1. Trang chủ
  2. » Thể loại khác

Khảo sát tình trạng đau và ảnh hưởng của đau đến các hoạt động hàng ngày của bệnh nhân cao tuổi điều trị nội trú tại khoa lão – Bệnh viện Nhân dân Gia Định

9 61 0

Đang tải... (xem toàn văn)

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 9
Dung lượng 592,9 KB

Nội dung

Bài viết trình bày việc xác định tỷ lệ đau và các yếu tố liên quan, khảo sát đặc điểm đau và khảo sát mối tương quan giữa đau và trở ngại do đau trên các hoạt động hàng ngày (HĐHN) ở bệnh nhân cao tuổi (BNCT) điều trị nội trú.

Trang 1

KHẢO SÁT TÌNH TRẠNG ĐAU VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA ĐAU

ĐẾN CÁC HOẠT ĐỘNG HÀNG NGÀY CỦA BỆNH NHÂN CAO TUỔI ĐIỀU TRỊ NỘI TRÚ TẠI KHOA LÃO – BỆNH VIỆN NHÂN DÂN GIA ĐỊNH

Lê Thị Thuỳ Phương*, Thân Hà Ngọc Thể*, Nguyễn Văn Trí*

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Đau là vấn đề sức khỏe phổ biến trên người cao tuổi nhưng thường bị bỏ qua, gây ảnh hưởng

nghiêm trọng đến chất lượng cuộc sống

Mục tiêu nghiên cứu: (1) xác định tỷ lệ đau và các yếu tố liên quan, (2) khảo sát đặc điểm đau, và (3) khảo

sát mối tương quan giữa đau và trở ngại do đau trên các hoạt động hàng ngày (HĐHN) ở bệnh nhân cao tuổi (BNCT) điều trị nội trú

Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả trên 349 BNCT điều trị nội trú tại

khoa Lão – Bệnh viện Nhân Dân Gia Định Tất cả BN thoả tiêu chuẩn chọn mẫu được phỏng vấn trực tiếp bằng

bộ câu hỏi Thang đánh giá đau vắn tắt

Kết quả: Tỷ lệ đau là 55,3%, cao hơn ở BN nữ và có liên quan các bệnh lí chấn thương, thần kinh

ngoại biên, tiêu hoá, cơ xương khớp (p < 0,05; χ 2 ) Các vị trí đau thường gặp ở cả 2 giới là chân, lưng và đầu mặt cổ Phần lớn BN có mức độ đau từ trung bình trở lên với cường độ đau tệ nhất, đau vừa phải và đau hiện tại lần lượt là 8 (5 – 10), 5 (3 – 6) và 3 (1 – 5) Tất cả HĐHN đều bị trở ngại do đau, trong đó có 47,7% BN có đau gây trở ngại mức độ nặng với nữ nhiều gấp 3,2 lần so với nam (p<0,001; χ 2 ) Có mối tương quan thuận chặt chẽ giữa cường độ đau và cường độ trở ngại HĐHN (p<0,001) và mức độ trở ngại HĐHN tăng dần theo mức độ đau (p<0,001; χ 2 )

Kết luận: Tình trạng đau phổ biến trên BNCT điều trị nội trú với mức độ đau cao và gây trở ngại nặng nề

đến tất cả các HĐHN Kết quả nghiên cứu nhấn mạnh vai trò của việc đánh giá và kiểm soát đau đúng mức nhằm cải thiện hiệu quả điều trị và nâng cao chất lượng cuộc sống cho BNCT

Từ khoá: đau, trở ngại do đau, bệnh nhân cao tuổi điều trị nội trú

ABSTRACT

ASSESSING THE PREVALANCE OF PAIN AND PAIN-RELATED INTERFERENCE WITH DAILY ACTIVITIES FOR HOSPITALIZED ELDERLY PATIENTS IN GERIATRIC DEPARTMENT

OF NHAN DAN GIA DINH HOSPITAL

Le Thi Thuy Phuong, Than Ha Ngoc The, Nguyen Van Tri

* Y Hoc TP Ho Chi Minh * Supplement of Vol 21 - No 2 - 2017: 234 - 242

Backgrounds: Pain is the most common problem among elderly adult However, inadequate pain

management is still prevalent among older adults, negatively impacting their quality of life

