Như Nguyễn Thị Bình trong bài viết Ý thức phái tính trong văn xuôi nữ đương đại [31]: “…chúng tôi dùng cách gọi “ý thức phái tính” để chỉ một dạng thức nữ quyền được nhận diện qua sáng
Trang 1BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
NGUYỄN THỊ TRANG
Ý THỨC PHÁI TÍNH TRONG TRUYỆN NGẮN
NGUYỄN THỊ THU HUỆ Chuyên ngành: Lí luận văn học
Mã số: 60 22 01 20
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: PGS TS Lý Hoài Thu
HÀ NỘI, 2016
Trang 2Đặc biệt tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới PGS.TS
Lý Hoài Thu – người đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo, giúp đỡ, tạo điều kiện tốt nhất cho tôi trong suốt quá trình thực hiện và hoàn thành luận văn này
Tôi cũng vô cùng cảm ơn những tình cảm tốt đẹp của người thân, gia đình, đồng nghiệp và bạn bè đã luôn dành cho tôi, động viên và tạo mọi điều kiện tốt nhất cho tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu Đó chính là nguồn động viên tinh thần rất lớn để tôi theo đuổi và hoàn thành luận văn này
Mặc dù đã cố gắng rất nhiều nhưng chắc chắn luận văn không tránh khỏi thiếu sót Rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô, bạn bè, đồng nghiệp quan tâm đến đề tài này
Người viết luận văn
Nguyễn Thị Trang
Trang 3LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi Các kết quả trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất cứ công trình nào
Trong quá trình nghiên cứu, tôi có tìm hiểu, tham khảo thành quả khoa học của các tác giả khác với sự trân trọng và biết ơn, nhưng những nội dung tôi nghiên cứu không trùng với kết quả nghiên cứu của các tác giả khác
Hà Nội, ngày tháng 11 năm 2016
Người viết luận văn
Nguyễn Thị Trang
Trang 4MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 1
1 Lí do chọn đề tài 1
2 Lịch sử vấn đề 3
3 Mục đích nghiên cứu 8
4 Nhiệm vụ nghiên cứu 8
5 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 9
6 Phương pháp nghiên cứu 9
7 Đóng góp mới 10
8 Bố cục luận văn 10
Chương 1 Ý THỨC PHÁI TÍNH VÀ VẤN ĐỀ NỮ QUYỀN TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM THỜI KÌ ĐỔI MỚI 11
1.1 Giới thuyết về phái tính và nữ quyền 11
1.1.1 Những quan niệm về phái tính và ý thức phái tính 12
1.1.2 Ý thức phái tính và sự xuất hiện của Chủ nghĩa nữ quyền 14
1.2 Ý thức phái tính và vấn đền nữ quyền trong văn học Việt Nam thời kì đổi mới 17
Chương 2 Ý THỨC PHÁI TÍNH VÀ HÀNH TRÌNH TÌM LẠI BẢN NGÃ TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN THỊ THU HUỆ 25
2.1 Ý thức về thiên tính nữ 25
2.1.1 Ý thức về vẻ đẹp ngoại hình 25
2.1.2 Ý thức về vẻ đẹp tâm hồn 29
2.1.2.1 Người phụ nữ với khao khát kiếm tìm tình yêu, hạnh phúc 29
2.1.2.2 Người phụ nữ với bi kịch về tình yêu, hôn nhân gia đình 35
2.1.2.3 Nhân vật người phụ nữ tự vấn cuộc đời mình 45
2.2 Vấn đề về tình dục như một phương thức thể hiện bản ngã 52
2.3 Cái nhìn về một nửa thế giới bên kia 57
Trang 52.3.1 Người đàn ông không tôn trọng tình yêu 58
2.3.2 Người đàn ông tham lam, ích kỉ 61
Chương 3 NGHỆ THUẬT BIỂU HIỆN Ý THỨC PHÁI TÍNH TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN THỊ THU HUỆ 64
3.1 Không gian, thời gian nghệ thuật 64
3.1.1 Không gian, thời gian hiện thực đời thường 66
3.1.2 Không gian, thời gian tâm tưởng 71
3.2 Ngôn ngữ 73
3.2.1 Ngôn ngữ người kể chuyện 73
3.2.2 Ngôn ngữ nhân vật 77
3.2.2.1 Khai thác triệt để ngôn ngữ độc thoại nội tâm 78
3.2.2.2 Ngôn ngữ đối thoại của nhân vật đậm chất dung tục
đời thường 81
3.2.2.3 Sử dụng câu văn ngắn dồn nén thông tin 84
3.3 Giọng điệu 89
3.3.1 Giọng thâm trầm, sâu lắng 91
3.3.2 Giọng khinh bạc, xót xa 92
KẾT LUẬN 96
TÀI LIỆU THAM KHẢO 98
Trang 6PHẦN MỞ ĐẦU
1 Lí do chọn đề tài
Có thể nói, từ sau đổi mới 1986, văn học Việt Nam đã đạt được những thành công trên nhiều lĩnh vực, thể loại, đặc biệt là truyện ngắn Một trong những yếu tố làm nên sự phong phú, đa dạng của văn học giai đoạn này chính
là sự xuất hiện ngày càng nhiều các cây bút nữ Bên cạnh những cây bút kỳ cựu như: Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng, nối tiếp Nguyễn Huy Thiệp, là sự xuất hiện của lớp nhà văn trẻ với lối viết mới mẻ, tràn đầy tâm huyết đã thổi vào nền văn học nước nhà một luồng sinh khí mới, với những tên tuổi như: Phan Thị Vàng Anh, Y Ban, Võ Thị Xuân Hà, Võ Thị Hảo, Đỗ Bích Thúy, hòa chung vào dòng chảy đó là Nguyễn Thị Thu Huệ với tư cách là một nhà văn nữ có cá tính độc đáo và cách viết khá mới lạ
Nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ là một gương mặt tiêu biểu của văn xuôi
nữ sau đổi mới, một cây bút có duyên trong lĩnh vực truyện ngắn Ngay từ những tác phẩm đầu tiên chị đã nhanh chóng xác lập được vị trí của mình trên văn đàn Thu Huệ chỉ viết khi câu chuyện đã đầy ắp trong tim óc cần hiện
diện ra thành câu chữ, và khi đó chị viết như “lên đồng”, ý tưởng tuôn trào
như không kịp nghĩ Tuy vậy, hơn hai mươi năm cầm bút, Nguyễn Thị Thu
Huệ cũng đã sở hữu bảy tập truyện ngắn được dư luận chú ý: Cát đợi (1992),
Hậu thiên đường (1994), Phù thủy (1997), 21 truyện ngắn (2001), Nào ta cùng lãng quên (2003), 37 truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ (2010) và gần
đây nhất là Thành phố đi vắng (2012) Chị cũng là nữ nhà văn gặt hái được
nhiều thành công và đã nhận được rất nhiều giải thưởng có uy tín: đạt giải nhì cuộc thi truyện ngắn của Hội văn học nghệ thuật Hà Nội (1986); giải nhì cuộc
thi truyện ngắn Tác phẩm tuổi xanh báo Tiền phong (1993); giải nhất cuộc thi
truyện ngắn Nxb Hà Nội (1994), cùng năm đó chị cũng đạt giải nhất cuộc thi truyện ngắn do Tạp chí Văn nghệ Quân đội tổ chức và nhận tặng thưởng Hội
