Tính cấp thiết của đề tài Trà lĩnh là một huyện miền núi vùng cao biên giới và nằm ở phía đông bắc của tỉnh Cao bằng , phía bắc giáp với Trung Quốc, phía nam giáp với huyện Hoà an, Quảng Hoà, phía đông giáp với Trùng Khánh, phía tây giáp Hà Quảng, có diện tích tự nhiên là 25.698 ha gần bằng 257km2, toàn huyện có 1 thị trấn và có 9 xã, trong đó có 9 xã ĐBKK, nằm cách trung tâm thành phố Cao Bằng 37 km, có đưòng biên giói với Trung Quốc dài 32km , là huyện có vị trí chiến lược quan trọng và rất thuận lợi trong việc giao lưu để phát triển kinh tế xã hội với trung tâm của tỉnh cũng như giao lưu buôn bán với Trung Quốc. Những năm qua công tác quy hoạch, xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển đô thị được quan tâm chỉ đạo, sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, các công trình xây dựng cơ bản. Tổng số vốn về đầu tư phát triển của huyện giai đoạn 2011 – 2015 là 247 tỷ đồng; kinh phí đầu tư xây dựng tăng qua từng năm, năm 2014 đạt hơn 62,8 tỷ đồng (gấp 1,76 lần so với năm 2010); tỷ lệ giải ngân vốn bình quân hàng năm đạt 89,77%. Từ năm 2010 đến nay đã đầu tư cải tạo, nâng cấp, sửa chữa, xây dựng trên 90 công trình; số hộ dân được sử dụng nước sinh hoạt đạt trên 90%. Chỉ đạo tiến hành quy hoạch Thị trấn Hùng Quốc và cửa khẩu Trà Lĩnh, với tổng diện tích 745 ha; UBND tỉnh đã cho phép điều chỉnh lần 2 về việc phê duyệt đồ án điều chỉnh quy hoạch chung xây dựng khu vực cửa khẩu Trà Lĩnh với diện tích 177,54 ha; 9/9 xã đã lập xong đề án xây dựng nông thôn mới. Mạng lưới hạ tầng cơ sở dịch vụ viễn thông được củng cố đầu tư xây dựng, các xã đều có sóng điện thoại di động, đáp ứng kịp thời nhu cầu trao đổi thông tin phục vụ cho đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Hệ thống lưới điện quốc gia không ngừng được đầu tư, nâng cấp. Hiện nay, 10/10 xã, thị trấn có mạng lưới điện quốc gia; số hộ được sử dụng điện đạt 96%. Kết quả thu ngân sách đạt và vượt chỉ tiêu Đại hội huyện Đảng bộ lần thứ XX đã đề ra. Tốc độ tăng thu ngân sách năm sau cao hơn năm trước (năm 2011 đạt 11,658 tỷ đồng, đến năm 2014 đạt 50,728 tỷ đồng) với mức tăng bình quân là 60,4 % (vượt 42,4% so với chỉ tiêu Nghị quyết). Công tác chi ngân sách đảm bảo đúng chế độ, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và sử dụng hiệu quả nguồn vốn đầu tư của nhà nước. Các thành phần kinh tế tiếp tục phát triển, đến năm 2014 huyện có 12 Hợp tác xã, với tổng số lao động là 132 người, doanh thu đạt 15 tỷ đồng, thu nhập bình quân đầu người đạt 2.000.000đồng/ người/tháng, nộp ngân sách 170 triệu đồng. Kinh tế hộ gia đình tương đối phát triển chủ yếu thuộc lĩnh vực nông lâm nghiệp, trồng cây ăn quả: Cây Quýt, Cây Hoa ly, Cây Hồi, Cây Lê... Hệ thống Ngân hàng hoạt động khá hiệu quả; tăng trưởng vốn vay hàng năm của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn đạt trung bình 24,1%; huy động vốn nhàn rỗi trong dân cư đạt tỷ lệ khá cao (năm 2010 đạt 83 tỷ đồng; năm 2014 đạt 227 tỷ đồng). Ngân hàng chính sách xã hội không ngừng củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng với tổng dư nợ là 91 tỷ đồng. Thực hiện Chương trình phát triển kinh tế cửa khẩu giai đoạn 2011 - 2015. Nhiều công trình hạ tầng thiết yếu đã và đang được xây dựng như: Quốc lộ 34 (đoạn thị trấn Hùng Quốc - cửa khẩu Trà Lĩnh), Trạm Kiểm soát liên hợp cửa khẩu, đường vào lối mở Nà Đoỏng… đã thu hút được các nhà đầu tư tư nhân bỏ vốn xây dựng các bến bãi, kho hàng… tạo thuận lợi cho hoạt động xuất, nhập khẩu trên địa bàn. Hoạt động thương mại và dịch vụ tại khu kinh tế cửa khẩu có những chuyển biến tích cực; bước đầu tạo được công ăn, việc làm cho một số lao động địa phương. