1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Văn hóa biển trong văn học dân gian truyền thống hải phòng

96 17 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Văn hóa biển trong văn hóa dân gian truyền thống Hải Phòng
Tác giả Nguyễn Thị Hà Anh
Người hướng dẫn GS.TS. Lê Chí Quế
Trường học Đại Học Quốc Gia Hà Nội - Trường Đại Học Khoa Học Xã Hội Và Nhân Văn
Chuyên ngành Văn học dân gian
Thể loại Luận văn thạc sĩ văn học
Năm xuất bản 2010
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 96
Dung lượng 744,61 KB

Nội dung

Với tất cả những lí do đã trình bày ở trên, chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu Văn hoá biển trong văn học dân gian truyền thống Hải Phòng.. Có thể nói, các công trình nghiên cứu về

Trang 1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

Trang 2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

Trang 3

MỤC LỤC

Số trang

Chương 1: Diện mạo thành phố biển Hải Phòng 7

1.3 Đặc trưng văn hoá biển Hải Phòng 12

Chương 2: Văn học dân gian trong các lễ hội tiêu biểu của

2.1 Mối quan hệ giữa Văn hóa dân gian và văn học dân gian 22

2.1.2 Mối quan hệ giữa Văn hoá dân gian và văn học dân gian 23 2.2 Lễ hội chọi trâu (lễ hội “Đấu ngưu” ) 26 2.2.1 Truyền thuyết dân gian trong lễ hội chọi trâu 26 2.2.2 Thơ ca dân gian trong lễ hội chọi trâu 33 2.2.3 Thơ ca hiện đại trong lễ hội chọi trâu 36 2.2.4 Tín ngưỡng dân gian trong lễ hội chọi trâu 38

2.3.1 Nữ tướng Lê Chân trong chính sử 46 2.3.2 Truyền thuyế t Lê Chân trong Thần tích 48 2.3.3 Truyền thuyết Lê Chân trong lễ hội 53

Chương 3: Dân ca vùng biển Hải Phòng 59

3.1.1 Nghệ thuật ngôn từ của hát Đ úm 60 3.1.2 Thời gian và không gian nghệ thuật của hát Đúm 61 3.1.3 Nghệ thuật diễn xướng của hát Đúm 64

Tài liệu tham khảo

Trang 4

MỞ ĐẦU

1 Lí do chọn đề tài:

Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, chăm lo phát triển văn hoá chính là tạo động lực phát triển đất nước Do vậy với những truyền thống tốt đẹp của mình, văn hoá dân gian đóng vai trò tích cực trong sự phát triển của

xã hội Việt Nam

Hiện nay, việc nghiên cứu văn học trong bối cảnh văn hoá đang được thịnh hành ở nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là ở Việt Nam Vì vậy, nhiều nhà nghiên cứu, nhiều nhà khoa học rất quan tâm và đã có những công trình nghiên cứu về lĩnh vực này

Người viết luận văn quê ở Hải Phòng, vừa sinh sống vừa làm việc tại Hải Phòng cho nên việc nghiên cứu, khảo sát đề tài về Hải Phòng có ý nghĩa

vô cùng quan trọng Nó giúp tôi hiểu rõ hơn về văn hoá dân gian của quê hương mình Do vậy, tôi muốn dùng tư liệu Hải Phòng để minh chứng cho vấn đề văn hoá biển trong văn học dân gian truyền thống

Hiện nay, tôi đang giảng dạy cho sinh viên ngành văn hoá du lịch, do

đó đề tài này sẽ góp một phần phục vụ cho công việc dạy , học và nghiên cứu về văn học dân gian của Hải Phòng

Với tất cả những lí do đã trình bày ở trên, chúng tôi chọn đề tài nghiên

cứu Văn hoá biển trong văn học dân gian truyền thống Hải Phòng

2 Lịch sử vấn đề:

Hải Phòng là một thành phố biển vùng Duyên hải Bắc bộ có nhiều thuận lợi về văn hoá, kinh tế, chính trị… của cả nước nên có rất nhiều tài liệu

đã viết về nó Tiêu biểu nhất là cuốn Địa chí Hải Phòng của hội đồng lịch sử

thành phố Hải Phòng (in năm 1990) Đây là một tài liệu rất có giá trị, được biên soạn khá công phu Tuy nhiên, những vấn đề về văn hoá, tín ngưỡng, con người, văn học… của cư dân Hải Phòng được đề cập tới vẫn mang tính chất

Trang 5

khái lược Về sau này ở Hải Phòng, còn có thêm cuốn Địa chí thị xã Đồ Sơn

của Thị uỷ - HĐND – UBND thị xã Đồ Sơn – Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn Hải Phòng (in năm 2003) Đây cũng là một trong những tài liệu được biên soạn khá chi tiết và công phu về các vấn đề văn hoá, lễ hội, tín ngưỡng, văn học… của cư dân biển Đồ Sơn Tuy nhiên, cuốn sách vẫn mang

tính chất chí chung

Nói chung, các tài liệu về địa chí đã cung cấp một sự nhận biết khá toàn diện về quê hương Hải Phòng trên nhiều lĩnh vực từ lịch sử, địa lí, văn hoá, tín ngưỡng, đến văn học dân gian… Đó là những cuốn sách được đánh giá là

có giá trị về mặt tư liệu Tuy nhiên, vì là loại sách chung viết về lịch sử, con người, văn hoá… nên tập sách chưa có điều kiện đi sâu vào những vấn đề của văn học dân gian

Nhờ có sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, các cơ quan và các ngành chức năng ở địa phương, nên Hải Phòng đã có khá nhiều công trình nghiên cứu, biên khảo, sưu tầm về đất nước, lịch sử, con người, văn hoá, văn học…

Đó là các tài liệu: Hải Phòng di tích lịch sử - văn hoá do Trịnh Minh Hiên (chủ biên) – 1993, Nhân vật lịch sử Hải Phòng – 2000, Văn hoá văn nghệ

dân gian Hải Phòng – 2001, Một số di sản văn hoá tiêu biểu của Hải Phòng

(2 tập) – 2001-2002, Lễ hội truyền thống tiêu biểu Hải Phòng do Trịnh

Minh Hiên (chủ biên) năm 2006… Ngoài ra còn có nhiều công trình nghiên

cứu riêng về văn hoá dân gian của cư dân biển Hải Phòng như: Non nước Đồ

Sơn của Trịnh Cao Tưởng – 1978, Hát Đúm Hải Phòng của Đinh Tiếp –

1987, Tìm hiểu ca trù Hải Phòng của Giang Thu – Vũ Thiệu Loan – 1999,

Đồ Sơn lịch sử và lễ hội chọi trâu của Đinh Phú Ngà – 2003,… Nhìn chung,

các tài liệu và các tác giả đã tiến hành giới thiệu khá kĩ lưỡng về lịch sử hình thành, về một số nhân vật lịch sử tiêu biểu, những di tích, tín ngưỡng, phong tục, tập quán, văn hoá văn nghệ, khảo tả khá chi tiết về các lễ hội… Nhưng do

Trang 6

tính chất sưu tầm, giới thiệu, chỉ ghi chép để bảo lưu là chính nên các tác giả không có điều kiện đi sâu phân tích, đánh giá các loại hình của văn học dân gian truyền thống

Bên cạnh đó cũng có nhiều tạp chí văn hoá, văn học ở trung ương và địa phương đều đề cập đến các di sản văn hoá dân gian, văn học dân gian của

cư dân biển Hải Phòng Các tạp chí đã giới thiệu các bài viết của một số tác giả nhưng còn khiêm tốn trên một vài lĩnh vực như khảo cổ, di tích, thắng cảnh, quản lí văn hoá… Nhưng do khuôn khổ và tính chất của tạp chí nên ít

có bài viết thực sự mang tính chất nghiên cứu sâu

Có thể nói, các công trình nghiên cứu về văn hoá biển của Hải Phòng là những tài liệu quý, có giá trị, nêu lên được những nét đặc trưng của vùng biển Hải Phòng nói riêng và vùng biển Duyên hải Bắc bộ nói chung Các tác giả đã đi sâu phân tích, chỉ ra được những nội dung, phương thức thể hiện, những nét đặc sắc riêng… của từng lễ hội, văn hóa dân gian như chọi trâu, hát đúm, ca trù…Nhưng đó là những công trình nghiên cứu riêng chưa có được cái nhìn tổng quan về văn hoá và văn học, chưa chỉ ra được những giá trị của văn học dân gian trong bối cảnh văn hoá

Ngoài ra, chúng tôi nhận thấy có một tài liệu rất có giá trị về văn hoá

của các làng ven biển Việt Nam, đó là Văn hoá dân gian làng ven biển do

Ngô Đức Thịnh (chủ biên) – 2000 Tài liệu đã đề cập tới một số vấn đề về folklore của cư dân ven biển và hải đảo ở một số vùng biển tiêu biểu của Việt Nam như vùng biển Trà Cổ, làng biển Quan Lạn, vùng biển Đồ Sơn… Nhưng

đó mới chỉ là những nhận xét bước đầu nhằm định hướng cho việc nghiên cứu lĩnh vực văn hoá biển nói chung Tài liệu chưa có điều kiện đi sâu tìm hiểu các thể loại văn học dân gian miền biển

Nhìn chung, các nhà nghiên cứu trong nước rất quan tâm, chú ý nhiều đến vấn đề này Về văn hoá biển của khu vực Bắc bộ thì ít có tài liệu nghiên

Trang 7

cứu hơn Họ tập trung chú ý đến các vùng ven biển Hải Phòng, Quảng Ninh… Nhưng phần lớn các nhà nghiên cứu quan tâm nhiều đến văn hoá biển của khu vực miền Trung, đặc biệt là các tỉnh Quảng Ngãi, Đà Nẵng, Ninh Thuận, Bình Thuận… Họ đã tổ chức được thành công các cuộc hội thảo và có nhiều công

trình nghiên cứu có giá trị về văn hoá biển miền Trung như: Văn hoá biển

miền Trung trong mối quan hệ với văn hoá biển Đông Nam Á của GS.TS

Mai Ngọc Chừ; Du lịch văn hoá biển miền Trung – tiềm năng và thách

thức của PGS.TS Lê Hồng Lý; Người Quảng Ngãi nhìn ra biển của TS

Nguyễn Đăng Vũ – Tạp chí Nguồn sáng dân gian, số 3-2007; Biển Đà Nẵng

– những thách thức về văn hoá của Bùi Văn Tiếng – Tạp chí Văn hoá dân

gian số 4-2007… Các công trình nghiên cứu đã nêu lên được những nét văn hoá đặc sắc của cư dân các vùng biển, nêu lên được những tiềm năng và thách thức về văn hoá trong bối cảnh hội nhập

Tóm lại, qua tất cả những sách, báo, các công trình nghiên cứu đề cập

ở trên, có thể nhận thấy rằng, đã có nhiều tài liệu nghiên cứu đến văn hoá dân gian, văn học dân gian của cư dân biển Hải Phòng Nhưng chưa có tài liệu nào nghiên cứu nó thành một hệ thống, nghiên cứu văn học trong bối cảnh văn hoá Nhiệm vụ của chúng tôi là xem xét lại toàn bộ các tài liệu về văn hoá dân gian của Hải Phòng, nghiên cứu, tìm hiểu văn học dân gian truyền thống trong các di sản văn hoá đó để phân tích, tổng hợp, đánh giá, khảo cứu, góp phần bảo lưu và phát huy giá trị của các hiện tượng văn hoá dân gian trong giai đoạn hiện nay

3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:

3.1 Đối tượng nghiên cứu:

Đối tượng nghiên cứu là các thể loại văn học dân gian truyền thống của Hải Phòng, qua đó khám phá những yếu tố của văn hoá biển

