịch xã hội và tạo ra một xã hội văn minh hơn Điều này không chỉ nâng cao tính hiệu quả và tiện lợi trong các hoạt động xã hội mà còn giúp tối ưu hóa việc sử dụng nguồn lực, từ đó kiểm soát toàn diện các hoạt động trong xã hội.

Hiệu quả lưu thông tiền tệ trong nền kinh tế có tác động sâu rộng đến mọi lĩnh vực xã hội, vì vậy việc kiểm soát dòng tiền trở thành một nhiệm vụ cấp thiết mà các quốc gia cần chú trọng.

Mục tiêu của đề tài là nghiên cứu quá trình lưu thông tiền tệ trong nền kinh tế hiện nay, phân tích những ưu điểm và bất cập mà nó mang lại cho xã hội và nền kinh tế Từ đó, đề xuất xây dựng một mô hình lưu thông tiền tệ nhằm khắc phục những nhược điểm hiện tại, đồng thời nâng cao khả năng kiểm soát và quản lý tiền tệ trong nền kinh tế.

Tiền tệ đã tồn tại qua nhiều hình thái trong lịch sử nhân loại, đóng vai trò quan trọng trong đời sống con người Nó không chỉ là phương tiện thanh toán cho việc trao đổi hàng hóa và dịch vụ, mà còn là công cụ để cất trữ và thước đo giá trị.

Từ những ngày đầu của nền văn minh, con người đã sử dụng nhiều hình thức tiền tệ như da, răng động vật, vỏ ốc sên, dụng cụ lao động thô sơ, muối, hạt xâu chuỗi, lương thực, vũ khí, thuốc lá và hạt ca cao Đến thế kỷ thứ 7 trước Công nguyên, đồng tiền kim loại đầu tiên đã được hình thành tại miền tây Thổ Nhĩ Kỳ, đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong lịch sử tiền tệ.

Vì thiếu kim loại đồng để sản xuất tiền xu, Trung Quốc đã trở thành quốc gia đầu tiên trên thế giới phát hành tiền giấy vào khoảng thế kỷ thứ 9.

Vào những năm 1500 tại Cộng Hòa Séc ngày nay đồng giấy bạc Thaler ra đời là tiền thân của đồng Đô La ngày nay (theo American Numismatic Association, “The

Trong bối cảnh công nghệ thông tin phát triển, tiền tệ hiện đại chủ yếu tồn tại dưới dạng số liệu điện tử trong hệ thống máy tính Mặc dù vẫn có các hình thức như đồng xu, giấy bạc và vàng, nhưng những hình thức này gặp nhiều hạn chế như chi phí phát hành và lưu thông cao, cũng như tình trạng tiền giả và khó kiểm soát các giao dịch bất minh Tiền mặt không được lưu thông sẽ mất giá trị và gây lãng phí nguồn lực xã hội, trong khi chính phủ không thể kiểm soát toàn bộ giao dịch kinh tế, dẫn đến thất thu thuế và méo mó nền kinh tế Việc không tận dụng được nguồn lực tiền, vàng và ngoại tệ dự trữ trong dân cũng gây lãng phí lớn cho quốc gia, làm khó khăn cho việc điều tiết cán cân thương mại quốc tế và tỷ giá hối đoái.

Tiền tệ trong nền kinh tế giống như máu trong cơ thể, với Ngân hàng Trung ương đóng vai trò như trái tim điều tiết lưu thông tiền tệ Nếu Ngân hàng Trung ương không kiểm soát hiệu quả, nền kinh tế sẽ không thể phát triển khỏe mạnh Cả huyết áp cao và huyết áp thấp đều gây hại, tương tự như việc cung cấp tiền cho các "tế bào ung thư" trong nền kinh tế Do đó, việc kiểm soát và sử dụng hiệu quả nguồn lực tài chính là rất quan trọng Để khắc phục những hạn chế này, việc xây dựng một xã hội không sử dụng tiền mặt là cần thiết, từ đó tôi chọn đề tài “Nền kinh tế không dùng tiền mặt và những tác động của nền kinh tế không dùng tiền mặt ở Việt Nam”.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Tiền tệ đã trải qua một quá trình hình thành và phát triển dài lâu trong lịch sử loài người, đóng vai trò quan trọng trong đời sống xã hội Hiện nay, các hình thái tiền tệ như tiền mặt, tiền điện tử và tiền ảo đang được sử dụng phổ biến, mỗi loại đều có ưu điểm và nhược điểm riêng Việc phân tích các hình thái này giúp hiểu rõ hơn về tác động của tiền tệ đối với nền kinh tế và đời sống hàng ngày của con người.

Quá trình lưu thông tiền tệ trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay có nhiều ưu nhược điểm đáng chú ý Để phát triển nền kinh tế không dùng tiền mặt, vai trò trung tâm cần được giao cho Ngân hàng Nhà nước và Ngân hàng Trung ương Việc này không chỉ giúp cải thiện tính minh bạch và hiệu quả trong giao dịch, mà còn thúc đẩy sự phát triển công nghệ tài chính Đồng thời, cần đánh giá các tác động của nền kinh tế không dùng tiền mặt, từ việc tăng cường quản lý tài chính đến việc cải thiện dịch vụ cho người dân và doanh nghiệp.

Phương pháp tiếp cận

Đề tài này phân tích tình hình lưu thông tiền tệ hiện tại ở Việt Nam, nêu rõ các ưu điểm và nhược điểm của mô hình lưu thông tiền tệ hiện hành đối với nền kinh tế và xã hội Bên cạnh đó, tác giả cũng xem xét sự phát triển của khoa học kỹ thuật trong thời đại 4.0 để đề xuất xây dựng một mô hình lưu thông tiền tệ mới, hoàn toàn không sử dụng tiền mặt Mô hình này nhằm khắc phục những hạn chế hiện tại và mang lại hiệu quả tích cực cho nền kinh tế, góp phần thúc đẩy sự phát triển của đất nước.

Ý nghĩa của nghiên cứu này

Nghiên cứu này mang tính định tính và khái quát về tiền tệ trong kinh tế vĩ mô, tạo nền tảng cho các nghiên cứu chuyên sâu và định lượng về nền kinh tế không dùng tiền mặt Theo xu hướng phát triển của xã hội, tiền mặt có thể sẽ biến mất trong cuộc sống hàng ngày trong tương lai gần Do đó, quốc gia nào nhanh chóng xây dựng nền kinh tế không dùng tiền mặt sẽ có cơ hội phát triển vượt bậc.

Cấu trúc của luận văn

Luận văn bao gồm năm chương cụ thể nội dung của từng chương như sau:

Trong chương này, tác giả trình bày mục tiêu nghiên cứu về "Nền kinh tế không dùng tiền mặt và những tác động của nó ở Việt Nam" Lý do chọn đề tài này là do hiệu quả của lưu thông tiền tệ có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế, góp phần ổn định và tạo ra công bằng trong xã hội.

Và nền kinh tế không dùng tiền mặt là xu hướng phát triển của nhân loại.

Lịch sử của hệ thống tiền tệ

Trong quá trình phát triển của nhân loại, cách sử dụng tiền phản ánh rõ ràng trình độ tiến bộ của xã hội qua từng thời kỳ Ngay từ những ngày đầu, khi con người sử dụng công cụ thô sơ để săn bắn và hái lượm, nhu cầu trao đổi hàng hóa và thực phẩm đã xuất hiện, nhằm đáp ứng nhu cầu sống còn của họ.

Nhằm đáp ứng nhu cầu trao đổi hàng hóa, loài người đã phát triển các hình thức tiền tệ để ghi nhận các giao dịch Ban đầu, tiền tệ được thể hiện qua da và răng động vật, do vật nuôi là tài sản quý giá nhất trong giai đoạn này Ngoài ra, vỏ động vật, như vỏ ốc sên, cũng được sử dụng làm phương tiện trao đổi, được gọi là tiền vỏ ốc, phổ biến trong giới buôn bán ở Trung Quốc.