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu qua địa bàn các năm đều tăng, năm 2014 đạt 69.610.830,01 USD (tăng gấp 1,6 lần so với năm 2011); thuế xuất nhập khẩu thu đạt 53.219 triệu đồng VND (tăng 1%); thu phí cửa khẩu đạt 36.460.082.000 VND (tăng 6,8 lần). Với những kết quả trên, huyện Trà Lĩnh nói chung có nhiều lợi thế để phát triển kinh tế theo hướng gia tăng giá trị ngành dịch vụ - thương mại và công nghiệp. Sự phát triển kinh tế của tỉnh theo hướng này sẽ nảy sinh nhu cầu về đất. Do đó, công tác quản lý, lập các đồ án quy hoạch xây dựng và kế hoạch sử dụng đất là việc rất cần thiết để phục vụ yêu cầu xây dựng cơ sở hạ tầng, cơ sở dịch vụ và các khu, cụm công nghiệp,... Để đáp ứng các nhu cầu cấp thiết trên, năm 2002, Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định (Quyết định số 5437/VPCP-NC) nâng cấp 2 cửa khẩu biên giới Trà Lĩnh và Sóc Giang thành cửa khẩu cấp Quốc gia. Thị trấn Hùng Quốc và khu vực cửa khẩu Trà Lĩnh đã được lập và phê duyệt điều chỉnh quy hoạch chung. Về cơ bản từ khi lập quy hoạch đến nay Thị trấn Hùng Quốc và khu vực cửa khẩu đã và đang từng bước thực hiện theo quy hoạch đã được phê duyệt. Đến năm 2010, để khắc phục các hạn chế của đồ án năm 2002 khi triển khai đầu tư xây dựng, UBND tỉnh Cao Bằng đã phê duyệt đồ án Điều chỉnh Quy hoạch chung xây dựng Thị trấn Hùng Quốc và Khu vực cửa khẩu Trà Lĩnh, tỷ lệ 1/2000. Trải qua 03 năm thực hiện đầu tư xây dựng theo Điều chỉnh quy hoạch chung, có nhiều dự án, đặc biệt là các dự án đầu tư xây dựng hệ thống hạ tầng cơ sở đã và đang được triển khai. Để đẩy mạnh tốc độ đầu tư - phát triển, thu hút đầu tư vào thị trấn Hùng Quốc và đặc biệt là khu vực cửa khẩu Trà Lĩnh, tuy nhiên các cuộc xúc tiến đầu tư của tỉnh phần lớn đều không có kết quả. Một trong các nguyên nhân khách quan như vị trí địa lý, hệ thống giao thông hạn chế, cơ chế chính sách chưa thực sự hấp dẫn, thì nguyên nhân chủ yếu là những hạn chế, bất cập trong đồ án Điều chỉnh Quy hoạch chung năm 2010 như việc bố trí chức năng trong khu vực cửa khẩu chưa phù hợp (quỹ đất ở, đất công cộng, du lịch sinh thái, cây xanh mặt nước...v), quỹ đất xây dựng bị chia cắt, không đảm bảo yêu cầu về quỹ đất của các dự án có đòi hỏi về quỹ đất lớn, các khu đất sản xuất công nghiệp bị chia cắt và bố trí phân tán, không thu hút được các nhà đầu tư lớn đến với khu vực cửa khẩu Trà Lĩnh và khu vực thị trấn Hùng Quốc. Để phù hợp với tình hình thực tế và tiếp tục đẩy mạnh đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng Khu vực cửa khẩu Trà Lĩnh, sớm hình thành Khu hợp tác kinh tế biên giới Trà Lĩnh - Long Bang, khai thác có hiệu quả các hoạt động xuất nhập khẩu, chế xuất, kho vận, thương mại, dịch vụ và du lịch; thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước đến đầu tư, tăng cường quan hệ giao thương, hợp tác, đảm bảo an ninh quốc phòng, giữ vững chủ quyền biên giới quốc gia, việc “Phát triển cơ sở hạ tầng logistics trên địa bàn huyện Trà Lĩnh, tỉnh Cao Bằng” là yêu cầu cấp thiết, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội , an ninh và quốc phòng đối với một huyện biên giới. 2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài Mục tiêu tổng quát: Nghiên cứu đề xuất các giải pháp phát triển CSHT logistics trên địa bàn huyện Trà Lĩnh, tỉnh Cao Bằng. Để thực hiện mục tiêu này, các mục tiêu cụ thể được xác định là. - Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về CSHT logistics trên địa bàn huyện. - Xác định nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển CSHT logistics huyện. - Phân tích thực trạng phát triển CSHT Logistics hiện nay trên địa bàn huyện Trà Lĩnh, tỉnh Cao Bằng. - Nêu bật được các cơ hội và thách thức trong phát triển CSHT logistics trên địa bàn huyện và đề xuất phương hướng, giải pháp phát triển CSHT logistics thời gian tới. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển CSHT logistics trên địa bàn huyện. Phạm vi nghiên cứu: CSHT logistics trên địa bàn huyện Trà Lĩnh những năm vừa qua và giải pháp phát triển cho những năm tới. 4. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp tổng hợp, phân tích kinh tế: Trên cơ sở tổng hợp phân tích một số công trình nghiên cứu điển hình trong và ngoài nước để rút ra những vấn đề lý luận về phát triển CSHT logistics. - Phương pháp nghiên cứu so sánh, phương pháp lịch sử và phương pháp logic nhằm phân tích, đánh giá, so sánh tình hình phát triển CSHT logistics trên địa bàn huyện. - Phương pháp thống kê, mô hình hóa để rút ra những kết luận có tính khoa học và khái quát cao trong việc đánh giá thực trạng phát triển CSHT logistics - Sử dụng phương pháp chuyên gia, tổ chức các buổi tọa đàm khoa học để thu thập ý kiến trực tiếp của các chuyên gia về hiện trạng, tác động của nó đối với sự phát triển phát triển CSHT logistics. 5. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn kết cấu theo 3 chương: Chương 1: Những vấn đề chung phát triển cơ sở hạ tầng logistics trên địa bàn huyện Chương 2: Thực trạng phát triển cơ sở hạ tầng logistics trên địa bàn huyện Trà Lĩnh, tỉnh Cao Bằng Chương 3: Giải pháp phát triển cơ sở hạ tầng logistics trên địa bàn huyện Trà Lĩnh, tỉnh Cao Bằng
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG PHÁT TRIỂN CƠ SỞ HẠ TẦNG
Khái quát về cơ sở hạ tầng logistics trên đại bàn huyện
1.1.1 Khái quát về cơ sở hạ tầng logistics trên đại bàn huyện
Logistics là một quá trình quan trọng, bao gồm tất cả các hoạt động từ giai đoạn tiền sản xuất cho đến khi hàng hóa được giao đến tay người tiêu dùng cuối cùng Định nghĩa này không chỉ phản ánh nghĩa hẹp mà còn bao quát cả nghĩa rộng của logistics, nhấn mạnh vai trò của nó trong chuỗi cung ứng.
Logistics là quá trình lập kế hoạch, thực hiện và kiểm soát hiệu quả chi phí trong việc quản lý dòng lưu chuyển và dự trữ nguyên vật liệu, bán thành phẩm, và thành phẩm Mục tiêu của logistics là đáp ứng yêu cầu của khách hàng từ điểm khởi đầu sản xuất đến điểm tiêu thụ cuối cùng Đây là định nghĩa phổ biến được nhiều người đồng thuận hiện nay.
Logistics là quá trình quản lý lưu chuyển nguyên vật liệu từ khâu lưu kho, sản xuất cho đến khi sản phẩm đến tay người tiêu dùng, đáp ứng yêu cầu của khách hàng (Liên Hiệp Quốc 2002).
Logistics bao gồm toàn bộ quy trình từ việc nhập nguyên vật liệu, sản xuất hàng hóa cho đến phân phối đến tay người tiêu dùng Có sự phân biệt rõ ràng giữa các nhà cung cấp dịch vụ đơn lẻ như vận tải, giao nhận, và khai thuê hải quan với các nhà cung cấp dịch vụ logistics chuyên nghiệp, những người đảm nhận toàn bộ quy trình để đưa hàng hóa đến tay người tiêu dùng cuối cùng.
Logistics, theo nghĩa hẹp, được định nghĩa là các hoạt động dịch vụ liên quan đến phân phối và lưu thông hàng hóa Đây là những hoạt động thương mại kết hợp với các dịch vụ cụ thể nhằm tối ưu hóa quá trình cung ứng.
Luật Thương mại Việt Nam năm 2005 (Điều 233) lần đầu tiên định nghĩa dịch vụ logistics là hoạt động thương mại mà thương nhân thực hiện một hoặc nhiều công đoạn như nhận hàng, vận chuyển, lưu kho, làm thủ tục hải quan, tư vấn khách hàng, và giao hàng, nhằm hưởng thù lao Định nghĩa này chỉ ra rằng logistics bao gồm các hoạt động cụ thể liên quan đến hàng hóa theo thỏa thuận với khách hàng.