Trang 7Nhà văn với tác phẩm Hậu thiên đường Năm 2012, chị được nhận giải thưởng của Hội Nhà văn dành cho tập truyện ngắn Thành phố đi vắng
Với những tập truyện đặc sắc của mình, nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ
đã góp phần làm nên diện mạo khởi sắc của nền văn xuôi đương đại Việt Nam Qua những trang viết của chị, có thể nhận ra một tư duy khá sắc sảo và
sở trường nắm bắt những cái mới, thời sự của cuộc sống đương đại Phần lớn tác phẩm của chị đều thể hiện cái nhìn nhạy bén, phản ánh các vấn đề gay gắt của cuộc sống hiện đại, khai thác những góc khuất “thế giới bên trong” con người Sáng tác của Thu Huệ góp phần làm rõ những nét mới mẻ trong quan niệm nghệ thuật về con người cá nhân, cá thể, con người nhiều chiều trong
“tổng hòa các mối quan hệ xã hội” Trong đó nhân vật phụ nữ được đặc biệt quan tâm Đó là những con người hiện đại dám sống thực với mình Họ có thể
là những người đàn bà từng trải, bao dung với con cháu; những người mẹ, người vợ lo toan cho gia đình và phấn đấu cho sự nghiệp; những cô gái háo hức vào đời; những người phụ nữ khát khao hạnh phúc, tìm kiếm tình yêu… Đằng sau mỗi người phụ nữ bao giờ cũng ẩn chứa nhiều điều mà không phải lúc nào họ cũng muốn bộc lộ, chia sẻ Để làm được điều này, nhà văn phải có quan niệm mới mẻ về hiện thực cuộc sống và con người, cũng như có sự táo bạo trong cách viết, cách xử lý vấn đề Đây là những yếu tố quyết định làm nên những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật trong truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ
Việc nghiên cứu truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ lâu nay đã có một vài chuyên luận, nhưng đi sâu tìm hiểu vấn đề về ý thức phái tính trong truyện ngắn của chị vẫn còn những khoảng trống Chính vì vậy, chúng tôi đã
lựa chọn Ý thức phái tính trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ làm đối
tượng nghiên cứu, với mong muốn góp một cách nhìn khẳng định những
Trang 8thành tựu của truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ và vị trí của chị trong đời sống thể loại nói riêng và đời sống văn xuôi đương đại Việt Nam nói chung
2 Lịch sử vấn đề
Tiếp cận các tác phẩm văn học từ lý thuyết phái tính là vấn đề không mới nhưng còn nhiều vấn đề cần được nghiên cứu và làm sáng rõ Như
Nguyễn Thị Bình trong bài viết Ý thức phái tính trong văn xuôi nữ
đương đại [31]: “…chúng tôi dùng cách gọi “ý thức phái tính” để chỉ một
dạng thức nữ quyền được nhận diện qua sáng tác văn xuôi của một số nhà văn nữ”, “Ý thức nữ quyền có thể xem như biểu hiện mạnh nhất, tự giác nhất của ý thức nữ tính” Trong phần tìm hiểu lịch sử vấn đề chúng tôi sẽ trình bày
lịch sử nghiên cứu của ý thức phái tính
Ở nước ngoài, việc nghiên cứu phái tính và nữ quyền trên thế giới được chia làm ba giai đoạn Những lý thuyết tiên phong là học thuyết phân tâm học của S.Freud với “mặc cảm Ơđip” và sau đó là sự thay thế bằng học
thuyết cấu trúc và hậu cấu trúc của Lacan.Theo Lacan, “dương vật biểu trưng
cho quyền lực tính dục” Tiếp đó là tác phẩm Một căn phòng cho riêng mình
(A room for one’s own) (1929) của Virginia Woolf, tác phẩm được coi như
“sách vỡ lòng” của phê bình nữ quyền Nhờ Woolf mà các tác giả nữ ngày nay có những khái niệm gợi mở về cách suy nghĩ thông qua người mẹ, về ý kiến của đàn bà, và về tinh thần song giới (dung hòa cả hai giới tính) Nhiều quan điểm lý thuyết mâu thuẫn của tư tưởng nữ quyền đương đại bắt nguồn từ trí tưởng tượng đột phá vượt giới hạn của Woolf và những xung đột sáng tạo của bà Phong trào phê bình nữ quyền bắt đầu thịnh hành từ thập niên 70 của thế kỷ XX Từ đây, những vấn đề quan trọng của chủ nghĩa nữ quyền được hình thành và phát triển Tác giả tiêu biểu là Doris Lessing với công trình The Golden Notebook (Cuốn sổ tay vàng) Tác phẩm được coi như
tuyên ngôn của chủ nghĩa nữ quyền: “Các nhà hoạt động nữ quyền có thể coi
Trang 9Cuốn sổ tay vàng như là tiên phong cho cái nhìn của thế kỷ XX về quan hệ nam – nữ” Chủ nghĩa nữ quyền tiếp tục phát triển trong các thập niên tiếp
theo Nó là vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu tiếp tục khai triển, trong văn học, điện ảnh và cả các loại hình nghệ thuật khác
Ở nước ta, phái tính được xem như một tiêu chí có trọng lượng để khu biệt sáng tác của cây viết nam và cây viết nữ Trong những cuộc đấu tranh đòi bình đẳng giới, trong phong trào đòi giải phóng phụ nữ, người ta nhắc rất nhiều đến phái tính và phái tính trong văn học luôn được đưa ra như một minh chứng cụ thể, một khí giới đắc lực Cũng như phái tính, phái tính trong văn thơ nữ là một đề tài tương đối mới mẻ cho nên rất hiếm có công trình nghiên cứu trọn vẹn về vấn đề này Tuy nhiên các nhà nghiên cứu cũng đã chú ý đề
cập ít nhiều Tác giả Châm Khanh khi nghiên cứu Phụ nữ và văn chương đã đặt ra một vấn đề bức bách “Thông thường, bằng kinh nghiệm, ai cũng biết
nam giới và nữ giới khác nhau trong rất nhiều phương diện, từ cách ăn, cách mặc, cách giải trí đến cảm xúc, cách suy nghĩ và cách ứng xử trong cuộc sống… Nếu giữa hai phái tính có một sự khác biệt sâu rộng như vậy thì trong lĩnh vực văn chương chắc hẳn họ cũng rất khác nhau Mọi người đều có thể đồng ý một cách dễ dàng là một cây bút nữ hẳn phải viết khác một cây bút nam Thế nhưng, chỉ đồng ý điều này không chưa đủ, vấn đề là chúng ta phải tìm ra những điểm khác biệt cụ thể giũa hai phái tính trong khía cạnh sáng tác văn học” và đi đến kết luận: “Đây có lẽ không phải là một công việc dễ dàng”
Năm 1990, bài viết “Nhìn lại vấn đề giải phóng phụ nữ trong tiểu
thuyết Tự lực văn đoàn” (Tạp chí Văn học, số 5), nhà nghiên cứu Trương
