Như vậy, tâm lý học tư pháp là một ngành tâm lý học ứng dụng nghiên cứu các quy luật và các đặc điểm tâm lý của con người biểu hiện trong các quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh..
Trang 21390-2019/CXBIPH/23-14/CAND
Trang 3TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
Giáo trình
TÂM LÝ HỌC TƯ PHÁP
NHÀ XUẤT BẢN CÔNG AN NHÂN DÂN
HÀ NỘI - 2019
Trang 4Chủ biên
PGS.TS ĐẶNG THANH NGA
Tập thể tác giả
PGS.TS ĐẶNG THANH NGA Chương I, II, III, IV
TS NGÔ NGỌC THỦY Chương V
ThS ĐỖ HIỀN MINH Chương VI, VII
TS CHU LIÊN ANH và
TS CHU VĂN ĐỨC
Chương VIII
Trang 5
PHẦN I NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA TÂM LÝ HỌC TƯ PHÁP
CHƯƠNG I
ĐỐI TƯỢNG, NHIỆM VỤ VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU CỦA TÂM LÝ HỌC TƯ PHÁP
1 ĐỐI TƯỢNG, NHIỆM VỤ CỦA TÂM LÝ HỌC TƯ
PHÁP
1.1 Đối tượng của tâm lý học tư pháp
Tâm lý học tư pháp là một ngành khoa học độc lập Nó là
cầu nối giữa khoa học pháp lý và khoa học tâm lý Tâm lý học
tư pháp được coi là một chuyên ngành ứng dụng của khoa học
tâm lý Vì vậy, đối tượng nghiên cứu của nó là các quy luật nảy
sinh, phát triển và biểu hiện của các hiện tượng tâm lý, các quy
luật hình thành phẩm chất tâm lý của con người trong hoạt
động tư pháp
Tâm lý học tư pháp dành phần lớn các nghiên cứu của mình
vào việc xây dựng các biện pháp, cách thức tác động vào các
hoạt động tố tụng nhằm xác định sự thật khách quan của vụ án
Tâm lý học tư pháp nghiên cứu các quy luật nảy sinh, phát
triển của những phẩm chất tâm lý dẫn con người đến thực hiện
Trang 6các hành vi chống đối pháp luật, nghiên cứu sự thay đổi và phát triển của những hiện tượng tâm lý trong các hoạt động tố tụng v.v
Ngoài các quy luật tâm lý nói trên, tâm lý học tư pháp còn nghiên cứu những mô hình hoạt động thực tiễn và đề ra những yêu cầu tâm lý đối với các điều tra viên, thẩm phán, kiểm sát viên, nhằm giúp họ thực hiện tốt các chức năng được giao Tâm
lý học tư pháp cũng nghiên cứu các phương pháp tâm lý áp dụng vào hoạt động tư pháp
Tâm lý học tư pháp giúp cho các cán bộ hoạt động trong lĩnh vực tư pháp có những hiểu biết cần thiết về các quy luật tâm lý, để họ có thể nhanh chóng nghiên cứu, phân tích, đánh giá, làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án
Như vậy, tâm lý học tư pháp là một ngành tâm lý học ứng
dụng nghiên cứu các quy luật và các đặc điểm tâm lý của con người biểu hiện trong các quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh
1.2 Nhiệm vụ của tâm lý học tư pháp
Tâm lý học tư pháp nghiên cứu:
- Các cơ sở tâm lý của hành vi tuân thủ pháp luật (ý thức pháp luật, đạo đức, ý thức xã hội, những chuẩn mực xã hội);
- Những khía cạnh tâm lý của hoạt động tư pháp (những khía cạnh tâm lý của hoạt động điều tra, xét xử các vụ án hình
sự, dân sự);
- Đặc điểm tâm lý của những người tham gia tố tụng trong các vụ án hình sự, dân sự (bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên
Trang 7đơn, bị đơn, người làm chứng, những người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan );
- Nguyên nhân và điều kiện phạm tội, những đặc điểm tâm
lý của hành vi phạm tội;
- Cơ sở tâm lý của của hoạt động cải tạo phạm nhân;
- Những phẩm chất tâm lý của những người tiến hành tố tụng (điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán, hội thẩm nhân dân);
- Những khía cạnh tâm lý của các quan hệ tài sản, kinh tế và nhân thân được điều chỉnh bởi pháp luật dân sự;
- Những tác động tâm lý của pháp luật và của các cơ quan bảo vệ pháp luật đối với từng cá nhân và các nhóm riêng biệt
2 SƠ LƯỢC LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA TÂM LÝ HỌC
TƯ PHÁP
Tâm lý học tư pháp là một trong những ngành khoa học non trẻ của khoa học tâm lý Nhưng những thử nghiệm giải quyết một cách hệ thống một số nhiệm vụ của hoạt động tư pháp bằng các phương pháp tâm lý học đã đưa vào từ thế kỷ XVIII Quá trình phát triển của tâm lý học tư pháp có thể chia thành ba giai đoạn:
- Lịch sử sơ khai của tâm lý học tư pháp;
- Sự hình thành của tâm lý học tư pháp như một ngành khoa học độc lập;
- Lịch sử của tâm lý học tư pháp ở thế kỷ XX
Trang 82.1 Lịch sử sơ khai của tâm lý học tư pháp
Như phần lớn các ngành khoa học mới xuất hiện ở ranh giới những lĩnh vực khác nhau của tri thức loài người, tâm lý học tư pháp trong các giai đoạn phát triển đầu tiên của mình không có tính độc lập và không có những nhà khoa học chuyên ngành Vì vậy, các nhà tâm lý học, luật học và thậm chí các chuyên gia ở các lĩnh vực khoa học khác cũng đã thử nghiệm giải quyết các vấn đề thuộc môn khoa học này Giai đoạn phát triển đầu tiên của tâm lý học tư pháp gắn liền với tính tất yếu hướng khoa học luật đến với tâm lý học để giải quyết các nhiệm vụ đặc trưng, khi các nhiệm vụ này không thể giải quyết bằng các phương pháp luật học truyền thống Cũng như nhiều ngành khoa học tâm lý khác, tâm lý học tư pháp đi từ việc xây dựng trừu tượng thuần túy đến sự nghiên cứu thực nghiệm khoa học
Một trong những tác giả đầu tiên đã nghiên cứu một loạt các khía cạnh tâm lý học tư pháp và tư tưởng của chủ nghĩa nhân văn là M.M.Sêrbatov (1733-1790) Trong các tác phẩm của mình ông đề nghị: khi soạn thảo pháp luật phải chú ý đến đặc điểm của nhân cách con người, một trong những vấn đề đầu tiên là tăng cường miễn chấp hành hình phạt Ông đã đánh giá cao yếu tố lao động trong việc cải tạo, cảm hóa và giáo dục người phạm tội
Trong các công trình của mình, I T Paxôskov 1726) đã đưa ra những kiến nghị tâm lý về việc hỏi cung bị can
(1652-và lấy lời khai người làm chứng Ông đã giải thích cách chi tiết hóa lời khai man của người làm chứng như thế nào để nhận được những thông tin chính xác nhằm vạch ra sự gian dối của
họ Đồng thời ông còn đưa ra cách phân chia tội phạm