Objectives: (1) To determine the prevalence of pain among hospitalized elderly patients and describe the

potential determinants of pain, (2) To assess the characteristics of pain, and (3) To examine the correlation of pain

intensity and pain-related interference with daily activities

Methods: Cross – sectional study with 349 patients Pain assessment was performed using the Vietnamese

* Bộ Môn Lão Khoa – Đại học Y Dược Tp Hồ Chí Minh

Tác giả liên lạc:BS Lê Thị Thuỳ Phương ĐT: 0948046833 Email: thuyphuong833@gmail.com

Trang 2

version of Brief Pain Inventory short form

Results: The analysis indicated that the prevalence of pain among hospitalized elderly patients during the

last 24 hours was relatively high, at 53.3%, and significantly related to female gender, digestive, muscular-skeletal disorders, peripheral neuropathy and injuries The common locations of pain were leg, back and head Among patients with pain, the median (interquartile range) score of the worst pain, the average pain and the interview pain was 8 (5 – 10), 5 (3 – 6) and 3 (1 – 5) (on a scale from 0 to 10), respectively Additionally, pain affected all daily activities of elderly patients, 47.7% patients with pain experienced severe pain-related interference, about 3.2 times higher in female compared to male patients Lastly, the intensity of pain and pain-related interference was found to be positively correlated

Conclusions: Pain is a common problem with high intensity and severe impairment of daily activities in

hospitalized elderly patients Result of this study emphasizes the role of appropriate pain assessment and management to improve the treatment effectiveness and the quality of life of elderly patients

Keywords: pain, pain-related interference, hospitalized elderly patient

ĐẶT VẤN ĐỀ

Đau là vấn đề sức khoẻ phố biến trên người

cao tuổi (NCT), là triệu chứng thường gặp nhất

gây ảnh hưởng đến cuộc sống của 45,8% - 77,7%

các bệnh nhân cao tuổi (BNCT) điều trị nội

trú(1,7,8,10,13) cũng như hơn 50% NCT trong cộng

đồng và hơn 80% NCT sống trong các viện

dưỡng lão(10) Nếu không được điều trị thoả

đáng, đau gây trở ngại đến tất cả các hoạt động

hàng ngày (HĐHN) của NCT, không những tác

động nghiêm trọng đến sức khoẻ, chức năng tâm

sinh lí và chất lượng cuộc sống của NCT, mà còn

gia tăng các gánh nặng về tài chính, chăm sóc và

tinh thần cho gia đình, hệ thống y tế và xã hội(2)

Tuy nhiên, việc đánh giá đau trên BNCT

chưa được chú trọng đúng mức do quan niệm

sai lầm rằng đau là phần tất yếu của tuổi già của

cả BN, người thân và nhân viên y tế; kèm theo

thực tế lâm sàng gặp phải nhiều khó khăn trong

việc đánh giá, điều trị và theo dõi đáp ứng với

điều trị đau ở NCT Ở nước ta, các nghiên cứu

(ng/c) về đau mới chỉ tập trung vào một số vấn

đề y khoa chuyên ngành như ung thư, nội thần

kinh, hậu phẫu hay đánh giá hiệu quả của các

thuốc giảm đau, mà chưa có các ng/c đưa ra dữ

liệu về đau cũng như ảnh hưởng của đau trên

đối tượng NCT Vì vậy chúng tôi thực hiện ng/c

này nhằm đóng góp thông tin về tình trạng đau

của BNCT điều trị nội trú cho y văn, đồng thời là

cơ sở đề xuất những kiến nghị nhằm cải thiện

chất lượng điều trị và nâng cao chất lượng cuộc sống của BNCT

Mục tiêu nghiên cứu

Khảo sát trên đối tượng BNCT điều trị nội trú tại khoa Lão - bệnh viện Nhân Dân Gia Định

Tp Hồ Chí Minh (BVNDGĐ) từ 10/2015 đến 4/2016 với các mục tiêu:

Xác định tỷ lệ đau và một số yếu tố liên quan Khảo sát đặc điểm đau (vị trí đau, mức độ đau và mức độ trở ngại do đau trên các HĐHN) Khảo sát mối tương quan giữa đau và trở ngại

do đau trên các HĐHN

ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Thiết kế nghiên cứu

Nghiên cứu cắt ngang mô tả

Địa điểm nghiên cứu

Khoa Lão – BVNDGĐ

Đối tượng nghiên cứu

Cỡ mẫu

Công thức chọn mẫu:

Với Z = 1,96; d = 0,05

p = 0,673(7)

Ta được: n 338

Tiêu chuẩn nhận vào

BN trên 60 tuổi và đồng ý tham gia ng/c

Trang 3

Tiêu chuẩn loại trừ

Những BN không thể trả lời câu hỏi

Mê sảng hay sa sút trí tuệ mức độ trung bình

trở lên dựa trên chẩn đoán của bác sĩ điều trị hoặc

tiền căn

Những BN cần hoặc đang được điều trị tại

đơn vị chăm sóc tích cực, hay có bệnh lí cần được

điều trị ngoại khoa cấp cứu

Đã từng nhận vào các ng/c liên quan đau

trước kia

Phương pháp tiến hành

Hình thức thu thập số liệu

Thực hiện phỏng vấn trực tiếp

Công cụ thu thập

Bộ câu hỏi Thang đánh giá đau vắn tắt - Brief

Pain Inventory short form (BPIsf) của tác giả

Charles S Cleeland(5), cho phép đánh giá tình

trạng đau trong vòng 24 giờ Đây là công cụ

đánh giá đau được dùng rộng rãi trên toàn thế

giới, có tính giá trị cao và độ tin cậy tốt(4,5); dễ

hiểu, áp dụng rộng rãi cho nhiều đối tượng,

nhiều lứa tuổi, trong đó bao gồm cả NCT(10,16), kể

được dịch ra nhiều thứ tiếng trong đó có tiếng

Việt(6) Bộ câu hỏi được sử dụng với sự cho phép

của Trung tâm Ung Thư Anderson, Đại học

Texas, Hoa Kỳ và tác giả Charles S Cleeland

Quy trình thực hiện

Tất cả BN trên 60 tuổi nhập vào khoa Lão

được phỏng vấn để sàng lọc tại thời điểm nhập

khoa Những BN thoả tiêu chuẩn chọn mẫu tiếp

tục được phỏng vấn bằng bộ câu hỏi Thang

đánh giá đau vắn tắt

Phân tích số liệu

Số liệu được quản lý và phân tích thống kê

bằng phần mềm SPSS 22.0

KẾT QUẢ

Đặc điểm nhân trắc học

Tổng số BN khảo sát: 349 BN, các đặc điểm

về nhân trắc học và bệnh lí được mô tả trong Bảng 1 và 2

Bảng 1: Đặc điểm nhân trắc học (N= 349)

Tuổi trung bình 76,8 8,2 (tuổi)

70 - 79 41,8

>=80 38,4

Nơi sống Thành phố/thị xã 88,8

Thị trấn/huyện 10,0

Nghề nghiệp Công nhân viên 23,2

Lao động chân tay 36,4 Buôn bán 11,7

Tiểu học 49,3 Trung học cơ sở 20,9 Trung học phổ thông 14,0 Cao đẳng/đại học 6,3

Tình trạng hôn nhân

Đang kết hôn 40,7 Độc thân 1,7

Tình trạng gia đình

Sống với người thân 97,4

Bảng 2: Đặc điểm bệnh lí (N = 349)

Ngoại khoa 34,4 *

Thần kinh ngoại biên 19,0

Cơ xương khớp 54,4 * Thận tiết niệu 26,4 *

*khác biệt giữa 2 giới (p < 0,05, χ 2 )

Trang 4

Tỷ lệ đau và một số yếu tố liên quan

Tỷ lệ đau

Tỷ lệ đau ở nữ cao hơn nam với tỷ lệ lần lượt

là 59,04% và 46%

Một số yếu tố liên quan

Sử dụng phép kiểm Chi bình phương,

chúng tôi ghi nhận tỷ lệ đau ở nữ (59,04%) cao

hơn so với nam (46,0%)(p < 0,05) Không ghi

nhận sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ

đau giữa các nhóm BN khác nhau ở các yếu tố:

nhóm tuổi, nơi sống, nghề nghiệp, học vấn, tình trạng hôn nhân, hay tình trạng gia đình Các yếu tố bệnh lí có liên quan đến việc

tăng tỷ lệ đau được thể hiện trong bảng 3

Bảng 3: Sự liên quan giữa tỷ lệ đau và các yếu tố

bệnh lí

Chấn thương 0,035 2,11 (1,06 – 4,18) Tiêu hoá 0,006 1,83 (1,19 – 2,82) Thần kinh ngoại biên 0,01 3,91 (1,30 – 11,80)