Chính đã bước đầu thể hiện những kiến giải của mình về ý thức nữ quyền trong tiểu thuyết của Tự lực văn đoàn Bài viết chủ yếu nhìn nhận vấn đề nữ quyền trên phương diện nội dung tư tưởng
Trang 10Năm 1996, trên Tạp chí Văn học số 6, trong chuyên mục Trao đổi ý
kiến đã thực hiện cuộc bàn luận của các nhà nghiên cứu (Lại Nguyên Ân, Đặng Anh Đào, Phạm Xuân Nguyên, Vương Trí Nhàn, Đặng Minh Châu,…)
về sáng tác của các cây bút nữ trên nhiều phương diện: điểm mạnh và điểm yếu của các nhà văn nữ; phụ nữ với nghề văn; gương mặt những cây bút nữ; đóng góp của những cây bút nữ; tiềm năng của những cây bút nữ,… Đặc biệt, các nhà nghiên cứu đã tập trung bàn luận nhằm lý giải hiện tượng nở rộ sáng tác của các nhà văn, nhà thơ nữ Tuy nhiên, trong khuôn khổ một cuộc trao đổi ngắn, các ý kiến đưa ra chỉ mang tính chất khơi gợi, chưa đào sâu phân
tích vấn đề nữ quyền một cách thấu đáo Sau đó bài Suy nghĩ về đặc điểm của
nữ văn sĩ của Phương Lựu hướng sự chú ý về phái tính ở khía cạnh bản thể sáng tạo – nữ giới Theo Phương Lựu, diện sống “không được sâu rộng” của
nữ giới quy định “mầu sắc tự truyện” và đề tài chủ yếu của họ là tình yêu Quan điểm này tìm ra được nét khái quát nhất của văn học nữ đương thời nhưng tự thân nó không có được tính khu biệt rõ ràng
Năm 2000, chuyên đề Tình yêu, tình dục và phái tính trong văn học đi
đầu và cũng là chuyên đề tập trung hơn cả về phái tính Với bài Phụ nữ và
văn chương, Châm Khanh vừa đặt lại vấn đề của Phan Khôi nhưng lần này,
phụ nữ được đưa lên vị trí hàng đầu Tác giả tỏ ra ngần ngại trước một vấn đề quan trọng: Cách viết của phụ nữ so với nam giới có gì khác? Sự khác biệt
lớn nhất thực chất là vấn đề nữ quyền Hoàng Ngọc Tuấn viết Dục tính trong
văn chương và vấn đề đạo đức, Nguyễn Hoàng Đức viết Nữ giới, nữ văn sĩ và văn giới, Nguyễn Hữu Lê với Tình dục trong văn học Việt Nam dưới cách nhìn của đạo lý hồn nhiên và của đạo lý học thuyết , Đỗ Minh Tuấn với Thúy Kiều và khát vọng giải sex… đều đề cập đến cuộc giải phóng phụ nữ, giải
phóng tình dục Đàn bà có quyền phát biểu khát vọng dục tính của mình Thậm chí, có những nhà văn nữ đã xây dựng những tiểu thuyết trong đó đàn
Trang 11bà sử dụng đàn ông như công cụ phục vụ dục tính Hoàng Ngọc Tuấn chỉ ra thái độ trả thù phái tính ấy chỉ là hệ quả của tinh thần phản kháng bồng bột thời kỳ đầu, về sau, các nhà văn nữ càng ngày càng tỏ ra sáng suốt và bình tĩnh hơn trước vấn đề giải phóng ý thức phụ nữ khỏi những ràng buộc phái tính và dục tính để suy nghĩ đến những ý nghĩa rất bình thường trong cuộc sống: những ý nghĩa về bản thân, hạnh phúc, gia đình, phái tính, trách nhiệm, tình yêu, chiến tranh, tự do, đạo đức… Đấy mới là mảnh đất màu mỡ bộc lộ phái tính
Ngoài ra, có những bài nghiên cứu dẫn nhập rất chi tiết lý thuyết về chủ thuyết phụ nữ, văn học nữ quyền, hoặc cũng đang trong quá trình tìm tòi như:
Lí luận phụ nữ: Từ Simone de Beauvoir dến Judith Butler của Đặng Phùng
Quân, Nữ quyền luận của Nguyễn Hưng Quốc, Dày dày đúc sẵn một tòa…
văn chương của Đinh Từ Bích Thúy, Tiếng cười của nàng Medusa của Mary
Klages…Với tính chất khơi mở, những nghiên cứu ấy góp phần gợi hướng tìm hiểu ý thức phái tính nhưng chưa chủ định nghiên cứu cụ thể vấn đề phái tính trong văn thơ nữ Việt Nam
Nghiên cứu về vấn đề phái tính cũng có một số công trình là luận
án, luận văn đề cập ý thức phái tính như: Luận án tiến sĩ Vấn đề phái tính và
âm hưởng nữ quyền trong văn xuôi Việt Nam đương đại (qua sáng tác của một số nhà văn nữ tiêu biểu) của Nguyễn Thị Thanh Xuân đã hệ thống và lý
giải một cách cơ bản về lý luận phái tính và nữ quyền trong văn hóa và diễn ngôn văn học, chỉ ra được những biểu hiện phái tính trong văn xuôi của các cây bút nữ, lý giải sự phát triển của ý thức phái tính là do hệ quả của quá trình
dân chủ hóa xã hội và văn học; Luận văn thạc sĩ Ý thức phái tính trong sáng
tác văn xuôi nữ từ sau 1975 (Nguyễn Thị Thu Huệ, Trần Thùy Mai, Y Ban, Phạm Thị Hoài, Đỗ Hoàng Diệu) của Phạm Thị Thu Huyền tại trường Đại
học Đà Nẵng, đã xác định nội hàm thuật ngữ ý thức phái tính và vận dụng nó
Trang 12vào tìm hiểu trong một số sáng tác của các nhà văn nữ tiêu biểu sau 1975;
Luận văn thạc sĩ Dịch và vận dụng tiểu luận The signification of the phallus
của J Lacan vào nghiên cứu bản sắc giới trong tác phẩm của M Duras của
Ngô Thị Thanh tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội, chủ yếu giới thiệu, làm
rõ một số phương diện của lý thuyết phân tâm học Lacan – lĩnh vực còn chưa được nghiên cứu nhiều ở Việt Nam trên phương diện bản sắc giới; Luận văn
thạc sĩ Về một đặc điểm tư duy thơ nữ gần đây: Ý thức phái tính (qua Phan
Huyền Thư, Ly Hoàng Ly, Vi Thùy Linh) của Nguyễn Thị Hồng Giang tại
trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, trình bày khái niệm phái tính, đưa ra những biểu hiện phái tính trong thơ nữ Việt Nam qua một số tác giả tiêu biểu, khẳng định ý thức phái tính là một đặc điểm của tư duy thơ nữ gần đây…
Không chỉ trong các công trình nghiên cứu mà ngay cả thế giới mạng
đã đề cập tới vấn đề phái tính, như trang web văn học tienve org đã dành hẳn một chuyên mục Việt số 04.2000 để nói về : “Tình yêu, tình dục và phái tính
trong văn học” Các bài viết trong chuyên mục này như “Phái tính trong ngôn
ngữ và văn học” (Phan Việt Thủy), Văn tự và phái tính (Tú Ân), Chuyện hiếp dâm và vấn đề phái tính trong văn học Việt Nam (Nguyễn Hưng Quốc), Phụ
nữ và văn chương (Châm Khanh), Dục tính hay đỉnh tháp của văn chương
(Nguyễn Hoàng Đức), Dục Tính trong văn chương và vấn đề đạo đức (Hoàng Ngọc Tuấn), Tình dục trong văn học Việt Nam dưới cách nhìn của đạo lí hồn