Trang 9Việc truyền bá tư tưởng cải tạo và cảm hóa giáo dục người phạm tội đã buộc pháp luật phải hướng tới tâm lý học để biện giải một cách khoa học các vấn đề này Nghiên cứu những vấn
đề này vào đầu thế kỷ XIX ở Nga tiêu biểu là V.K.Elpatrevski, P.D.Lôdi, L.X.Gordienko v.v
Tuy vậy, trong thời gian này bản thân môn tâm lý học mang tính siêu hình và trừu tượng, không thể liên kết với luật hình sự
để thảo ra các tiêu chuẩn và các phương pháp xác đáng nghiên cứu nhân cách con người
Nhiều công trình nghiên cứu về tâm lý học tư pháp xuất hiện ở Nga vào cuối thế kỷ XIX Đó là các công trình của I.X.Barsev "Quan niệm về khoa học pháp luật hình sự", K.Ia, Ianôvitra-Ianhevskôvơ "Những tư tưởng về ngành tư pháp hình
sự xét theo quan điểm của tâm lý học và sinh lý học", L.E.Vladimirov "Các đặc điểm tâm lý của người phạm tội trong nghiên cứu hiện đại", A.U.Phrede "Sách đại cương về tâm
lý học tư pháp" Trong các công trình này đã bày tỏ những tư tưởng vận dụng các kiến thức tâm lý một cách thuần tuý trong hoạt động cụ thể của các cơ quan điều tra và toà án
Trong các công trình của các nhà bác học người Đức như I.Gophbauera "Tâm lý trong việc áp dụng các cơ sở của nó vào cuộc sống tư pháp" (1808) và I.Phridrikha "Sự điều hành một cách hệ thống trong tâm lý học tư pháp" đã thử nghiệm sử dụng các số liệu tâm lý khi điều tra tội phạm
Các vấn đề tâm lý đánh giá lời khai của người làm chứng đã lôi cuốn nhà toán học người Pháp Laplaxa Trong tác phẩm
"Những kinh nghiệm triết học của thuyết xác suất" được xuất bản ở Pháp năm 1814, Laplaxa đã nghiên cứu lời khai của
Trang 10người làm chứng song song với kết quả có thể có của bản án Ông cho rằng các yếu tố xác suất được hình thành:
- Từ những xác suất của chính sự kiện mà người làm chứng
+ Người làm chứng không nhầm lẫn, nhưng gian dối;
+ Người làm chứng gian dối và nhầm lẫn
2.2 Sự hình thành của tâm lý học tư pháp như một ngành khoa học độc lập
Tâm lý học tư pháp được hình thành vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX gắn liền với sự phát triển mạnh mẽ của tâm lý học, tâm thần học và một loạt các ngành khoa học pháp lý (trước tiên là - luật hình sự)
Sự phát triển của tâm lý học, tâm thần học và luật học đã dẫn đến tính tất yếu của việc hình thành tâm lý học tư pháp như một ngành khoa học độc lập Vào năm 1899 P.I.Côvalevxki đã
đề xuất vấn đề: Phân chia tâm lý học bệnh nhân và tâm lý học
tư pháp; đưa những ngành khoa học này vào chương trình giáo dục khoa học pháp lý
Tâm lý học tư pháp ở Đức được phát triển mạnh mẽ hơn cả
Ở đây lần đầu tiên có sự tổng hợp theo kinh nghiệm các yếu tố liên quan đến đặc điểm tâm lý của hành vi phạm tội, tâm lý nhân cách của người phạm tội và đặc điểm tâm lý lời khai của
Trang 11người làm chứng đã bắt đầu được thực hiện rộng rãi
Cuối thế kỷ XIX cùng với sự ra đời của tội phạm học, tâm
lý học tội phạm cũng được hình thành
Năm 1898, nhà tội phạm học Gans Gross đã sáng lập ra tác phẩm lớn "Tâm lý học tội phạm" Ông cho rằng: Tâm lý học tư pháp là một ngành tâm lý học ứng dụng Cần có ngành khoa học tâm lý ứng dụng đặc trưng để nắm bắt những quy tắc điều khiển các quá trình tâm lý trong hoạt động tư pháp".(1)
Trong tác phẩm "Tâm lý học tội phạm", G Gross đã sử dụng rộng rãi các tư liệu từ lĩnh vực tâm lý học thực nghiệm (kết quả nghiên cứu của V Vuntơ, G.Ebbingauz, G Ribo, A Bine v.v.) và đã chỉ ra ý nghĩa của tư liệu này đối với tội phạm học
Đầu thế kỷ XX trong tâm lý học tư pháp bắt đầu xuất hiện các phương pháp thực nghiệm điều tra
Phần lớn các công trình ở giai đoạn này đều dành cho việc nghiên cứu tâm lý lời khai của người làm chứng Như công trình của I.N.Khôntrev "Lời gian dối viển vông", Gr Portyganlov "lời khai của người làm chứng" (1903), E.M.Culiser "Tâm lý lời khai của người làm chứng và điều tra
tư pháp" (1904) Về đề tài này đã có những bài báo cáo của M
M Khơmiancov "vấn đề về tâm lý của người làm chứng" (1903); A V Zavađki và A I Elistratov "những ảnh hưởng của các vấn đề thiếu ám thị đến độ tin cậy của lời khai người làm chứng" (1904), O B Gônđovski "Tâm lý lời khai của người làm chứng" (1904)
(1) Gross G Criminalpsychology Garz, 1898, p 3
Trang 12Trong nghiên cứu tâm lý điều tra hành vi phạm tội bước tiến quan trọng là áp dụng một cách trực tiếp phương pháp thực nghiệm tâm lý Một trong những nhà sáng lập ra phương pháp này là nhà tâm lý học người Pháp Anphređ Bine Lần đầu tiên ông đã nghiên cứu về sự ảnh hưởng của ám thị đối với lời khai của trẻ em bằng con đường thực nghiệm Năm 1900 ông đã viết cuốn sách "ám thị" Trong một chương của cuốn sách này ông đã đề cập đến sự ảnh hưởng của ám thị đến lời khai của trẻ
em
Nhà tâm lý học người Đức Vinliam Stern đã tiến hành một loạt các thực nghiệm về tâm lý lời khai của người làm chứng Ông đã cộng tác với G Gross xuất bản cuốn tạp chí "Những báo cáo về tâm lý của lời khai" (Leipzig, 1903 - 1906)
Việc nghiên cứu tâm lý học tội phạm được tiến hành ở nhiều nước: Ở Pháp có Klapaređ, ở Mỹ có Mêiers, cũng như Mikin Cettel vào năm 1895 đã tiến hành thực nghiệm trí nhớ của sinh viên và sau đó lập chỉ số mức độ chính xác của lời khai người làm chứng Ở Nga có nhiều tác giả nghiên cứu vấn
đề tâm lý của lời khai người làm chứng, như M M Khômiacov, M.P.Bukhvanlova, A N Berxtein, E M Culisev v.v Năm 1905, tại đây đã ra tuyển tập "Những vấn đề tâm lý Tính gian dối và những lời khai của người làm chứng"
Thế kỷ XIX Trezare Lômbrôzo là một trong những người đầu tiên thử giải thích bản chất của hành vi phạm tội theo quan điểm chủng tộc học Đến ngày nay thuyết của Lômbrôzo vẫn được kế tục Những tiếng vang của thuyết này có thể tìm thấy trong các thuyết khoa học hiện đại, như trong học thuyết Phrớt
và học thuyết Phrớt mới về sự thù địch bẩm sinh và những ham
Trang 13mê phá hoại
Cuối thế kỷ XIX, các quan niệm tâm lý học và xã hội học