3.2 Phạm vi nghiên cứu:

Trang 8

Vì đề tài nghiên cứu khá rộng nên chúng tôi chỉ khảo sát, miêu tả, phân tích một số hiện tượng văn hoá dân gian tiêu biểu của cư dân biển Hải Phòng, nghiên cứu văn học dân gian truyền thống trong các hiện tượng văn hoá dân gian đó, để từ đó nêu một số giải pháp làm giàu và phát huy các giá trị văn hoá,

cụ thể như: lễ hội chọi trâu, lễ hội đền Nghè, hát Đúm và ca trù

4 Những đóng góp của luận văn:

- Trình bày, bổ sung tư liệu về văn học dân gian có liên quan đến các hiện tượng văn hoá dân gian tiêu biểu của cư dân biển Hải Phòng

- Luận văn góp tiếng nói vào công cuộc bảo tồn, phát huy giá trị văn hoá dân gian của vùng biển Hải Phòng

5 Phương pháp nghiên cứu:

Để thực hiện đề tài, chúng tôi sẽ sử dụng một số phương pháp nghiên cứu chính trong quá trình phân tích, tổng hợp, nghiên cứu

- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: đứng trên mảnh đất của văn học dân gian kết hợp với một số tri thức của các ngành khoa học khác như văn hoá học, dân tộc học, lịch sử…

- Ngoài ra, luận văn còn kết hợp giữa phương pháp xử lí văn bản với phương pháp điền dã thực địa

6 Bố cục của luận văn:

Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, thư mục tham khảo, phụ lục, phần nội dung chính của luận văn được chia làm 3 chương

Chương 1 Diện mạo thành phố biển Hải Phòng

Chương 2 Các lễ hội tiêu biểu của Hải Phòng

Chương 3 Dân ca vùng biển Hải Phòng

Trang 9

cả nước

Về ranh giới hành chính :

Phía bắc giáp tỉnh Quả ng Ninh

Phía nam giáp tỉnh Thái Bình

Phía tây giáp tỉnh Hải Dương

Phía đông giáp biển Đông

Thành phố có tọa độ địa lí :

Từ 200

30'39' - 21001'15' Vĩ độ Bắc

Từ 1060

23'39' - 107008'39' Kinh độ Đông

Ngoài ra còn có huyện đảo Bạch Long Vĩ nằm giữa Vịnh Bắc Bộ, có toạ độ từ 200

07'35' - 20008'36' Vĩ độ Bắc và từ 1070

42'20' - 107044'15' Kinh độ Đông

Hải Phòng nằm ở vị trí giao lưu thuận lợi với các tỉnh trong nước và quốc tế thông qua hệ thống giao thông đường bộ, đường sắt, đường biển, đường sông và đường hàng không

Địa hình Hải Phòng thay đổi rất đa dạng phản ánh một quá trình lịch sử địa chất lâu dài và phức tạp Phía bắc Hải Phòng có dáng dấp của một vùng trung du với những đồng bằ ng xen đồi Trong khi đó phía nam thành phố lại

Trang 10

có địa hình thấp và khá bằng phẳng của một vùng đồng bằng thuần túy

nghiêng ra biển

Vùng biển Hải Phòng là một bộ phận thuộc tây bắc vịnh Bắc bộ Các đặc điểm cấu trú c địa hình đáy biển và đặc điểm hải văn biển Hải Phòng gắn liền với những đặc điểm chung của vịnh Bắc bộ và biển Đông

Độ sâu của biển Hải Phòng không lớn Đường đẳng sâu 2m chạy quanh mũi Đồ Sơn rồi hạ xuống 5m ở cách bờ khá xa Ở đáy biển nơi có các cửa sông đổ ra, do sức xâm thực của dòng chảy nên độ sâu lớn hơn Ra xa ngoài khơi , đáy biển hạ thấp dần theo độ sâu của vịnh Bắc bộ , chừng 30 - 40m Mặt đáy biển Hải Phòng được cấu tạo bằng thành phần mịn , có nhiều lạch sâu vốn là những lòng sông cũ nay dùng làm luồng lạch ra vào hàng ngày của tàu biển

Hải Phòng có bờ biển dài trên 125km kể cả bờ biển chung quanh các đảo khơi Bờ biển có hướng một đường cong lõm của bờ vịnh Bắc bộ , thấp và khá bằng phẳng, cấu tạo chủ yếu là cát bùn do năm cửa sông chính đổ ra Trên đoạn chính giữa bờ biển , mũi Đồ Sơn nhô ra như một bán đảo , đây là điểm mút của dải đồi núi chạy ra từ trong đất liền, có cấu tạo đá cát kết (sa thạch) tuổi Đevon, đỉnh c ao nhất đạt 125m, độ dài nhô ra biển 5km theo hướng tây bắc – đông nam Ưu thế về cấu trúc tự nhiên này đã tạo cho Đồ Sơn có một vị trí chiến lược quan trọng trên mặt biển ; đồng thời cũng là một thắng cảnh nổi tiếng Dưới chân những đồi đá cát kết có bãi tắm , có nơi nghỉ mát nên thơ và khu an dưỡng có giá trị Ngoài khơi thuộc địa phận Hải Phòng có nhiều đảo rải rác trên khắp mặt biển, lớn nhất có đảo Cát Bà, xa nhất là đảo Bạch Long Vĩ

Biển, bờ biển và hải đảo đã tạo nên cảnh quan thiên nhiên đặc sắc của thành ph ố Duyên H ải Đây cũng là một thế mạnh tiềm năng của nền kinh t ế địa phương

1.2 Lịch sử, con người Hải Phòng :

Trang 11

Hải Phòng là một vùng đất nhanh nhạy , đi đầu trong nhiều việc và giàu truyền thống đấu tranh Kể từ những ngày nữ tướng Lê Chân chiêu mộ dân lành lập làng Vẻn Bà là người đã khai phá đầu tiên một vùng nơi đầu sóng ngọn gió Tiếp theo đó, phải kể đến những chiến công của Bạch Đằng lịch sử lừng lẫy non sông Hai lần đế quốc Pháp xâm lược nhưng Hải Phòng vẫn đi đầu cả nước từ chống pháo th uyền trên đất bắc đến mở đầu tác chiến trong thành phố Trong kìm kẹp của hậu địch sâu , cả nội ngoại thành đã vùng lên giành chiến thắng để cuối cùng có “Biển lửa Cát Bi” phối hợp tuyệt đẹp với toàn quốc làm nên chiế n thắng Điện Biên Phủ chấn động địa cầu

Trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước , Hải Phòng đã đánh trả quyết liệt và lập bến mở “Đường Hồ Chí Minh trên biển” Cùng với thủ đô Hà Nội và một số các tỉnh khác , Hải Phòng vừa phòng ngự vừa tiến công đập tan chiến dịch tập kích đường không lập nên chiến thắng Điện Biên Phủ trên

không Bên cạnh đó , các cuộc đấu tranh xã hội khác cũng khá nhiều Đặc biệt là cuộc khởi nghĩa lớn của nông dân chống lại triều đình phong kiến như cuộc khởi nghĩa của Quận He Nguyễn Hữu Cầu (1740 - 1750) lập căn cứ Đồ Sơn quyết chiến cùng quan quân Có lúc , cuộc khởi nghĩa mở rộng ra cả miền Đông, làm rung động kinh thành Thăng Lo ng thời vua Lê, chúa Trịnh

Như vậy, truyền thống đấu tranh ch ống giặc ngoại xâm bảo vệ T ổ quốc, người Hải Phòng đã góp phần xứng đáng , có mặt trên tuyến đầu của tất cả các thời điểm nóng bỏng của lịch sử Nhiều đình chùa, đền miếu thờ các tiên công, các danh tướng, danh thần…ở khắp nơi trong thành phố

Đến thời cận hiện đại , dưới sự lãnh đạo của Đảng , vai trò đóng góp của người Hải Phòng càng nổi bật trong những cuộc chiến chống kẻ thù xâm lược , xứng đáng là một thành phố “Trung dũng – quyết thắng” Càng tự hào với truyền thống ta càng yêu quý mảnh đất đã cống hiến nhiều công sức làm nên lịch sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam anh hùng

Trang 12

Trong đấu tranh giai cấp , đấu tranh dân tộc của thời kì cận hiện đại , giai cấp công nhân Hải Phòng được hình thành sớm , Đảng bộ cộng sản thành lập năm 1929 Nhiều cuộc đấu tranh quyết liệt nổ ra liên tiếp chống chế độ thực dân phát triển mạnh cả về số lượng và chất lượng Qua những phong trào này, rất nhiều cán bộ của trung ương và địa phương đã được đào tạo , rèn luyện có xuất thân từ lao động và công nhân

Hòa bình lập lại, đặc biệt là sau ngày 13-5-1955, Hải Phòng đã nhanh chóng xây dựng chủ nghĩa xã hội , phát triển kinh tế Làm kinh tế bước đầu ,

“Sóng Duyên Hải” dâng cao trên trận địa công nghiệp , tổ đá nhỏ ca A - nhà máy xi măng xây dựng tổ lao động xã hội chủ ng hĩa Đầu những năm 80, khi quản lí nông nghiệp còn nhiều lúng túng , nông nghiệp Hải Phòng lại là một nơi đi đầu trong việc tháo gỡ khó khăn Do vậy, nông nghiệp Hải Phòng đã tiến lên một bước mới đáng k ể

Như vậy , Hải Phò ng là một thành phố nhanh nhạy với cái mới , giàu truyền thống đấu tran h, “Trung dũng, quyết thắng”

Vị trí địa lí của vùng đất đã tạo cho Hải Phòng trở thành một đầu mối giao thông quan trọng , một trung tâm công nghiệp , thương mại và là một Cảng biển có tiếng tăm ở Viễn Đông

Bên cạnh lịch sử vẻ vang , hào hùng đó, con người đóng vai trò rất quan trọng “Bản chất con người là tổ ng hòa các mối quan hệ xã hội’, từ vị trí con người làm nên lịch sử và là tr ung tâm của lịch sử , chúng ta thử xem xét nhiều khía cạnh con người Hải Phòng , thành viên của cộng đồng dân tộc Việt Nam Con người Hải Phòng có những đặc tính chung của con người Việt Nam, do tác động củ a thiên nhiên và hoàn cảnh kinh tế - xã hội cụ thể của một vùng nên có những nét riêng Cái chung và cái riêng đó thống nhất một cách biện chứng với nhau

Trang 13

Nói đến con người , người ta thấy con người nằm trong ba tiềm năng về đất đai, ngành nghề và lao đ ộng Lao động ở Hải Phòng l à lao động có trí tuệ ,

có khoa học, có kĩ thuật và rất quý giá Lực lượng lao động xa xưa ở đất này phổ biến là trồng trọt , chăn nuôi và săn bắt Sau hàng trăm nă m rèn luyện trong nền kinh tế khá tổng hợp , nhiều mặt chuyên dùng , ba dạng lao động trên vẫn là những lực lượng chủ yếu của thành phố Cảng

Hải Phòng có 80 vạn dân sống ở nông thôn Đây là lực lượng lao động khá hùng hậu Cùng với khoa học kĩ thuật trong nông nghiệp , con người bớt lam lũ hơn, đấu tranh với thiên nhiên miền biển có hiệu quả hơn , đóng góp nhiều mặt cho xã hội

Bên cạnh đó lao động trí óc , đại học, trên đại học có trên một vạn người

so với số lượng cũ thời Pháp thuộc Lực lượng lao động thủ công nghiệp được phát triển nhảy vọt làm đủ các mặt hàng cơ khí tiêu dùng , xuất khẩu phục vụ nông nghiệp Sức mạnh tổng hợp của lực lượng lao động t hể hiện rõ đã dùng trí tuệ , tài năng , kĩ thuật, truyền thống tay nghề giải quyết được nhiều khó khăn Vậy mà có lúc tưởng chừng không thể khắc phục nổi trong cải tạo , xây dựng, chống thiên tai , đối phó với chiến tranh , khôi phục kinh tế sau chiến tranh, trong tiếp thu k ĩ thuật mới của thời đại