nhiên và của đạo lí học thuyết (Nguyễn Hữu Lê)… đều đề cập đến vấn đề
phái tính Trong lời mở đầu cho chuyên mục này, Thư tòa soạn có nhấn
mạnh: “Về phái tính dường như chưa bao giờ thực sự được nghiên cứu tại
Việt Nam Một số công trình đã in về các nhà thơ hay các nhà văn nữ, thường
có tính chất xã hội học, tuy nhiên hiếm có ai liên hệ những đặc điểm ấy với vấn đề phái tính, chẳng hạn: nam và nữ viết khác nhau ra sao? Khác đến
Trang 13chừng mực nào?Những sự khác biệt ấy có dính líu gì đến những sự khác biệt
về sinh lí của nam và nữ…”
Nhìn chung những bài viết trên đã khái quát những nội dung chung nhất về ý thức phái tính qua các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước Tuy nhiên, qua khảo sát chúng tôi nhận thấy chưa có công trình nào đi sâu tìm hiểu về ý thức phái tính trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ ơTrên cơ sở tiếp thu ý kiến, kết quả của người đi trước, cùng với sự đánh giá,
kiến giải riêng của mình, chúng tôi triển khai đề tài: “Ý thức phái tính trong
truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ”
3 Mục đích nghiên cứu
Thông qua việc khảo sát các sáng tác truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ, người viết muốn làm rõ nét riêng độc đáo trong văn của chị dưới góc độ ý thức phái tính Có thể nhận ra rằng, những đặc sắc nghệ thuật của các nhà văn nữ đều có dấu ấn nữ tính, nhưng ý thức phái tính không đồng nhất với nữ tính Đó là sự tự giác về nữ quyền Đề tài này giới hạn ở phạm vi
về vấn đề phái tính
4 Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu đã đề ra, luận văn giải quyết những nhiệm vụ sau đây:
- Xác định nội hàm khái niệm ý thức phái tính
- Tìm hiểu sự ảnh hưởng sâu sắc của ý thức phái tính tới sáng tác của Nguyễn Thị Thu Huệ
- Khẳng định vị trí của Nguyễn Thị Thu Huệ trong nền văn xuôi Việt Nam đương đại
Trang 145 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1 Đối tượng nghiên cứu
Những biểu hiện của ý thức phái tính trong sáng tác truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ về mặt nội dung tư tưởng cũng như nghệ thuật biểu hiện
5.2 Phạm vi nghiên cứu
Luận văn khảo sát trên phạm vi các tập truyện ngắn tiêu biểu của Nguyễn Thị Thu Huệ, như:
- Cát đợi (Nhà xuất bản Hà Nôi – 1992)
- Hậu Thiên Đường (Nhà xuất bản Hội nhà văn – 1993)
- Phù thủy (Nhà xuất bản văn học – 1995)
- 21 truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ ( Nhà xuất bản Hội nhà văn –
2001)
- 37 truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ ( Nhà xuất bản văn học – 2006)
- Thành phố đi vắng ( Nhà xuất bản Trẻ - 2012)
6 Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài luận án, chúng tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau đây:
6.1 Phương pháp lịch sử phái sinh: Nhằm nhìn nhận lại quá trình
biểu hiện của ý thức phái tính và vấn đề nữ quyền trong tiến trình văn học
6.2 Phương pháp hệ thống trong việc hệ thống hóa những quan điểm
về phái tính, sự vận động và biểu hiện của ý thức phái tính trong nền van học Việt Nam đương đại
6.3 Phương pháp so sánh, đối chiếu: giữa các tác phẩm văn học với
các tài liệu về nhân chủng học, văn hóa học, tôn giáo, triết học, và giữa các tác phẩm của nhà văn, hay với sáng tác của các nhà văn khác….nhằm tìm ra mối tương quan giữa hoàn cảnh, xã hội, nền tảng văn hóa, lịch sử đã tác động
Trang 15như thế nào đến văn học trong phạm vi biểu hiện của ý thức phái tính trong sán tác của Thu Huệ cũng như một số tác giả nữ cùng thời
6.4 Phương pháp phân tích – tổng hợp:được sử dụng trong quá trình phân tích những đặc điểm mang màu sắc phái tính
6.5 Phương pháp liên ngành: làm cơ sở phương pháp luận cho đề tài
nghiên cứu, trong đó có Lý thuyết về giới (Giới học), Tâm lý học, Ngôn ngữ học Phương pháp tiếp cận liên ngành sẽ giúp chúng tôi thấy được bản chất tư tưởng, thẩm mỹ của tác phẩm, tiến tới việc phân tích, lý giải những sáng tác của Thu Huệ
7 Đóng góp mới
Luận văn đã chọn một góc nhìn nhằm phát hiện ra sắc diện mới trong sáng tác của Thu Huệ, làm nổi bật chân dung và cá tính sáng tạo của chị trong dòng văn xuôi nữ đương đại Đồng thời luận văn sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích cho những ai quan tâm đến vấn đề phái tính trong văn xuôi nữ đương đại Việt Nam
Trang 16Chương 1
Ý THỨC PHÁI TÍNH VÀ VẤN ĐỀ NỮ QUYỀN TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM THỜI KÌ ĐỔI MỚI
Khi trình bày luận văn chúng tôi chọn từ “phái tính” thay cho từ “giới tính” vì theo quan niệm của chúng tôi, nó mang ý nghĩa tổng quát hơn Khái niệm phái tính xoáy vào sự khác biệt về giới tính Phái tính chỉ sự liên kết giữa giới và những bản tính đặc trưng cho từng phái riêng biệt Ý thức về phái tính trở thành một nội dung quan trọng trong đời sống thế giới hiện đại Trong chương này, nội dung trọng tâm mà chúng tôi hướng đến là sự khẳng định ý thức phái tính như một đặc điểm tư duy trong sáng tác nữ gần đây Để khẳng định được điều đó, chúng tôi phải tìm ra một cơ sở lý luận và thực tiễn cho vấn đề này Cơ sở lý luận là những quan niệm về phái tính trong tiến trình lịch
sử nhân loại Thực tiễn của nó chính là sự xác lập ý thức phái tính trong đời sống và trong văn học, văn học thế giới nói chung cũng như văn học Việt Nam nói riêng Đôi khi, lý luận và thực tiễn đan cài nhau Sự khảo
cứu của chúng tôi trong chương này chỉ là một trong những lối đi vào vấn đề
ý thức phái tính
1.1 Giới thuyết về phái tính và nữ quyền