về bản chất của hành vi phạm tội được mở rộng Các nhà tâm lý học và xã hội học như Gabriel Tarđ, Emil Diurkgeim, Maks Veber, L Levi - Briul v.v đã bắt đầu quan tâm đến những nguyên nhân của tình trạng phạm tội
Vào những năm đầu tiên của chính quyền Xô Viết, sự quan tâm của xã hội đến các vấn đề về hoạt động tư pháp và về nhân thân người phạm tội đã góp phần thúc đẩy sự phát triển của tâm
lý học tư pháp Ngay từ ngày đầu thành lập, Nhà nước Xô Viết
đã bắt đầu tìm kiếm các biện pháp phòng ngừa tình trạng phạm tội và các cách thức để cải tạo, cảm hóa, giáo dục người vi phạm pháp luật Năm 1925 lần đầu tiên trên thế giới ở Liên Xô (cũ) đã thành lập Viện quốc gia nghiên cứu tình trạng phạm tội
và tội phạm Trong vòng năm năm hoạt động của mình Viện đã dành nhiều công trình khoa học lớn cho ngành tâm lý học tư pháp Nhiều viện và cơ quan nghiên cứu về tội phạm, về nhân thân người phạm tội đã được thành lập ở Matxcơva, Lêningrát, Saratov, Kiev, Kharcov, Minsk, Bacu v.v
Nhà tâm lý học A R Luria đã tiến hành những nghiên cứu khoa học trong phòng thí nghiệm tâm lý thực nghiệm Phòng thí nghiệm này được thành lập năm 1927 tại Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Matxcơva Ông nghiên cứu những khả năng áp dụng các phương pháp tâm lý thực nghiệm để điều tra hành vi phạm tội
Trong thời kỳ này A P Cônhi cũng góp phần lớn lao vào sự phát triển của tâm lý học tư pháp Năm 1922 ông đã viết cuốn
Trang 14sách "Trí nhớ và chú ý", trong cuốn sách này đã trình bày các vấn đề về lời khai của người làm chứng
Nhà tâm lý học Nga A V Pêtrovski đã đánh giá thực chất của sự nghiên cứu tâm lý học tư pháp ở giai đoạn này như sau: Vào những năm 20 "Tâm lý học tư pháp - là ngành khoa học rộng lớn và có uy tín, nghiên cứu điều kiện phạm tội, đời sống
và tâm lý của các nhóm tội phạm khác nhau, tâm lý lời khai của người làm chứng và giám định tâm thần học tư pháp, tâm lý cải tạo lao động".(1)
Vào đầu những năm 30, việc nghiên cứu tâm lý học tư pháp cũng như việc nghiên cứu các lĩnh vực tâm lý học lao động, tâm lý xã hội, tâm lý y học đều dừng lại, và đến giữa những năm 50 sự phát triển của ngành khoa học này bị gián đoạn
Từ những năm 60 trở đi, những vấn đề bức thiết về tâm lý học tư pháp lại bắt đầu được thảo luận Khi đó ở các nước phương tây, các công trình khoa học được công bố: R.Luvaz
"Tâm lý học và tình trạng phạm tội" (Gamburg, 1960); G Tokh
"Tâm lý học tư pháp và tâm lý học tội phạm" (New York, 1961), T.Bôgđan "chương trình về tâm lý học tư pháp" (Ru-ma-
ni, 1960); tập thể tác giả "Những cơ sở về tâm lý học tư pháp" (Tiệp Khắc, 1964) v.v
Năm 1965-1966, Bộ giáo dục Liên Xô (cũ) đã ra quyết định đưa môn tâm lý học tư pháp vào giảng dạy ở các trường đại học luật của các thành phố Matxcơva, Lêningrát, Minsk v.v
(1) Pêtrovski A V., Lịch sử tâm lý học Xô Viết, M 1976, tr 181
Trang 15Tháng 5 năm 1971, ở Matxcơva đã tổ chức hội nghị lần đầu tiên toàn liên bang về tâm lý học tư pháp Chính hội nghị này
đã tạo ra những điều kiện đặc biệt thuận lợi cho sự phát triển của tâm lý học tư pháp Và sau một thời gian một loạt các công trình khoa học trong lĩnh vực tâm lý học tư pháp được công bố Như A.V.Đulov "Tâm lý học tư pháp" (Minsk, 1975); V.L.Vaxilev "Tâm lý học tư pháp Bài tập thực hành đối với điều tra viên" (M 1979) và "Tâm lý học pháp lý" (M, 1974) v.v
Tháng 9 năm 1986 tại thành phố Tartu (Etstônhia), đã tổ chức hội nghị toàn liên bang về tâm lý học tư pháp Trong hội nghị này người ta đã thảo luận những vấn đề về phương pháp và cấu trúc của tâm lý học tư pháp
Tháng 6 năm 1989, tại Lêningrát đã tổ chức cuộc hội thảo toàn liên bang của các giảng viên thuộc chuyên ngành tâm lý pháp lý của cả nước Các thành viên của cuộc hội thảo đã xem xét và thông qua báo cáo của V.L.Vaxilev về chương trình giảng dạy đại học của môn "Tâm lý học pháp lý" Căn cứ vào chương trình này, V.L Vaxilev đã viết giáo trình "Tâm lý học pháp lý" (M 1991); IU.V.Trupharovski "Tâm lý học pháp lý" (M 1997); M.I Enhinkev "Những cơ sở của tâm lý học đại cương và tâm
lý học pháp lý" (M 1997)
Ngày nay, ở Liên bang Nga cũng như ở một số nước trên thế giới, trong lĩnh vực tâm lý học tư pháp việc nghiên cứu được tiến hành trên những phương diện:
- Những vấn đề chung của tâm lý học tư pháp (đối tượng, nhiệm vụ, hệ thống các phương pháp, lịch sử, mối liên hệ với
Trang 16các ngành khoa học khác);
- Tâm lý của hoạt động điều tra;
- Tâm lý của hoạt động xét xử;
- Đặc điểm tâm lý của những người vi phạm pháp luật ở lứa tuổi chưa thành niên;
- Tâm lý của hoạt động cải tạo lao động
3 CÁC NGUYÊN TẮC VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA TÂM LÝ HỌC TƯ PHÁP
3.1 Các nguyên tắc nghiên cứu tâm lý học tư pháp
3.1.1 Nguyên tắc khách quan
Nghiên cứu khách quan các hiện tượng tâm lý là vấn đề có tính chất nguyên tắc Nghiên cứu một cách khách quan trước hết phải nghiên cứu chính bản thân các hiện tượng, các đặc điểm, các quy luật tâm lý của chủ thể và khách thể trong hoạt động tư pháp Phải xem xét sự vật, hiện tượng như chúng vốn
có trong thực tế, và phản ánh đúng mọi diễn biến và biểu hiện của chúng Nguyên tắc này không cho phép các nhà nghiên cứu phán đoán một cách chủ quan, tuỳ tiện đưa ra những kết luận thiếu cơ sở khoa học
3.1.2 Nguyên tắc quyết định luận duy vật biện chứng
Nguyên tắc này khẳng định tâm lý có nguồn gốc là thế giới khách quan tác động vào bộ não con người thông qua “lăng kính chủ quan” của con người Các tác động bên ngoài vào con người đóng vai trò quyết định thông qua các điều kiện bên trong
Trang 17Các tác động từ bên ngoài đó là thế giới bên ngoài con người, bao gồm những điều kiện, đặc trưng của hoàn cảnh xã hội – lịch sử cụ thể, môi trường xã hội với tất cả các mối quan
hệ xã hội mà các cá nhân tham gia vào đó, các điều kiện sống
và làm việc của cá nhân, gia đình