Khi nói đến con người Hải Phòng , trước hết phải nói tới đức tính d ũng cảm, có dũng mà lại thông minh , đa mưu sáng tạo Người Hải Phòng chống hàng loạt kẻ thù đầu sỏ , chống thiên tai , bão lũ, chống cướp biển , tàu ô… góp phần xây dựng và bảo vệ đất nước

“Có thể tóm lại trong đấu tranh với thiên nhiên , trong sản xuất , đấu tranh dân tộc và xã hội, qua tranh luận lâu d ài đã rèn luyện nên con người ở đây có đức tính hăng hái , tháo vát, dũng cảm , năng động , sáng tạo, nhạy bén và ứng phó nhanh vói tình hình mới , có tinh thần tập thể của nhữ ng người làm công nghiệp , khi cần biết dựa và o nhau để tiến công trong sản xuất và chiến

Trang 14

đấu… Lí tưởng lòng tin và nhân sinh quan cách mạng ; trí tuệ và năng lực , tấm lòng và trách nhiệm là những vấn đề thời sự gắn bó hữu cơ đang thử thách quyết liệt người Hải Phò ng trong lúc đổi mới tư duy , đổi mới phong cách , lấy dân làm gốc, xây dựng con người mới ”[11, tr 20]

Đổi mới tư duy nhất là tư duy kinh tế , xã hội chuyển động , với bản lĩnh vốn có, con người Hải Phòng sẽ bắt nhanh tốc độ , theo kịp tình hình , phát huy thế mạnh , hạn chế dần những yếu kém Chắc chắn họ sẽ làm nên những kì tích trong việc xây dựng thành phố xã hội chủ nghĩa để xứng đáng với lịch sử và vị thế của nó

1.3 Đặc trưng văn hóa biển Hải Phòng :

1.3.1 Những vấn đề về văn hóa biển :

Theo quan niệm truyền thống , Việt Nam được phân thành “Tam sơn , tứ hải, nhất phần điền” Nghĩa là có ba phần núi , bốn phần biển và một phần ruộng Nước ta lại giàu tài nguyên thiên nhiên, có “Rừng vàng, biển bạc” “Và cũng là một trong các quốc gia có bờ biển dài , nối từ Móng Cái (phía bắc) tới Hà Tiên (phía nam), bao bọc ba mặt phía đông , nam và một phần phía tây đất nước, dài khoản g trên 3000 km Theo Công ước quốc tế về Luật biển (1992,1994), thì Việt Nam có chủ quyền trên một diện tích khoảng

1.000.000km2” [32, tr 9] Như vậy , nếu xét cả về diện tích và nguồn tài nguyên… thì biển giữ vai trò quan trọ ng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước cũng như trong sự nghiệ p công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước

Đối với Việt Nam , cư dân và truyền thống lịch sử là những nhân tố quan trọng nhất tạo nên diện mạo văn h oá biển Từ hàng vạn năm nay , môi trường sống quen thuộc của cư dân biển Việt Nam là môi trường sông nước , với một hệ thống sông ngòi dày đặc và một hệ thống biển bao quanh Chính môi trường sông nước này đã để lại những dấu ấ n sâu đậm trong văn h oá của Việt Nam

Trang 15

Các nhà nghiên cứu , các nhà khảo cổ học nước ta đã phát hiện các di chỉ khảo cổ học nằm dọc bờ biển và hải đảo Đó là các văn h oá khảo cổ như : Hạ Long (Quảng Ninh ), Hoa Lộc (Thanh Hóa), Sa Huỳnh (Quảng Ngãi ), Tràng Kênh (Hải Phòng )… Mỗi một di chỉ khảo cổ như vậy mang những nét đặc sắc của vùng biển Việt Nam Và ở đây cũng minh chứng cho sự hiện diện của cư dân biển và hải đảo Đặc biệt là di chỉ khảo cổ Tràng Kênh (Hải Phòng) Đây là một trong các di chỉ hiếm hoi thuộc thời đại đồng thau sơ kì ở ven biển đông bắc nước ta Người Tràng Kênh điển hình cho giao lưu giữa văn hoá biển và nội địa Họ vừa làm nông nghiệp v ừa đánh bắt cá biển và đi lại trên biển

Trong quá trình phát triển của mình , người Việt đã “Lấn biển” do vậy cái “Chất biển” trong văn h oá của họ ngày càng tăng Với truyền thống lịch sử và thực tế khai thác biển hiệ n nay của người Việt , các nhà nghiên cứu đã chia người Việt ở dọc duyên hải từ Móng Cái đến Hà Tiên thành hai bộ phận

Bộ phận thứ nhất là người Việt từ Móng Cái đến Nghệ Tĩnh Yếu tố biển trong văn h oá truyền thống của họ chưa thật đậm nét Việc khai thác tài nguyên biển chưa mạnh Người ta thấy có sự kết hợp giữa nông nghiệp và ngư nghiệp trong từng cộng đồng dân cư Tất cả những đặc điểm trên có thể là do vùng biển vịnh Bắc bộ là biển nông , biển nội địa do vậy cá không có nhiều Hoặc nguồn gốc của cư dân ven biển ở đây chủ yếu là dân nông

nghiệp… Chính điều này đã tạo nên sự khác biệt đối với cư dân ven biển của người Việt từ Nghệ Tĩnh trở vào nam Đây chính là bộ phận thứ hai

Truyền thống biển trong văn hóa của người Việt ở bộ phận thứ hai đậm nét hơn so với bộ phận thứ nhất Hơn nữa , các làng ngư nghiệp ở vùng này cũng thuần nhất hơn Việc khai thác thủy s ản chiếm tỉ lệ cao hơn so với nông nghiệp Có thể là do vùng biển nơi đây sâu hơn , có hải lưu nóng và lạnh đi qua nên có nhiều hải sản Ngoài ra , người Việt nơi đây đã tiếp thu truyền

Trang 16

thống khai thác biển của người Chăm và v ùng biển nơi đây gần như là vùng độc chiếm của người Việt

Như vậy, cư dân đồng bằng Bắc bộ và Nam bộ là cư dân nông nghiệp kết hợp với khai thác nguồn thủy sản Còn cư dân Duyên Hải miền T rung lại khai thác mạnh nguồn lợ i thủy sản trên biển Có thể nhận thấy rằng , những điều kiện về địa lí , đặc điểm kinh tế biển khác nhau đã tạo nên những yếu tố văn hoá biển khác nhau của hai bộ phận kể trên

Do truyền thống dân cư và định hướng khai th ác đa dạng nên Việt Nam xưa kia cũng như ngày nay không có một nền văn h oá biển điển hình Mà ở đây chỉ là “Những yếu tố văn h oá biển đan xen với văn h oá nông nghiệp tạo nên một sắc diện văn h oá đặc thù của cư dân ven biển” [32, tr 69] Tất cả góp phần làm phong phú và đa dạng hơn văn h oá Việt Nam

1.3.2 Văn hoá biển Hải Phòng từ truyền thống đến hiện đại :

Vùng biển Hải Phòng là một bộ phận thuộc tây bắc vịnh Bắc bộ Các đặc điểm cấu tr úc địa hình đáy biển và đặc điểm hải văn biển Hải Phòng gắn liền với những đặc điểm chung của vịnh Bắc bộ và biển Đông Chính vì v ậy, văn hoá biển Hải Phòng cũng mang những nét văn h oá của người Việt từ Móng Cái đến Nghệ Tĩnh

Hải Phòng là vùng đất có bề dày lịch sử với những sự kiện, những nhân vật, những thời kì phát triển rất sinh động và độc đáo Đây là vùng đất mà trong suốt tiến trình lịch sử của mình vừa mang những nét cổ xưa vừa trẻ trung sôi động Là một vùng đất cửa sông, ven biển, Hải Phòng có sự giao thoa rất đậm nét giữa văn hoá nông nghiệp với các yếu tố văn hoá biển Hải Phòng là một “Đầu mối giao thông”, là một “Cửa chính ra biển” của quốc gia trên địa bàn Bắc bộ nên rất giàu có về văn hoá

Đảo Cát Bà là một hòn đảo lớn và đẹp nhất trong quần thể Hạ Long

Trong đó có di chỉ nổi tiếng thế giới Cái Bèo, phản ánh rõ nét đời sống lao

Trang 17

động sáng tạo của người Việt cổ xưa Đó là nền văn hoá Hạ Long mang đậm nét biển khơi

Thuỷ Nguyên, vùng đất cổ xưa, nay vẫn còn lưu giữ nhiều di tích văn hoá độc đáo Di chỉ Tràng Kênh - một công xưởng chế tác đồ đá có quy mô lớn và đạt trình độ kĩ thuật tinh xảo bậc nhất của người xưa Mộ cổ Việt Khê với những đồ đồng đẹp và tinh xảo Đặc biệt là tiếng hát Đúm ở Th ủy Nguyên đã cuốn hút nam thanh nữ tú khắp nơi đua nhau về đây trẩy hội Tiếp đến là tiếng hát ca trù Đông Môn nổi tiếng thu hút nghệ nhân các tỉnh về lễ tiên sư , tiên thánh Vì có thể nơi đây có truyền thống lâu đời và là một nơi gốc nghề của miền Bắc

Vĩnh Bảo, một vùng đất vẫn còn bảo lưu nhiều nét của nông thôn cổ xưa với những di sản văn hoá đầy ấn tượng như: Đền thờ Nguyễn Bỉnh Khiêm – danh nhân văn hoá của đất nước; làng nghề tạc tượng Bảo Hà đậm nét bản sắc dân gian; một Cổ Am đất học khoa bảng mà nay vẫn tiếp tục được như xưa…

Ngoài ra phải kể tới Đồ Sơn - một khu du lịch nghỉ mát nổi tiếng, mang nhiều nét văn hoá biển độc đáo của Hải Phòng Đây là nơi có nhiều di tích, nhiều truyền thuyết tín ngưỡng đậm màu sắc địa phương Và chọi trâu là một lễ hội đặc sắc của cư dân biển Hải Phòng

Đặc điểm tổ chức xã hội của cư dân ven biển Hải Phòng: Cư dân ven biển Hải Phòng có thành phần và nguồn gốc khá phức tạp, do vậy cơ cấu tổ chức làng xã cũng rất đa dạng Phần lớn ngư dân ven biển sinh sống, định cư trên đất liền thành các thôn làng, một hình thức tổ chức xã hội cơ bản như phần lớn cư dân nông nghiệp khác Cư dân các làng vẫn còn lưu giữ hồi ức là họ từ một nơi nào đó tới đây lập cư ở đây, có người từ biển vào nhưng cũng

có gia đình, dòng họ lại từ Hải Dương hay các tỉnh khác trong đồng bằng đi

ra Nói chung, đối với họ nơi đang sống là nơi đất mới khai khẩn Bên cạnh

Trang 18

đó, kết cấu nghề nghiệp của cư dân trong làng cũng rất đa dạng, họ vừa đánh bắt cá vừa làm nông nghiệp, nghề muối, buôn bán…Tuy hình thức bề ngoài làng ngư dân có một chút khác biệt so với các làng của nông dân, nhưng cách thức phân chia thành xóm, phe giáp, phường, các công trình kiến trúc công cộng cũng giống như ở một làng nông nghiệp có đình, đền… Cư dân làm nghề biển Đồ Sơn tập trung sinh sống ở bát vạn chài : Vạn Lê, Vạn Bún, Vạn Ngang, Vạn Tác, Vạn Hoa, Vạn Hương , Vạn Thủ Tám vạn chài đó nay được chia thành các phường : Ngọc Hải, Vạn Hương

Ngoài ra, chúng ta còn thấy trong các làng của ngư dân vẫn sử dụng Hương ước như một loại luật tục của làng xã