Sự phát triển của nhân loại đã dẫn đến việc con người chế tạo ra các công cụ và dụng cụ lao động bằng kim loại, góp phần tăng năng suất lao động Trong giai đoạn này, các công cụ và dụng cụ lao động trở thành tài sản quý giá nhất, và chúng cũng được sử dụng như phương tiện trao đổi, tương tự như tiền tệ.

Khi giao thương giữa các vùng miền phát triển, người miền biển và miền núi đã trao đổi lương thực đặc trưng của mình Người miền biển dễ dàng sản xuất muối và đánh bắt hải sản, trong khi người miền núi cung cấp ngũ cốc, lâm sản và kim loại để tạo ra công cụ lao động Sự gia tăng năng suất lao động dẫn đến việc các vùng miền dư thừa sản vật của mình nhưng lại thiếu sản vật từ vùng khác, từ đó phát sinh nhu cầu trao đổi Những sản vật này trở thành phương tiện trao đổi quan trọng trong đời sống của con người thời bấy giờ.

Khi nhu cầu trao đổi trong xã hội gia tăng, một tầng lớp trung gian gọi là lái buôn hình thành, dẫn đến những bất tiện trong việc trao đổi hàng hóa như cồng kềnh, khó khăn trong vận chuyển và bảo quản Để khắc phục những vấn đề này và tạo điều kiện thuận lợi cho lưu thông, đồng tiền kim loại đã ra đời như một phương tiện ghi nhận giá trị của hàng hóa.

Vào khoảng thế kỷ thứ 7 trước Công nguyên, đồng tiền kim loại đầu tiên xuất hiện ở miền tây Thổ Nhĩ Kỳ, tiếp theo là ở La Mã và Anh Đến thế kỷ thứ 9 trước Công nguyên, Trung Quốc trở thành quốc gia đầu tiên trên thế giới phát hành tiền giấy do thiếu hụt kim loại đồng, sớm hơn nhiều so với các nước châu Âu.

Vào thế kỷ 16, đồng bạc Thaler ra đời tại Cộng Hòa Séc, trở thành tiền thân của đồng Đô la hiện nay Ngày nay, tiền xu, tiền giấy và tiền kỹ thuật số cùng tồn tại ở nhiều quốc gia, trong đó tiền xu ngày càng thay đổi chất liệu để cải thiện khả năng bảo quản và lưu thông Tiền giấy cũng trải qua nhiều thay đổi về chất liệu và mẫu mã theo sự phát triển của khoa học kỹ thuật, giúp chống giả mạo, bền bỉ và nhẹ hơn Dù tiền giấy dần thay thế tiền xu trong lịch sử, nhưng tiền xu vẫn giữ vai trò quan trọng tại một số quốc gia.

Tiền kỹ thuật số đang phát triển mạnh mẽ và dần thay thế tiền giấy cũng như tiền xu trong cuộc sống hàng ngày của con người Sự chuyển mình này hứa hẹn sẽ mang lại những thay đổi lớn trong cách thức giao dịch tài chính trong tương lai gần.

2050 tiền giấy và tiền xu sẽ kết thúc sứ mệnh lịch sử của mình.

Lịch sử về hình thái tiền tệ

Tiền tệ đã trải qua nhiều hình thái khác nhau trong suốt lịch sử phát triển của nhân loại Ban đầu, tiền tệ được hình thành dưới dạng hàng hóa không kim loại, sau đó chuyển sang tiền tệ kim loại và tiền giấy, cả hai loại này vẫn tồn tại cho đến ngày nay Bên cạnh đó, bút tệ cũng đã xuất hiện, và trong những năm gần đây, sự phát triển của khoa học kỹ thuật và công nghệ thông tin đã dẫn đến sự ra đời của tiền kỹ thuật số, ngày càng được ưa chuộng.

Hóa tệ bao gồm hóa tệ kim loại và hóa tệ phi kim loại, trong đó hóa tệ phi kim loại từng là vật trung gian quan trọng trong trao đổi hàng hóa, như lúa gạo ở vùng nông thôn thời phong kiến và thời bao cấp Tuy nhiên, ngày nay, với sự phát triển của các phương tiện thanh toán hiện đại, hóa tệ phi kim loại đã trở nên ít phổ biến Hóa tệ kim loại, như vàng và bạc, mặc dù có những đặc tính như giá trị, khả năng chia nhỏ, và dễ bảo quản, nhưng vai trò của chúng đang giảm sút do chính phủ hạn chế sử dụng Hơn nữa, việc giao dịch với số lượng lớn bằng hóa tệ kim loại gặp khó khăn vì tính cồng kềnh và tính lỏng không cao Ở nhiều quốc gia, như Nhật Bản, hóa tệ kim loại chỉ chiếm một phần nhỏ trong hệ thống tiền tệ, với việc kinh doanh vàng chủ yếu tập trung vào trang sức hơn là tiền tệ thực sự.

Tiền kim loại đã được sử dụng từ thế kỷ 7 trước công nguyên và vẫn tồn tại ở nhiều quốc gia, đặc biệt là với mệnh giá nhỏ trong các máy bán hàng tự động và cửa hàng Tại Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước đã đưa vào lưu thông tiền kim loại mệnh giá nhỏ vào năm 2003 và 2004, nhưng do hạ tầng chưa phát triển và thói quen sử dụng tiền giấy của người dân, nhu cầu sử dụng tiền kim loại vẫn hạn chế Chất lượng đồng tiền kim loại cũng gặp vấn đề, với trọng lượng nặng gây bất tiện cho việc mang theo Kết quả là từ năm 2011, tiền kim loại gần như không còn lưu thông trong nền kinh tế Việt Nam.

Tín tệ, hay tiền giấy, xuất hiện do sự thiếu hụt nguyên liệu cho tiền kim loại và được phát hành lần đầu vào thời triều Tống ở Trung Quốc Ngày nay, tiền giấy (cotton, polymer) trở thành hình thức phổ biến nhất trong nền kinh tế toàn cầu nhờ vào những ưu điểm như gọn nhẹ, dễ mang theo và có nhiều mệnh giá khác nhau, đáp ứng nhu cầu thanh toán đa dạng Chính phủ giữ quyền độc quyền trong việc in ấn và phát hành tiền, kiểm soát và điều tiết lượng cung ứng ra thị trường Qua các thời kỳ, tiền giấy chỉ thay đổi về chất liệu và mẫu mã, phù hợp với sự phát triển của khoa học kỹ thuật nhằm ngăn chặn làm giả và đảm bảo độ bền khi lưu thông.

Bút tệ là hình thức tiền tệ được ghi chép trong sổ sách kế toán của ngân hàng, xuất hiện lần đầu tại Ngân hàng Anh vào giữa thế kỷ 19 và hiện nay được sử dụng rộng rãi trên toàn thế giới, đặc biệt phổ biến ở các nước phát triển Hình thức này cho phép thực hiện các giao dịch lớn một cách an toàn và dễ dàng chuyển đổi sang tiền giấy khi cần thiết Ngân hàng phát hành thẻ ATM, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thanh toán và chuyển đổi giữa bút tệ và tiền mặt Ngoài ra, bút tệ có chi phí lưu hành thấp hơn so với tiền giấy, bao gồm chi phí in ấn, bảo quản và vận chuyển, cho thấy đây là xu hướng phát triển của thời đại hiện nay.