Các điều kiện bên trong chính là những cái quy định đặc điểm tâm, sinh lý cá thể, bao gồm các đặc điểm sinh vật của cá thể, các đặc điểm hoạt động thần kinh cấp cao với các quy luật của nó, các đặc điểm tâm lý của nhân cách biểu hiện ở trình độ hiểu biết, vốn sống, nhu cầu, tính cách, năng lực
Các điều kiện điều kiện bên ngoài là nguyên nhân quyết định việc nảy sinh các diễn biến tâm lý khác nhau của con người, nhưng cái bên ngoài muốn phát huy tác dụng phải thông qua các điều kiện bên trong của chủ thể Do đó, nhất thiết phải nghiên cứu các điều kiện, hoàn cảnh mà trong đó các phẩm chất tâm lý của cá nhân được hình thành và phát triển
3.1.3 Nguyên tắc thống nhất tâm lý - ý thức và hoạt động
Tâm lý con người được biểu hiện trong hoạt động và đóng vai trò định hướng, điều khiển hoạt động, đồng thời thông qua hoạt động, tâm lý – ý thức con người được nảy sinh, hình thành, phát triển Tâm lý – ý thức và hoạt động của con người
là thống nhất trong mối quan hệ biện chứng
Nguyên tắc thống nhất giữa tâm lý – ý thức và hoạt động có
ý nghĩa thực tiễn to lớn trong hoạt động tư pháp Nghiên cứu phán xét tâm lý của những người tham gia tố tụng phải thông qua các biểu hiện trong hành vi và hoạt động cụ thể của họ V.I
Trang 18Lênin đã chỉ rõ: “Chúng ta nên dựa vào những tiêu chuẩn nào
để phán đoán tư tưởng và tình cảm chân thực của những con người chân thực? Rõ ràng chỉ có một tiêu chuẩn, đó là những hoạt động của họ”.(1)
“Phán đoán một con người không phải dựa vào lời nói và phương pháp suy nghĩ của họ mà dựa vào hành vi của họ”.(2)
3.1.4 Nguyên tắc vận động phát triển
Phải xem xét tâm lý của chủ thể và khách thể trong lĩnh vực hoạt động tư pháp bằng "lăng kính" biện chứng Đời sống của con người vô cùng sinh động, tâm lý của con người luôn luôn thay đổi không bao giờ cố định Nghiên cứu tâm lý con người nhất định phải tuân thủ nguyên tắc vận động phát triển Phải nghiên cứu nhân cách trong sự hình thành, phát triển và biến đổi của nó Khi nghiên cứu nhân cách cần phải đối chiếu các thông tin về cá nhân trong các thời kỳ khác nhau
3.1.5 Nguyên tắc tiếp cận nhân cách
Khi nghiên cứu tâm lý con người nói chung và tâm lý những người tiến hành, tham gia tố tụng nói riêng phải tiếp cận với từng con người cụ thể với toàn diện các mặt, các phẩm chất thuộc tính của họ từ xu hướng, tính cách, khí chất, năng lực Phải phân tích để thấy được sự tác động qua lại của các yếu tố
xã hội và yếu tố sinh vật trong qúa trình hình thành và phát triển của mỗi một nhân cách cụ thể Ở đây, cần chú ý làm rõ cả những mặt mạnh và cả những mặt yếu của các nhân cách
3.2 Các phương pháp nghiên cứu của tâm lý học tư
(1) V.I.Lênin, Toàn tập, Tập 1, xuất bản lần thứ 4 (tiếng Nga), tr 385
(2) V.I.Lênin, Toàn tập, Tập 14, xuất bản lần thứ 4 (tiếng Nga), tr 205
Trang 19Nhờ tri giác tinh tế và nhạy bén các trạng thái tâm lý qua nét mặt, cử chỉ, ngữ điệu của lời nói mà chủ thể giao tiếp có thể phát hiện chính xác và đầy đủ thái độ của đối tượng Ngôn ngữ diễn tả tình cảm hay còn gọi là ngôn ngữ biểu cảm rất phong phú Nó thể hiện tính cách, trí tuệ, tình cảm, ý chí của con người Tính chủ động hay thụ động, tính chân thành hay giả dối, tính tin tưởng hay hoài nghi đều in "dấu" trong giọng nói và nhịp điệu của lời nói Ví dụ: khi xúc động, giọng nói hổn hển, lời nói ngắt quãng; khi vui vẻ, nhịp nói nhanh; khi buồn, giọng trầm và nhịp chậm; khi ra lệnh, giọng cương quyết, sắc, gọn Trạng thái xúc cảm của con người cũng thường được biểu hiện
ở nét mặt, cử chỉ, hành vi Ví dụ: Khi sợ hãi, mặt người ta trở nên tái nhợt, hành động bị gò bó, khi bối rối, xấu hổ mặt người
ta đỏ bừng, toát mồ hôi
Trong quan sát có thể trực tiếp tiếp xúc với đối tượng (điều tra viên quan sát hành vi, cử chỉ, nét mặt v.v của bị can trong khi tiến hành hỏi cung họ) hoặc gián tiếp (qua người khác hoặc
Trang 20qua tài liệu Ví dụ: qua kết quả ghi chép của các giám định viên)
Khi quan sát, cần phải lưu ý:
- Xác định trước những hiện tượng cần quan sát, lập chương trình quan sát và cách ghi chép kết quả quan sát, cũng như xác định vai trò, vị trí giữa người quan sát với đối tượng nghiên cứu;
- Dùng các phương tiện kỹ thuật, những không để đối tượng quan sát biết;
- Phải có những phương pháp khác hỗ trợ để có thể đánh giá bản chất đối tượng quan sát một cách đầy đủ
3.2.2 Phương pháp đàm thoại, phỏng vấn
Đây là phương pháp nhận thức đặc điểm tâm lý của con người thông qua giao tiếp ngôn ngữ với họ Bằng cách đặt ra những câu hỏi và dựa vào trả lời của đối tượng để trao đổi, hỏi thêm nhằm thu nhận những thông tin về vấn đề cần nghiên cứu Đàm thoại, phỏng vấn phải được diễn ra trong không khí thân mật chân thành, tin cậy, thoải mái, không gò bó, giữ kẽ và giả tạo Thông qua đàm thoại, phỏng vấn có thể hiểu được tâm trạng, cảm xúc, trình độ học vấn, hứng thú, nhu cầu, thế giới quan, tính cách, khí chất, và năng lực của đối tượng nghiên cứu Phương pháp này được sử dụng rộng rãi trong hoạt động tư pháp và thường kết hợp với phương pháp quan sát Ví dụ: Khi tiến hành lấy lời khai của các đương sự, thẩm phán có thể quan sát hành vi, cử chỉ, nét mặt của họ
Muốn đàm thoại, phỏng vấn thu được kết quả tốt, cần:
Trang 21- Xác định rõ mục đích yêu cầu nghiên cứu tâm lý qua đàm thoại để đi đúng phương hướng nghiên cứu tránh lan man;
- Phải chủ động dẫn dắt câu chuyện đến chỗ cần tìm hiểu;
- Tránh lối đặt câu hỏi sẵn kiểu vấn đáp, tránh những câu hỏi có thể dẫn đối tượng đến chỗ trả lời máy móc “có” hoặc
“không”;
- Làm cho câu chuyện mang sắc thái tranh luận khi cần thiết
3.2.3 Phương pháp nghiên cứu hồ sơ, tài liệu độc lập
Các đặc trưng tâm lý của đối tượng (một con người cụ thể, một nhóm người, tập thể người ) thường được ghi lại dấu ấn trong các tài liệu độc lập khác nhau (như trong báo cáo tổng kết quí, năm của cơ quan, của ngành ) Khái quát các tài liệu độc lập này có thể giúp ta đưa ra những kết luận nhất định về đối tượng nghiên cứu Vì các tài liệu thu được là chính thống nên các sự kiện, con số nhận được mang tính chân thực và tạo điều kiện cho người nghiên cứu tiếp tục phân tích các sự kiện, hiện tượng một cách khách quan, có hiệu quả