Về tín ngưỡng, tôn giáo: Đối với ngư dân, tín ngưỡng tôn giáo chiếm vị trí rất quan trọng trong đời sống tinh thần Có lẽ bởi điều kiện sống và lao động của họ trong môi trường biển cả vừa giàu có, ưu ái con người vừa thách thức, đe doạ tới tính mạng của họ Do vậy, họ luôn có niềm tin vào lực lượng siêu nhiên trước biển cả bao la, hùng vĩ

Người dân biển Hải Phòng cũng giống như người Việt đồng bằng Bắc bộ, có tín ngưỡng dân gian như họ thờ cúng ông bà, tổ tiên Họ lập bàn thờ nơi trang trọng nhất trong nhà và tiến hành cúng lễ vào dịp giỗ và các ngày lễ trong năm Ngoài ra, họ còn thờ Thần thánh và Thành hoàng làng, thờ Thuỷ thần… Như ở Đền Nghè - Đồ Sơn thờ Thần biển là Thần Điểm Tước đồng thời cũng là vị Thành Hoàng chung của cư dân cả vùng Đồ Sơn Và Đồ Sơn còn nhiều địa điểm thờ cúng như Đình Ngọc, đền Vừng, đền Dáu…

Bên cạnh đó , các tín ngưỡng tôn giáo như đạo Gia Tô , đạo Tin lành , đạo Hồi, đạo Phật… du nhập vào Hải Phòng phát triển mạnh mẽ Đạo Gia Tô vào đầu tiên ở huyện Tiên Minh (Tiên Lãng ) hai, ba trăm năm trước rồi phát triển ra các vùng ven sông Nội thành có các nhà thờ lớn , nhỏ… khác nhau Đặc biệt đạo Phậ t là tôn giáo thâm nhập ở Đồ Sơn sâu sắc nhất Một số nhà

Trang 19

nghiên cứu cho rằng Phật giáo du nhập vào Việt Nam từ Ấn Độ bằng đường biển qua Đồ Sơn Chùa Hang Đồ Sơn tương truyền là nơi nhà sư ở Thiên Trúc đến trụ trì từ th ế kỉ III (trước công nguyên ) Hải Phòng còn lưu lại nhiều chùa được xếp hạng di tích lịch sử như chùa Dư Hàng , chùa Đông Khê , chùa Vẽ… Những năm gần đây , hệ thống chùa chiền , tượng tháp ở Hải Phòng từng bước được chú trọng xây dựng

Về tri thức, phong tục tập quán có liên quan đến nghề biển : Cư dân ven biển Hải Phòng đã sống và lao động cần cù trên mảnh đất quê hương Họ đã khai thác mọi thế mạnh của vùng đất quê mình để xây dựng cuộc số ng từ trong những công việc bình thường giản dị của nghề nông , nghề đánh bắt cá hoặc chăn nuôi hải sản Mỗi khi ra khơi , ngư dân thường có sự chuẩn bị rất chu đáo như xem thời tiết , cầu khấn Lão Đảo thần vương và Hà bá th ủy quan, ông sông bà lạch để mọi sự bình an khi đi biển Họ còn có những hành động kiêng kị để mong gặp những điều may mắn , tránh mọi sự rủi ro Như ở Đồ Sơn trước mỗi mùa đi biển khoảng thời gian sau ngày rằm , ngư dân thường làm lễ tại nhà , sau đó ra lễ tại đình Nghè cầu khấn thành hoàng phù hộ mọi sự yên ấm trong gia đình và có những mùa cá bội thu Khi ra khơi , ngư dân thường cập bến vào Miếu Cụ trên đảo Dáu để vái Đức Nam Hải thần vương – thần bảo trợ cho những người đi biển Điều này có tác động tâm lí rất tốt đối với người dân chài Đồ Sơn Họ thường không ra biển vào những ngày lẻ hoặc những ngày sát chủ vì họ quan niệm vào những ngày ấy không gặp rủi ro thì sản lượng cá cũng ít Đặc biệt, người đi biển rất kiêng kị ra ngõ gặp đàn bà con gái , nhất là phụ nữ có mang Để chuẩn bị cho chuyến ra khơi , phụ nữ mang thai không được mang lưới xuống thuyền , không tiễn chân, không đi qua mũi thuyền… Nếu chẳng may phạm phải những điều đó thì họ phải đốt vía, giải vía bằng cách đốt lá dứa để át vía độc Người dân đi biển còn kiêng không gặp những người có tang Những người đang chịu tang không được

Trang 20

bước xuống thuyền của họ Thậm chí , những người đi dự đám tang về , phải tắm rửa , thay quần áo sạch sẽ mới được xuống thuyền…Tất cả đều thể hiện phong tục tập quán của cư dân vùng biển Hải Phòng

Những tri th ức dân gian của ngư dân về thời tiết , về biển rất phong phú và sinh động Họ có thể xem thời tiết dựa vào các hiện tượng tự nhiên Để biết trước được những cơn bão sắp tới , người ta thường nhìn vào các hiện tượng của mặt trời: nếu mặt trời khi lặn có tua hình dẻ quạt , hoặc gió nam thổi , mặt trời có mống ở đằng đông , hay ráng ở đằng tây đỏ rực , vệt xanh chạy ngang qua mặt trời đỏ (then cài) thì có nghĩa biển sắp có động Họ cũng nhìn biển để

có thể đoán định được thời tiết Chẳng hạn : để biết trời có dông mưa hay không, người ta thường xem bọt nước biển Nếu bọt biển màu trắng thì khí hậu bình thường Còn nếu bọt biển có màu xám , nước biển sủi bọt, kiến bò ra thì có nghĩa trời sẽ nổi dông , dông mưa sắp kéo đến Ngoài ra, nếu thấy nước biển đang trong xanh bỗng thấy đục ở dưới chân là sắp có bão , sóng biển cuộn hơn bình thường , nước vẩn đục , kéo lên thấy có n hiều bùn đất lẫn rong rêu thì cũng báo trước ngày biển động …

Nói chung, vùng biển của Hải Phòng hiếm thấy có các bài hò vè đi biển như một số vùng biển ở miền Trung mà ở đây chỉ có sự phong phú của truyện kể dân gian, đời sống tâm linh với các hình thức tín ngưỡng đa dạng

Về lễ hội: Hải Phòng có rất nhiều lễ hội mang nét văn hóa truyền thống của dân tộc đồng thời cũng thể hiện nét văn hóa đặc sắc của vùng biển xứ Đông Đó là lễ hội Đền Nghè , lễ hội chọi trâu… tôn vinh người anh hùng dân tộc và vị Thành hoàng làng Đặc biệt, hiếm có vùng biển nào lại có một lễ hội đặc sắc mang tính chất toàn quốc như lễ hội chọi trâu Ngoài ra còn có hội h át Đúm, hội ca trù Đông Môn, hội bơi thuyền Cát Hải… góp phần làm giàu thêm kho tàng văn h oá dân gian của cả dân tộc Hội hè, đình đám phát triển mạnh

cả về số lượng và chất lượng như rước thần , múa sư tử , chọi gà, hát chèo…,

Trang 21

sau này thêm cải lương Nam bộ , leo cầu phao… Hội Tây thì có rước thánh , có kèn đồng, xiếc…, sân khấu Tây có các loại cổ điển , câm bi, hài kịch… Tất cả những cái đó đều thể hiện văn hoá phong phú, đa dạng của Hải Phòng

Hải Phòng có số lượng người Hoa du nhập vào đây rất nhiều Vì vậy họ cũng mang theo những nét vă n hoá của mình Nơi đây có hội quán Hoa Kiều ,

có trường dạy chữ Hán Kiều Tiểu , Kiều Trung , có câu lạc bộ thương mại , kiến trúc lợp ngói máng

Đến thời cận hiện đại , Hải Phòng có sự ti ếp xúc giữa nền văn hoátruyền thống và trào lưu văn h oá phương Tây Văn hoá phương Tây phát triển mạnh ở nội thành và ngày càng mở rộng giao tiếp Đầu tiên là tín ngưỡng tôn giáo như đạo Gia Tô , đạo Tin lành , đạo Hồi… du nhập vào Hải Phòng phát triển mạnh mẽ Nhiều câu lạc bộ Hội âm nhạc , câu lạc bộ thể thao như bóng đá, bóng bàn, quần vợt , bơi lội… thu hút được giới t rẻ tập luyện phù hợp với tốc độ của xã hội công nghiệp Các phong trào này từng có tiếng vang và giành được nhiều giải thưởng lớn trong nước và quốc tế

Hàng loạt kĩ thuật hiện đại ra đời từ sản xuất công nghiệp , khai thác , dịch vụ đến nay đã thành truyền thống Do ảnh hưởng của văn h oá phương Tây nên kiến trúc đô thị mang ánh sáng nhập chủ yếu từ nước Pháp Nghệ thuật xây dựng công viên , trồng tỉa cỏ hoa được phổ biến khắp nơi Đặc biệt là cây hoa phượng đã trở thành một biểu trưng của thành phố cảng mà âm hưởng của nó còn vang mãi trong bài ca “Thành phố Hoa phượng đỏ”

Ngoài ra, lĩnh vực báo chí ở đây cũng là nơi có tiếng với nhiều tạp chí trong nước và quốc tế Bên cạnh sách báo tuyên truyền văn h oá phương Tây ,

đế quốc mị ngu dân có sách báo tuyên truyền cách mạng , sách văn nghệ dân gian, văn học phát triển với các tác phẩm nổi tiếng như “Bỉ Vỏ” , hay “Cửa biển” của Nguyên Hồng

Trang 22

Với phương châm phát huy truyền thống , xây dựng nền văn h oá xã hội chủ nghĩa , phong trào văn h oá văn nghệ trong quần chúng phát triển mạnh Từ gốc với chi hội văn nghệ , chi hội địa phương và là cơ sở của Hội liên hiệp văn học nghệ thuật thành phố có tiếng nói là tạp chí “Cửa biển” Một số tác giả là công nhân , lao động Họ đã có nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật có giá trị, ngày càng đổi mới tư duy , khám phá cuộc sống c ủa giai cấp công nhân và con người đất cảng

Ngoài ra nếp sống văn minh lịch sự được phát động đã đem đến những tiến bộ đáng mừng trong gia đình và xã hội

Con người đất cảng rất thân thiện , mến khách và là những người “Ăn sóng nói gió” Họ cũng biết “Ăn chơi” Cách ăn mặc của người dân nơi đây vẫn giữ bản sắc riêng , dù có lúc hòa đồng nhưng khi giao tiếp thì phân biệt rõ tầng lớp, địa phương, dân tộc Mặc thì phải đúng mốt và “sành điệu” Còn các món ăn thì mang những nét đặc thù, đặc sắc của miền biển với đa dạng hải sản Đặc biệt là món bánh đa cua của Hải Phòng rất thơm ngon và có hương vị riêng Ở Hải Phòng, ngoài các món ăn hải sản còn có thêm các món ăn Tàu với đủ sơn hào hải vị Ăn Tây thì không nhiều món nhưng rượu quý , khách sạn bàn ghế lại rất sang trọng

Tuy nhiên , trên mặt trận văn h oá vẫn còn nhiều biểu hiện tiêu cực , tệ nạn xã hội phát triển nghiêm trọng Nhưng dù sao đó vẫn là những hiện tượng nhất thời Nếu nhìn về quá khứ , nhìn về bản chất và hiện tượng , nhìn về lí luận và thực tiễn , nhìn về nhịp sống phù hợp với văn minh thời đại , Hải Phòng có nhiều tiền đề và điều kiện để trở thành một trung tâm văn h oá lớn ở miền biển Sự vận động nội tại chủ quan của nó đảm bảo hứa hẹn và quyết định thành công Tuy nhiên quá trình đó không thể loại trừ nghiêm khắc trong cuộc đấu tranh với các miền văn h oá khác