Cơ xương khớp < 0,001 4,76 (3,02 – 7,49)

Đặc điểm đau

Vị trí đau

Biểu đồ 1: Phân bố vị trí đau (n = 193)

Vị trí đau thường gặp là lưng, chân và đầu

mặt cổ, không ghi nhận khác biệt về phân bố vị

trí đau giữa 2 giới (p = 0,523; χ2)

Điểm số cường độ đau

Bảng 4: Điểm số cường độ đau trong 24 giờ qua và

tại thời điểm phỏng vấn

Điểm số

cường độ

đau

(0 – 10)

Trung vị (Bách phân vị thứ 25,

thứ 75)

So sánh 2 giới

p (kiểm định trung vị)

Đau tệ nhất 8 (5 – 10) 0,111

Đau nhẹ nhất 3 (0 – 5) 0,071

Đau vừa phải 5 (3 – 6) 0,178

Đau hiện tại 3 (1 – 5) 0,046*

Mức độ đau

Phân chia mức độ đau dựa trên điểm số cường độ đau: nhẹ 1 – 3, trung bình 4 – 6, nặng 7) Biểu đồ 2 thể hiện phân bố tỷ lệ các mức

độ đau giữa 2 giới

Mức độ trở ngại do đau trên các hoạt động hàng ngày

Bảng 5: Điểm cường độ trở ngại do đau trên các khía

cạnh hoạt động hàng ngày

Điểm cường độ trở ngại (0 – 10)

Trung vị (Bách phân vị thứ

25, thứ 75)

So sánh 2 giới p (kiểm định trung vị)

Sinh hoạt 5 (0 – 8) 0,318

Đi lại 5 (0 – 8) 0,046 Công việc 5 (0 – 8) 0,156 Giấc ngủ 5 (0 – 8) 0,263 Tinh thần 5 (0 – 8) 0,272 Mối quan hệ 0 (0 – 6) 0,041 Tận hưởng cuộc

sống

5 (0 – 8) 0,089

Số BN bị trở ngại mức độ nặng (tổng điểm cường độ trở ngại của 7 khía cạnh ≥ 35/70) chiếm tỷ lệ cao với BN nữ bị trở ngại HĐHN nhiều hơn nam (p < 0,001; χ2) (Biểu đồ 3)

Trang 5

Biểu đồ 2: Tỷ lệ các mức độ đau (phân chia mức độ đau dựa trên cường độ đau: nhẹ 1-3, trung bình 4-6, nặng ≥7)

Biểu đồ 3: Tỷ lệ BN bị trở ngại mức độ nặng

Mối tương quan giữa đau và trở ngại do đau trên các hoạt động hàng ngày

Biểu đồ 4: Ảnh hưởng giữa các mức độ đau trên từng khía cạnh trở ngại do đau (n = 193).

Bảng 6: Mối tương quan giữa cường độ đau với

Trang 6

cường độ trở ngại do đau

Cường độ đau (0 – 10)

Cường độ trở

ngại (0-10) Đau tệ nhất

Đau nhẹ nhất

Đau vừa phải

Đau hiện tại Sinh hoạt 0,82 0,71 0,77 0,71

Đi lại 0,80 0,73 0,77 0,73

Công việc 0,8 0,7 0,75 0,71

Giấc ngủ 0,83 0,72 0,78 0,71

Tinh thần 0,66 0,6 0.62 0,57

Mối quan hệ 0,74 0,7 0,73 0,69

Tận hưởng cuộc

sống 0,75 0,7 0,74 0,68

Tổng trở ngại 0,87 0,75 0,82 0,76

Tương quan Spearman; p < 0,0001

Mối tương quan thể hiện rõ rệt nhất giữa

tổng trở ngại với tình trạng đau tệ nhất và đau

vừa phải (bảng 6), do đó tiếp tục khảo sát sâu

hơn ảnh hưởng giữa các mức độ đau trên các

HĐHN ở 2 khía cạnh đau này

Xét trên 7 khía cạnh trở ngại, tỷ lệ BN có

cường độ trở ngại 4/10 khác biệt rõ rệt giữa các

nhóm mức độ đau (p<0,0001, χ2) (biểu đồ 4)

