Cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển sản xuất cây dược liệu
Cơ sở lý luận về phát triển sản xuất cây dược liệu
Theo Từ điển Tiếng Việt, "phát triển" được hiểu là quá trình tiến triển theo hướng gia tăng, như trong phát triển kinh tế, văn hóa và xã hội Từ điển Bách khoa Việt Nam định nghĩa "phát triển" là một phạm trù triết học phản ánh sự biến đổi của thế giới, đồng thời là thuộc tính của vật chất Mọi sự vật và hiện tượng đều không tồn tại trong trạng thái cố định, mà trải qua sự thay đổi từ khi xuất hiện cho đến khi tiêu vong; nguồn gốc của phát triển xuất phát từ sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập.
Phát triển là quá trình tăng trưởng và tiến bộ trong mọi lĩnh vực, bao gồm sự gia tăng về chất lượng và số lượng, thay đổi cơ cấu, thể chế, chủng loại và tổ chức Đồng thời, phát triển cũng liên quan đến sự biến đổi của thị trường và đảm bảo công bằng xã hội, an ninh, trật tự (Fajardo, 1999).
Theo Lưu Đức Hải (2001), phát triển được hiểu là một quá trình tăng trưởng bao gồm nhiều yếu tố cấu thành đa dạng như kinh tế, chính trị, kỹ thuật và văn hóa.
Phát triển được định nghĩa là quá trình thay đổi liên tục nhằm nâng cao mức sống của con người và đảm bảo phân phối công bằng những thành quả từ sự tăng trưởng trong xã hội.
Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau về sự phát triển, nhưng tất cả đều thống nhất rằng phát triển bao gồm các khía cạnh vật chất, tinh thần và hệ thống giá trị con người Mục tiêu chung của phát triển là nâng cao quyền lợi kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội và quyền tự do công dân cho mọi người Phát triển nông nghiệp cũng nằm trong bối cảnh này.
Phát triển nông nghiệp là quá trình chuyển biến tích cực của nền nông nghiệp, thể hiện sự gia tăng về cả lượng và chất so với giai đoạn trước Nền nông nghiệp phát triển không chỉ gia tăng đầu ra với sản phẩm và dịch vụ đa dạng, mà còn có cấu trúc phù hợp hơn, tổ chức và thể chế thích ứng tốt hơn, đáp ứng hiệu quả nhu cầu xã hội về nông nghiệp (Đỗ Kim Chung, 2009).
Phát triển nông nghiệp là một khái niệm quan trọng trong kinh tế và xã hội, bao gồm các biện pháp nhằm gia tăng sản lượng nông sản để đáp ứng nhu cầu thị trường Điều này được thực hiện thông qua việc khai thác hợp lý các nguồn lực trong nông nghiệp và từng bước nâng cao hiệu quả sản xuất (Mai Ngọc Cường, 1997).
Phát triển nông nghiệp không chỉ tập trung vào tăng trưởng về lượng mà còn chú trọng đến chất lượng, phản ánh những thay đổi cơ bản trong cơ cấu nông nghiệp và khả năng thích ứng với hoàn cảnh mới Điều này bao gồm sự tham gia của cộng đồng trong quản lý và sử dụng nguồn lực, cũng như sự phân bổ tài nguyên giữa các nhóm dân cư trong lĩnh vực nông nghiệp và các ngành kinh tế khác Phát triển nông nghiệp còn liên quan đến các yếu tố kinh tế, xã hội, tổ chức, thể chế và môi trường.
2.1.1.2 Khái niệm phát triển sản xuất
Theo Nguyễn Văn Nam (2009), sản xuất của cải vật chất là quá trình con người tác động vào tự nhiên để biến đổi các vật thể nhằm tạo ra sản phẩm đáp ứng nhu cầu Sản xuất không chỉ là nền tảng cho sự tồn tại mà còn cho sự phát triển của con người Qua lao động sản xuất, con người cải tạo và hoàn thiện cả về vật chất lẫn tinh thần Hoạt động sản xuất đóng vai trò trung tâm, thúc đẩy sự phát triển của các hoạt động xã hội khác.