Trang 23

Tiểu kết

Hải Phòng là một thành phố ven biển , nằm phía Đông miền Duyên hải Bắc Bộ, có vị trí giao lưu thuận lợi với các tỉnh trong nước và quốc tế thông qua hệ thống giao thông đường bộ, đường sắt, đường biển, đường sông và đường hàng không Biển, bờ biển và hải đảo đã tạo nên cảnh quan thiên nhiên đặc sắc của thành phố Duyên Hải Đây cũng là một thế mạnh tiềm năng của nền kinh tế địa ph ương và phát triển văn h oá Nhiều đình chùa, đền miếu thờ các tiên công , các danh tướng , danh thần…ở khắp nơi trong thành phố Như vậy, Hải Phòng là một thành phố nhanh nhạy với cái mới , giàu truyền thống đấu tranh, “Trung dũng, quyết thắng” Trong sản xuất, đấu tranh dân tộc và xã hội, con người ở đây có đức tính hăng hái , tháo vát , dũng cảm , năng động , sáng tạo, nhạy bén và ứng phó nhanh vói tình hình mới , có tinh thần tập thể của những người làm công nghiệp Và Hải Phòn g là một thành phố có nhiều tiền đề và điều kiện để trở thành một trung tâm văn h oá lớn ở miền biển Đây là một trong những nơi phát triển văn h oá sớm nhất ở nước ta Vùng biển đã

để lại trong kho tàng văn h oá dân tộc nước ta những di sản vô cùng quý giá

Trang 24

CHƯƠNG 2

VĂN HỌC DÂN GIAN TRONG CÁC LỄ HỘI

TIÊU BIỂU CỦA HẢI PHÒNG

2.1 Mối quan hệ giữa văn h oá dân gian và văn học dân gian :

2.1.1 Tìm hiểu một số thuật ngữ :

Từ lâu, văn hoá dân gian đã được giới khoa học coi là một nghệ thuật Các nhà nghiên cứu đã có nhiều quan niệm khác nhau về văn h oá dân gian và văn học dân gian Một nhà khoa học người Anh W J.Thoms lần đầu tiên đã sử dụng thuật ngữ folklore trong b ài báo Folklore đăng trên tạp chí The Atheneum số 982 ngày 22/8/1946 xuất bản tại Luân Đôn Ông đã cho rằng :

“Folklore dùng để chỉ những di tích của nền văn h oá vật chất và chủ yếu là những di tích của nền văn h oá tinh thần c ủa nhân dân có liên quan với nền văn hoá vật chất như phong tục , đạo đức, việc cúng tế , dị đoan, ca dao, cách ngôn… của các thời trước”

Theo giáo sư Đinh Gia Khánh thì thuật ngữ “ Văn hoá dân gian” có hai

ý nghĩa tương đương vớ i hai thuật ngữ quốc tế : folk culture và folklore

Khi tương ứng với folk culture , thuật ngữ “Văn hoá dân gian” chỉ toàn bộ văn hoá vật chất và tinh thần của dân chúng , nó liên quan tới mọi lĩnh vực của đời sống dân chúng Như vậy, văn hoá dân gian sẽ được hiểu theo ý nghĩa rộng Còn khi tương ứng với folklore thì ý nghĩa của nó lại hẹp hơn và chỉ một mặt nào đó, hoặc một bộ phận nào đó của folk culture Ở đây văn hoá dân gian chính là sự thể hiện của folk culture trên một bình diệ n riêng : bình diện thẩm mĩ

Như vậy , khi tìm hiểu đến tính chất thẩm mĩ của những hiện tượng trong folk culture , người ta thường đề cập tới văn nghệ dân gian và những nguồn gốc sâu xa của nó t rong văn hoá vật chất và ti nh thần của dân chúng

Trang 25

Nghĩa là người ta sẽ đề cập tới tất cả các hiện tượng có liên quan chặt chẽ với nhau gọi chung là folklore Hiện nay , giới nghiên cứu và bạn đọc nước ta quen dùng thuật ngữ văn h oá dân gian có nội dung tương ứng với thuật ngữ quốc tế F olklore Và như vậy , thuật ngữ văn h oá dân gian sẽ được hiểu theo

cả nghĩa rộng, nghĩa hẹp

Theo giáo sư Đinh Gia Khánh : “Văn hoá dân gian được quan niệm r ất khác nhau trong giới nghiên cứu văn h oá dân gian quốc tế Theo chúng tôi , văn hoá dân gian bao gồm toàn bộ văn h oá tinh thần của nhân dân được tiếp cận dưới giác độ thẩm mĩ Như vậy, văn hoá dân gian bao gồm chủ yếu là văn nghệ dân gian được nhận thức trong mối quan hệ hữu cơ và nguyên hợp với toàn bộ hoạt động thực tiễn của nhân dân và mặt khác lại bao gồm cả mọi hiện tượng trong hoạt động thực tiễn này mà còn chứa đựng cảm xúc thẩm mĩ”

Còn văn học dân gian theo giáo sư Chu Xuân Diên được hiểu là “ Sáng tác tập thể , truyền miệ ng của nhân dân lao động , ra đời từ thời kì công xã nguyên thủy , trải qua các thời kì phát triển lâu dài trong các chế độ xã hội có giai cấp, tiếp tục tồn tại trong thời đại hiện nay”

Hay giáo sư Hoàng Tiến Tựu cho rằng : “Văn học dân gian là một bộ phận của sáng tác dân gian , là nghệ thuật ngôn từ , sinh thành , phát triển trong đời sống của nhân dân the o phương thức truyền miệng và tập thể”

2.1.2 Mối quan hệ giữa văn h oá dân gian và văn học dân gian :

Văn hoá dân gian là một loại hình nghệ thuật nguyên hợp Tính nguyên hợp đó được thể hiện trên ba bình diện chủ yếu : một l à, trong mối quan hệ rất chặt chẽ giữa nghệ thuật và thực tiễn trong quá trình sáng tạo văn hoá dân gian Hai là, trong mối quan hệ giữa các thành tựu thẩm mĩ khác nhau của những thời đại khác nhau và của những địa phươn g khác nhau Ba là , trong mối quan hệ giữa các thành tố của folklore trong việc tạo nên giá trị

Trang 26

thẩm mĩ của tác phẩm văn h oá dân gian Để nhận ra mối quan hệ giữa văn học dân gian với tổng thể văn h oá dân gian và từ đó xác định được vị trí của văn học dân gian trong văn h oá dân gian, chúng tôi sẽ đi tìm hiểu mối quan hệ thứ

ba này

Văn hoá dân gian và văn học dân gian có mối quan hệ biện chứng chặt chẽ với nhau Trong đó, văn học dân gian là một thành tố quan trọng của văn hoá dân gian Là một loại hình nghệ thuật nguyên hợp , văn hoá dân gian gồm nhiều thành tố có quan hệ chặt chẽ , hữu cơ với nhau , trong đó nổi bật ba thành tố chủ yếu : nghệ thuật ngữ văn dân gian , nghệ thuật biểu diễn dân gian và nghệ thuật tạo hình dân gian Ba thành tố trên có mối quan hệ nguyên hợp trong việc tạo nên giá trị thẩm mĩ của tác phẩm văn h oá dân gian Ví dụ như hát Quan họ “Hát quan họ không đơn thuần là nghệ thuật âm nhạc Đó là một nghệ thuật nguyên hợp Trong hát quan họ có nhiều thành tố nghệ thuật kết hợp một cách hữu cơ với nhau Ngôn từ (ngữ văn ) được hát theo những làn điệu nhất định (âm nhạc ), theo những thủ tục trình diễn nhất định (nghệ thuật diễn xướng ), với những môi trường không gian , những cách trang trí bối cảnh, những kiểu cách y phục nhất định (nghệ thuật tạo hình ) Hơn nữa hát quan họ với tính cách là văn h oá dân gian đích thực chỉ có thể phát huy đầy đủ giá trị thẩm mĩ của nó khi sinh hoạt văn h oá ấy diễn ra trong môi trường văn hoá – xã hội vùng ven sông Cầu và sông Ngũ huyện của đất Kinh Bắc cổ kính, với tục kết nghĩa giữa nhi ều làng, với nhiều tục lệ khác gắn với đặc thù lịch sử của vùng văn hóa này ” [15, tr 81]

Ba thành tố chủ yếu đã phân tích ở trên có mối quan hệ nguyên hợp với nhau trong việc tạo nên giá trị thẩm mĩ của tác phẩm văn h oá dân gian Trong đó, nghệ thuật ngữ văn dân gian (nghệ thuật ngôn từ ) với khả năng độc đáo của nó thường tham gia như là một thành tố thẩm mĩ quan trọng của hầu hết các tác phẩm văn hoá dân gian

Trang 27

Để nói văn học dân gian là một thành tố quan trọng của văn h oá dân gian bởi trước hết , nghệ thuật ngữ văn dân gian ấy khi tách ra có giá trị thẩm

mĩ tương đối độc lập Nó có thể tồn tại như một tác phẩm nghệ thuật riêng biệt như ca dao , tục ngữ , các loại truyện dân gian , sử thi, truyện thơ…Ngoài

ra, khi tách ra, thành tố này đã có một số lượng tác phẩm tương đối phong phú và đa dạng Chính vì vậy , nó có thể vươn lên đứng vị trí hàng đầu của văn h oá dân gian Điều này, chúng ta có thể hiểu được tại sao trong một thời gian khá dài người ta sử dụng thuật ngữ Folklore với nghĩa “ Văn hoá dân gian” lại được sử dụng song song với thuật ngữ “ Văn học dân gian” Với khả năng độc đáo của mình , loại hình nghệ thuật ngôn từ này vừa là một thành tố thẩm mĩ quan trọng của hầu hết các tác phẩm văn h oá dân gian như chèo , hát giao duyên nam nữ trong dân ca , hội lễ , nghi lễ cúng tế… lại vừa gây được xúc động mạnh mẽ và để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng dân chúng

Cùng với nghệ thuật biểu diễn dân gian và nghệ thuật tạo hình dân gian, nghệ thuật ngôn từ dân gian đã góp phần quan trọng trong việc tạo nên diện mạo của văn h oá dân gian Với khă năng độc đáo , sức mạnh riêng của ngôn từ , nó đã trở thành một thành tố quan trọng của văn h oá dân gian Và trong quá trình phát triển , thành tố này dần dần được tách ra và trở thành một loại hình nghệ thuật riêng , đó là văn học dân gian Tuy đã được tách ra nhưng loại hình nghệ thuật này vẫn có mối quan hệ gắn bó với môi trường văn h oá dân gian, nó không đoạn tuyệt hoàn toàn với mảnh đất đã từng tạo ra và nuôi dưỡng nó Như vậy , văn học dân gian đã có vị trí quan trọng trong văn h oá dân gian Điều đó cũng thể hiện mối quan hệ chặt chẽ hữu cơ giữa văn học dân gian và văn h oá dân gian, giữa một thành tố quan trọng với chỉnh thể văn hoá dân gian Trên cơ sở đó, luận văn tiến hành tìm hiểu, nghiên cứu văn học dân gian thông qua một số văn hoá dân gian đặc trưng của Hải Phòng, đồng

Trang 28

thời chỉ ra được nét đặc sắc của văn hoá dân gian vùng biển Hải Phòng nói riêng, vùng biển Duyên hải Bắc bộ nói chung

2.2 Lễ hội chọi trâu: (lễ hội “Đấu ngưu”)

Lễ hội là một trong những hiện tượng sinh hoạt văn hoá cổ truyền tiêu

biểu của nhiều tộc người ở nước ta cũng như các nước trên thế giới Nó là tấm

gương phản chiếu khá trung thực đời sống văn hoá của mỗi dân tộc Hải Phòng – thành phố biển của vùng Duyên hải Bắc bộ - là một vùng đất giàu truyền thống văn h oá, có nhiều hội hè nổi tiếng , mang đậm màu sắc dân tộc , là dịp biểu lộ cộng đồng làng xóm Trong đó n ổi bật nhất là lễ hội chọi trâu ở