Ngoài ra, còn có khá nhiều khái niệm được các nhà nghiên cứu về logistics đưa ra thông qua từng góc độ nghiên cứu:
Logistics là quá trình dự đoán nhu cầu và mong muốn của khách hàng, sử dụng các nguồn lực như vốn, nguyên vật liệu, nhân lực, công nghệ và thông tin để đáp ứng kịp thời những yêu cầu đó Theo Coyle (2003), logistics không chỉ đánh giá hàng hóa và dịch vụ mà còn chú trọng vào việc sử dụng tài nguyên hiệu quả nhằm thỏa mãn nhu cầu khách hàng Định nghĩa này cho thấy sự tương đồng giữa logistics và marketing, cả hai đều hướng tới việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng, nhưng logistics tập trung vào việc khai thác nguồn lực để thực hiện điều đó.
Logistics là chuỗi các hoạt động chức năng được thực hiện liên tục nhằm chuyển hóa nguyên vật liệu thành sản phẩm hoàn chỉnh.
Định nghĩa của Grundey về logistics nhấn mạnh vào toàn bộ quy trình từ nguyên vật liệu đến thành phẩm, tuy nhiên, nó thiếu sót khi không đề cập đến quy trình phân phối sản phẩm đến tay người tiêu dùng, một yếu tố quan trọng trong logistics.
Sứ mệnh của logistics là đảm bảo sản phẩm và dịch vụ được giao đến đúng địa điểm, thời gian và hoàn cảnh yêu cầu, đồng thời mang lại giá trị cao nhất cho doanh nghiệp (Ballou, 1992) Khác với nhiều định nghĩa khác, Ballou nhấn mạnh vào mục tiêu mà logistics phải đạt được Tương tự, E.Grosvenor Plowman chỉ ra rằng hệ thống logistics cung cấp cho các công ty bảy lợi ích cơ bản: đúng khách hàng, đúng sản phẩm, đúng số lượng, đúng điều kiện, đúng địa điểm, đúng thời gian và đúng chi phí.
Logistics là quá trình lập kế hoạch, thực hiện và kiểm soát việc di chuyển và sắp xếp con người và hàng hóa, cùng với các hoạt động hỗ trợ liên quan Đặc điểm nổi bật trong định nghĩa này là sự nhấn mạnh vào yếu tố con người, bên cạnh hàng hóa và các yếu tố khác, tạo thành một chuỗi các yếu tố mà logistics cần xử lý.
Logistics là nghệ thuật tổ chức và quản lý sự di chuyển của hàng hóa và nguyên vật liệu Quá trình này bắt đầu từ giai đoạn mua sắm, tiếp tục qua các bước lưu kho, sản xuất và phân phối, cho đến khi sản phẩm cuối cùng được đưa đến tay người tiêu dùng.
Logistics là quá trình tối ưu hóa vị trí và thời gian trong việc vận chuyển và dự trữ nguồn tài nguyên, bắt đầu từ điểm đầu tiên của chuỗi cung ứng cho đến tay người tiêu dùng cuối cùng, thông qua nhiều hoạt động kinh tế khác nhau.
Logistics là sự kết hợp giữa nghệ thuật và khoa học trong việc quản lý bố trí và các hoạt động kỹ thuật cần thiết cho việc đáp ứng yêu cầu, thiết kế và cung cấp các nguồn lực Điều này nhằm mục đích duy trì và hỗ trợ thực hiện các mục tiêu và kế hoạch đã đề ra (Dư Đức Thành 2014).
Logistics là sự kết hợp giữa khoa học và nghệ thuật trong việc tối ưu hóa nguồn nhân lực nhằm đạt được các mục tiêu cụ thể, đồng thời phù hợp với khả năng cá nhân và năng lực của tổ chức.
Nội dung phát triển cơ sở hạ tầng logistics trên đại bàn huyện và các chỉ tiêu đánh giá
1.2.1 Phát triển các cơ sở hạ tầng logistics
Phát triển là xu hướng tiến bộ của sự vật, thể hiện sự chuyển mình từ thấp lên cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn Khái niệm về phát triển không ngừng thay đổi và tiến hóa qua các giai đoạn khác nhau.
Phát triển kinh tế, đặc biệt trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng (CSHT) logistics, là quá trình tăng trưởng toàn diện của nền kinh tế dịch vụ, bao gồm sự gia tăng quy mô và sản lượng cũng như cải tiến cơ cấu Để đánh giá sự phát triển của CSHT logistics, cần xem xét hai khía cạnh chính: (1) các nội dung cụ thể của CSHT logistics cần phát triển và (2) hướng đi hay hình thức phát triển CSHT logistics tại địa phương.