Tiền kỹ thuật số và tiền điện tử đang ngày càng phổ biến, cho phép người dùng thực hiện giao dịch qua các máy ATM và máy POS kết nối với ngân hàng thông qua mạng lưới Smartlink và Banknet Điều này giúp các chủ thẻ dễ dàng thực hiện thanh toán, chuyển khoản và rút tiền mặt Ngoài ra, nhiều tổ chức tài chính cùng với các công ty viễn thông cũng cung cấp dịch vụ thanh toán qua điện thoại di động Theo tác giả Sử Đình Thành và Vũ Thị Minh Hằng (2006), trong tương lai, mọi người có thể sẽ sở hữu một thẻ ghi nợ cá nhân không thể làm giả, kết nối với máy tính trung tâm để thực hiện giao dịch Tác giả hy vọng rằng một ngày nào đó, nền kinh tế không dùng tiền mặt sẽ trở thành hiện thực.

Tiền ảo là loại tiền mã hóa hoạt động trên nền tảng blockchain mà không có sự quản lý của ngân hàng trung ương hay chính phủ nào, dẫn đến tính pháp lý chưa được đảm bảo Mặc dù chưa được công nhận tại Việt Nam, sự phát triển nhanh chóng của tiền ảo trên toàn cầu đã ảnh hưởng đến nước này, với nhiều người nhập khẩu máy đào và thực hiện giao dịch qua internet Tiền ảo có nhiều ưu điểm nhưng cũng tồn tại hạn chế, khiến chúng chưa được chấp nhận rộng rãi như phương tiện thanh toán Để tiền ảo phát triển, cần có sự bảo lãnh từ quốc gia hoặc tổ chức uy tín, vì bản thân chúng chưa đủ tạo niềm tin để thực hiện chức năng tiền tệ Hơn nữa, khả năng tiếp cận và cơ chế sử dụng còn hạn chế, dẫn đến việc tiền ảo vẫn chưa được xã hội công nhận là phương tiện tiền tệ.

Vai trò của tiền tệ trong nền kinh tế

Tiền tệ giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế, là phương tiện thiết yếu cho việc mua bán và trao đổi hàng hóa, dịch vụ Nó tương tự như máu trong cơ thể con người; không có tiền, nền kinh tế sẽ không thể hoạt động hiệu quả và sẽ rơi vào tình trạng ngưng trệ Do đó, tiền tệ là yếu tố sống còn giúp duy trì sự phát triển của nền kinh tế.

Hình 2.1: Quá trình lưu thông tiền tệ trong nền kinh tế giống như quá trình lưu thông máu trong cơ thể

(Nguồn: Tác giả tự đề xuất)

Tiền lưu thông trong nền kinh tế giống như máu trong cơ thể, với ngân hàng trung ương bơm tiền qua ngân hàng thương mại Các ngân hàng thương mại sử dụng cơ chế tạo tiền để đưa dòng tiền ra thị trường thông qua cho vay và tiết kiệm Một phần tiền mặt không được ngân hàng kiểm soát sẽ quay lại dưới hình thức tiết kiệm và thanh toán, tạo ra vòng quay tiền tệ Vòng quay này càng nhanh thì nền kinh tế càng hiệu quả, tương tự như quá trình máu được bơm từ tim qua phổi để trao đổi ô xy và quay lại tim, đảm bảo cung cấp dưỡng chất cho các tế bào, từ đó giúp cơ thể tồn tại và phát triển.

Cơ chế tạo tiền trong nền kinh tế tương tự như cơ chế tạo máu trong cơ thể Để nền kinh tế phát triển mạnh mẽ, nhu cầu về tiền cũng gia tăng, giống như khi con người lớn lên cần nhiều máu hơn Tuy nhiên, cả tiền và máu đều cần có sự cân bằng; quá thừa hoặc quá thiếu đều không tốt Một lượng tiền vừa đủ, đảm bảo chất lượng, sẽ giúp nền kinh tế hoạt động hiệu quả, giống như một cơ thể khỏe mạnh cần có lượng máu phù hợp để phát triển.

Khi cơ thể khỏe mạnh, việc hiến máu không ảnh hưởng nhiều đến sức khỏe, tương tự như một nền kinh tế thịnh vượng có thể viện trợ ODA cho các nước nghèo hơn Điều này không chỉ giúp các quốc gia đó phát triển mà còn tạo dựng uy tín và nâng cao tiếng nói trên trường quốc tế.

“Tiền là Máu” đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy và phát triển nền kinh tế Vì vậy, nghiên cứu cách sử dụng hiệu quả và kiểm soát dòng tiền trong nền kinh tế là mục tiêu chính của đề tài này.

Khung lý thuyết và tổng quan các nghiên cứu

Nhiều tác giả trên thế giới đã nghiên cứu tác động và lợi ích của nền kinh tế không dùng tiền mặt, chủ yếu tập trung vào các nghiên cứu thực nghiệm về ảnh hưởng của việc chuyển từ tiền mặt sang các phương tiện thanh toán phi tiền mặt, với sự tham gia của ngân hàng thương mại và doanh nghiệp cung cấp dịch vụ thanh toán Tuy nhiên, chưa có quốc gia nào hoàn toàn loại bỏ tiền mặt khỏi nền kinh tế Bài viết này đề xuất một cách tiếp cận mới, đó là hoàn toàn loại bỏ tiền mặt, với Ngân hàng Nhà nước đóng vai trò trung tâm trong mọi hoạt động kinh tế.

Theo Alilonu (2012), nền kinh tế không sử dụng tiền mặt không có nghĩa là loại bỏ hoàn toàn tiền mặt, vì nó vẫn sẽ là phương tiện trao đổi hàng hóa và dịch vụ trong tương lai gần Thay vào đó, đây là một môi trường tài chính nhằm giảm thiểu việc sử dụng tiền mặt bằng cách cung cấp các kênh thanh toán thay thế.

Nền kinh tế không sử dụng tiền mặt đang trở thành một xu hướng toàn cầu, không có nghĩa là loại bỏ hoàn toàn giao dịch tiền mặt, mà là giảm thiểu chúng đến mức tối thiểu Trong nền kinh tế này, các giao dịch có thể diễn ra mà không cần tiền mặt, thông qua việc sử dụng thẻ tín dụng hoặc thẻ ghi nợ để thanh toán cho hàng hóa và dịch vụ Đây là một mô hình kinh tế nơi mà các giao dịch mua bán được thực hiện chủ yếu qua các phương tiện điện tử.

Theo nghiên cứu của Marco và Bandiera (2004), việc gia tăng sử dụng công cụ ngân hàng không dùng tiền mặt có thể nâng cao hiệu quả của chính sách tiền tệ mà không làm ảnh hưởng đến sự ổn định của hệ thống tài chính Tuy nhiên, họ cảnh báo rằng các ngân hàng trung ương có thể mất quyền kiểm soát chính sách tiền tệ nếu chính phủ không thực hiện các chính sách tài chính hợp lý.

Theo Obi (2012), xã hội không sử dụng tiền mặt là nơi mọi giao dịch mua bán được thực hiện qua thẻ tín dụng, thẻ ATM, séc và chuyển khoản trực tiếp, không cần đến tiền mặt Ông nhấn mạnh rằng công nghệ máy tính đã được ứng dụng rộng rãi trong hệ thống tài chính, dẫn đến việc gần 97% giao dịch tại các nước phương Tây hiện nay diễn ra mà không sử dụng tiền mặt Điều này không chỉ giúp giảm chi phí mà còn hạn chế tham nhũng và rửa tiền.

Theo Costa và Grauwe (2001), một xã hội không sử dụng tiền mặt là khi tiền tệ do ngân hàng trung ương phát hành không còn tồn tại Trong xã hội này, toàn bộ tiền tệ là tiền cá nhân do các ngân hàng phát hành dưới dạng tiền gửi, hoặc tiền điện tử giả mạo do các tổ chức không phải ngân hàng phát hành.