Đồ Sơn Đồ Sơn là vùng đất ven biển – là một địa danh du lịch nổi tiếng Nơi đây là một trong những trung tâm vui chơi, giải trí, nghỉ mát của thành phố cảng Hải Phòng Đến với Đồ Sơn, du khách được đắm mình trong không gian thơ mộng, một vùng biển bát ngát với núi non hùng vĩ Nơi đây cuốn hút khách du lịch trong nước và quốc tế với những phong cảnh thiên nhiên tươi đẹp, kì thú và các món hải sản tươi ngon Và một trong những sức hấp dẫn lớn nhất, đó chính là lễ hội chọi trâu – lễ hội “Đấ u ngưu” – một hình thức

sinh hoạt văn hoá của ngư dân vùng biển Đồ Sơn – Hải Phòng

2.2.1 Truyền thuyết dân gian trong lễ hội chọi trâu:

a) Truyền thuyết dân gian:

Lễ hội chọi trâu có từ khi nào? Đó là câu hỏi còn bỏ ngỏ, vẫn chưa có lời giải đáp khoa học chính xác Nguồn tư liệu có được chủ yếu là qua truyền thuyết, qua các câu chuyện kể thành văn được lưu truyền trong nhân dân Bên cạnh đó, cũng có một số sách xưa nói tới lễ hội chọi trâu nhưng vẫn còn rất

hiếm và khá sơ lược Nhìn chung đó là những tư liệu tham khảo bổ ích về một

loại hình sinh hoạt văn hoá độc đáo của dân tộc Việt

Trong dân gian thường kể, xưa kia Đồ Sơn mới hình thành, chỉ là một hòn đảo còn hoang vắng, dân cư sống thưa thớt Họ sống chủ yếu bằng nghề

Trang 29

chài lưới Cuộc sống yên vui, bình lặng, bỗng nhiên xuất hiện thủy quái đến làm hại Do vậy cuộc sống trở nên sợ hãi, tính mạng người dân bị đe dọa Trước tình hình đó, dân làng đã đến đền Nghè cầu nguyện , hứa hàng năm sẽ mổ trâu tạ lễ , nếu thủy quái bị diệt Sau một thời gian, vào một đêm bỗng trời nổi mưa to gió lớn , sấm chớp đùng đùng , biển nổi sóng dữ dội Sáng ra, dân làng thấy thủy quái chết trôi dạt vào bờ Vì vậy, hàng năm cứ vào ngày mùng tám tháng sáu và mùng chín tháng tám âm lịch, dân làng tổ chức lễ hội chọi trâu, một mặt thể hiện sự vui mừng của dân Đồ Sơn, mặt khác để cúng tế thần linh Tất cả các trâu chọi đều bị giết và trâu thắng chặt đầu để tế thần ở Đền Nghè

Song cũng còn lối giải thích khác nữa , biển Đồ Sơn thường có thủy quái quấy nhiễu Để được yên , dân làng lập đàn cúng bái cầu thần làng giúp đỡ Hôm sau, thủy quái đầu rồng , mình trâu rất lớn chết , nổi lên; ở cổ có một dấu chân chim Dân làng cho rằng thần làng đã diệt họa , mới mua trâu về để mổ nhằm lễ tạ Những con trâu từ các nơi đưa về , tự dưng chọi nhau Từ đó mỗi năm , trước khi mổ trâu tạ thần , dân làng cho những c on trâu đó chọi nhau, dần dần thành tập tục, thành lễ hội

Tương truyền , ở Đồ Sơn, xưa kia có một năm trời đại hạn , ngư dân ở các vạn chài cũng như trên đảo khốn khổ vì thiếu nước ngọt , cây cối khô héo Mọi người đều hướng về đền Nghè cầu khấn Thần linh cứu khổ , cứu nạn, trừ tai cho họ , ban cho họ một trận mưa để cứu sinh linh và cây cỏ , để họ thoát được nạn đói Và cho tới một đêm trời trong sáng , dưới ánh trăng thượng tuần tháng tám , một số người nhìn thấy ngoài biển dưới ánh trăng vàng đang đùa rỡn trêu sóng có một lão nhân cốt cách Tiên ông , râu tóc bạc phơ, tay cầm gậy trúc ngự trên một chiếc sập đá nhìn đôi trâu chọi nhau Hình ảnh linh thiêng , kì vĩ này hiện lên trong khoảnh khắc rồi biến mất Sau đó, một trận mưa lớn đổ xuống, đồng lúa cây trái được hồi sinh Đồ Sơn lại hứa hẹn một mùa bội

Trang 30

thu Để tỏ lòng biết ơn Thần đã chấp nhận lời thỉnh cầu của mình , hàng năm cứ vào ngày mùng chín tháng tám, cư dân các vạn chài tổ chức một đôi trâu chọi nhau, sau đó mổ trâu tế Thần rồi cùng hưởng lộc Thánh

Theo lời kể của các lão làng, từ xa xưa cư dân làm nghề mò cua, bắt cá

ở Đồ Sơn thường bị cá kình ăn thịt Trước sự hung tợn, quấy nhiễu của quái vật, con người lập đàn cầu thần linh phù hộ vào thượng tuần tháng sáu âm lịch và hứa sẽ mổ trâu, mổ lợn lễ tạ Quả nhiên, sau hai tháng vào một đêm mưa to gió lớn, sáng ra thấy xác cá kình chết Trên hầu có vết chim cắn, một loại chim thần giáng thế độ dân Mọi người mới hay thần đã diệt cá dữ trừ họa cho dân Nơi cá dữ chết gọi là dốc Mả Cá Và để giữ lời hứa với thần linh, hàng năm dân làng đi mua trâu về lễ thần ở Đền Nghè Khi đưa trâu đến Đền Nghè, chúng đứt dây chọi nhau quyết liệt Dân làng cho rằng thần linh thích xem trâu chọi Bởi vậy hàng năm, dân làng tổ chức lễ hội chọi trâu vào ngày đó và trở thành ngày hội truyền thống của người dân Đồ Sơn

Ngoài ra, người xưa còn kể rằng, “Đêm đó trăng thanh , nhưng sóng to gió lớn, mưa dăng Ông chủ Tế mơ thấy hai trâu chọi nhau rất hăng , rất lâu ở

xó Sóng Dân tình ra xem rất đông thì đôi trâu biến mất” Ông chủ Tế bèn kể lại giấc mơ đêm qua cho dân làng nghe , mọi người đều cho rằng thần linh thiêng báo mộng Năm đó, cá được mùa, dân làng cho đó là điềm lành Vì vậy, với mong muốn làm ăn thịnh vượng, đi biển không gặp sóng gió, xuôi chèo, mát mái lúc vào lộng ra khơi , nên người dân Đồ Sơn bàn nhau mở hội chọi trâu vào mùng chín tháng tám âm lịch

Nhưng lại có một truyền thuyết khác cho rằng, nước ta nằm trong khu vực có thiên tai, mỗi năm có nhiều cơn bão lớn nhỏ Nghề đi biển thường hay gặp sóng to gió lớn, thiên tai có thể đến bất thường Do vậy, người dân chài ở đây thường cầu mong các vị thần biển phù hộ cho họ khi đi biển tránh được sóng to, gió bão, đánh được nhiều cá tôm trở về Cũng vì thế họ mong muốn

Trang 31

có một lễ vật quý nhất để cúng tế thần biển Với quan niệm “Con trâu là đầu

cơ nghiệp”, vì vậy những con trâu được chăm sóc, lựa chọn cẩn thận mang ra thi đấu, con nào thắng được đem ra cúng tế thần linh

Sách Đồng khánh địa dư chí lược biên soạn vào thời Nguyễn có ghi

lại rằng: Một hôm có người đi qua đền Nghè gặp một đôi trâu chọi nhau quyết liệt; thấy động cả hai con đều kéo nhau đẩy xuống biể n mất tăm Người kia về kể cho dân làng , mọi người cho rằng thần thích xem chọi trâu Từ đó hàng năm, cứ đến ngày mùng chín tháng tám âm lịch, người Đồ Sơn lại mở hội bày trò chọi trâu để làm vui cho thần

Nguồn gốc hội chọi trâu còn được sách Đồng Khánh địa dư chí ghi

lại: “Xưa có người dân trong xã đi qua đền (Hùng Trấn Tước điểm thần ) thấy hai con trâu húc nhau , thấy động chúng bỏ chạy xuống biển Về sau dân làng

Đồ Sơn mở hội chọi trâ u vào ngày mồng chín tháng tám âm lịch hàng năm và cho rằng trong ngày hội thể nào cũng có trận mưa to gió lớn Đó là thủy thần

Đồ Sơn hiển linh ”

Người dân Đồ Sơn ngày nay khi nói về nguồn gốc của hội chọi trâu cũng lư u truyền một câu chuyện truyền thuyết tương tự như vậy Họ kể rằng , xưa kia dưới chân núi Tháp , thuộc địa phận xã Ngọc Xuyên , liền khúc sông Họng Giang có một ngôi đền Mỗi khi trời u ám, trước cửa đền thường có một vị thần râu tóc bạc phơ hiện hình ngồi trên thạch bàn, xem hai con trâu chọi nhau Cảnh đó thường diễn ra vào ngày mùng chín tháng tám âm lịch hàng năm Vì vậy, nhân dân ở đây liền đặt mâm bột làm lễ cầu thần hiệ u Sáng ra chỉ thấy vết chân chim sẻ trên đó, nên đặt tên là “Điểm Tước tôn thần” Riêng

sách Đồng Khánh địa dư chí lược ghi rõ : “Đền Hùng chấn Điểm Tước thần

thờ thủy thần Đồ Sơn trên núi Tháp Tương truyền dân Đồ Sơn đã sống bằng nghề chài lưới vẫn muốn lập ngôi đền để tế thủy t hần, có người trong xã mộng thấy thần khuyên nên dựng đền trên núi Tháp Ngày hôm sau người đó

Trang 32

lên núi thấy một đàn chim sẻ quần lượn trong chốc nhát rồi bay ra biển Từ đó dân Đồ Sơn dựng đền thờ trên núi” Có người kể r ằng khi thần xuất hiện thường có hai áng mây giống hình hai con trâu húc nhau , từ đó người Đồ Sơn nghĩ ra tục chọi trâu

Ngoài ra , người dân Đồ Sơn ngày nay còn lưu truyền rằng : Lý Thánh Tông sau khi thắng trận trở về qua nơi đây vào ngày mùng chín tháng tám âm lịch đã tổ chức lễ khao quân Nhân dịp vui mừng này , Lý Thánh Tông hạ chiếu tổ chức lễ hội chọi trâu để mừng chiến thắng Từ đó trở thành tục lệ định kì, hàng năm cứ vào ngày mùng chín tháng tám cư dân Đồ Sơn đều mở hội chọi trâu

Song cùng với sự tích này có người lại kể : vào đầu thể kỉ XI , vua Lý Thánh Tông thân chinh đi đánh Chiêm Thành nhưng sau ba tháng vẫn không

có kết quả , tướng sĩ mệt mỏi , đau ốm , cho là thủy thổ không hợp , nhà vua lệnh rút binh Một sớm thuyền nhà vua đi qua khu vực biển Đồ Sơn , thấy rồng bay ở đỉnh núi Rồng , cho là điềm lành , nhà vua cho lệnh dừng thuyền lên thăm thú cảnh quan nơi đây Thấy ph ong cảnh núi rừng đẹp mắt , dân chúng nhà nhà đều nuôi trâu nghé đầy đàn , lại nghe ở Đồ Sơn có hội chọi trâu vào ngày mùng chín tháng tám âm lịch Sau khi xem hội chọi xong , nhà vua lại xuất tiền mua hết trâu dự chọi rồi h ạ lệnh vật trâu mở tiệc khao quân để khích lệ quân sĩ ; đồng thời các xuất đinh nam ở Đồ Sơn không cứ lớn bé đều được chia phần thịt trâu Sau đó, nhà vua lại hạ lệnh quay lại tiến quân vào Chiêm Thành lần thứ hai Lần này quân Chiêm Thành bị thua to , phải ra hàng