Phát triển sản xuất, theo quan niệm của tác giả, là quá trình tiến hóa của đối tượng sản xuất từ mức độ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, và từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn Quá trình này không chỉ bao gồm sự gia tăng về số lượng mà còn cả sự nâng cao về chất lượng trong sản xuất.
Phát triển sản xuất theo chiều rộng tập trung vào việc mở rộng quy mô sản xuất thông qua việc tăng cường các yếu tố đầu vào như tư liệu sản xuất, vốn và lao động Trong khi đó, phát triển sản xuất theo chiều sâu nhấn mạnh vào việc nâng cao hiệu quả sử dụng các yếu tố sản xuất, bao gồm hiệu quả kinh tế, môi trường và xã hội.
Theo tác giả Nguyễn Thị Phương Nhâm (2013), sự phát triển sản xuất chủ yếu chịu ảnh hưởng từ điều kiện tự nhiên và các nguồn lực đầu vào.
Vốn sản xuất đóng vai trò quan trọng trong quá trình sản xuất Khi năng suất lao động không thay đổi, việc tăng tổng số vốn sẽ dẫn đến sự gia tăng sản lượng hàng hóa.
Lực lượng lao động đóng vai trò quan trọng trong quá trình sản xuất, vì mọi hoạt động sản xuất đều phụ thuộc vào công sức của con người Đặc biệt, những người lao động có trình độ kỹ thuật, kinh nghiệm và kỹ năng cao sẽ ảnh hưởng lớn đến chất lượng và hiệu quả sản xuất Do đó, chất lượng lao động là yếu tố quyết định đến kết quả sản xuất.
Đất đai không chỉ đóng vai trò quan trọng trong nông nghiệp mà còn thiết yếu cho sản xuất công nghiệp và dịch vụ Do đất đai là yếu tố cố định và có giới hạn về quy mô, việc đầu tư thêm vốn và lao động trên mỗi đơn vị diện tích là cần thiết để duy trì và nâng cao hiệu quả sử dụng đất.
Cơ sở thực tiễn về phát triển sản xuất cây dược liệu
Những cơ sở xây dựng định hướng:
Việt Nam sở hữu một hệ sinh thái phong phú với tiềm năng lớn về tài nguyên dược liệu, bao gồm thực vật, động vật và khoáng vật Theo điều tra năm 2016, nước ta đã ghi nhận hơn 5.000 loài thực vật có khả năng sử dụng làm thuốc, trong đó gần 200 loài có tiềm năng cao để khai thác và phát triển trồng nhằm đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu, như quế, hồi, hòe, nghệ, actiso, sa nhân, kim tiền thảo, đinh lăng và thảo quả.
Theo nghiên cứu của Nguyễn Phú Kiều (1996), việc nuôi trồng dược liệu không chỉ nâng cao hiệu quả kinh tế cho các hộ nông dân mà còn mang lại lợi nhuận cao gấp 3-5 lần so với việc trồng một số loại cây nông nghiệp như lúa, ngô, hay sắn Các loại cây dược liệu phân bố rộng rãi trên toàn quốc, trong đó có nhiều loài quý hiếm được ghi nhận trên thế giới như Sâm ngọc linh, Bách hợp, Thông đỏ, Vàng đắng, Hoàng liên ô rô, Hoàng liên gai, Thanh thiên quỳ, và Ba gạc Vĩnh Phú.
Năm 2014, doanh thu từ sản xuất thuốc từ dược liệu tại Việt Nam đạt 3.500 tỷ đồng, tăng hơn 1,75 lần so với năm 2012 Trong số 20 loại dược liệu được sử dụng nhiều nhất cho sản xuất thuốc, nhu cầu tiếp tục tăng cao.