BÀN LUẬN

Một số đặc điểm về dân số nghiên cứu

Trong mẫu thu thập được, chúng tôi nhận

thấy BN nữ chiếm tỷ lệ cao gấp 2,5 lần so với BN

nam, có thể giải thích do tuổi thọ của nữ cao hơn

nam Tuổi trung bình là 76,8 8,2 tuổi với nhỏ

nhất là 60 tuổi và lớn nhất là 98 tuổi, chứng tỏ

mẫu thu thập có tính khái quát cao, và BN tập

trung chủ yếu ở nhóm tuổi 70 – 79 (41,8%),

không có sự khác biệt về tuổi trung bình giữa 2

giới (p = 0,512)

Số liệu cho thấy trình độ học vấn của BN

tham gia ng/c không cao, chủ yếu ở bậc tiểu học

(49,3%), tỷ lệ mù chữ còn cao (9,5%) Tương ứng

với trình độ học vấn, phân bố nghề nghiệp chủ

yếu ở nhóm lao động chân tay (36,4%), công

nhân viên (23,2%), còn lại là buôn bán, nội trợ và

các ngành nghề khác Hầu hết BN cư trú tại khu

vực thành phố/thị xã (88,8%), đa phần BN sống

chung với người thân (97,4%) và tỷ lệ BN goá

chiếm khoảng trên ½ mẫu khảo sát (bảng 1)

Chúng tôi ghi nhận các nhóm bệnh lí phân

bố không đồng đều với đứng đầu là nhóm bệnh

lí tim mạch, sau đó đến tiêu hoá, cơ xương khớp,

hô hấp, nội tiết Đặc biệt, có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê trong phân bố bệnh lí giữa 2 giới (p<0,001) (bảng 2) Các đặc điểm này trong ng/c của chúng tôi tương đối cao hơn với số liệu trong các ng/c khảo sát cùng vấn đề về phân bố bệnh lí cũng như tỷ lệ các nhóm bệnh(8,17) Đặc điểm bệnh lí trên liên hệ mật thiết với sự khác biệt về

tỷ lệ đau cũng như nguyên nhân gây đau, các kiểu đau, vị trí và mức độ đau giữa hai giới

Tỷ lệ đau và một số yếu tố liên quan

Tỷ lệ đau trong ng/c của chúng tôi là 55,3% (N = 349), thấp hơn so với ghi nhận của tác giả Gianni và cộng sự (67,3%; N = 367)(8), cao hơn số liệu theo IASP (45,8%; N = 1266)(10), tuy nhiên khá tương đồng với tác giả Costantini và cộng sự (53,9%; N = 2778)(7) sử dụng cùng công cụ đánh giá đau BPI-sf giống ng/c của chúng tôi Sự khác biệt có thể lý giải do các ng/c dùng các công cụ đánh giá đau khác nhau, thời gian và thời điểm thực hiện cách nhau khá xa và số lượng bệnh viện tiến hành ng/c cũng như cỡ mẫu khác nhau quá lớn cùng góp phần cho sự khác biệt này Nhìn chung, tỷ lệ đau trên BNCT điều trị nội trú rất cao, khẳng định tầm quan trọng của việc đánh giá và điều trị đau đúng mức nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của NCT

Đồng thời, chúng tôi ghi nhận tỷ lệ đau ở BN

nữ cao hơn so với BN nam (p < 0,05), kết quả này giống với các tác giả khác khảo sát cùng vấn