Ở Đồ Sơn , hội chọi trâu vốn hàng năm được tổ chức vào ngày mười lăm tháng năm âm lịch , hội chung kết vào ngày mùng tám tháng sáu âm lịch Nhưng sau khi vua Lý hồi cung , dân chúng họ p bàn lại và thống nhất theo vua

Lý chuyển tổ chức hội chọi trâu chung kết vào tháng tám; mở hội đình đám hàng tổng từ ngày ba mươi tháng bảy đến ngày mười sáu tháng tám thì kết

Trang 33

hội; trong đó ngày mùng chín tháng tám chung kết chọi trâu , ngày mùng mười tháng tám vật trâu chia thịt Ngoài ra đây cũng là thời điểm hợp lí để tổ chức hội vì lúc này nông nhàn cấy chăm bón đã xong , chờ thu hoạch ; nhà ngư vụ xăm đã hết , chuyển sang nghề khá c Tất cả hàng tổng đều vui chơi , nhàn rỗi

Do vậy, hội chọi trâu được coi là ngày hội lớn của cả vùng

b) Truyền thuyết về Quận He :

Thế kỉ XVIII trong lịch sử Việt Nam là một thế kỉ sôi động với hàng trăm cuộc khởi ngh ĩa nông dân Buổi ấy, một lãnh tụ kiệt xuất của phong trào nông dân là Nguyễn Hữu Cầu đã về Đồ Sơn dựng căn cứ địa của cuộc khởi nghĩa và làm nên cuộc “ Đại loạn” ở nơi đây Chiến công của ông lừng lẫy khắp nơi, nhân dân yêu mến đã gọi ông là Quận He Lấy Đồ Sơn làm căn cứ địa, Nguyễn Hữu Cầu đã dấy binh chống lại chúa Trịnh – chống lại nhà nước phong kiến thối nát , tàn bạo những năm 1741 đến năm 1745 Mỗi khi chiến thắng, ông đều cho mổ t râu để khao quân Trâu bị mổ bụng dứt dây lao ra chọi nhau quyết liệt Quân sĩ hứng khởi reo hò vang dội Vì thế , hàng năm Nguyễn Hữu Cầu mở hội chọi trâu để cổ vũ , động viên , khích lệ tinh thần quân sĩ Từ đó, người anh hù ng nông dân Nguyễn Hữu Cầu thế kỉ XVIII đã

trở nên bất tử trong cõi thiêng của tục chọi trâu Nhưng trong cuốn “Lịch sử

người Thăng Long” , Hà Âu lại viết : “…Hưng Nhượng Vương Trần Quốc

Tảng đến xem hội chọi trâu ở Đồ Sơn gặp Kì Vĩ là người cứu Nhượng Vương khỏi nạn cướp , mới kết nghĩa huynh đệ” Vậy theo sách này , chí ít tục chọi trâu đã có từ thời Trần

c) Truyền thuyết về Bà Đế :

Đây là một câu chuyện nhuốm màu sắc thần thoại mà người dân Đồ Sơn từ bao đời nay vẫn còn lưu truyền mãi nhằm giải thích nguồn gốc lễ hội chọi trâu Nàng là một cô thôn nữ tên là Ngô (hay Phạm) Thị Đế xinh đẹp , nết

na có giọng hát rất hay Một lần nàng lên núi cắt cỏ , giọng hát thánh thót của

Trang 34

nàng vang tới nơi có đoàn thuyền của Chúa Trịnh Giang (có tài liệu nói là Chúa Trịnh Doanh ) đang du ngoạn Chúa Trịnh cho đòi người con gái có giọng hát mê hồn đó xuống thuyền Nhà Chúa đã mê mẩn trước vẻ đẹp trong trắng của cô thôn nữ miền biển và ân ái với nàng Sau đó Chúa bỏ về kinh , không ai biết chuyện của Chúa với nàng Thời gian sau, nàng Đế đã có thai, bị bọn hương lý trong làng đem ra xử phạt Bố mẹ nghèo khô ng có tiền nộp phạt, nàng đã bị đem dìm chết ở vùng biển cạnh núi Độc Cái chết oan khuất của người con gái trong trắng khiến dân làng thương cảm và lập đền thờ

Ngoài ra cũng có huyền thoại khác kể về Bà Đế Ngày xư a ở Đồ Sơn ,

có một cô gái tên Đế xinh đẹp và hát rất hay Nàng thường lên núi cắt cỏ và hát:

“Tay cầm bán nguyệt xênh sang Muôn vàn cây cỏ lại hàng tay ta ”

Một lần, vua Thủy Tề ngồi dưới thuyền nghe được giọng hát của nà ng, vội lên núi tìm người Vua thấy một cô gái xinh đẹp đang cắt cỏ , trên đầu có mây vàng che phủ , biết không phải là người thường , vua liền đón nàng xuống thuyền Hai người ân ái với nhau suốt ngày hôm đó , đến tối mới chia tay Đế về nhà , một thời gian sau , nàng sinh được một cậu con trai Dân làng không biết cuộc tình duyên của Đế với vua Thủy Tề nên đã đuổi nàng ra khỏi làng Ngày ngày Đế phải đi mót thóc , kiếm khoai về nuôi con Nhưng có một số kẻ độc ác, muốn được ăn uống , bèn kiếm kế phạt vạ , rồi mang Đế ra biển dìm Nhưng khi chúng trói chặt nàng bằng dây thừng vào đá , ném xuống biển thì lạ thay nàng vẫn nổi người lên Thấy lạ bọn sát nhân hoảng hố t bỏ chạy (có dị bản kể rằng mấy tên đi dìm Đế ngoài biển đã dùng mái chèo đập vào đầu Đế , mặc cho nàng kêu oan cho đến khi chết chìm dưới biển ) Theo truyền thuyết thì nàng Đế không chết nhưng không bao giờ trở về quê hương xứ sở nữa Nàng đã được vua Thủy Tề – chồng nàng đón về thủy cung Nàng chết oan ,

Trang 35

hiển linh , nhân dân lập đền thờ gọi là đền Bà Đế (Bà Chúa ) Nơi bà bị dìm chết có nhiều cá , nên các vạn chài thường tranh nhau đến đánh bắt Sau đó dân làng mới đặt ra thành tục lệ chọi trâu , con trâu của làng nào thắng thì mang ra biển tế Bà Chúa – tế hiến sinh cho thần linh và dân chài làng đó được đánh cá ở nơi bãi săn

Như vậy , những sự tích t ruyền thuyết , huyền thoại trên chưa thể là những lời giải thích có thuyết phục về nguồn gốc ra đời của lễ hội chọi trâu Song đó là những cứ liệu mang tính dân gian đặc sắc phản ánh mầu sắc huyền thoại của cội nguồn hì nh thành từ hình thức sinh hoạt văn hóa cộng đồng của nhân dân lao động Truyền thuyết về lễ hội chọi trâu có lẽ còn nhiều hơn thế nữa Nhưng qua những chuyến khảo sát ở địa phương , tìm hiểu từ các bô lão và những gia ph ả, thần phả, người viết đã cố gắng đưa ra những lời giải thích khoa học về lễ hội chọi trâu vốn có từ lâu lắm rồi , từ thuở khai sơn phá thạch vùng đất Đồ Sơn này Và ngày nay, lễ hội chọi trâu đã trở thành sinh hoạt v ăn hóa cổ truyền đặc sắc , là niềm tự hào của người dân nơi đây về truyền thống văn hoá của địa phương

Lễ hội chọi trâu không chỉ được thể hiện qua những truyền thuyết dân gian li kì, hấp dẫn , mang nét tiêu biểu của miền b iển mà còn được thể hiện qua những câu ca dao , hò vè trong dân gian , những sáng tác thơ ca của các nhà thơ , của người dân Tất cả đều mang một niềm tự hào về lễ hội truyền thống quê mình

2.2.2 Thơ ca dân gian trong lễ hộ i chọi trâu:

Từ xưa đến nay , cư dân vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng và vùng ven biển Bắc bộ đều thuộc lòng câu ca như nhắc nhở mọi người nhớ về ngày hội quê mình :

“Dù ai buôn đâu, bán đâu Mùng chín tháng tám chọi trâu thì về

Trang 36

Dù ai buôn bán trăm nghề Mùng chín tháng tám thì về chọi trâu ”

Hoặc có một dị bản khác:

“Dù ai buôn đâu, bán đâu Mùng chín tháng tám chọi trâu thì về

Dù ai bận rộn trăm bề Mùng chín tháng tám thì về chọi trâu” Họ không chỉ rủ nhau về dự hộ i mà còn dặn dò nhau rằng năm nào lễ hội cũng mưa , nên dân gian thường có câu ca:

“Mồng chín tháng tám Đồ Sơn chọi trâu Chớ có đi đâu, không mưa cũng bão ”

Đồ Sơn mãi mãi :

“Năm Mậu Ngọ, mùa thu tháng tám Hai Đồ Sơn đóng đám chọi trâu Kỳ hào các cụ bảo nhau Lấy tiền đánh cược thôn Đông giáp nhà

Kẻ quai xăm cùng người chài đá

Cùng người kéo cá , đánh tôm Bảo nhau đánh chác kiếm đồng Lấy tiền đánh cược Sơn Đông phen này

Trang 37

Trâu thôn Đông vừa quen đồng , vừa hay chọi

Ông xã về gọi thì dắt trâu ra Ông Tổng nhà ta thì dắt trâu xuống Mặt trời đã muộn, cược giải thì to Sơn Đông trên gò, Đồ Hải dưới bãi Hai con giao lại ai cũng lắc đầu Xem sức đôi trâu một mười , một tám Trên thì đóng đám, dười thì chiêng cồng Xem thật là đông, chen nhau đám hội Trâu thôn Đông thật là khốn khổ

Trâu Đồ Hải nó được, nó vỗ, nó reo Cuộc này mất cả thông nèo chi chi Công bà đào giá, đào phi Các ông nọc ruốc đổ ai cho rồi Biết vậy bà đổ vào nồi Bà luộc cho chín bà ngồi bà ăn…”

Ngày hội chọi trâu là ngày hội vui nh ất trong những ngày hội làng ở Đồ Sơn Tiếng reo hò vang động cả sới chọi Vì vậy, dân gian có câu ca:

“Âm vang chiêng trống động tâm linh Ngưu thần nhất hội rước về đình Chạm chén dâng hương đình chiến cuộc

Vô song độc nhất, hội quê mình !”