Nền kinh tế không sử dụng tiền mặt là một phong trào chuyển đổi từ việc sử dụng tiền mặt vật chất sang các phương thức thanh toán phi vật chất trong mọi loại giao dịch, bao gồm thương mại, nhà ở và dịch vụ cá nhân Điều này có nghĩa là tất cả các khoản thanh toán được thực hiện mà không cần tiền mặt, thông qua các phương tiện như giao dịch trực tuyến, ngân hàng di động, thẻ tín dụng, và chuyển khoản ngân hàng Sự phát triển này cho phép các giao dịch tài chính diễn ra mọi lúc, mọi nơi thông qua internet, đánh dấu một cuộc cách mạng trong dịch vụ ngân hàng điện tử và cải thiện cuộc sống của hàng triệu người Kết quả là, trong một nền kinh tế không dùng tiền mặt, lượng tiền mặt trong xã hội giảm thiểu, và mọi giao dịch đều diễn ra qua các kênh điện tử.

Theo Humphrey (2004), nhiều quốc gia phát triển đang chuyển đổi từ việc sử dụng tiền giấy sang tiền điện tử, đặc biệt là trong việc áp dụng thẻ thanh toán.

Nền kinh tế hạn chế tiền mặt, theo Theo Nweke (2012), là mô hình kinh tế giảm thiểu việc sử dụng tiền mặt, trong đó các hình thức thanh toán điện tử trở nên phổ biến Điều này có nghĩa là nền kinh tế không dùng tiền mặt kết hợp các hệ thống thanh toán dựa trên công nghệ điện tử Nó phản ánh trạng thái thuần túy của hệ thống thanh toán không tiền mặt, trong đó ngân hàng trung ương không phát hành tiền xu và tiền giấy để lưu thông.

Khái niệm phát triển kinh tế, mặc dù trở nên phổ biến trong thế kỷ 20, thực chất đã tồn tại trước cả thời kỳ của "trường phái kinh tế cổ điển" vào thế kỷ 19.

Các nhà kinh tế thời kỳ này ủng hộ phương pháp luận dựa trên lịch sử chung cho phân tích kinh tế, tin rằng nhiệm vụ chính của họ là phát hiện các quy luật điều chỉnh giai đoạn tăng trưởng và phát triển kinh tế Georg Friedrich List, nhà kinh tế học người Đức, cho rằng nền kinh tế vùng ôn đới sẽ trải qua bốn giai đoạn phát triển: đời sống du mục theo mùa vụ, nông nghiệp, nông nghiệp và chế tạo, và cuối cùng là chế tạo, nông nghiệp và thương mại.

Bruno Hildebrand, nhà kinh tế học người Đức (1812 - 1878), đã phát triển một cách tiếp cận lịch sử độc đáo trong việc nghiên cứu các giai đoạn tăng trưởng và phát triển kinh tế Ông nhấn mạnh rằng để hiểu rõ các giai đoạn phát triển kinh tế, cần chú ý đến các điều kiện trao đổi Từ đó, Hildebrand đã phân chia kinh tế thành ba giai đoạn dựa trên các hình thức trao đổi: hàng hóa, tiền tệ và tín dụng.

Lý thuyết về các giai đoạn phát triển tiền tệ cho rằng nền kinh tế tiến triển qua ba giai đoạn chính: trao đổi hàng hóa, tiền tệ và tín dụng Bài báo này sẽ phân tích sâu hơn về từng giai đoạn và vai trò của chúng trong sự phát triển kinh tế.

Quá trình trao đổi hàng hóa, theo Hildebrand (1878), bắt nguồn từ nền kinh tế tự nhiên với việc trao đổi trực tiếp các hàng hóa Hệ thống tiền tệ cho phép hàng hóa và dịch vụ được giao dịch bằng tiền xu, chủ yếu là vàng và bạc vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 Sự chuyển đổi sang nền kinh tế tín dụng diễn ra khi tiền giấy được sử dụng, giúp người có thu nhập tiếp cận tín dụng để mua bất động sản Hildebrand mô tả tầm nhìn về sự phát triển xã hội từ trao đổi tiền tệ đến nền kinh tế tín dụng, nơi người có thu nhập thấp có thể tiếp cận vốn, giải quyết một trong những vấn đề bức xúc nhất của xã hội hiện đại.

Mặc dù Hildebrand không thành công trong việc phát triển một hệ thống kinh tế học, nhưng tầm nhìn của ông về mô hình phát triển kinh tế qua các hình thức trao đổi hàng hóa, tiền tệ và tín dụng đã cung cấp những bằng chứng lý thuyết quan trọng về mối quan hệ giữa các phương tiện trao đổi và sự phát triển kinh tế.

Ngân hàng Nhà nước (Ngân hàng Trung ương)

Ngân hàng Nhà nước, hay Ngân hàng Trung ương, thực hiện chức năng quản lý nhà nước nhằm đảm bảo sự ổn định và an toàn cho hệ thống ngân hàng, đồng thời điều tiết và quản lý vĩ mô nền kinh tế Ngân hàng này độc quyền phát hành tiền trên toàn quốc, quản lý và cung ứng tiền mặt cho nền kinh tế Ngoài ra, Ngân hàng Nhà nước còn là trung tâm thanh toán, chuyển nhượng và bù trừ cho các ngân hàng trung gian, đồng thời quản lý quỹ dự trữ bắt buộc của các ngân hàng này.

Hệ thống lưu thông tiền tệ trong nền kinh tế hiện nay

Trong nền kinh tế hiện nay, sự đa dạng của các hình thái tiền tệ như tiền giấy, vàng, tài khoản ngân hàng và ngoại tệ giúp tăng cường lưu thông, nhưng cũng gây ra tình trạng pha loãng nguồn lực tài chính quốc gia Việc này tạo ra khó khăn trong việc kiểm soát dòng tiền, khi một phần nguồn lực được lưu thông trong khi phần còn lại bị tích trữ Khoản tích trữ này không chỉ không tạo ra giá trị cho xã hội mà còn dẫn đến mất mát chi phí cơ hội và giá trị nội tại theo thời gian.

Trong mô hình lưu thông tiền tệ hiện nay, Ngân hàng Nhà nước phát hành nguồn tiền và điều tiết cung tiền qua các Ngân hàng Thương mại Các Ngân hàng Thương mại nhận tiền gửi tiết kiệm và cho vay, từ đó đưa tiền vào lưu thông trong nền kinh tế.

Dòng tiền trong nền kinh tế lưu thông qua hai hình thức: hệ thống ngân hàng thương mại và tiền mặt tự do bên ngoài Chính phủ không thể kiểm soát trực tiếp dòng tiền này, mà chỉ có thể điều chỉnh lượng cung tiền thông qua các công cụ như lãi suất, tỷ lệ dự trữ bắt buộc và phát hành trái phiếu.

Hình 3.1: Cơ chế phát hành và lưu thông tiền tệ hiện nay ở Việt Nam

(Nguồn: Tác giả tự đề xuất)

Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh dòng tiền vào các Ngân hàng Thương mại để quản lý cung tiền trong nền kinh tế Khi muốn giảm lượng cung tiền, Ngân hàng Nhà nước sử dụng các công cụ như lãi suất, tỷ lệ dự trữ bắt buộc và phát hành trái phiếu để hút tiền về.

Các Ngân hàng Thương mại đóng vai trò quan trọng trong việc đưa tiền vào lưu thông thông qua các hoạt động cho vay và nhận gửi tiết kiệm từ cá nhân và pháp nhân, bao gồm cả các Ngân hàng Thương mại khác Ngoài ra, họ cũng thực hiện các dịch vụ ủy thác thanh toán cho Kho bạc Nhà nước và các Ngân hàng Nước ngoài bằng ngoại tệ.

Các cá nhân và pháp nhân thực hiện giao dịch thanh toán, trả nợ, và chuyển tiền qua lại bằng hình thức chuyển khoản ngân hàng hoặc giao dịch tiền mặt.

(4) Ngoài tiền mặt, tài khoản thì vàng, ngoại tệ cũng được các cá nhân, pháp nhân giao dịch qua lại lẫn nhau.