2011, Artiso đứng đầu danh sách với số lượng tiêu thụ lên tới 2000 tấn/năm, tiếp theo là Đinh lăng với hơn 900 tấn/năm…
Việt Nam, mặc dù phải nhập khẩu một lượng lớn dược liệu hàng năm, vẫn là một quốc gia xuất khẩu dược liệu đáng chú ý Nhiều công ty sản xuất hàng trăm mặt hàng thuốc dược liệu và thuốc y học cổ truyền, trong đó một số sản phẩm như kim tiền thảo, Hydan, Ampelop, và Artemisinin đã được sản xuất quy mô lớn và chiếm lĩnh thị trường Hàng năm, Việt Nam xuất khẩu khoảng 10.000 tấn dược liệu và 10.000 tấn thành phẩm, bao gồm tinh dầu bạc hà.
Sả, Hương nhu, Quế, Bạch đàn chanh, Hồi, Húng quế, Màng tang, Tràm, Long não Các hóa chất: Artemisnin và các dẫn chất; Acid shikimic
Theo Nguyễn Duy Thuần (2003) công bố trong Hội nghị dược liệu toàn quốc tổ chức vào tháng 3 năm 2003, nhu cầu sử dụng dược liệu ở nước ta khoảng
50.000 tấn/năm phục vụ cho 145 bệnh viện y học cổ truyền, 242 khoa y học cổ truyền và xuất khẩu
Bảo tồn và phát triển nguồn gene cây dược liệu hiện đang gặp nhiều thách thức, với nhiều loài cây thuốc quý hiếm đứng trước nguy cơ tuyệt chủng Các loài như sâm mọc tự nhiên (3 loài), hoàng liên (7 loài thuộc 3 chi khác nhau), một lá (3 - 4 loài), bách hợp, bát giác liên và bảy lá một hoa đang cần được chú ý và bảo vệ.
Hiện nay, Việt Nam có 144 loài cây thuốc quý hiếm đang đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng, thuộc 58 họ thực vật bậc cao có mạch Theo tiêu chí phân hạng IUCN (2001), trong số này có 18 loài cực kỳ nguy cấp (CR), 57 loài nguy cấp (EN), và 69 loài sắp bị nguy cấp (VU) (Nguyễn Tập, 2007) Danh sách này được gọi là Danh mục Đỏ cây thuốc Việt Nam, cung cấp cơ sở khoa học quan trọng cho công tác bảo tồn cây thuốc tại nước ta Việc phát triển sản xuất cây dược liệu ở Việt Nam cần được định hướng rõ ràng để bảo vệ và duy trì nguồn gen quý giá này.
Trong chiến lược phát triển ngành Dược giai đoạn 2002 - 2010, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt kế hoạch đầu tư trọng điểm cho các cơ sở sản xuất hóa chất và nguyên liệu làm thuốc Chiến lược này tập trung vào việc ưu tiên sản xuất thuốc thiết yếu, thuốc có thế mạnh xuất khẩu, thuốc từ dược liệu và thuốc mang tên gốc để thay thế thuốc nhập khẩu, đồng thời chú trọng đầu tư phát triển dược liệu và nguyên liệu làm thuốc.
Quy hoạch tổng thể phát triển dược liệu đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030 của Bộ Y tế (2013) nhấn mạnh mục tiêu phát triển sản xuất cây dược liệu dựa trên việc khai thác hiệu quả tiềm năng tự nhiên và xã hội, đồng thời bảo tồn và khai thác hợp lý nguồn dược liệu tự nhiên Đặc biệt, quy hoạch cũng đặt ra yêu cầu bảo vệ đa dạng sinh học và môi trường sinh thái.
* Quy hoạch 08 vùng trồng tập trung các loài dược liệu có thế mạnh, phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu và sinh thái, cụ thể như sau:
Vùng núi cao với khí hậu á nhiệt đới tại Lào Cai (Sa Pa), Lai Châu (Sìn Hồ) và Hà Giang (Đồng Văn, Quản Bạ) đang phát triển mạnh mẽ trong việc trồng 13 loài dược liệu.