đề(7,11,14,17) Tuy nhiên không có sự khác biệt về tỷ

lệ đau giữa các nhóm BN khác nhau về nhóm tuổi, nơi sống, nghề nghiệp, học vấn, tình trạng hôn nhân và tình trạng gia đình; đặc điểm này cũng được ghi nhận tương tự trong ng/c của tác giả Costantini và cộng sự(7) Bên cạnh đó, kết quả phân tích cho thấy tỷ lệ đau cao hơn ở nhóm BN

bị bệnh lí chấn thương, đường tiêu hoá, thần kinh ngoại biên và cơ xương khớp (p < 0,05) (bảng 3), tác giả Costantini và cộng sự cũng ghi nhận mối liên quan tương tự với các nhóm bệnh

Trang 7

thuộc hệ da, cơ xương khớp, chấn thương và ngộ

độc (p < 0,001)(7)

Đặc điểm đau

Vị trí đau

Khảo sát cho thấy các vị trí đau thường gặp

là chân, lưng, đầu mặt cổ và không có sự khác

biệt về phân bố vị trí đau giữa 2 giới, kết quả này

tương tự với ghi nhận của tác giả Cairncross và

cộng sự(3) Đặc điểm này phù hợp với các nguyên

nhân gây đau thường gặp trên NCT là các bệnh

lí cơ xương khớp, chèn ép rễ thần kinh và các

bệnh lí thần kinh như đái tháo đường, zona, đau

thần kinh mặt(9,12).

Cường độ đau và mức độ đau

Cường độ đau của BN đều rất cao ở tất cả

tình trạng đau trong 24 giờ qua (đau tệ nhất,

đau nhẹ nhất, đau vừa phải) và tại thời điểm

phỏng vấn (đau hiện tại), thể hiện rõ qua giá

trị trung vị của cường độ đau (bảng 4) Đặc

điểm này tương đồng với tác giả Costantini và

cộng sự(7) (bảng 7), qua đó khẳng định tình

trạng đau nặng nề của các BNCT khi nhập

viện Bên cạnh đó, cường độ đau của nữ cao

hơn nam có ý nghĩa thống kê ở khía cạnh đau

hiện tại (p = 0,046), tuy nhiên không có sự

khác biệt ở 3 khía cạnh còn lại khi sử dụng

phép kiểm định trung vị (bảng 4)

Bảng 7 So sánh cường độ đau trung bình giữa các

nghiên cứu

Cường độ đau trung bình

Đau Chúng tôi Massimo

Đau tệ nhất 7,3  2,4 7  2

Đau vừa phải 4,5  2,5 5  2

Đau hiện tại 3,6  2,9 5  2

Trong ng/c của chúng tôi, số BN có tình

trạng đau từ mức độ trung bình trở lên chiếm

tỷ lệ cao, trong đó tỷ lệ BN có mức độ đau

nặng cao hơn so với tác giả Costantini và cộng

sự ở 2 khía cạnh đau tệ nhất và vừa phải(7)

(biểu đồ 5) Sự khác biệt này là do đa phần các

BNCT ở nước ta thường cố gắng chịu đựng

đau, e ngại đến bệnh viện khám và điều trị

cho đến khi tình trạng bệnh trở nặng khiến

tình trạng đau tồi tệ hơn Các lý do thường gặp là không đủ điều kiện kinh tế, lệ thuộc vào người thân, thiếu kiến thức về y khoa để phát hiện các triệu chứng bệnh sớm, cũng như quan niệm đau là vấn đề tất yếu của tuổi già nên có tâm lý chịu đựng đau Bên cạnh đó, ghi nhận BN nữ có tỷ lệ đau trung bình trở lên cao hơn rõ rệt so với BN nam (p < 0,05; χ2) ở cả 4 khía cạnh đau (biểu đồ 2)

Biểu đồ 5 So sánh tỷ lệ BN đau mức độ nặng với

nghiên cứu khác

Mức độ trở ngại các hoạt động hàng ngày

do đau

Các BN trong mẫu của chúng tôi có tình trạng đau gây trở ngại cao đến hầu hết các HĐHN, trong đó các khía cạnh liên quan hoạt động (sinh hoạt, đi lại, công việc) bị trở ngại nhiều nhất, sau đó đến giấc ngủ, các khía cạnh liên quan tâm lí (tinh thần, tận hưởng cuộc sống)

và ít bị trở ngại nhất là mối quan hệ (bảng 5) Đồng thời, số BN bị trở ngại mức độ nặng chiếm

tỷ lệ cao với 47,67% số BN có đau Đặc điểm này thể hiện tương tự trong các ng/c của tác giả Scudd và tác giả Przekop với 48,2% BN bị trở ngại do đau, trong đó có 37,7% bị trở ngại mức