1.2.2 Nội dung phát triển cơ sở hạ tầng logistics a Phát triển các yếu tố cơ sở hạ tầng logistics
Cơ sở hạ tầng giao thông vận tải đóng vai trò quan trọng trong việc vận chuyển hàng hoá, giúp di chuyển hàng hoá giữa sản xuất và tiêu dùng Sự cần thiết của vận chuyển hàng hoá xuất phát từ sự cách biệt về không gian và thời gian, với yêu cầu tăng cao theo sự phát triển của nền kinh tế Hệ thống vận tải không chỉ là cầu nối mà còn giúp giảm chi phí logistics, trong đó chi phí vận tải là một trong những khoản lớn nhất Chi phí này bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố như loại hàng hoá, quy mô lô hàng, tuyến đường và phương tiện vận chuyển Cơ sở hạ tầng giao thông vận tải, bao gồm đường bộ, đường sắt, đường sông, đường hàng không và hệ thống cảng biển, là những bộ phận thiết yếu trong toàn bộ cơ sở hạ tầng logistics.
Dịch vụ giao nhận hàng hoá là hoạt động thương mại, trong đó người cung cấp dịch vụ nhận hàng từ người gửi và tổ chức các công việc vận chuyển, lưu kho, làm thủ tục giấy tờ cùng các dịch vụ liên quan để giao hàng cho người nhận Tất cả những hoạt động này được thực hiện theo sự uỷ thác của chủ hàng, người vận tải hoặc các dịch vụ giao nhận khác, được gọi chung là khách hàng.
Trong bối cảnh thương mại toàn cầu hóa, dịch vụ giao nhận hàng hóa ngày càng trở nên quan trọng trong vận tải và buôn bán quốc tế Người làm dịch vụ này không chỉ thực hiện các công việc truyền thống như đặt chỗ, kiểm tra và giao nhận hàng hóa, mà còn cung cấp các dịch vụ chuyên nghiệp như tư vấn lựa chọn tuyến đường và phương tiện vận chuyển, cũng như đóng gói hàng hóa Đồng thời, họ cần tuân thủ các quy định pháp luật về quyền lợi và nghĩa vụ trong lĩnh vực vận tải.
Cơ sở hạ tầng giao nhận hàng hóa cần được đầu tư hiện đại, bao gồm thiết bị xếp dỡ và kho hàng, nhằm phục vụ hiệu quả cho các hoạt động xếp dỡ hàng hóa.
Cơ sở hạ tầng kho bãi đóng vai trò quan trọng trong logistics, với chức năng chính là dự trữ, bảo quản và chuẩn bị hàng hóa để cung ứng cho khách hàng với dịch vụ tối ưu và chi phí hợp lý Kho chứa là bộ phận then chốt trong hoạt động logistics của doanh nghiệp, liên quan đến việc tổ chức và bảo quản hàng hóa dự trữ cũng như chuẩn bị lô hàng theo nhu cầu kinh doanh Do đó, việc đầu tư vào nhiều loại kho để bảo quản hàng hóa là cần thiết trong hệ thống cơ sở hạ tầng logistics.
Cơ sở hạ tầng CNTT tại Cao Bằng đang dần phát triển, với việc ứng dụng công nghệ thông tin và thương mại điện tử trong lĩnh vực logistics ngày càng trở nên phổ biến Các doanh nghiệp đã bắt đầu áp dụng công nghệ như hệ thống thông tin quản trị dây chuyền cung ứng và công nghệ nhận dạng bằng tần số vô tuyến, giúp cải thiện tốc độ và độ chính xác trong truyền tải thông tin, từ đó nâng cao hiệu quả ra quyết định trong logistics Mặc dù chưa phổ biến rộng rãi, nhưng tỷ lệ người dân sử dụng máy tính và internet đang gia tăng, cùng với sự phát triển của các chương trình đào tạo tin học từ tiểu học đến đại học Các đơn vị hành chính và doanh nghiệp cũng đã ứng dụng thành tựu CNTT vào quản lý hoạt động, với nhiều doanh nghiệp khai thác internet để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, và một số đã áp dụng thương mại điện tử trong marketing, ký kết hợp đồng, giao nhận hàng hóa và thanh toán.
Cơ sở hạ tầng logistics có thể phát triển theo ba hướng chính: phát triển theo chiều rộng, phát triển theo chiều sâu và phát triển kết hợp cả hai hướng này.
Phát triển cơ sở hạ tầng logistics theo chiều rộng là quá trình mở rộng về mặt địa lý, tăng quy mô và số lượng thiết bị, cũng như mở rộng hệ thống cơ sở hạ tầng như đường bộ rải nhựa và diện tích kho hàng Điều này không chỉ nâng cao quy mô tổng thể của hệ thống logistics mà còn kết nối hiệu quả với các hệ thống cơ sở hạ tầng khác, từ đó cải thiện khả năng vận chuyển và phân phối hàng hóa.
Phát triển cơ sở hạ tầng logistics theo chiều sâu là nâng cao hiệu quả và chất lượng khai thác hạ tầng hiện có tại địa phương Chất lượng cơ sở hạ tầng logistics được đánh giá qua mức tăng trưởng doanh thu, lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận của doanh nghiệp, cùng với quy mô và chất lượng hạ tầng qua các năm Để đạt được mục tiêu này, chính quyền địa phương cần thiết lập các chính sách hấp dẫn nhằm thu hút nhà đầu tư vào xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng logistics có tính kết nối.