3.2.4 Phương pháp thực nghiệm
Phương pháp thực nghiệm là phương pháp mà trong đó nhà nghiên cứu chủ động tạo ra các hiện tượng cần nghiên cứu, sau khi đã tạo ra điều kiện cần thiết loại trừ yếu tố ngẫu nhiên Phương pháp thực nghiệm có những đặc điểm:
- Tạo ra tình huống riêng biệt để có thể quan sát hiện tượng cần nghiên cứu trong dạng thuần túy của nó;
- Sắp lại hiện tượng đó nhiều lần tùy theo mức độ cần thiết
Trang 22* Thực nghiệm trong tự nhiên: Là thực nghiệm dựa vào
điều kiện hoạt động bình thường của đối tượng nghiên cứu (hoàn cảnh sinh hoạt, học tập, công tác) để thực hiện chương trình thí nghiệm đã định Ví dụ: có thể tiến hành thực nghiệm tìm hiểu thái độ của bị can, bị cáo, nguyên đơn, bị đơn thông qua giao tiếp được tiến hành tại gia đình hoặc nơi làm việc của
họ
Ưu điểm của phương pháp này là tránh được tính giả tạo có ảnh hưởng đến diễn biến tâm lý của đối tượng
* Thực nghiệm tâm lý giáo dục: Là những điều kiện giáo
dục học tập thường áp dụng trong việc cải tạo nhằm luyện tập cho phạm nhân có thói quen và kỹ xảo trong lao động, thái độ mới đối với tập thể và xã hội và cách nhìn nhận mới trong hành
vi
* Thực nghiệm trong phòng thí nghiệm: Là nhằm nghiên
cứu những đặc điểm của hoạt động tâm lý trong những điều kiện do người nghiên cứu tạo ra Phương pháp này dựa theo nguyên lý mô hình hóa tâm lý của hoạt động, cho phép tách biệt ra một bộ phận của hoạt động toàn vẹn để có thể đo lường
nó đến độ chính xác cần thiết Đặc trưng của phương pháp này
là sử dụng những máy móc tinh vi phức tạp Ví dụ: có thể dùng máy đo chính xác các biểu hiện nảy sinh bên trong của tâm lý
Trang 23như sự biến đổi điện sinh ở não khi tư duy, hoạt động tim mạch khi cảm xúc
Phương pháp thực nghiệm có ưu khuyết điểm sau:
Ưu điểm: Người làm thực nghiệm tự tạo ra điều kiện làm nảy sinh và phát triển đặc điểm tâm lý nào đó để nghiên cứu, vì thế có thể tiến hành nghiên cứu một cách chủ động
Nhược điểm: Khó sử dụng các kỹ thuật thí nghiệm trong điều kiện hoạt động thực tiễn của các cơ bảo vệ pháp luật, không tránh khỏi được tính giả tạo trong khi tiến hành thực nghiệm Vì vậy cần phải bổ sung bằng kết quả nghiên cứu của các phương pháp khác
3.2.5 Phương pháp trắc nghiệm
Test là một hệ thống biện pháp đã được chuẩn hoá về kỹ thuật, được quy định về nội dung và cách làm, nhằm đánh giá ứng xử và kết quả hoạt động của một hay nhiều người, cung cấp một chỉ báo về tâm lý như trí lực, xúc cảm, năng lực, tính cách, khí chất
Trong tâm lý học đã có một hệ thống test về nhận thức, năng lực, nhân cách như:
- Test trí tuệ của Bi nê - xi mông;
- Test trí tuệ của Raven;
- Test nhân cách của Aysencơ (H Eysenck) giúp ta tìm hiểu tính cách của con người
3.2.6 Phương pháp phân tích sản phẩm hoạt động
Đó là phương pháp dựa vào kết quả, sản phẩm của hoạt động do con người làm ra để nghiên cứu các đặc điểm tâm lý
Trang 24của con người đó, bởi vì tâm lý – ý thức con người được biểu hiện trong hành vi và hoạt động cụ thể của họ
Căn cứ vào kết quả đó có thể biết được những hứng thú, kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp và trạng thái tâm lý của đối tượng Chẳng hạn, phân tích đặc điểm các dấu vết hoạt động phạm tội,
có thể xác định được động cơ, mục đích, thói quen, trạng thái tâm lý của người phạm tội
Do những khó khăn nhất định (không biết được quá trình làm ra nó, không biết hoàn cảnh trong đó nó được làm ra ) nên muốn sử dụng tốt phương pháp này cần:
- Tìm cách "dựng lại" càng đầy đủ càng tốt quá trình hoạt động đưa đến sản phẩm mà ta nghiên cứu;
- Tìm cách "phục hồi" lại (có thể bằng đàm thoại, phỏng vấn ) hoàn cảnh trong đó sản phẩm được làm ra;
- Tìm hiểu các mặt tâm lý khác của thể nghiệm ngoài mặt
đã thể hiện trong sản phẩm (đàm thoại, phỏng vấn, quan sát, test )
3.2.7 Phương pháp điều tra (phương pháp bảng câu hỏi)
Phương pháp điều tra là phương pháp dùng một số câu hỏi nhất loạt đặt ra cho một số lớn đối tượng nghiên cứu nhằm thu thập ý kiến chủ quan của họ về một vấn đề Câu hỏi dùng để điều tra có thể là câu hỏi đóng, tức là có nhiều đáp án sẵn để đối tượng chọn một trong hai như: "có", "không", "đúng",
"không đúng", "biết", "không biết", "đồng ý", "không đồng ý"; có thể là câu hỏi mở, để người được hỏi tự do diễn đạt ý kiến của mình về vấn đề được hỏi; cũng có thể là câu hỏi nửa đóng, kết
Trang 25hợp danh mục các phương án trả lời dành cho người được hỏi khả năng phủ định chúng và trả lời theo ý mình
Dùng phương pháp này có thể trong một thời gian ngắn thu thập được một số ý kiến của nhiều người, nhưng là ý kiến chủ quan Để có tài liệu tương đối chính xác, cần soạn kỹ bản hướng dẫn điều tra (người sẽ phổ biến bản câu hỏi điều tra cho các đối tượng) vì nếu những người này phổ biến một cách tùy tiện thì kết quả sẽ rất khác nhau và không có giá trị khoa học Dựa vào các phiếu điều tra người ta nghiên cứu các phẩm chất tâm lý của những người tiến hành tố tụng (điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán, hội thẩm nhân dân), và đặc điểm tâm
lý của những người tham gia tố tụng (bị can, bị cáo, nguyên đơn, bị đơn )
3.2.8 Phương pháp nghiên cứu tiểu sử
Con người là chủ thể của các hoạt động xã hội Do đó, những tài liệu về đời sống và hoạt động của cá nhân có ý nghĩa nhất định đối với việc nghiên cứu tâm lý của con người Những tài liệu này có thể là tự thuật, nhật ký, thư từ, hồi ký hoặc có thể là những tư liệu do người khác viết về đối tượng nghiên cứu Những tài liệu này giúp phát hiện ra những biểu hiện của hoạt động tâm lý đã xảy ra trong quá khứ Phương pháp nghiên cứu tiểu sử góp phần cung cấp một số tài liệu cho việc chuẩn đoán tâm lý