Khái niệm

Nền kinh tế không tiền mặt hoàn toàn loại bỏ việc sử dụng tiền mặt trong tất cả các giao dịch thanh toán và lưu trữ, với mọi giao dịch được thực hiện qua Ngân hàng Nhà nước Mỗi cá nhân chỉ có một tài khoản duy nhất, trong khi vàng và ngoại tệ không còn được sử dụng trong lưu thông, mà chỉ tập trung tại Ngân hàng Trung ương để phục vụ cho các giao dịch quốc tế Vàng giờ đây chỉ đóng vai trò là nguyên liệu sản xuất và trang sức, không còn ảnh hưởng đến nền kinh tế.

Hiện nay, nhiều nước phát triển đã hạn chế việc thanh toán bằng tiền mặt, thay vào đó, người dùng sử dụng nhiều hình thức thanh toán khác nhau như qua ngân hàng, máy ATM, POS và thanh toán di động Điều này khiến cho ngân hàng trung ương gặp khó khăn trong việc kiểm soát dòng tiền trong nền kinh tế.

Ngân hàng Trung ương được thành lập bởi Quốc hội và hoạt động dưới sự giám sát của cơ quan này Mục tiêu chính của Ngân hàng Trung ương là điều tiết lượng cung tiền thông qua Ngân hàng Nhà nước, công bố lãi suất cơ bản, thiết lập trần lãi suất, cũng như quản lý và kiểm soát hoạt động của Ngân hàng Nhà nước.

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, được thành lập bởi Chính phủ, hoạt động dưới sự kiểm soát và điều phối của Ngân hàng Trung ương Ngân hàng này có trách nhiệm quản lý tài khoản cá nhân và pháp nhân trên toàn quốc, cũng như thực hiện giao dịch ngoại thương với các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước Đồng thời, Ngân hàng Nhà nước còn có nghĩa vụ cung cấp tài khoản cho tất cả công dân Việt Nam, các pháp nhân trong nước, và người nước ngoài khi họ đến, du lịch, làm việc, hoặc sinh sống tại Việt Nam.

Mỗi công dân khi sinh ra sẽ được cấp một tài khoản duy nhất tại Ngân hàng Nhà nước, tài khoản này sẽ tồn tại suốt đời và tài sản trong tài khoản sẽ được chuyển cho những người thừa kế hợp pháp khi công dân qua đời Tương tự, mỗi pháp nhân như tổ chức, cơ quan nhà nước, doanh nghiệp cũng được cấp một tài khoản ngân hàng duy nhất tại Ngân hàng Nhà nước Đối với công dân nước ngoài đến Việt Nam để du lịch, làm việc, học tập hay sinh sống, họ cũng sẽ được cấp một tài khoản tiền Việt, và khi rời Việt Nam, họ có thể chuyển đổi sang ngoại tệ và đóng tài khoản.

Ví điện tử là thiết bị thanh toán được cấp cho mỗi tài khoản tại Ngân hàng Nhà nước, cho phép chủ tài khoản thực hiện giao dịch mọi lúc, mọi nơi trên lãnh thổ Việt Nam.

Mô hình lưu thông tiền tệ không dùng tiền mặt trong nền kinh tế

Mô hình lưu thông tiền tệ không dùng tiền mặt trong nền kinh tế bao gồm các chủ thể chính như Ngân hàng Trung ương, Ngân hàng Nhà nước, Kho bạc Nhà nước, Ngân Hàng Thương mại, các pháp nhân như doanh nghiệp và tổ chức khác, cùng với cá nhân.

Các chủ thể ngoài Ngân hàng Trung ương và Ngân hàng Nhà nước chỉ được phép sử dụng tài khoản tiền Việt làm phương tiện thanh toán và cất trữ Ngoại tệ và vàng được quản lý trực tiếp bởi Ngân hàng Trung ương và Ngân hàng Nhà nước, không được đưa vào lưu thông trong nền kinh tế, mà chỉ được sử dụng trong các giao dịch ngoại thương.

4.2.1 Hình thức, vai trò và chức năng của các chủ thể

Ngân hàng Trung ương, được thành lập bởi Quốc hội, hoạt động độc lập và không chịu sự quản lý từ Chính phủ Chức năng chính của Ngân hàng Trung ương là tạo tiền và điều tiết dòng tiền cho Ngân hàng Nhà nước, đồng thời quản lý và giám sát hoạt động của tổ chức này Ngân hàng Trung ương kiểm soát ngoại tệ và vàng quốc gia, điều hành giá vàng, tỷ giá hối đoái, lãi suất cơ bản và trần lãi suất Quyết định lãi suất tiền gửi cơ bản của Ngân hàng Trung ương dựa trên tăng trưởng kinh tế, lạm phát và chỉ số giá tiêu dùng, nhằm đảm bảo giá trị đồng tiền Ngân hàng Nhà nước tự động thanh toán lãi hàng tháng cho các tài khoản dựa trên giá trị số dư tối thiểu, chỉ chi trả lãi suất cho phần tiền không giao dịch của cá nhân và tổ chức.

Ngân hàng Nhà nước được thành lập và điều hành bởi Chính phủ, dưới sự giám sát của Ngân hàng Trung ương Nhiệm vụ của ngân hàng này là cung cấp và quản lý tài khoản cho tất cả các chủ thể trong nền kinh tế, ngoại trừ Ngân hàng Trung ương Ngân hàng Nhà nước thực hiện các giao dịch với Ngân hàng Trung ương nhằm điều tiết lượng cung tiền trong nền kinh tế, đồng thời thực hiện giao dịch với các Ngân hàng Thương mại, Kho bạc Nhà nước, các Pháp nhân và Cá nhân, cũng như thực hiện các giao dịch thanh toán quốc tế.

Kho bạc Nhà nước, được quản lý bởi Bộ Tài chính và giám sát bởi Ngân hàng Nhà nước, thực hiện các hoạt động thu chi của Chính phủ, bao gồm thu thuế, phí và lệ phí, cũng như chi tiêu cho các hoạt động thường xuyên, đầu tư và tài trợ.

Ngân hàng Thương mại hoạt động dưới sự giám sát của Ngân hàng Nhà nước, thực hiện cho vay và nhận tiền gửi tiết kiệm từ cá nhân và pháp nhân Ngân hàng có chức năng tạo tiền cho nền kinh tế và tất cả các giao dịch với doanh nghiệp và tổ chức đều phải thông qua Ngân hàng Nhà nước.

Mỗi pháp nhân như doanh nghiệp hay tổ chức khi thành lập sẽ được Ngân hàng Nhà nước cấp một tài khoản tiền Việt duy nhất để thực hiện giao dịch với Ngân hàng Thương mại, các pháp nhân khác, cá nhân và nước ngoài Tất cả giao dịch đều phải thông qua Ngân hàng Nhà nước Khi giao dịch quốc tế, ngoại tệ sẽ được chuyển đổi sang tiền Việt tại thời điểm giao dịch, và pháp nhân chỉ nhận tài khoản tiền Việt Ngược lại, khi cần thanh toán quốc tế, tài khoản tiền Việt sẽ được đổi sang ngoại tệ để thanh toán cho đối tác nước ngoài.

Tất cả cá nhân đang sinh sống tại Việt Nam, bao gồm người Việt Nam và người nước ngoài, cũng như người Việt Nam ở nước ngoài, sẽ được Ngân hàng Nhà nước cấp một tài khoản tiền Việt duy nhất khi sinh ra hoặc khi lần đầu tiên đến Việt Nam Mọi giao dịch giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với pháp nhân, cá nhân với Ngân hàng Thương mại, cá nhân với Kho bạc nhà nước và cá nhân với nước ngoài đều được thực hiện thông qua tài khoản tại Ngân hàng Nhà nước.

4.2.2 Lưu thông tiền tệ giữa các chủ thể

Ngân hàng Trung ương, hay còn gọi là Ngân hàng Nhà nước, là cơ quan chịu trách nhiệm phát hành tiền thông qua tài khoản cho Ngân hàng Nhà nước, sử dụng các công cụ tài chính để điều tiết lượng tiền trong nền kinh tế Ngoài ra, Ngân hàng Trung ương còn kiểm soát mọi hoạt động của Ngân hàng Nhà nước và quản lý ngoại tệ, vàng của quốc gia.