Người ta có thể trình bày về phái tính trên các bình diện triết học, đạo đức học, sinh học, xã hội học, tâm lý học… rồi đến văn học Chúng tôi, bằng cách tổng hợp các bình diện ấy, nhìn nhận phái tính và ý thức phái tính qua tiến trình vận động của nó Từ những quan niệm có tính truyền thống về phái tính đến sự nổi dậy của ý thức phái tính, cuối cùng là một ý thức mới về phái tính Trong hệ thuật ngữ liên quan đến phái tính, chúng tôi tạm đưa ra công thức dịch: Phái tính = phái (gender) + giống/giới/giới tính (sex) Như vậy, phái nam = nam giới (the male sex) + masculinity (tính nam/bản tính nam); phái nữ = nữ giới (the fair sex) + femility (tính nữ/bản tính nữ) Đến nay,
Trang 17trong từ điển tiếng Việt cũng như một số từ điển ngoại ngữ khác không hề có một thuật ngữ nào với hàm nghĩa khái quát như thế Mặc dù vậy, phái tính và
ý thức phái tính đã, đang và vẫn sẽ luôn hiện hữu trong mọi lĩnh vực của đời sống con người
1.1.1 Những quan niệm về phái tính và ý thức phái tính
Theo Kinh thánh, Thượng Đế sáng tạo ra thế giới trong vòng 7 ngày với đủ biển cả, ao hồ, sông suối, chim muông Trong ngày thứ 7, Người nghĩ thêm ra một loài động vật mà Người cho là “sẽ hoàn hảo nhất trong các loại động vật” Và chàng Adam xuất hiện từ đó Để tránh cho Adam khỏi buồn bã nơi vườn Địa Đàng, Thượng Đế đã dùng một “cái xương sườn thừa của ông Adam” (do thiếu nguyên liệu!) để tạo nên con người thứ hai là Eva làm bạn đồng hành Mắc lỗi lầm do ăn “trái cấm” ở vườn Địa Đàng, Adam và Eva bị Đấng tối cao đày xuống mặt đất, bắt sống cuộc sống như những sinh vật khác (sẽ phải tự kiếm ăn, sẽ già đi, sẽ bị bệnh tật rồi trở về với cát bụi) Và hình phạt lớn nhất mà Thượng đế đặt lên Eva là hàng tháng sẽ phải mất đi một lượng máu từ trong cơ thể, sẽ phái mang nặng, đẻ đau,…
Với những suy tư trên phương diện triết học, đại triết gia Aristote xác quyết rằng đàn bà tự bản chất đã thấp kém hơn đàn ông Aristote cho rằng đàn
bà chỉ là vật chất, phát triển một cách bừa bãi, hỗn loạn nếu không có đàn ông, nhờ có những hạt giống của họ, mang đến cho các vật chất này hình thái, mặt mũi:
“Giống cái (female) là giống cái do thiếu thốn các đặc tính nào đó; chúng ta nên xem bản tính giống cái như bị đau buồn vì sự khiếm khuyết tự nhiên” [1, tr.321]
Kể từ sau Aristote, có rất nhiều triết gia, thần học gia, trí thức, văn sĩ,…
đã lặp đi lặp lại ý kiến trên như thể là một định đề toán học hay một định luật hóa học, vật lý Chính vì là “phần phụ”, “phần thừa ra” từ thân thể Adam nên
Trang 18các Eva luôn ở thế lệ thuộc, phải phục tùng đàn ông, trở thành “phái yếu” (the weaker sex) Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, một nửa nhân loại tự mệnh danh là “phái mạnh” (the stronger sex) đã xây dựng một mô hình xã hội theo
sở thích, nhu cầu và quyền lợi của riêng mình Dĩ nhiên, trong cái trật tự và khuôn khổ của một xã hội theo “hình ảnh người đàn ông” này thì không có chuyện bình quyền về phái tính Phụ nữ luôn là người chịu nhiều thiệt thòi, bị chèn ép, khinh miệt và bị bóc lột Ở phương Tây, tín đồ Do Thái không bao giờ khởi đầu một nghi lễ phụng tự khi xung quanh chưa hội đủ bảy người đàn ông mặc dù có sự hiện diện của cả trăm ngàn người phụ nữ tại đó Còn ở Pháp, chỉ cách đây vài thế kỷ, người phụ nữ thượng lưu vẫn còn bị cột chặt trong cái “vòng đai trinh tiết”; và thậm chí ở một nước dân chủ tiên phong như Hoa Kỳ thì quyền bầu cử của phụ nữ cũng chỉ được áp dụng từ đầu thể
kỷ XX mà thôi
Sự phân biệt phái tính không chỉ tồn tại trong tư duy và trong đời sống
xã hội mà còn được thể hiện ngay trong ngôn ngữ Nền văn hóa phương Tây
được nhiều nhà nghiên cứu đánh giá là nền văn hóa gia trưởng, trọng nam
Nền văn hóa ấy được thể hiện rất rõ qua cấu trúc ngôn ngữ thông qua các cặp đối lập Người ta có thể thấy ngay một sự thật hiện hữu là ngôn ngữ chỉ phụ
nữ phái sinh ngay trên bề mặt, kết cấu ngôn ngữ chỉ nam giới Trong tiếng Anh, chữ “man” vừa có nghĩa là đàn ông vừa có nghĩa là nhân loại “Man” là gốc, từ đó nảy sinh ra nhánh “woman” (đàn bà); Mr (ông) là gốc, từ đó nảy sinh ra Mrs (bà); và cuối cùng, “male” (nam) phái sinh “female” (nữ) Như vậy, khởi nguồn từ cặp nam – nữ, trong ngôn ngữ châu Âu hình thành những cặp đối lập tương ứng như trật tự - hỗn loạn, hiển ngôn – im lặng, hiện diện – vắng mặt, nói – viết, sáng – tối, lành mạnh – nguy hại, thuần lý – phi lý,… trong đó tất cả những mỹ từ đều thuộc về đàn ông, dành cho đàn ông
Trang 19Quan niệm trọng nam khinh nữ theo thời gian, dần ăn sâu vào tâm thức người dân phương Đông Thực tế, Nho giáo không chỉ biến phụ nữ thành món
đồ sở hữu của phái nam, trở thành những “con ở” không công mà còn hạ thấp phẩm giá, năng lực của người phụ nữ bằng những quy định hà khắc: không cho phép phụ nữ đi học, tham gia Khoa cử và đặc biệt là không thể làm quan
Và như vậy, sự nông nổi, thấp kém, ngu muội, dốt nát của đàn bà không phải
là do yếu tố cá nhân mà nằm sâu ở vấn đề “phái tính”
Sự phân biệt phái tính cũng được thể hiện rất rõ trong ngôn ngữ phương Đông Nền văn hóa Âm – Dương này coi những gì thuộc Dương là đàn ông, còn những gì thuộc Âm là phụ nữ Những cặp từ phái sinh tương ứng như mặt trời- mặt trăng, ngày – đêm, nóng – lạnh, lửa – nước, chủ động –
bị động,… cũng chính là kết quả của lối tư duy thống trị bởi nam giới
1.1.2 Ý thức phái tính và sự xuất hiện của Chủ nghĩa nữ quyền
Các quan niệm truyền thống cho rằng: thứ nhất, phụ nữ là kẻ phái sinh,
lệ thuộc và phục tùng đàn ông Ngay cả trong ngôn ngữ, hệ thống văn hóa tượng dương vật lấy đàn ông làm trung tâm Thứ hai, tính nữ được quy định bởi đặc điểm giống phái Trong một xã hội, phái nam được xã hội hoá thành nam tính, trong khi phái nữ được dạy bảo thành nữ tính Sự định hướng giới tính như thế càng gắn chặt người nữ trong vị thế kẻ thứ yếu Thứ ba, Mỹ học