Chính quyền cần phát triển chính sách hỗ trợ tổ chức kinh tế và nhà đầu tư trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng logistics, từ đó giúp doanh nghiệp nhận thấy tiềm năng đầu tư Đội ngũ cán bộ quản lý cũng cần nâng cao nhận thức về vai trò của chính sách phát triển này Khi chính quyền và nhà đầu tư đạt được sự thống nhất, tính hiệu lực và hiệu quả của chính sách sẽ được cải thiện, phù hợp với tình hình thực tiễn.
1.2.3 Các chỉ tiêu đánh giá phát triển cơ sở hạ tầng logistics
1.2.3.1 Tiêu chí đánh giá về quy mô
Quy mô phát triển cơ sở hạ tầng logistics tại huyện bao gồm các yếu tố như kho hàng cửa khẩu, hệ thống phân phối hàng hóa, đường bộ, đường sắt, và cơ sở hạ tầng kho bãi cùng công nghệ thông tin Tất cả những yếu tố này tạo thành một mạng lưới kết nối chặt chẽ, hỗ trợ cho phát triển kinh tế bền vững và đảm bảo an ninh, quốc phòng, đồng thời giúp giảm chi phí logistics.
1.2.3.2 Tiêu chí đánh giá tính hiệu quả ,chất lượng của cơ sở hạ tầng logistics
Chất lượng cơ sở hạ tầng thương mại và vận tải, sự thuận tiện trong việc sắp xếp các lô hàng với giá cạnh tranh cho vận chuyển đường biển, năng lực và chất lượng dịch vụ logistics, khả năng theo dõi các lô hàng, cùng với sự kịp thời trong vận chuyển bằng đường biển đến điểm đến là những yếu tố quan trọng quyết định hiệu quả của hoạt động logistics.
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CƠ SỞ HẠ TẦNG LOGISTICS TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN TRÀ LĨNH, TỈNH CAO BẰNG
Đặc điểm tự nhiên và kinh tế - xã hội của huyện Trà Lĩnh có ảnh hưởng đến phát triển cơ sở hạ tầng logistics
2.1.1 Đặc điểm tự nhiên của Huyện Trà Lĩnh
Huyện Trà Lĩnh nằm ở phía bắc tỉnh Cao
Bằng, phía bắc giáp Quảng Tây - Trung Quốc, phía tây, tây nam là huyện Hà Quảng và Hòa An, phía đông, đông nam là huyện Trùng Khánh và Quảng
Huyện có diện tích 257 km 2 và dân số là khoảng
22.380 người Huyện ly là thị trấn Hùng Quốc nằm trên tỉnh lộ 205 (nay là Quốc lộ 34), cách Thành phố
Cao Bằng 37 km về hướng nam và biên giới Việt Nam
- Trung Quốc 5 km về hướng bắc Huyện lị: thị trấn
Hùng Quốc (thành lập ngày 11-8-1999 trên cơ sở xã
Huyện Trà Lĩnh, trước đây được gọi là huyện Trấn Biên, bao gồm các xã như Cao Chương, Cô Mười, Lưu Ngọc, Quang Hán, Quang Trung, Quang Vinh, Quốc Toản, Tri Phương, và Xuân Nội Tên gọi Trà Lĩnh được chính thức đổi theo Nghị định số 153-TTg của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào ngày 20/3/1958 Địa hình huyện chủ yếu là đồi núi, chiếm 88% diện tích tự nhiên, với độ cao giảm dần từ phía tây bắc xuống đông nam.
Với độ cao từ 650 m đến 700 m so với mặt nước biển, khu vực này nổi bật với nhiều ngọn núi cao trên 1.000 m, trong đó có ngọn núi ở Bản Tám (xã Cô Mười) cao tới 1.200 m Địa hình tự nhiên chia thành hai vùng chính: vùng núi đá vôi bao gồm các xã phía tây huyện như Cô Mười, Lưu Ngọc, Quang Vinh, và vùng núi đá xen núi đất với các xã Quốc Toản, Cao Chương, Quang Hán, Xuân Nội, Quang Trung, Tri Phương cùng thị trấn Hùng Quốc Xen giữa các vùng núi là những cánh đồng ven sông, suối và các thung lũng bằng phẳng như Phiêng Ra (xã Tri Phương), Lũng Tung (xã Xuân Nội) và Lũng Pán (xã Lưu Ngọc) Giao thông trong khu vực chủ yếu dựa vào hệ thống đường bộ.