Hiếm có vùng biển nào lại có một lễ hội đặc sắc mang tính chất toàn quốc như lễ hội chọi trâu Lễ hội đã thu hút được nhiều người từ các vùng biển Quảng Ninh , Thái Bình , Nam Định , rồi ở Hà Nội, Hải Dương đều xuống tham dự trận chung kết độc đáo này Ngày nay ở Đồ Sơn vẫn còn câu ca :

Trang 38

“Quanh năm đánh cá trăm nghề

Đến ngày nước kém trở về vui chơi” Đầu tháng tám cũng là thời điểm ngư dân Đồ Sơn vừa kết thúc vụ xăm , mùa cá Nam đã qua , chuẩn bị cho mùa cá Bắc Vì vậy , họ rủ nhau cùng đi xem hội làng truyền thống của quê hương mình

Tại các vòng thi đấu , các trâu đều tỏ ra hăng máu , giao tranh quyết liệt với đối thủ của mình Và lần đầu tiên trong lịch sử giai thoại chọi t râu có

“Trâu chết tại sới ”:

“ Vỏ quýt dày có móng tay nhọn Đấu ngưu thượng võ thú Đồ Sơn Móc mắt, tuốt sừng chí chẳng sờn Được cáng reo hò rung dậy đất Gan lì cáng lại biết ai hơn Vào cuộc đấu đầu tính thắng thua Sân chơi đủ hạng chẳng ai vừa Chọi trâu, trâu chọi, ngoài sân chọi Hồi hộp trong lòng thắng với thua” Tất cả những câu ca dân gian ở trên đã cho thấy được đặc tính sâu sắc của lễ hội chọi trâu – một trong những lễ hội cổ truyền của người dân Đồ Sơn Lễ hội đó không chỉ được phản ánh trong những câu ca lưu truyền từ muôn đời nay mà nó còn được khúc xạ qua lăng kính của các nhà thơ Đó là những con người vốn yêu quý mảnh đất , con người Đồ Sơn , tự hào về lễ hội cổ truyền của quê hương mình

2.2.3 Thơ ca hiện đại trong lễ hội chọi trâu :

Lễ hội chọi trâu hấp dẫn mọi du khách trong nước và quốc tế Rất nhiều người ở khắp nơi náo nứ c về Đồ Sơn dự hội chọi trâu với mong muốn được hưởng một miếng thịt làng để lấy lộc may mắn , ăn nên làm ra , sức khỏe dồi

Trang 39

dào trong cả một năm Lễ hội vẫn giữ gìn được những tinh hoa và phát huy nét đẹp của văn hoá, nét độc đáo mang bản sắc riêng của người Đồ Sơn Đúng như đồng chí Phạm Tiến Dũng (nguyên bí thư Thị ủy Đồ Sơn ) đã nhận định :

“Hội chọi trâu Đồ Sơn đã ngấm vào máu thịt người Đồ Sơn ; hào hứng , hồ hởi, hồ hởi đến cuồng n hiệt” Như cụ Bàng Bá Bân viết bài thơ “Xem chọi trâu” vào năm Canh Ngọ 1930:

“Chọi trâu nức tiếng gần xa Rợp trời dậy đất cờ hoa trống chiêng Tiết thu đặc biệt hội riêng Được thua, thua được uy liêng thành phù

Nước non coi tựa đế đô Dập dìu xe ngựa, ô tô tây tàu Giang sơn càng lịch càng màu Nhân khang vật thịnh của giàu vẻ vang” Đặc biệt lễ hội chọi trâu năm 1998 xuất hiện một bài thơ đáng ghi nhớ

“Anh hùng là anh hùng rơm” của ông Đặng Chiến quê ở xã Vạn Phúc , thị xã Hà Đông, tỉnh Hà Tây, người có tâm huyết bán trâu chọi cho lễ hội Đồ Sơn về xem trâu mình chọi đã tức cảnh thành thơ :

“Anh hùng là anh hùng rơm Về đây thử lửa mất cơn anh hùng Câu ca mách bảo ta rằng Anh hùng thiên hạ đâu bằng mày râu Phải kinh qua cuộc đấu đầu Để xem miếng đánh của nhau thế nào

Cái gan lì lợm ra sao ? Miếng đánh hiểm hóc thế nào mới hay

Bõ công tìm kiếm bao ngày

Trang 40

Đem về dự hội bấy nay truyền về

“Dù ai buôn bán trăm nghề

Mùng chín tháng tám thì về chọi trâu Dù ai buôn đâu, bán đâu,

Mùng chín tháng tám chọi trâu thì về”

Ôi câu ca nặng tình quê Ở nơi đâu cũng nhớ về quê hương Xin làm một cổ động viên Tinh hoa dân tộc giữ gì n muôn sau”

Như ông Đinh Phú Ngà đã từng nói :

“Sắc áo màu cờ hội chọi trâu Công phu tốn kém vẫn đua nhau Ngư thần chọn mặt trong thiên hạ

Đọ sức thi gan hội đấu đầu” Lễ hội chọi trâu là một nét văn hóa độc đáo củ a vùng biển Đồ Sơn – Hải Phòng Rất nhiều câu ca đã ca ngợi về lễ hội truyền thống này Bên cạnh đó, ta còn thấy yếu tố văn h oá biển thể hiện rõ trong sắc thái tín ngưỡng của dân chài Đồ Sơn nói riêng và dân ven biển nó i chung

2.2.4 Một số tín ngưỡng dân gian trong lễ hội chọi trâu :

a) Tín ngưỡng thờ thần :

Có thể nói cho đến nay chưa thấy sử sách nào ghi chép lễ hội chọi trâu

Đồ Sơn có từ khi nào Nhưng trong dân gian chỉ biết rằng , tục chọi trâu Đồ Sơn gắn với tín ngưỡng thờ thần Điểm Tước Thần Vương

Theo truyền thuyết cũng như hai tác giả Ngô Quốc Côn , Tri phủ phủ Kiến Thụy , tỉnh Kiến An và ông Nguyễn Văn Liêm , thú y sĩ viết trên tờ Tập san Indochine như sau: “Cách đây 18 thế kỷ có một số ngư dân nguyên quán

ở đảo Thần Hòa theo gió mùa Đông nam ra biển đánh cá bị bão dạt vào đảo

Ngày đăng: 15/03/2021, 18:47

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Nguyễn Chí Bề n (2006), Góp phần nghiên cứu văn hóa dân gian Việt Nam, NXB Khoa học xã hội , HN Sách, tạp chí
Tiêu đề: Góp phần nghiên cứu văn hóa dân hóa Việt Nam
Tác giả: Nguyễn Chí Bền
Nhà XB: NXB Khoa học xã hội
Năm: 2006
2. Nhiều tác giả (2003), Địa chí thị xã Đồ Sơn, NXB Hải Phòng Sách, tạp chí
Tiêu đề: Địa chí thị xã Đồ Sơn
Tác giả: Nhiều tác giả
Nhà XB: NXB Hải Phòng
Năm: 2003
3. Lê Quý Đƣ́c (1996), Thực trạng lễ hội dân gian cổ truyền ở nước ta hiện nay, Tạp chí Văn hóa dân gian, số1 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thực trạng lễ hội dân gian cổ truyền ở nước ta hiện nay
Tác giả: Lê Quý Đƣ́c
Năm: 1996
4. Nhiều tác giả (2000), Góp phần nâng cao chất lượng sưu tầm , nghiên cứu văn hoá, văn nghệ dân gian, NXB Văn hoá dân tộc, HN Sách, tạp chí
Tiêu đề: Góp phần nâng cao chất lượng sưu tầm , nghiên cứu văn hoá, văn nghệ dân gian
Tác giả: Nhiều tác giả
Nhà XB: NXB Văn hoá dân tộc
Năm: 2000
5. Đỗ Hạ – Quang Vinh (Biên soạn , 2006), Các lễ hội truyền thống Việt Nam, NXB Thanh Hoá Sách, tạp chí
Tiêu đề: Các lễ hội truyền thống Việt Nam
Tác giả: Đỗ Hạ, Quang Vinh
Nhà XB: NXB Thanh Hoá
Năm: 2006
6. Lê Nhƣ Hoa (Chủ biên , 2001), Tín ngưỡng dân gian Việt Nam , NXB Văn hoá thông tin, HN Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tín ngưỡng dân gian Việt Nam
Nhà XB: NXB Văn hoá thông tin
7. Trịnh Minh Hiên (Chủ biên ) – Trần Phương – Nhuận Hà (1993), Hải Phòng di tích lịch sử - văn hoá, NXB Hải Phòng Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hải Phòng di tích lịch sử - văn hoá
Tác giả: Trịnh Minh Hiên, Trần Phương, Nhuận Hà
Nhà XB: NXB Hải Phòng
Năm: 1993
8. Trịnh Minh Hiên (Chủ biên , 2006), Lễ hội truyền thống tiêu biểu Hải Phòng, NXB Hải Phòng Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lễ hội truyền thống tiêu biểu Hải Phòng
Tác giả: Trịnh Minh Hiên
Nhà XB: NXB Hải Phòng
Năm: 2006
9. Nguyễn Đỗ Hiệp (2008), Lễ hội chọi trâu Đồ Sơn – Hải Phòng thời hiện đại, Tạp chí Văn hóa dân gian số 2 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lễ hội chọi trâu Đồ Sơn – Hải Phòng thời hiện đại
Tác giả: Nguyễn Đỗ Hiệp
Nhà XB: Tạp chí Văn hóa dân gian
Năm: 2008
10. Hội liên hiệp văn học nghệ thuật Hải Phòng (2001), Văn hóa văn nghệ dân gian Hải Phòng, NXB Hải Phòng Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn hóa văn nghệ dân gian Hải Phòng
Tác giả: Hội liên hiệp văn học nghệ thuật Hải Phòng
Nhà XB: NXB Hải Phòng
Năm: 2001
11. Hội đồng lịch sƣ̉ thành phố Hải Phòng (1990), Địa chí Hải Phòng (tập 1) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Địa chí Hải Phòng
Tác giả: Hội đồng lịch sƣ̉ thành phố Hải Phòng
Năm: 1990
12. Đinh Gia Khánh (1993), Hội lễ dân gian truyền thống trong thời hiện đại, Tạp chí Văn hóa dân gian , số 2 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hội lễ dân gian truyền thống trong thời hiệnđại
Tác giả: Đinh Gia Khánh
Năm: 1993
14. Đinh Gia Khánh (Chủ biên ) – Chu Xuân Diên - Võ Quang Nhơn (2006), Văn học dân gian Việt Nam, NXB Giáo dục Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn học dân gian Việt Nam
Tác giả: Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên, Võ Quang Nhơn
Nhà XB: NXB Giáo dục
Năm: 2006
15. Đinh Gia Khánh toàn tập (Tập 3, 2007), NXB Giáo dục Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đinh Gia Khánh toàn tập
Nhà XB: NXB Giáo dục
Năm: 2007
16. Đình Kính – Lưu Văn Khuê (1997), Đồ Sơn thắng cảnh và du lịch , NXB Hải Phòng Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đồ Sơn thắng cảnh và du lịch
Tác giả: Đình Kính, Lưu Văn Khuê
Nhà XB: NXB Hải Phòng
Năm: 1997
17. Nguyễn Xuân Kính (2006), Thi pháp ca dao , NXB Đại học Quốc gia Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thi pháp ca dao
Tác giả: Nguyễn Xuân Kính
Nhà XB: NXB Đại học Quốc gia Hà Nội
Năm: 2006
18. Lê Hồng Lý (1987), Người anh hùng Lê Chân và hội đền Nghè , Tạp chí Văn hóa dân gian, số 4 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Người anh hùng Lê Chân và hội đền Nghè
Tác giả: Lê Hồng Lý
Nhà XB: Tạp chí Văn hóa dân gian
Năm: 1987
19. Lịch sử Việt Nam, tập I, 1971, NXB Khoa học xã hội , HN Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lịch sử Việt Nam, tập I
Nhà XB: NXB Khoa học xã hội
Năm: 1971
20. Thu Linh – Đặng Văn Lung (1984), Lễ hội truyền thống và hiện đại , NXB Văn hóa Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lễ hội truyền thống và hiện đại
Tác giả: Thu Linh, Đặng Văn Lung
Nhà XB: NXB Văn hóa Hà Nội
Năm: 1984
21. Nguyễn Đức Lữ (Chủ biên , 2007), Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng dân gian ở Việt Nam, NXB Tôn giáo, HN Sách, tạp chí
Tiêu đề: Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng dân gian ở Việt Nam
Tác giả: Nguyễn Đức Lữ
Nhà XB: NXB Tôn giáo
Năm: 2007

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w