về phụ nữ nhiều khi là hình thức của sự khổ hạnh Thực tế cho thấy trong nền văn hóa phụ quyền, cái đẹp về thể xác, tâm hồn của họ đều bị quy định bởi quan niệm của nam giới
Trước sự mất tự chủ hay là sự bị tước đoạt vị thế xã hội ở mọi phương diện như thế, giới nữ đã nổi dậy Sự nổi dậy của ý thức phái tính gắn liền với chủ nghĩa nữ quyền (Féminisme, Feminism) Tuy vậy, giới nữ không chỉ tranh đấu cho nữ quyền, cái mà họ hướng đạt nhất là bản thể của mình, bản thể được sống với tất cả sự tự do giới tính Hai biểu hiện cơ bản nhất của ý
Trang 20thức phái tính - nữ chính là ý thức về bản thể - nữ và ý thức về diễn ngôn của phái nữ Về mặt bản thể - nữ, Simone de Beauvoir trong tác phẩm Giới thứ hai nhận ra Người ta không phải bẩm sinh là đàn bà, mà trở thành đàn bà (On
ne nait pas femme, on le devient) Điều ấy có nghĩa những sự khác biệt sâu sắc của hoàn cảnh phụ nữ không thể nào trực tiếp làm cho phụ nữ trở thành lệ thuộc vào đàn ông, mà do sự tham gia của yếu tố văn hóa, và do chính ý thức
cá nhân trên con đường đến với sự tự do Về mặt diễn ngôn của phái nữ, Hélène Cixous trong bài viết Nụ cười của Méduse tuyên bố một lối viết có sự hợp nhất: Sexts = sex + texts, hàm ý phụ nữ hiện hữu về mặt tình dục, thể xác cũng như về mặt văn bản Bởi theo Cixous, chỉ có cách viết ấy, giới nữ mới bảo đảm cho mình một chỗ đứng trong xã hội Khi ý thức phái tính bước qua giai đoạn đòi được khẳng định bản tính của mình, Chủ nghĩa nữ quyền đã cam kết sự tái hội nhập nam tính và khẳng định mọi người đều có khả năng phát triển tất cả những đặc điểm ưu trội 8 của tính nam và tính nữ Tính ái nam ái
nữ hay là sự hội nhập phái tính được đẩy đi xa hơn bằng vấn đề đồng tính Như vậy, đàn ông có thể giả tính dục nữ và đàn bà có thể giả tính dục nam
Và như thế, câu hỏi về phái tính có trở nên mất ý nghĩa? Chúng tôi cho rằng
có thể đấy cũng là câu hỏi quan trọng được đặt ra, nhưng hiện tại, ý thức phái tính trong văn học vẫn đặc biệt quan trọng và thú vị, nó cần thiết để mở ra con
đường đi tới những diễn ngôn sáng tạo của văn chương
Như chúng tôi đã đề cập ở trên, những quan niệm mang tính truyền thống về phái tính ở cả phương Đông và phương Tây đã khiến cho người phụ
nữ trở thành kẻ lệ thuộc Tư tưởng phụ nữ là “phái yếu”, là “kẻ phụ thuộc”, là những kẻ dốt nát, ngu muội và “khó dạy” không phải chỉ là “cái tròng” mà chế độ nam quyền gắn vào cổ những người phụ nữ, mà đôi khi do chính người phụ nữ công nhận, tự đặt nó lên cổ mình Không phải ngẫu nhiên mà ở trên tận thiên đàng, những người phụ nữ phương Tây vẫn không dứt ra khỏi
Trang 21“nghiệp chướng” của đời mình là trở thành kẻ phục vụ, phục tùng nam giới Ở phương Đông, cũng không phải ngẫu nhiên mà những luật lệ hà khắc của Nho giáo như những sợi dây vô hình siết chặt đời sống người phụ nữ cả về thể xác lẫn tinh thần (Trung Quốc, Việt Nam,…) và rồi để cả thế giới nhìn nhận và coi đức tính “tùng – thuận” là hình ảnh tiêu biểu, đặc trưng của người phụ nữ (Nhật Bản)
Bước sang cuộc sống hiện đại, khi đa số phụ nữ đi làm, giá trị của người phụ nữ dần dần tỉ lệ thuận với những đóng góp của họ về kinh tế, văn hóa đối với gia đình và xã hội Họ bắt đầu ý thức về bản thân mình, nhìn nhận lại mình và đi tìm lại bản sắc Công cuộc đi tìm bản sắc nữ kết thúc bằng lời khẳng định bất hủ của nữ văn sĩ người Pháp Simone de Beauvoir trong tác phẩm “Le Deuxième Sexe” (Giới thứ hai) được xuất bản vào năm 1949: “On
ne nait pas femme, on le devient” (Người ta không bẩm sinh là đàn bà, mà trở thành đàn bà) Theo nhiều nhà nghiên cứu thì tác phẩm này chính là một mũi tên bắn trúng vào thành trì của bản thể luận cho rằng “phụ nữ sinh ra đã là phụ nữ” “Giới thứ hai” có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển của Chủ nghĩa nữ quyền trong xã hội hiện đại
Có thể chia phong trào nữ quyền trên thế giới thành ba giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất được đánh dấu bằng sự kiện xảy ra vào tháng 10 năm 1789 khi một nhóm phụ nữ xông vào trụ sở Quốc dân đại hội ở Paris, đòi quyền bình đẳng nam nữ ngay sau khi Đại cách mạng Tư sản Pháp bùng nổ Từ đó, nhiều phong trào đòi quyền bình đẳng nam nữ diễn ra liên tiếp ở nhiều nơi trên thế giới cho đến tận đầu thế kỷ XX Giai đoạn thứ hai là giai đoạn từ đầu thế kỷ
XX đến khoảng đầu thập kỷ 60 khi các lý thuyết nữ quyền xuất hiện, phát triển sôi động và kết quả của nó là đại đa số các nước trên thế giới đều xác định nam nữ bình quyền trong Hiến pháp Giai đoạn thứ ba là giai đoạn từ khoảng cuối thập niên 60, đầu thập niên 70 đến nay với sự phát triển mạnh mẽ
Trang 22của lý thuyết phê bình nữ quyền, đòi bình đẳng nam nữ trên nhiều phương diện của đời sống xã hội từ chính trị, kinh tế đến văn học, nghệ thuật
Trong văn học, các nhà nữ quyền thuộc “thế hệ thứ ba” đã cố gắng xác lập những cách thức, phương pháp viết và đọc văn chương cho riêng phụ nữ Barbara Johnson cho rằng “Vấn đề giới tính thực chất là vấn đề ngôn ngữ” [36] Trường phái nữ quyền Anh – Mỹ thời kỳ này chú trọng đến nền văn chương của chính nữ giới với việc đề cao người đọc, người viết là nữ giới và
về nữ giới Các nhà phê bình nữ quyền luận Pháp lại chú ý đến vấn đề cấu trúc luận Ở đó, họ tìm kiếm những cách thức khả thể cho cách viết của nữ giới, đặt trọng tâm vào một lối viết “thân thể” với những đặc trưng chỉ nữ giới mới có, để phân biệt với nam giới Thuật ngữ “Écristure féminine” (lối viết nữ) được coi là diễn ngôn chính thức của nữ giới trong thời kỳ này Các tác giả nữ dùng ngôn ngữ như một phương tiện hữu hiệu để tìm lối thoát, để “cởi trói” và để khẳng định vai trò của mình trong đời sống xã hội và trong nghệ thuật