Trang 26CÂU HỎI HƯỚNG DẪN ÔN TẬP, ĐỊNH HƯỚNG THẢO LUẬN
1 Đối tượng, nhiệm vụ nghiên cứu của tâm lý học tư pháp
2 Trình bày sơ lược lịch sử tâm lý học tư pháp
3 Trình bày các nguyên tắc và phương pháp nghiên cứu của tâm lý học tư pháp
Trang 27CHƯƠNG II
CÁC PHƯƠNG PHÁP TÁC ĐỘNG TÂM LÝ TRONG HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP
1 TÁC ĐỘNG TÂM LÝ TRONG HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP
1.1 Khái niệm tác động tâm lý
Tác động tâm lý là một trong các hình thức tác động qua lại giữa các cá nhân trong quá trình sống và hoạt động của họ
Tác động tâm lý là tác động giữa con người với con người được thực hiện trong quá trình giao tiếp Thông qua tác động tâm lý chủ thể tác động điều chỉnh thái độ, hành vi của người
bị tác động theo mục đích của mình
Tác động tâm lý là một hình thức phức tạp nhất Nó là một quá trình, một hoạt động do chủ thể nhất định thực hiện, đó là con người thực tiễn, con người hành động L.V.Petrencô đã
viết: “Tác động tâm lý trước hết là một quá trình, một hoạt
động, chứ không đơn thuần chỉ là một vài cử chỉ, tác động đơn điệu Hoạt động ấy thể hiện bằng các hành động và cách thức tác động với mục đích cụ thể khác nhau ”.(1)
Tác động tâm lý là sự tác động có mục đích của một cá
(1) L.V.Petrecô, Tâm lý học nghiệp vụ trinh sát, Trường Đại học An ninh nhân
dân, 1999, tr 89
Trang 28nhân hay một bộ phận người này đến một cá nhân hay một bộ phận người khác thông qua các phương pháp, chiến thuật tâm
lý Đó là sự tác động vào nhận thức, tình cảm, ý chí của con người nhằm làm thay đổi, hình thành, hay xoá bỏ những đặc điểm tâm lý nào đó của họ
Như vậy, tác động tâm lý là sự tác động có tổ chức, kế
hoạch, hệ thống của cá nhân hay của một bộ phận người này đến một cá nhân hay một bộ phận người khác nhằm làm thay đổi, hình thành hay xoá bỏ những đặc điểm tâm lý nào
tố tụng nhằm chuyển biến và thay đổi những đặc điểm tâm
lý nào đó của họ đáp ứng các yêu cầu cụ thể của hoạt động
tư pháp
Các tác động tâm lý được thực hiện bằng các phương tiện như cử chỉ, hành vi, điệu bộ, hành động, ngôn ngữ nói hay ngôn ngữ viết Nhờ các phương tiện này thông tin được chuyển từ người này tới người khác làm ảnh hưởng và thay đổi tâm lý của người bị tác động theo hướng đã định từ trước
Tác động tâm lý trong hoạt động tư pháp có nét đặc trưng
là cách thức và nội dung của việc tác động được xác định bởi mục đích và điều kiện tố tụng
Trang 291.3 Mục đích và nguyên tắc tác động tâm lý trong hoạt động tư pháp
1.3.1 Mục đích tác động tâm lý trong hoạt động tư pháp
Trong hoạt động tư pháp, các tác động tâm lý chủ yếu do những người tiến hành tố tụng sử dụng nhằm đạt các mục đích sau đây:
- Xác định sự thật khách quan về vụ án trong quá trình điều tra, xét xử;
- Khắc phục những động cơ tiêu cực, khơi dậy những động
cơ tích cực ở những người tham gia tố tụng, tạo điều kiện cho việc xác lập chứng cứ thông qua lời khai của họ được nhanh chóng, chính xác và khách quan;
- Kích thích tính tích cực hoạt động của những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng;
- Giáo dục những người có phẩm chất tâm lý tiêu cực;
- Giáo dục, cảm hoá người phạm tội
1.3.2 Các nguyên tắc tác động tâm lý trong hoạt động
Trang 30- Phải chú ý tới đặc điểm tâm lý của người bị tác động Để tác động đạt được kết quả cao đòi hỏi chủ thể tác động phải nắm bắt được các đặc điểm tâm lý của người bị tác động
Iu.V.Truphroxki viết: “Các phương pháp tác động tâm lý có
kết quả khi và chỉ khi trong quá trình áp dụng chúng thường xuyên tính đến mọi thay đổi nhân cách, tính đến tập hợp các thuộc tính, phẩm chất nhân cách nói chung và tính đến các trạng thái tâm lý của người bị tác động trong thời điểm đó ”.(1)
Điều này có nghĩa là trong quá trình tác động, người tiến hành tố tụng cần phải nắm bắt được các đặc điểm tâm lý như nhu cầu, hứng thú, khí chất, tính cách, năng lực, các phẩm chất ý chí cũng như trạng thái tâm lý, xúc cảm đang diễn
ra ở người bị tác động
- Chủ thể tác động cần phải có tri thức, hiểu biết về các quy luật hình thành và phát triển tâm lý của con người; các quy luật lĩnh hội thông tin của con người; các đặc điểm của quá trình tri giác thông tin trong giao tiếp; các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình lĩnh hội thông tin, quá trình tư duy, quá trình xúc cảm
- Phải xác định rõ mục đích, lập kế hoạch quá trình tác động, cũng như phải tính đến các phản ứng của người bị tác động Điều này giúp cho chủ thể tác động sẽ chủ động, linh hoạt, sáng tạo lựa chọn và áp dụng những phương pháp tác động đến người bị tác động cho phù hợp, tránh những tình huống bất ngờ, bị động, lúng túng trước những phản ứng tiêu cực của họ
- Phải chú ý tới những điều kiện, hoàn cảnh tiến hành tác động Các điều kiện, hoàn cảnh bên ngoài như thời gian, địa
(1) Iu.V.Trupharovxki, Tâm lý hoạt động nghiệp vụ, Matxcơva 1997, tr 109
(tiếng Nga)
Trang 31điểm, số lượng người tham gia trong quá trình tác động có ảnh hưởng lớn đến sự tập trung chú ý của người bị tác động, đến quá trình cung cấp và tiếp nhận thông tin Do đó, trong quá trình tác động phải tạo ra các điều kiện, hoàn cảnh thuận lợi cho việc tiếp xúc giữa chủ thể và người bị tác động, làm cho mỗi bên cảm thấy yên tâm, tự tin, không bị phân tán tư tưởng
- Phải đảm bảo tính tích cực tâm lý ở người bị tác động Tính tích cực của người bị tác động luôn được coi là một trong các yếu tố cần thiết đảm bảo cho quá trình tác động tâm lý đạt hiệu quả Tác động tâm lý tạo điều kiện, hướng cho người bị tác động tích cực lựa chọn mục đích, phương thức hành động, giúp họ thấy được những điều cần thiết phải làm và những điều không nên làm Kết quả của việc này phụ thuộc chủ yếu vào tính tích cực của người bị tác động, nghĩa là họ có “sẵn sàng” tiếp nhận tác động và “sẵn sàng” phản ứng trả lời hay không?