Ngân hàng Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp tài khoản và quản lý các hoạt động giao dịch của Kho bạc Nhà nước Tất cả các hoạt động thu chi của Kho bạc Nhà nước đều được thực hiện thông qua Ngân hàng Nhà nước.

Ngân hàng Nhà nước cấp một tài khoản duy nhất cho mỗi Ngân hàng Thương mại, và tất cả các hoạt động của Ngân hàng Thương mại, bao gồm nhận tiền gửi tiết kiệm, cho vay, chi trả tiền lương, thanh toán chi phí và trả lãi suất cho cá nhân và pháp nhân, đều được thực hiện thông qua tài khoản này.

Ngân hàng Nhà nước với Pháp nhân: Mỗi pháp nhân có duy nhất một tài khoản ở

Ngân hàng Nhà nước do vậy mọi hoạt động thu, chi, thanh toán điều thông qua tài khoản này

Ngân hàng Nhà nước cấp cho mỗi cá nhân một tài khoản duy nhất, qua đó mọi khoản thu nhập và chi tiêu đều được thực hiện.

Kho bạc Nhà nước với Ngân hàng Thương mại: Ngân hàng Thương mại thực hiện nghĩa vụ đóng thuế, phí, lệ phí của mình cho Kho bạc Nhà nước

Kho bạc Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc thu và chi tài chính cho các pháp nhân Các pháp nhân có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đóng thuế, phí, lệ phí và phạt cho Kho bạc Nhà nước Khi Kho bạc chi cho các hoạt động đầu tư, xây dựng hoặc mua sắm cho Chính phủ và các cơ quan nhà nước, khoản chi này sẽ được thực hiện trực tiếp cho các pháp nhân liên quan.

Kho bạc Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc quản lý tài chính của cá nhân, bao gồm việc thu nhận các nghĩa vụ thuế, phí, lệ phí và phạt Ngoài ra, công chức viên chức nhận lương và phụ cấp từ Kho bạc Nhà nước, cùng với các cá nhân được hưởng trợ cấp xã hội và ưu đãi theo chế độ cũng được chi trả từ nguồn này.

Ngân hàng thương mại có thể thực hiện các giao dịch cho vay qua lại, đồng thời cung cấp các dịch vụ hỗ trợ lẫn nhau, tạo nên một hệ thống tài chính vững mạnh và hiệu quả.

Các giải pháp để xây dựng nền kinh tế không dùng tiền mặt

4.3.1 Xây dựng hành lang pháp lý

Nền kinh tế không dùng tiền mặt đang đặt ra thách thức cho nhiều quy định pháp luật hiện hành, bao gồm các quy định về ngân hàng, bảo mật dữ liệu, quyền truy cập dữ liệu cá nhân, nhân quyền, thuế, kinh doanh, quyền sở hữu tài sản, và quản lý vàng, ngoại tệ Do đó, việc xây dựng lại hệ thống pháp luật là cần thiết để phù hợp với sự phát triển này.

4.3.2 Biện pháp hạn chế lưu thông vàng trong nền kinh tế Để hạn chế vàng đóng vai trò như tiền tệ làm phương tiện cất trữ, lưu thông, thanh toán trong nền kinh tế Ngân hàng Nhà nước tiến hành thu mua vàng từ các cá nhân, pháp nhân, nhà nước quy định vàng chỉ là hàng hóa, là trang sức do vậy khi trao đổi mua, bán điều phải chịu thuế, các pháp nhân kinh doanh vàng phải đóng thuế, như vậy vàng càng lưu thông trong nền kinh tế nhà nước càng thu được nhiều thuế, từ đó làm cho giá mua và bán lệch nhau, càng mua bán nhiều càng đóng thuế nhiều như vậy vàng sẽ mất đi vai trò là tiền tệ

Ngân hàng Trung ương sẽ tiến hành mua bán vàng với Ngân hàng Nhà nước nhằm điều tiết lượng cung tiền và dự trữ quốc gia, đồng thời sử dụng nguồn lực vàng này cho giao thương thanh toán quốc tế Tuy nhiên, việc nhiều cá nhân và pháp nhân sử dụng vàng như phương tiện lưu trữ giá trị sẽ dẫn đến mất chi phí cơ hội cho đất nước Nguồn lực quốc gia sẽ bị phân tán và Chính phủ sẽ gặp khó khăn trong việc kiểm soát lượng vàng lưu thông trong nền kinh tế Sự tham gia của nhiều chủ thể trong thanh toán bằng vàng sẽ làm cho nguồn lực xã hội bị chia nhỏ, từ đó giảm sức mạnh kinh tế.

Tổng tài sản của một cá nhân có thể lên tới 100 triệu đồng, nhưng lại được phân chia thành nhiều hình thức khác nhau như vàng miếng, vàng trang sức, tiền mặt, tiền trong tài khoản ngân hàng, sổ tiết kiệm và trái phiếu Khi cá nhân này muốn đầu tư hoặc kinh doanh, việc huy động tài sản sẽ trở nên khó khăn và tốn thời gian do sự phân tán này.

4.3.3 Biện pháp hạn chế lưu thông ngoại tệ trong nền kinh tế

Khi giao thương và nhận đầu tư từ nước ngoài, tất cả nguồn ngoại tệ vào Việt Nam đều phải thông qua Ngân hàng Nhà nước, nơi thực hiện quy đổi sang tiền Việt và chuyển cho các cá nhân, pháp nhân, ngân hàng thương mại và các đơn vị liên quan Ngược lại, khi thanh toán cho nước ngoài, Ngân hàng Nhà nước sẽ chuyển đổi tiền Việt sang ngoại tệ để thực hiện giao dịch Ngoài ra, khi cá nhân hoặc pháp nhân có nhu cầu ra nước ngoài cho du lịch, học tập, mua sắm hay đầu tư, tài khoản tiền Việt sẽ được chuyển đổi sang ngoại tệ để sử dụng.

Người nước ngoài khi đến Việt Nam để du lịch, học tập, làm việc hoặc sinh sống sẽ được Ngân hàng Nhà nước cấp tài khoản tiền Việt và ví điện tử Số ngoại tệ mang theo sẽ được chuyển đổi sang tiền Việt để phục vụ chi tiêu và thanh toán Khi xuất cảnh, số tiền Việt còn lại sẽ được chuyển đổi trở lại thành ngoại tệ theo tỷ giá tại thời điểm chuyển đổi.

Ngân hàng Nhà nước sẽ nắm giữ và quản lý tất cả ngoại tệ khi vào Việt Nam, giúp điều chỉnh tỷ giá ổn định và cân đối cán cân xuất nhập khẩu.

Ngân hàng Trung ương thực hiện nghiệp vụ mua bán ngoại tệ với Ngân hàng Nhà nước để điều tiết lượng cung tiền trong nền kinh tế

4.3.4 Vai trò và hoạt động của Ngân hàng Thương mại trong nền kinh tế không dùng tiền mặt

Trong nền kinh tế không dùng tiền mặt, tài khoản cá nhân và pháp nhân sẽ chịu sự quản lý của Ngân hàng Nhà nước Lãi suất tiền gửi cơ bản được quy định dựa trên tình hình tăng trưởng và lạm phát, giúp cá nhân và pháp nhân hưởng lãi suất tương ứng Điều này đảm bảo duy trì giá trị thực của đồng tiền trong bối cảnh kinh tế hiện đại.

Khi Ngân hàng Thương mại cần huy động vốn, họ phải trả lãi suất cao hơn lãi suất tiền gửi cơ bản do Ngân hàng Trung ương quy định Điều này nhằm bù đắp cho chi phí hoạt động và lợi nhuận Do đó, Ngân hàng Thương mại sẽ cho vay với lãi suất cao hơn lãi suất huy động, nhưng vẫn nằm trong mức trần lãi suất do Ngân hàng Trung ương đặt ra.