1.2 Ý thức phái tính và vấn đền nữ quyền trong văn học Việt Nam thời
kì đổi mới
Ở Việt Nam, ý thức phái tính đã được manh nha hình thành trong lý luận phê bình văn học đầu thế kỷ XX Tuy nhiên, phải từ năm 1986 trở đi, âm hưởng nữ quyền trong văn học mới thực sự được các nhà văn, nhà phê bình
và độc giả chú ý
Theo nhiều tài liệu nghiên cứu mới đây, ý thức phái tính được đánh thức bởi chính các “nữ sĩ tiên phong cổ xúy phong trào nữ quyền qua hoạt động báo chí và văn học” như Hằng Phương, Sương Nguyệt Anh, Phan Thị Bạch Vân [26] Tuy nhiên, những bài viết có tính chất tìm hiểu mối quan hệ giữa văn học với phụ nữ chỉ bắt đầu xuất hiện từ những năm 1929, 1930 trên
tờ Phụ nữ tân văn, khi Phan Khôi mở chuyên mục “Văn học với nữ tánh”
Trang 23Đấy là lần đầu tiên trong lịch sử nước nhà, phụ nữ trở thành trung tâm của cuộc bàn luận văn chương Phan Khôi khẳng định phải có một nền văn học của nữ giới, tuy nhiên khẳng định của ông mới dừng lại ở cấp độ định đoán:
“Theo trình độ tiến hóa của loài người ngày nay, thì về phe phụ nữ ta cũng phải có một nền văn học Bởi vì trải xem cái tình thế trong các nước hiện thời, loài người đã gần đến ngày bình đẳng rồi, bên nam bên nữ cũng đều gánh vác công việc với xã hội như nhau, thì sự học vấn tri thức, có lẽ đâu chỉ để riêng cho đờn ông mà thôi hay sao?” [20] Theo Phan Khôi, viết văn cũng là một thiên chức của đàn bà, vì đàn bà “có nhiều tư cách rất là thích hiệp với văn học” như “tánh trầm tĩnh, nhẫn nại”, hơn nữa, “văn học chuyên trọng về đường tình cảm” mà đàn bà “là giống có tình cảm nhiều hơn đờn ông” [21] Ông nhấn mạnh sự khác biệt giữa hai khái niệm “nữ tánh” “nghĩa nó là giống đàn bà (sexeféminin)” với “cái tánh của đàn bà” (caractère de femmes) [22]
Sự phân biệt ấy giống như sự phân biệt giữa khái niệm “phái tính” và “nữ tính” sau này Có thể nói, những bài viết của ông mở ra một giả thuyết văn học thú vị và có sức khai phá Tuy nhiên, qua cách đặt tên và tiêu đề bài viết:
Về văn học của phụ nữ Việt Nam, Văn học với nữ tánh, Lại nói về vấn đề văn
học với nữ tánh… chúng ta thấy với Phan Khôi: phụ nữ, nữ tánh đứng ở vế sau của văn học, nó mới chi phối văn chương chứ chưa phải là chủ thể sáng tạo văn chương
Từ giữa năm 1999 với nhiều chuyên đề liên quan đến phái tính trong văn học có sức lan tỏa rất nhanh trên văn đàn, nhất là ở ngoài nước Do có sự tiếp xúc với chủ thuyết nữ quyền, dòng văn học hải ngoại có bước đột phá rất
ngoạn mục trong việc nghiên cứu về phái tính Những chuyên đề như Tình
yêu, tình dục và phái tính trong văn học, Tình yêu tình dục của Tạp chí Việt,
chuyên đề Văn học nữ quyền, chuyên đề Giới tính trên trang DaMau.org…
liên tiếp mở ra nhiều khám phá Những bài viết có tính dẫn nhập lý thuyết còn
Trang 24chỉ ra sự khu biệt nam – nữ về ngôn ngữ Trong Văn tự và phái tính [152], Tú
Ân dẫn giải giả thuyết về sự xuất hiện văn tự của bác sĩ Leonard Shlain: Theo Leonard Shlain, nam tính đã trở thành một đặc trưng của xã hội kể từ ngày một phần đông dân số học đọc và học viết Chữ viết vốn gắn liền với tư duy phân tích và tư duy phân tích lại gắn liền với bán cầu bên trái của não bộ Trong khi đó nữ tính lại gắn liền với bán cầu bên phải Bán cầu bên phải phối hợp cảm xúc, ghi nhận hình ảnh và thưởng thức âm nhạc Vì thế, tục thờ nữ thần, các giá trị mang nữ tính và quyền lực của phụ nữ nảy nở tương ứng với
sự tràn ngập của các hình ảnh Tục thờ nam thần, các giá trị nam tính cũng
như chế độ phụ hệ nổi lên cùng lúc với chữ viết Coi chữ viết chủ yếu là sản
phẩm của nam giới là sự thừa nhận của hầu hết các tác giả khi dẫn lại những
nghiên cứu về ngôn ngữ học và văn hóa học phương Tây Phan Việt Thủy dẫn
ra sự kỳ thị phái tính trong ngôn ngữ: “ngôn ngữ mà chúng ta hiện đang sử dụng, với tư cách là một hệ thống (linguistic system) cũng như với tư cách là một hoạt động (linguistic performance), chủ yếu là sản phẩm của nam giới, trong một xã hội phụ quyền, phản ánh những giá trị và những chuẩn mực văn hóa của đàn ông” Một cách vô ý thức, cái đọc của phụ nữ cũng bị nam hóa đi: họ đọc như là những người đàn ông đọc, cho nên không nhận ra cả những cách nhìn đầy bất công trong đó chính mình là nạn nhân Do đó, cái chúng ta thiếu không phải chỉ là những tác giả nữ mà là những người đọc nữ” Như
vậy, sáng tạo của người viết nữ là phải biết giải phóng mình ra khỏi ràng
buộc của sự kỳ thị phái tính trong ngôn ngữ Đọc họ, chúng ta phải có những tiêu chí đánh giá mới, thoát khỏi sự chi phối của hệ thống ngôn ngữ phụ quyền
Từ khoảng thời gian năm 2006 khi những nghiên cứu về phái tính trong văn học nữ trong nước xuất hiện ngày một nhiều Có ba khuynh hướng chính: khuynh hướng thứ nhất nghiên cứu văn học nữ thiên về dục tính/sex, khuynh
Trang 25hướng thứ hai nghiên cứu văn học nữ thiên về nữ tính/thiên tính nữ, khuynh hướng thứ ba nghiên cứu văn học nữ trên bình diện văn học nữ quyền
Ở khuynh hướng năm 2006, sau sự ra đời hàng loạt tác phẩm gây shock trên văn đàn, trên các báo, các trang mạng lập tức xuất hiện nhiều bài viết về sex trong văn học nói chung và trong văn học nữ nói riêng Trang Vietnamnet
mở cả một chuyên đề về Sex trong văn học Nói là chuyên đề nhưng thực ra
các cây bút góp mặt lại viết khá tản mản bằng những quan điểm chủ quan và không có sự phân tích một cách chi tiết, cụ thể Đối tượng chủ yếu mà các tác
giả hướng tới là sex trong văn học nữ Những bài như: Tính dục trong văn học