Huyện Trà Lĩnh có khí hậu á nhiệt đới gió mùa, với hai mùa rõ rệt: mùa nóng từ tháng 4 đến tháng 10 và mùa lạnh từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau Mùa nóng thường có nhiệt độ trung bình 19,7°C, với mức cao nhất đạt 36,3°C, và lượng mưa trung bình từ 1.700 mm đến 1.800 mm, đặc biệt vào các tháng 6, 7, 8, dễ xảy ra lũ lụt và xói mòn đất ven sông Độ ẩm cao lên tới 87% Ngược lại, mùa lạnh có khí hậu khô hanh, lượng mưa trung bình chỉ khoảng 900 mm, với những năm có thể giảm xuống còn 605 mm, và thường xảy ra sương muối từ 3 đến 5 ngày, có năm kéo dài đến 15-20 ngày Thời gian giao mùa giữa hai mùa thường chứng kiến hiện tượng mưa đá, gây thiệt hại cho hoa màu và nhà cửa.
Rừng và đất rừng trong huyện chiếm 83,1% tổng diện tích, tương đương khoảng 20.000 ha Trước đây, khu vực này từng có nhiều loại gỗ quý như nghiến, lát, và thông Hiện tại, huyện chỉ còn khoảng 987 ha rừng với trữ lượng gỗ ước tính khoảng 4.500 m3 Từ năm 1995, chương trình phát triển kinh tế nông - lâm kết hợp đã giúp trồng thêm 1.000 ha rừng hồi và 23 ha rừng vầu thuộc sở hữu của người dân.
Huyện Trà Lĩnh có diện tích đất canh tác khoảng 4.064 ha, trong đó hơn 2.000 ha là đất ruộng, tập trung dọc theo các sông Bắc Vọng, Trà Lĩnh và Cô Mười Trước đây, huyện nổi tiếng với nhiều loài động vật quý hiếm như hổ, báo, hươu, nai, gấu, và khỉ, cùng với các loài động vật khác như lợn rừng, sơn dương, nhím, cày hương, hoạ mi, trĩ và gà lôi Ngoài ra, huyện còn có nhiều loại lâm thổ sản phong phú như sa nhân, mộc nhĩ, nấm hương, măng trúc và măng mai.
Hiện nay, huyện Trà Lĩnh còn tồn tại một số loài động vật quý hiếm như cày hương, nhím, khỉ, nai, chim trĩ và gà lôi, cùng với các loại lâm thổ sản như mộc nhĩ, nấm hương và nhiều loại măng khác Đặc biệt, huyện sở hữu nguồn khoáng sản mangan với trữ lượng ước tính khoảng 3 triệu tấn, là tài nguyên quý giá cho sự phát triển ngành công nghiệp khai khoáng tại địa phương.
Huyện Trà Lĩnh là nơi cư trú của nhiều dân tộc như Tày, Nùng, Mông, Kinh, Hoa, mỗi dân tộc đều mang bản sắc văn hóa riêng biệt Sự đoàn kết giữa các dân tộc tạo thành một cộng đồng vững chắc, với truyền thống tốt đẹp được gìn giữ và phát huy Người Tày và Nùng sống xen kẽ, chủ yếu ở các làng bản, với nhà ở truyền thống là nhà sàn, nhưng hiện nay đã chuyển sang kiến trúc mới Trong khi đó, dân tộc Mông chủ yếu sinh sống ở sườn đồi và thung lũng núi đá, với lương thực chính là ngô và đỗ tương Dân tộc Hoa và Kinh tập trung tại các phố chợ, chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực buôn bán, kinh doanh và dịch vụ.
Nghề trồng trọt ở Trà Lĩnh chủ yếu bao gồm cấy lúa, trồng ngô và các loại cây hoa màu như mạch ba góc, đỗ, lạc và rau, nhờ vào điều kiện đất đai và khí hậu thuận lợi Huyện Trà Lĩnh nổi bật với các loại trái cây như cam, quýt, mận, lê và đào, trong đó quýt được xem là đặc sản nổi tiếng với hương vị thơm ngon Ở vùng cao, người dân khai phá đất đồi để trồng lúa nương, ngô, khoai, sắn và các loại đỗ Nghề chăn nuôi, bao gồm trâu, bò, ngựa, được coi là tài sản quý giá, hỗ trợ cho sản xuất nông nghiệp, bên cạnh đó còn có lợn, dê, nhím và gia cầm như gà, vịt, ngỗng.