- Nội dung và phương pháp tác động tâm lý phải phù hợp với từng người bị tác động Nội dung tác động là những thông tin cần thiết tác động đến tư duy, tình cảm, ý chí của người bị tác động Đó là những thông tin về vụ án; những tài liệu về nhân thân, về quan hệ gia đình, về tài sản ; các đặc điểm tâm lý như nhu cầu, hứng thú, tình cảm, thói quen, tính cách, năng lực của người bị tác động; những thông tin về tình hình kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội trong nước và trên thế giới Những thông tin được sử dụng tác động phải phù hợp với người bị tác động Nghĩa là, những thông tin đó phải liên quan đến những vấn đề mà người bị tác động đang quan tâm, phải tạo nên sự rung động, buộc họ phải suy nghĩ và đi đến thay đổi nhận thức, trạng thái tâm lý trong việc khai báo, trình bày với chủ thể tác
Trang 32động Ngoài ra, trong tác động tâm lý phải biết sử dụng lượng thông tin đúng mức, tránh đưa ra quá nhiều hay quá ít và không nên sử dụng những thuật ngữ quá chuyên môn, bởi như vậy nó
sẽ làm cho người bị tác động không hiểu hết ý của chủ thể tác động
Trong hoạt động tư pháp, các cơ quan tiến hành tố tụng có thể sử dụng tổng hợp nhiều phương pháp tác động khác nhau
Để có kết quả cao khi sử dụng các phương pháp tác động đòi hỏi chủ thể tác động phải nắm vững nội dung, điều kiện, hoàn cảnh áp dụng cũng như giới hạn cho phép của mỗi phương pháp
- Chủ thể tác động tâm lý phải là người nắm vững chuyên môn nghiệp vụ, có đạo đức nghề nghiệp, có kiến thức sâu rộng
về xã hội và có kỹ năng giao tiếp Trong hoạt động tư pháp, tác động tâm lý được hiểu như là một quá trình giao tiếp đặc biệt giữa các chủ thể có quyền lợi, nghĩa vụ khác nhau Trong mối quan hệ này, những người tiến hành tố tụng có quyền chủ động
tổ chức thực hiện các tác động tới người bị tác động – gọi là chủ thể tác động tâm lý Chủ thể tác động ảnh hưởng tới người
bị tác động trước hết bởi các phẩm chất nhân cách của chính
họ Đó là những phẩm chất chính trị, đạo đức, chuyên môn, khả năng thuyết phục, thái độ đúng mực khi tiếp xúc cũng như khả năng sử dụng một cách nhuần nhuyễn các phương pháp tác động
2 CÁC PHƯƠNG PHÁP TÁC ĐỘNG TÂM LÝ TRONG HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP
2.1 Phương pháp truyền đạt thông tin
Trang 33Phương pháp truyền đạt thông tin là phương pháp mà chủ thể tác động đưa ra những thông tin có liên quan đến các vấn
đề người bị tác động đang quan tâm, nhằm tác động đến tư duy, tình cảm, ý chí của họ Từ đó làm xuất hiện những cảm xúc hay làm thay đổi thái độ và hành vi của người bị tác động Phương pháp truyền đạt thông tin được sử dụng rộng rãi trong tất cả các giai đoạn tố tụng
Khi tác động bằng phương pháp truyền đạt thông tin cần phải chú ý các yếu tố sau:
- Điều kiện truyền đạt thông tin Các điều kiện này cần phải đảm bảo tập trung chú ý để đề xuất thông tin mới, cung cấp cho người bị tác động những thông tin cần thiết tối thiểu
- Phương thức truyền đạt thông tin Truyền đạt thông tin bằng ngôn ngữ nói, bằng ngôn ngữ viết, bằng tài liệu, bằng hình ảnh, bằng sơ đồ Điều quan trọng là xác định mục đích cần đạt được để dùng phương thức nào hữu hiệu nhất
- Hình thức truyền đạt thông tin Thông tin có thể được truyền đạt dưới những dạng hình thức ngữ pháp như dạng câu hỏi, câu cảm thán, câu tường thuật, câu khẳng định và câu phủ định
- Xác định trình tự và tốc độ truyền đạt thông tin Khi truyền đạt thông tin cần phải đảm bảo sự tập trung chú ý của người bị tác động Phải xem xét, lựa chọn để xác định trình tự
và tốc độ phù hợp nhất
Phương pháp truyền đạt thông tin được sử dụng trong những trường hợp:
- Cần làm tăng hiểu biết, kiến thức cho người bị tác động
- Cần thay đổi hướng tư duy của người bị tác động khi họ
Trang 34cung cấp thông tin không đúng sự thật
- Cần làm thay đổi xúc cảm tình cảm, trạng thái tâm lý, quan điểm, lập trường của người bị tác động Trong trường hợp này phương pháp truyền đạt thông tin được sử dụng kèm với phương pháp thuyết phục Việc cung cấp thông tin làm cho người bị tác động mất tự tin, nghi ngờ lập trường của mình và
đó làm cho họ thay đổi cách nhìn nhận và thay đổi thái độ, đồng thời hình thành cách nhìn mới, thái độ mới phù hợp với yêu cầu của hoạt động tố tụng
Phương pháp thuyết phục bao gồm các dạng sau:
- Thuyết phục lôgíc;
- Thuyết phục tình cảm;
- Thuyết phục tranh luận;
- Thuyết phục cổ động, tuyên truyền
Trong mọi trường hợp, thuyết phục là quá trình bao gồm các bước:
Trang 35động;
- Trình bày các chứng cứ mới có chú ý tới sự phản đối;
- Nhắc lại các chứng cứ riêng biệt và các yếu tố riêng biệt của thông tin nhằm mục đích tác động đầy đủ đến quá trình tư duy của người bị tác động
Khi sử dụng phương pháp thuyết phục cần chú ý tới các yếu tố:
- Chủ thể tác động phải có khả năng, trình độ nghiệp vụ, kinh nghiệm công tác
- Kích thích tính tâm lý tích cực của người bị tác động
- Phải phân tích đầy đủ các mặt lợi, hại, tốt xấu của các vấn
2.3 Phương pháp đặt vấn đề và thay đổi vấn đề tư duy
Tiền đề của việc sử dụng phương pháp này là hướng các quá trình tư duy của người bị tác động bằng cách đặt cho họ những nhiệm vụ tương ứng (những câu hỏi), để khi giải quyết những nhiệm vụ này họ buộc phải sử dụng thông tin từ mô hình tư duy của sự kiện, sự việc bị che giấu (mà trước đây họ cố tình che giấu)
Phương pháp đặt vấn đề và thay đổi vấn đề tư duy là đặt ra một loạt câu hỏi chi tiết để khám phá sự thiếu rõ ràng về một khối lượng lớn những thông tin của đối tượng đã đưa ra lời
Trang 36khai man về sự kiện Ví dụ: nếu người làm chứng đã khai man rằng suốt buổi tối anh ta chơi cùng với can phạm ở phòng riêng của can phạm, thì chủ thể tác động bằng một loạt câu hỏi có thể đưa ra đối với người làm chứng Kết quả cuối cùng là người làm chứng không có những thông tin cần thiết để trả lời những câu hỏi đó, bởi vì thực tế sự kiện đó không diễn ra (còn