Tất cả các giao dịch giữa Ngân hàng Thương mại và cá nhân, pháp nhân điều thông qua tài khoản ở Ngân hàng Nhà nước

Trong nền kinh tế không sử dụng tiền mặt, hệ thống ngân hàng thương mại sẽ được cải cách toàn diện, dẫn đến việc giảm mạnh chi phí hoạt động, bao gồm chi phí mặt bằng và nhân sự cho bảo vệ, an ninh Các nhân viên giao dịch và kiểm đếm tiền mặt sẽ không còn cần thiết, từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động của ngân hàng và đóng góp tích cực vào sự phát triển chung của nền kinh tế.

Tốc độ lưu thông của tiền tệ trong nền kinh tế không sử dụng tiền mặt ở Việt Nam

Theo nhà kinh tế người Mỹ đại điện cho trường phái Yale là Irving Fisher (1867 -

Năm 1947, một nghiên cứu đã chỉ ra mối liên hệ giữa tổng lượng tiền lưu hành (M) và tổng chi tiêu cho hàng hóa và dịch vụ trong nền kinh tế (PY), với P là mức giá bình quân và Y là tổng khối lượng hàng hóa, sản phẩm và dịch vụ được sản xuất Mối quan hệ này được mô tả qua phương trình MV = PY, trong đó V đại diện cho tốc độ lưu thông của tiền tệ, tức là số lần trung bình mà một đơn vị tiền tệ được chi tiêu trong năm để mua hàng hóa và dịch vụ.

Theo Alfred Marshall và các cộng sự tại Trường Đại học Cambridge, Anh Quốc, phương trình Cambridge được đề xuất để tính cầu tiền.

M d = kPY Trong đó Md là tổng lượng tiền mà nhân dân cần giữ trong nền kinh tế K là chỉ số (0

< k < 1), k = M d / PY phản ánh tỷ lệ giữa nhu cầu giữ tiền cuả nhân dân với thu nhập của họ

P đại diện cho mức giá trung bình của tất cả hàng hóa trong nền kinh tế, trong khi Y là tổng khối lượng hàng hóa, sản phẩm và dịch vụ mà nền kinh tế sản xuất ra.

Theo A.C Pigou, phương trình định lượng cầu tiền tệ được biểu diễn như sau: M = kPR, trong đó M là lượng tiền mà người dân cần giữ, P là chỉ số giá bình quân của tất cả các tài sản, và R là số lượng tài sản mà người dân sở hữu Tổng giá trị tài sản của người dân được tính bằng PR, trong đó k là tỷ lệ giữ tiền mặt so với tổng giá trị tài sản, phụ thuộc vào lãi suất và thu nhập.

Theo Milton Friedman hàm nhu cầu tiền được xác định như sau: M d = aPY b trong đó:

M d đại diện cho lượng cầu về tiền trong nền kinh tế, trong khi P thể hiện mức giá của hàng hóa và dịch vụ Y là thu nhập hoặc sản lượng thực tế, và a là một hằng số dương cho thấy sự biến động đồng thời giữa M d và các yếu tố khác.

PY, b là hằng số lớn hơn 1 cho biết sự biến động của nhu cầu về tiền (Lê Vinh Danh, 1996)

Trong nền kinh tế không sử dụng tiền mặt, Ngân hàng Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc quản lý các giao dịch, cho phép tính toán tổng lượng tiền và tốc độ lưu thông của tiền trong năm Tổng lượng tiền M lưu thông trong nền kinh tế được xác định qua M c, tổng số dư của tất cả các tài khoản tại Ngân hàng Nhà nước, và M m, tổng số tiền không lưu thông, được tính từ các số dư tối thiểu của tài khoản Tốc độ lưu thông tiền tệ V, mức giá bình quân P của hàng hóa, và tổng khối lượng sản phẩm Y là các yếu tố quan trọng để hiểu rõ hơn về hoạt động kinh tế.

Trong ngắn hạn, tổng lượng tiền lưu thông trong nền kinh tế (M) thay đổi do vận tốc lưu thông (V) và lượng tiền được đưa vào lưu thông (M m), trong khi M c hầu như không thay đổi Mức giá và sản lượng cũng biến động, phụ thuộc vào cung cầu; khi sản lượng tăng, mức giá có xu hướng giảm và ngược lại Khi cầu tăng tương ứng với M tăng, mức giá (P) có xu hướng tăng, trong khi khi cầu giảm, mức giá (P) có xu hướng giảm.

Trong dài hạn, cả hai vế của phương trình (1) đều có sự thay đổi Vế phải PY thay đổi khi P biến động do lãi suất, lạm phát, và tiến bộ khoa học kỹ thuật, dẫn đến sản phẩm công nghệ có giá xu hướng giảm Ngược lại, các sản phẩm có nguồn cung hạn chế như bất động sản, vàng, và kim loại quý có xu hướng tăng giá do nhu cầu ngày càng cao từ dân số tăng và mức sống cải thiện Nền kinh tế tự động điều chỉnh về trạng thái cân bằng mới, làm cho P thay đổi theo cung cầu Sản lượng Y cũng có xu hướng tăng nhờ vào sự gia tăng nhà cung ứng và nhu cầu đa dạng hơn Mặc dù P có hai xu hướng tăng và giảm, nhưng PV có xu hướng tăng trong dài hạn Về vế trái của phương trình (1), V(M c – M m) cũng có xu hướng tăng do M c gia tăng, cùng với vận tốc lưu thông tiền tệ V và tổng số tiền trong tài khoản M c.

Tiền thân của nền kinh tế không sử dụng tiền mặt ở Việt Nam

Trong những năm gần đây, để đáp ứng nhu cầu thanh toán trực tuyến và qua thiết bị di động, nhiều công ty đã phát triển dịch vụ ví điện tử và ngân hàng số, điển hình như MOCA, PAYOO, MOMO, VIETTEL PAY, VÍ VIỆT, VIMO, BẢO KIM, NGÂN LƯỢNG, VNPAY, GRAB PAY, SAMSUNG PAY, VTC PAY, 123PAY, ONE PAY, và SEN PAY.

Mặc dù hoạt động trong phạm vi hẹp và gặp nhiều hạn chế, các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ thanh toán điện tử đang phát triển nhanh chóng, phản ánh xu hướng tất yếu của thời đại Trên thế giới, các công ty như Alipay đã thu hút một lượng người dùng lớn Trong khi đó, Ngân hàng Nhà nước sở hữu đầy đủ cơ chế và công cụ pháp lý, cùng với nguồn lực của đất nước, đủ điều kiện để xây dựng nền kinh tế không sử dụng tiền mặt một cách hiệu quả.

Thống kê phương tiện thanh toán trong nền kinh tế hiện nay ở Việt Nam

Theo số liệu từ Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, tính đến tháng 5 năm 2018, tổng phương tiện thanh toán và tiền gửi của khách hàng tại các tổ chức kinh tế đạt 8.757.588 tỷ đồng Trong đó, tiền gửi của các tổ chức kinh tế là 3.078.932 tỷ đồng, còn tiền gửi của dân cư là 4.259.041 tỷ đồng.

Bảng 4.1: Tổng phương tiện thanh toán và tiền gửi của khách hàng tại các tổ chức tín dụng tháng 5 năm 2018

(Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, 2018)

Hình 4.2: Tổng phương tiện thanh toán và tiền gửi của khách hàng tại các tổ chứ tín dụng qua các năm

(Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, 2018)

Hình 4.3: Tiền mặt lưu thông trên tổng phương tiện thanh toán

(Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, 2018)

Tỷ trọng tiền mặt trong nền kinh tế trên tổng phương tiện thanh toán khoản 12% tại thời điềm tháng 5 năm 2018(Hình 4.3)

Tính đến tháng 5 năm 2018, tổng phương tiện thanh toán đạt 8.757.588 tỷ đồng, trong đó tiền gửi của các tổ chức kinh tế là 3.078.923 tỷ đồng và tiền gửi của dân cư là 4.259.041 tỷ đồng, dẫn đến 1.419.615 tỷ đồng tiền mặt lưu thông Điều này cho thấy lượng tiền mặt trong nền kinh tế rất lớn, đồng thời chi phí cho việc lưu thông và bảo quản tiền mặt cũng rất cao.