độ trung bình và 14,1% mức độ nặng(14,17) Khi so sánh giữa 2 giới, tỷ lệ BN nữ bị trở ngại mức độ nặng cao gấp 3,2 lần so với BN nam (p < 0,001, χ2) (biểu đồ 3); đồng thời, giá trị trung

vị của mức độ trở ngại ở nữ cao hơn nam trên mọi khía cạnh HĐHN, khác biệt có ý nghĩa thống kê ở khía cạnh đi lại, mối quan hệ (p < 0,05) Đặc điểm này cũng được ghi nhận bởi tác giả Scudds và cộng sự, với BN nữ có tình trạng đau và trở ngại do đau trên tất cả các HĐHN (đi lại, các công việc thông thường, các hoạt động

Trang 8

giải trí, giấc ngủ, trạng thái tinh thần, tận hưởng

cuộc sống) đều cao hơn so với BN nam (p <

0,001, χ2)(17)

Mối tương quan giữa đau và trở ngại do

đau trên các hoạt động hàng ngày

Chúng tôi ghi nhận cường độ đau và mức độ

trở ngại do đau có sự tương quan thuận chặt chẽ

ở tất cả các khía cạnh của HĐHN với hệ số

tương quan Spearman đều trên 0,6 (p < 0,001)

(bảng 6)

Thêm vào đó, xét riêng trên từng khía cạnh

HĐHN, chúng tôi so sánh tỷ lệ BN có cường độ

trở ngại 4/10 thì nhận thấy có sự khác biệt rõ

rệt về tỷ lệ này giữa các mức độ đau (p < 0,0001,

χ2) trên cả 7 khía cạnh HĐHN Kết quả phân tích

tiếp tục nhấn mạnh rằng mức độ trở ngại tăng

dần theo mức độ đau, và các khía cạnh liên quan

hoạt động bị ảnh hưởng nhiều nhất và khía cạnh

mối quan hệ bị ảnh hưởng ít nhất (biểu đồ 4)

Tương tự chúng tôi, tác giả Scudds cũng khẳng

định mối liên quan chặt chẽ giữa mức độ đau

với mức độ trở ngại do đau trên tất cả các

HĐHN như đi lại, công việc thông thường, các

hoạt động giải trí, giấc ngủ, tình thần và tận

hưởng cuộc sống (p < 0,001)(17)

KẾT LUẬN

Qua tiến hành ng/c cắt ngang trong 6 tháng

tại khoa Lão – bệnh viện Nhân Dân Gia Định Tp

HCM chúng tôi rút ra được một số kết quả sau:

Về tỷ lệ đau và một số yếu tố liên quan

Tình trạng đau phổ biến ở BNCT điều trị nội

trú với tỷ lệ là 53,3%, nữ cao hơn nam

Tỷ lệ đau cao hơn rõ rệt khi BN mắc các bệnh

lí chấn thương, đường tiêu hoá, thần kinh ngoại

biên và cơ xương khớp

Về đặc điểm đau

Vị trí đau thường gặp là chân, lưng, đầu mặt

cổ và không khác biệt giữa 2 giới

Cường độ đau cao và phần lớn BN có mức

độ đau từ trung bình trở lên BN nữ có mức độ

đau nặng nề hơn so với BN nam

47,7% số BN có tình trạng đau gây giới hạn nặng HĐHN BN nữ bị trở ngại nhiều gấp 3,2 lần so với BN nam, thể hiện rõ rệt ở các khía cạnh khả năng đi lại, các mối quan hệ

Về mối tương quan giữa đau và trở ngại do đau trên các hoạt động hàng ngày

Có sự tương quan thuận chặt chẽ giữa cường

độ đau ở tất cả các khía cạnh đau với mức độ trở ngại ở tất cả các khía cạnh HĐHN

Đau gây trở ngại HĐHN nhiều nhất ở các hoạt động đi lại, sinh hoạt và công việc, sau đó đến tinh thần, giấc ngủ, chất lượng cuộc sống và

bị ảnh hưởng ít nhất là khía cạnh mối quan hệ

KIẾN NGHỊ

Chú ý đến tình trạng đau và ảnh hưởng nghiêm trọng của đau trên các HĐHN ở BNCT điều trị nội trú, đặc biệt là BN nữ