Việt Nam hiện có 04 loài cây bản địa quý giá như Bình vôi, Đảng sâm, Hà thủ ô đỏ, Tục đoạn, cùng với 09 loài cây nhập nội bao gồm Actisô, Đỗ trọng, Độc hoạt, Đương quy, Hoàng bá, Mộc hương, Ô đầu, Tam thất, và Xuyên khung, với tổng diện tích trồng khoảng 2.550 ha Đặc biệt, ưu tiên phát triển các loài như Actisô, Đương quy và Đảng sâm, đồng thời kết hợp nghiên cứu sản xuất giống cho các loài cây thuốc nhập nội từ phương Bắc nhằm phục vụ cho công tác phát triển dược liệu.
Vùng núi trung bình tại Lào Cai (Bắc Hà), Sơn La (Mộc Châu) và Lâm Đồng (Đà Lạt) có khí hậu á nhiệt đới thuận lợi cho việc phát triển trồng trọt Tại đây, nông dân đã tập trung phát triển 12 loài dược liệu quý, góp phần nâng cao giá trị kinh tế và bảo tồn nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Việt Nam có 05 loài bản địa nổi bật gồm Bình vôi, Đảng sâm, Hà thủ ô đỏ, Tục đoạn và Ý dĩ, cùng với 07 loài nhập nội như Actisô, Bạch truật, Bạch chỉ, Dương cam cúc, Đỗ trọng, Đương quy và Huyền sâm, với tổng diện tích trồng khoảng 3.150 ha Trong đó, các loài Bạch Truật, Đỗ trọng và Actisô được ưu tiên phát triển.
Vùng trung du miền núi Bắc Bộ, bao gồm Bắc Giang, Yên Bái, Quảng Ninh và Lạng Sơn, đang phát triển trồng 16 loài dược liệu, trong đó có 13 loài bản địa như Ba kích, Đinh lăng, Địa liền, Gấc, Giảo cổ lam, Ích mẫu, Kim tiền thảo, Hồi, Quế, Sả, Sa nhân tím, Thanh hao hoa vàng và Ý dĩ, cùng với 03 loài nhập nội là Bạch chỉ, Bạch truật, Địa hoàng, với tổng diện tích trồng khoảng 4.600 ha Khu vực này ưu tiên phát triển các loài Ba kích, Gấc, Địa hoàng và duy trì khai thác bền vững Quế và Hồi trên diện tích đã có.
Vùng đồng bằng sông Hồng, bao gồm Hà Nội, Hưng Yên, Vĩnh Phúc, Hải Dương, Nam Định và Thái Bình, đang phát triển trồng 20 loài dược liệu, trong đó có 12 loài bản địa như Cúc hoa, Diệp hạ châu đắng, Địa liền, Đinh lăng, Gấc, Hòe, Củ mài, Hương nhu trắng, Râu mèo, ích mẫu, Thanh hao hoa vàng, Mã đề, và 8 loài nhập nội như Bạc hà, Bạch chỉ, Bạch truật, Cát cánh, Địa hoàng, Đương quy, Ngưu tất, Trạch tả, với tổng diện tích trồng khoảng 6.400 ha Trong đó, ưu tiên phát triển các loài Ngưu tất, Bạc hà, Hòe và Thanh hao hoa vàng.
Vùng Bắc Trung Bộ, bao gồm các tỉnh Thanh Hóa và Nghệ An, đang tập trung phát triển trồng 10 loài dược liệu quan trọng Trong số đó, các loài bản địa như Ba kích, Diệp hạ châu đắng và Đinh lăng được chú trọng nhằm nâng cao giá trị kinh tế và bảo tồn nguồn gen quý.
Củ mài, Hòe, Hương nhu trắng, Ích mẫu, Nghệ vàng, Quế, Sả với diện tích trồng khoảng 3.300 ha Ưu tiên trồng các loài: Hòe, Đinh lăng