Trong một tháng, lượng tiền mặt trong nền kinh tế thực hiện chức năng thanh toán đạt 1.419.615 tỷ đồng Do đó, tổng lượng tiền mặt thực hiện chức năng thanh toán trong một năm là 17.035.380 tỷ đồng Đáng chú ý, tổng lượng tiền mặt lưu thông gấp đôi tổng phương tiện thanh toán trong các tổ chức tín dụng.

Trong một tuần, lượng tiền mặt trong nền kinh tế thực hiện chức năng thanh toán đạt 1.419.615 tỷ đồng Tính tổng lượng tiền mặt thực hiện chức năng thanh toán trong một năm, ta có 73.819.980 tỷ đồng, cho thấy tổng lượng tiền mặt lưu thông gấp hơn 8 lần tổng phương tiện thanh toán.

Lượng tiền mặt trong nền kinh tế thực hiện chức năng thanh toán thường xuyên, với tần suất nhiều hơn một lần trong tuần, cho thấy tỷ trọng của tiền mặt trong tổng phương tiện thanh toán là rất lớn.

Thống kê tình hình sử dụng tiền mặt và các phương tiện thanh toán khác trong nền

Theo Ngân hàng Nhà nước, tỷ trọng rút tiền mặt qua ATM đã tăng từ 17% năm 2016 lên 22% năm 2017, nhưng giá trị giao dịch qua cây ATM lại giảm, với mức giảm 4% xuống còn 12% vào năm 2018 Đặc biệt, năm 2018 chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của thanh toán điện tử qua internet và điện thoại di động, thu hút đông đảo khách hàng sử dụng.

Theo thống kê mới nhất từ Ngân hàng Nhà nước, trong 9 tháng đầu năm 2018, số lượng giao dịch tài chính qua internet đạt 178 triệu giao dịch, với tổng giá trị khoảng 11 triệu tỷ đồng Điều này cho thấy sự tăng trưởng mạnh mẽ, tương ứng với 33% về số lượng và 18% về giá trị so với cùng kỳ năm 2017.

Trong năm 2023, số lượng giao dịch tài chính qua kênh di động đạt 122 triệu giao dịch, với tổng giá trị giao dịch gần 1,1 triệu tỷ đồng So với cùng kỳ năm 2017, số lượng giao dịch tăng 29% và giá trị giao dịch tăng 128%.

Nhiều ngân hàng thương mại đã áp dụng công nghệ hiện đại vào hoạt động thanh toán di động, sử dụng sinh trắc học như vân tay, khuôn mặt, giọng nói và công nghệ mã hóa thẻ Những giải pháp này không chỉ an toàn và tiện lợi mà còn được người dùng đón nhận tích cực, góp phần thúc đẩy sự gia tăng thanh toán không dùng tiền mặt trong cả khu vực tư nhân và công.

Theo ông Phạm Tiến Dũng, Vụ trưởng Vụ Thanh toán Ngân hàng Nhà nước, thanh toán không dùng tiền mặt đang ngày càng mở rộng trong khu vực công, bao gồm các lĩnh vực như thuế, điện, nước, học phí và chi trả các chương trình an sinh xã hội.

Hiện nay, có 27 ngân hàng và 10 tổ chức tín dụng cung cấp dịch vụ trung gian thanh toán cho tiền điện, trong khi 100% cơ sở y tế đã triển khai đề án thu tiền khám chữa bệnh Nhiều ngân hàng cũng đã đạt thỏa thuận hợp tác trong việc thu thuế hải quan trên 63 tỉnh, thành phố.

Bên cạnh đó, các doanh nghiệp bảo hiểm xã hội tích cực tham gia với số lượng 21% tổng số người hưởng chế độ được thanh toán qua ngân hàng.

Ngày đăng: 27/06/2021, 09:38

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
2. Kenneth Burdett, Alberto Trejos, Randall Wright (2017). A new suggestion for simplifying the theory of money. Journal of Economic Theory, PII: S0022- 0531(17)30098-4 Sách, tạp chí
Tiêu đề: A new suggestion for simplifying the theory of money
Tác giả: Kenneth Burdett, Alberto Trejos, Randall Wright
Nhà XB: Journal of Economic Theory
Năm: 2017
3. Musa Abdullahi Bayero (2015). Effects of Cashless Economy Policy on financial inclusion in Nigeria: An exploratory study. Procedia - Social and Behavioral Sciences 172 ( 2015 ) 49 - 56 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Effects of Cashless Economy Policy on financial inclusion in Nigeria: An exploratory study
Tác giả: Musa Abdullahi Bayero
Nhà XB: Procedia - Social and Behavioral Sciences
Năm: 2015
4. Nguyễn Văn Ngọc (2015), Tiền tệ, ngân hàng và thị tr−ờng tài chính, Nxb Đại học Kinh tế quốc dân Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tiền tệ, ngân hàng và thị tr−ờng tài chính
Tác giả: Nguyễn Văn Ngọc
Nhà XB: Nxb Đại học Kinh tế quốc dân
Năm: 2015
5. Nisvan Erkal, Lata Gangadharan, Boon Han Koh (2017). Monetary and non-monetary incentives in real- effort tournaments. European Economic Review, PII:S0014-2921(17)30209-X Sách, tạp chí
Tiêu đề: Monetary and non-monetary incentives in real- effort tournaments
Tác giả: Nisvan Erkal, Lata Gangadharan, Boon Han Koh
Nhà XB: European Economic Review
Năm: 2017
6. Ordu Monday Matthew, Anyanwaokoro, Mike (2016), Cashless Economic Policy in Nigeria: A Performance Appraisal of The Banking Industry, IOSR Journal of Business and Management (PP 01-17) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cashless Economic Policy in Nigeria: A Performance Appraisal of The Banking Industry
Tác giả: Ordu Monday Matthew, Anyanwaokoro, Mike
Nhà XB: IOSR Journal of Business and Management
Năm: 2016
7. Paul Vigna &amp; Michael J. Casey (Han Ly dịch) (2007), Kỷ nguyên tiền điện tử, Nxb Kinh tế quốc dân Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kỷ nguyên tiền điện tử
Tác giả: Paul Vigna, Michael J. Casey, Han Ly
Nhà XB: Nxb Kinh tế quốc dân
Năm: 2007
8. Sử Đình Thành và Vũ Thị Minh Hằng (2006), Nhập môn tài chính - tiền tệ, Nxb Đại học Quốc gia TP.Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nhập môn tài chính - tiền tệ
Tác giả: Sử Đình Thành, Vũ Thị Minh Hằng
Nhà XB: Nxb Đại học Quốc gia TP.Hồ Chí Minh
Năm: 2006
9. Thorsten Beck, Haki Pamuk, Ravindra Ramrattan, Burak R. Uras (2018). Payment instruments, finance and development, Journal of Development Economics 133 (2018) 162 – 186 Sách, tạp chí
Tiêu đề:
Tác giả: Thorsten Beck, Haki Pamuk, Ravindra Ramrattan, Burak R. Uras
Năm: 2018
10. Wanting Xiong, Han Fu, Yougui Wang (2016). Money creation and circulation in a credit economy.Physica A 465 (2017) 425–437 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Money creation and circulation in a credit economy
Tác giả: Wanting Xiong, Han Fu, Yougui Wang
Nhà XB: Physica A
Năm: 2016

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w