Huyện Trà Lĩnh nổi bật với hai chợ phiên là chợ Trà Lĩnh và chợ Mỏ Quang Trung (trước đây là Bản Ngắn) Kể từ trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, chợ Trà Lĩnh đã giữ vai trò trung tâm buôn bán của huyện, với các khu vực riêng biệt cho từng loại hàng hóa như trâu, bò, lợn, gà, vịt, lương thực, thực phẩm và rau quả Đặc biệt, cửa khẩu Trà Lĩnh nối liền với Long Bang (Trung Quốc) đã tạo điều kiện thuận lợi cho giao thương, góp phần tăng cường ngân sách và phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Nền văn hóa phong phú và đa dạng của các dân tộc huyện Trà Lĩnh thể hiện bản sắc văn hóa truyền thống độc đáo, phản ánh sinh động các hoạt động lao động, học tập và tình cảm gia đình Người Tày nổi bật với các làn điệu lượn then, đàn tính và phong Slư; người Nùng có làn điệu Hà lều, trong khi nhóm Nùng Giang mang đến làn điệu Sli giang; người Mông thể hiện qua múa khèn, kèn môi và gầu tào Hằng năm, huyện Trà Lĩnh tổ chức nhiều lễ hội đặc sắc như lễ hội Lồng Tồng vào Rằm tháng Giêng tại xã Tri Phương, hội Thanh Minh ở xã Quang Trung, hội chọi bò tại xã Quang Hán vào ngày 12 tháng 2 âm lịch, và hội Háng Tán tại thị trấn Hùng Quốc.
Vào ngày 14 tháng 2 âm lịch, lễ hội được chia thành hai phần: phần lễ diễn ra trang trọng theo truyền thống, trong khi phần hội tổ chức nhiều hoạt động văn hóa, nghệ thuật và thể thao sôi nổi Các hoạt động này bao gồm múa kỳ lân, trình diễn võ thuật cổ truyền, cùng với các tiết mục dân ca và dân vũ đặc sắc của các dân tộc trong huyện.
2.1.2 Đặc điểm về phát triển kinh tế - xã hội
UBND huyện đã ban hành Chương trình số 16/CTr-UBND ngày 25 tháng 12 năm 2017 Chương trình công tác năm 2018; Quyết định số: 1831/QĐ-UBND ngày
21 tháng 12 năm 2018 của UBND huyện Trà Lĩnh về kế hoạch sản xuất nông nghiệp 2019; Kế hoạch số 20/KH-UBND ngày 13 tháng 02 năm 2018 về thực hiện
Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 01/01/2018 của Chính phủ đã đề ra các nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu cho kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách năm 2018 Hội nghị tổng kết năm 2017 đã triển khai giao chỉ tiêu kế hoạch phát triển cho các ngành và địa phương Chủ tịch và các Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện đã tập trung chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên kiểm tra tình hình phát triển kinh tế - xã hội và an ninh - quốc phòng Việc tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp và kế hoạch phát triển 5 năm đã giúp duy trì ổn định và phát triển kinh tế - xã hội của huyện, đồng thời giữ vững an ninh chính trị và quốc phòng.
UBND huyện đã chỉ đạo các ngành triển khai hiệu quả công tác cung ứng giống cây trồng, phân bón và thuốc bảo vệ thực vật, giúp nông dân ổn định sản xuất Diện tích và năng suất một số cây trồng chính đã đạt chỉ tiêu kế hoạch, với tổng sản lượng lương thực đạt 19.315 tấn, tương đương 102% chỉ tiêu và tăng 101% so với cùng kỳ Công tác chăn nuôi cũng được duy trì ổn định, với sự quan tâm đến phòng chống dịch bệnh Các biện pháp kiểm tra, theo dõi tổng đàn gia súc, gia cầm và công tác tiêm phòng, tiêu trùng, khử độc chuồng trại được thực hiện tốt Đặc biệt, việc tiêm phòng dịch bệnh Lở mồm long móng cho gia súc và phun khử trùng chuồng trại đã được triển khai, đảm bảo 100% hộ gia đình nông dân được hỗ trợ.
Để nâng cao hiệu quả công tác thủy lợi, cần cung cấp kịp thời vật tư sửa chữa và xây dựng mới các công trình thủy lợi nhỏ, cũng như cấp máy bơm chống hạn cho người dân Đồng thời, các xã, thị trấn cần tuyên truyền và vận động nhân dân thực hiện nạo vét, tu sửa các kênh mương thủy lợi để đảm bảo nguồn nước phục vụ tưới tiêu cho sản xuất trong vụ Mùa và vụ Đông - Xuân Ngoài ra, cần chỉ đạo thực hiện tốt công tác khắc phục thiên tai đã xảy ra vào ngày 14/4/2018 tại xã Quốc Toản.
Trong năm, tổng diện tích gieo trồng ngô đạt 2.682 ha, vượt 102,8% so với chỉ tiêu kế hoạch 2.610 ha Năng suất ngô đạt 40,95 tạ/ha, với sản lượng tổng cộng là 10.983 tấn, đạt 104% so với chỉ tiêu 10.599 tấn.
Cây lúa: Diện tích gieo trồng được: 1.643 ha/ 1.650 bằng 99,58 % chỉ tiêu KH, năng suất đạt 50,68 tạ/ha, sản lượng đạt