Áp dụng bộ câu hỏi thang đánh giá đau vắn tắt dạng ngắn Việt ngữ (BPI sfvn) vào trong thực tiễn lâm sàng để đánh giá và điều trị đau hiệu quả

Thực hiện các ng/c tương tự nhưng có sự kết hợp giữa nhiều khoa, nhiều bệnh viện với nhau

và tiến hành trong khoảng thời gian dài hơn hoặc có thể mở rộng ra ở đối tượng NCT trong cộng đồng để có số liệu mang tính đại diện cao hơn cho NCT

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1 Abbott FV, Gray-Donald K, Sewitch MJ, Johnston CC, Edgar

L, et al (1992) The prevalence of pain in hospitalized patients

and resolution over six months Pain, 50 (1): 15-28

2 AGS (2002) Guideline persistent pain elderly: The

management of Persistent Pain in Older Persons Journal of the

American Geriatrics Society, 50 (S6): 205–224

3 Cairncross L, Magee H, Askham J (2007), A hidden problem:

pain in older people Picker Instute Europe pp 1-49

4 Cleeland CS, Ryan KM (1994) Pain assessment: global use of

the Brief Pain Inventory Ann Acad Med Singapore, 23(2):

129-38

5 Cleeland CS (2009) The Brief Pain Inventory User Guide, The

University of Texas Texas, pp 4-11

6 Cleeland CS, Ladinsky JL, Serlin RC, Nugyen CT (1988) Multidimensional measurement of cancer pain: Comparisons

of US and Vietnamese patients Journal of Pain and Symptom

Management, 3(1): 23-27

Trang 9

7 Costantini M, Viterbori P, Flego G (2002) Prevalence of Pain in

Italian Hospitals: Results of a Regional Cross-Sectional Survey

Journal of Pain and Symptom Management, 23(3): 221-230

8 Gianni W, Madaio RA, Di Cioccio L, D’Amico F, Policicchio

D, et al (2010) Prevalence of pain in elderly hospitalized

patients Archives of Gerontology and Geriatrics, 51(3): 273-276

9 Helme RD, Gibson SJ (2001) The epidemiology of pain in

elderly people Clinics in Geriatric Medicine, 17(3): 417-431

10 IASP (2006) Facts on Pain in Older Persons The International

Association for the Study of Pain: 1-4

11 Johannes CB, Le TK, Zhou X, Johnston JA, Dworkin RH (2010)

The Prevalence of Chronic Pain in United States Adults:

Results of an Internet-Based Survey The Journal of Pain, 11(11):

1230-1239

12 Lazarus H, Neumann CJ (2010) Assessing Undertreatment of

Pain: The Patients' Perspectives Journal of Pharmaceutical Care

in Pain & Symptom Control, 9(4): 5-34

13 McNeill JA, Sherwood GD, Starck PL, Thompson CJ (1998)

Assessing clinical outcomes: patient satisfaction with pain

management J Pain Symptom Manage, 16 (1): 29-40

14 Przekop P, Haviland MG, Oda K, Morton KR (2015)

Prevalence and correlates of pain interference in older adults:

Why treating the whole body and mind is necessary Journal of

Bodywork and Movement Therapies, 19(2): 217-225

15 Schepker CA, Leveille SG, Pedersen MM, Ward RE, Kurlinski

LA, et al (2016) Effect of Pain and Mild Cognitive Impairment

on Mobility J Am Geriatr Soc, 64(1): 138-43

16 Schmader KE, Sloane R, Pieper C, Coplan PM, Nikas A, et al (2007) The impact of acute herpes zoster pain and discomfort

on functional status and quality of life in older adults Clin J

Pain, 23(6): 490-6

17 Scudds RJ, Østbye T (2001) Pain and pain-related interference with function in older Canadians: the Canadian study of

health and aging Disability and Rehabilitation, 23(15): 654-664 Ngày nhận bài báo: 01/11/2016 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 18/12/2016 Ngày bài báo được đăng: 01/03/2017

Ngày đăng: 15/01/2020, 22:03

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w