ai ở trong phòng nữa, ai ngồi, ai làm gì? kể lại chi tiết của câu chuyện? các chi tiết của hành động, ai đi ra đầu tiên, ai gọi điện thoại, họ mặt quần áo gì, uống gì và uống cốc nào, đồ nhắm là gì? ) Thông qua phương pháp này mà người làm chứng sẽ từ bỏ thái độ khai man
Phương pháp đặt và thay đổi vấn đề tư duy thường được sử dụng trong những trường hợp sau:
- Khi người cung cấp lời khai quên một số tình tiết của vụ
án Trong trường hợp này việc đặt ra hàng loạt câu hỏi liên quan làm “sống lại” những mối liên hệ thần kinh tạm thời và phục hồi lại trong ký ức những tình tiết mà họ đã quên
- Khi cần làm thay đổi thái độ, quan điểm, lập trường của đối tượng Dưới ảnh hưởng của các vấn đề đặt ra, người bị tác động phải phân tích, xem xét, đánh giá lại hành vi, cách xử sự của bản thân Điều này có thể làm cho họ đi đến quyết định thay đổi thái độ, quan điểm của bản thân
- Khi người bị tác động khai báo không đúng sự thật, ở trường hợp này trong đầu óc của họ đồng thời tồn tại hai mô hình tư duy về vụ án, một mô hình về diễn biến của vụ án do họ
"sáng tạo" ra và một mô hình phản ánh đúng sự thật khách quan
về vụ án Để lời khai có sức thuyết phục, người bị tác động cố gắng hòa nhập hai mô hình này làm cho mô hình giả giống như thật Do vậy, quá trình tư duy của người bị tác động diễn ra rất
Trang 37phức tạp Dưới tác động của hàng loạt vấn đề đặt ra, họ càng có trạng thái tâm lý căng thẳng và càng khó kiểm soát nội dung câu hỏi cũng như nội dung câu trả lời của bản thân Vì vậy sẽ xuất hiện những thời điểm đối tượng nhầm lẫn và cung cấp những tình tiết diễn biến khách quan của vụ án
Khi sử dụng phương pháp đặt vấn đề và thay đổi vấn đề tư duy cần phải chú ý tới các yêu cầu:
- Sử dụng nhiều câu hỏi khác nhau: nghi vấn, phủ định, khẳng định
- Ngữ điệu câu nói phải phù hợp với câu hỏi
- Thể hiện thái độ biểu cảm cùng với câu hỏi
- Có thể biểu đạt thái độ riêng của mình về một sự kiện nào
đó trong câu hỏi
2.4 Phương pháp ám thị gián tiếp
Ám thị gián tiếp là phương pháp tác động tâm lý được thực hiện bằng cách chủ thể tác động đưa ra những câu hỏi và thông tin về sự kiện nào đó không có quan hệ trực tiếp đến vụ án, nhưng lại có quan hệ chặt chẽ chẽ với cuộc sống riêng tư của người bị tác động, nhằm làm cho họ tự hiểu rằng những vấn đề
đó mà chủ thể tác động đã biết thì chắc những vấn đề khác về
vụ án, về hành vi của mình chắc chắn các cơ quan tiến hành tố tụng cũng đã biết hoặc sẽ biết Từ đó, người bị tác động phải suy nghĩ, cân nhắc và thay đổi thái độ của mình
Phương pháp ám thị gián tiếp khác với phương pháp đặc và thay đổi vấn đề tư duy ở chỗ những thông tin mà chủ thể tác động đưa ra không có liên quan trực tiếp tới với vụ án Đó chỉ
là những bí mật đời tư của người bị tác động hay những sự
Trang 38kiện, sự việc xảy ra đã lâu mà họ cho rằng mọi người đã quên
2.5 Phương pháp mệnh lệnh
Phương pháp mệnh lệnh là phương tiện cưỡng bức tâm lý nhằm giáo dục cho người bị tác động ý thức kỷ luật tự giác và thái độ đúng đắn đối với lao động trong quá trình cải tạo Trong hoạt động tư pháp không có cưỡng chế thì không thể cải tạo được người phạm tội Vì vậy việc sử dụng phương pháp này là cần thiết Tuy nhiên do thể hiện tính cưỡng chế, tính bắt buộc cao, phương pháp này chỉ được dùng khi có cơ sở pháp luật chặt chẽ Cụ thể phương pháp này được sử dụng trong các biện pháp điều tra như bắt giữ người, khám xét và trong hoạt động cải tạo người phạm tội
2.6 Phương pháp giao tiếp tâm lý có điều khiển
Phương pháp giao tiếp tâm lý có điều khiển là sử dụng các giao tiếp tâm lý trong hoạt động tư pháp để đạt các mục đích tác động Sử dụng, thiết lập, điều khiển giao tiếp tâm lý trong quá trình tố tụng, chủ thể tác động nhằm đạt mục đích:
Trang 39- Nghiên cứu hồ sơ vụ án, đặc điểm nhân thân của người bị tác động, các quan hệ, điều kiện, hoàn cảnh tác động và các tài liệu khác có liên quan;
- Nghiên cứu các đặc điểm tâm lý của người bị tác động như xúc cảm, tình cảm, ý chí, nhu cầu, hứng thú, tính cách, năng lực, khí chất ;
- Xác định mục đích, tình huống và kế hoạch tác động tâm lý;
- Dự kiến các phương án, trình tự tác động;
- Xác định các phương pháp tác động tâm lý;
- Lựa chọn các phương tiện kỹ thuật cần phục vụ cho tác động tâm lý
3.2 Thực hiện kế hoạch tác động tâm lý
- Thực hiện giao tiếp với người bị tác động Ở đây, chủ thể tác động phải xây dựng bầu không khí tâm lý thoải mái, phù hợp với mục đích của hoạt động tác động, đồng thời phát hiện
và giải quyết kịp thời các trở ngại tâm lý không có lợi cho tác động tâm lý sắp diễn ra
- Giải thích cho người bị tác động về quyền lợi, nghĩa vụ của họ trong cuộc giao tiếp
- Sử dụng các phương pháp tác động theo từng phương án
Trang 40- Tiến hành điều chỉnh kế hoạch tác động Căn cứ vào diễn biến, kết quả của quá trình tác động và các biểu hiện, phản ứng của người bị tác động mà có thể điều chỉnh, bổ sung các tác động theo cho phù hợp:
+ Tăng hay giảm bớt nội dung tác động;
+ Thay đổi phương pháp tác động;
+ Thay đổi chủ thể tác động
3.3 Kết thúc tác động tâm lý
- Hoàn tất các thủ tục cần thiết theo yêu cầu của pháp luật
- Kiểm tra lại quá trình thực hiện kế hoạch tác động
- Đánh giá kết quả tác động trên cơ sở so với mục đích tác động đã đề ra
- Tổng kết kinh nghiệm và rút ra các bài học cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả của tác động tâm lý trong hoạt động tư pháp
CÂU HỎI HƯỚNG DẪN ÔN TẬP, ĐỊNH HƯỚNG THẢO LUẬN
1 Trình bày khái niệm tác động tâm lý, tác động tâm lý trong hoạt động tư pháp
2 Phân tích các phương pháp tác động tâm lý, ứng dụng chúng trong hoạt động tư pháp
3 Trình bày các giai đoạn tác động tâm lý trong hoạt động
tư pháp