hôm nay, Dục tính và những ranh giới mong manh (Nguyễn Huy Thiệp), Văn học sex: chấp nhận để tìm cách đổi khác?(Vương Trí Nhàn), Lịch sử - văn hóa và sex trong văn chương (Nguyễn Hòa), Tính dục đơn thuần chỉ ở cấp thấp (Lê Đạt), Các cây bút nữ giữa trào lưu sex (Tâm Huyền), Tình dục trong văn chương đương đại: Chuyện không có gì mà ầm ĩ thế (Võ Thị Hảo), Sex trong văn học trẻ thoái trào (Phương Quyên)… Hầu hết, sex được nhìn như
một “ngoại động từ”, một hành động bên ngoài để “khiêu dâm”, đánh giá về sex trong văn học hoàn toàn dựa vào quan điểm đạo đức (tất nhiên là nền đạo đức truyền thống bị chi phối bởi nam giới) Có người nhìn sex như một
“ngoại động từ” mà xét đoán cao trào hay thoái trào của nó Nhưng sex trong văn học là một “nội động từ”, là một phương diện thuộc về phái tính, vì thế
nó không có cao trào hay thoái trào Chưa nâng được vấn đề sex trong văn học nữ thành vấn đề phái tính, mặt khác chỉ nhìn các cây bút nữ đương đại với góc độ sex, đó chính là khuynh hướng có khả năng đánh đồng phái tính là dục tính
Ở khuynh hướng thứ hai, các bài nổi bật nhất là: Vấn đề phái tính và
âm hưởng nữ quyền trong văn học Việt Nam đương đại của Nguyễn Đăng
Điệp [8], Ý thức phái tính trong văn xuôi nữ đương đại của Nguyễn Thị Bình
Trang 26[6], Quá trình giải phóng thiên tính nữ trong văn học nghệ thuật từ góc nhìn
mỹ học tính dục của Phan Tuấn Anh (Công trình tham gia xét giải thưởng Tài năng khoa học trẻ Việt Nam năm 2012) Với quan điểm nhà văn nữ khi viết
về phái nữ sẽ bộc lộ được những khả năng mang tính "thiên bẩm" và chân thực hơn, trong bài viết của mình, nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Điệp đã đưa
ra một bức tranh tương đối hoàn chỉnh và có tính chất gợi mở cho những nghiên cứu về âm hưởng phái tính và nữ quyền trong sáng tác của các nhà văn
nữ thời gian gần đây Trong bài viết, cụm từ “âm hưởng nữ quyền” được tác giả sử dụng với hàm ý chỉ mức độ: Ở Việt Nam chưa có văn học nữ quyền hoàn chỉnh như ở phương Tây, mà mới chỉ có những dấu hiệu ban đầu như là
sự phát triển của ý thức dân chủ Khái niệm nữ tính/ nữ quyền/ văn học nữ vẫn cần được khẳng định rõ hơn
Khuynh hướng thứ ba nổi lên trong thời gian gần đây, khi chủ nghĩa nữ quyền được nhắc đến nhiều hơn ở Việt Nam Bài viết trên của Nguyễn Đăng Điệp thực ra muốn mở rộng những nghiên cứu về phái tính và về văn học nữ quyền Theo tác giả, văn học đương đại Việt Nam hiện nay mới chỉ có âm
hưởng nữ quyền và nó thể hiện trên bốn phương diện: ngôn ngữ quyết liệt
không kém gì nam giới ; công khai xét lại lịch sử và các điển phạm nghệ thuật bằng cái nhìn riêng của cá nhân và giới nữ ; công khai bày tỏ thái độ chống lại sự lệ thuộc vào thế giới đàn ông và dám xông vào các đề tài tình dục ; tuy quyết liệt nhưng hơi ấm nữ tính vẫn “được bảo lưu một cách vô thức”[8]
Nếu như nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Điệp nhấn mạnh đến “hơi ấm nữ tính” như một bảo lưu vô thức thì Inrasara lại đòi hỏi sự vượt thoát điểm cố hữu đó
Thơ nữ trong hành trình cắt đuôi hậu tố nữ [19] là bài viết gợi nên ý tưởng về
sự giải phóng khỏi giới và sự bó buộc về ngôn ngữ của người viết nữ, Dấu
hiệu nữ quyền trong văn nữ Việt Nam của Bùi Thị Thủy có hơi hướng là sự
tiếp bước lối đi của tác giả Nguyễn Đăng Điệp; Phê bình văn học nữ quyền
Trang 27của Lý Lan mang lại cái nhìn lịch sử về các trào lưu phê bình văn học nữ
quyền thế giới… Thời gian gần đây, trong một bài nghiên cứu có tựa đề
“Những nẻo đường đến với truyện ngắn Việt Nam đương đại”, tác giả Nguyễn Thanh Tâm khẳng định rằng, hiện nay, các nhà nghiên cứu thường tiếp cận thể loại này bằng một số cách thức tiếp cận, nhưng chủ yếu là theo
hai hướng chính là tiếp cận từ thi pháp học (theo hướng này có thể kể đến
một số nghiên cứu của La Khắc Hòa (Dấu hiệu của Chủ nghĩa hậu hiện đại
trong văn học Việt Nam qua sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Thị Hoài), Cao Kim Lan (Lịch sử trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp và dấu vết của hệ hình thi pháp hậu hiện đại), Thái Phan Vàng Anh (Ngôn ngữ trần
thuật trong truyện ngắn Việt Nam đương đại),… ) và tiếp cận từ góc độ
phân tâm học (theo hướng này có thể kể đến một số bài viết của Hồ Thế Hà
(Hướng tiếp cận phân tâm học trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975/ Tình
yêu trong truyện ngắn hiện đại Việt Nam nhìn từ các phức cảm), Trần Thanh
Nhị, Trần Huyền Sâm (Một số thể nghiệm phân tâm học Freud trong văn học
Việt Nam) và một số luận văn thạc sĩ khác Tuy nhiên, tác giả cũng nhận định:
“Chính vì sức phổ biến và khả năng ảnh hưởng lớn của thi pháp học/tự sự học trong nghiên cứu loại hình tác phẩm tự sự lại tạo thành một “đại tự sự” Biểu hiện rất rõ là nhiều luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ và các bài viết với đề tài Thế giới nghệ thuật, Không gian nghệ thuật, Thời gian nghệ thuật, Nghệ thuật trần thuật, Ngôn ngữ trần thuật,…trong một tác phẩm hay một nhóm tác phẩm nào đó
Như vậy, việc dùng một mô hình lý thuyết có sẵn, từ trên xuống đã tạo nên một lối nghiên cứu “đẽo chân cho vừa giày” khá phổ biến trong nghiên cứu văn học Và, đúng như nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Điệp nhìn nhận:
“Vấn đề giới tính là một vấn đề phức tạp Nó gắn liền với ý thức hệ, chính trị, tôn giáo, được thể hiện rõ nét qua ngôn ngữ và văn học”[8, tr.9] Những
Trang 28nghiên cứu về phái tính và nữ quyền trong văn học Việt Nam vẫn thiếu một cái nhìn hệ thống và tường giải; vẫn mới chỉ như khúc dạo đầu của bản giao hưởng đầy thanh sắc cần được tiếp tục khám phá
Sự xuất hiện và mở rộng âm hưởng nữ quyền trong văn học Việt Nam đương đại, theo ý tôi, xuất phát từ ba nguyên nhân cơ bản: Thứ nhất, sự thay đổi tư duy và sự mở rộng của tinh thần dân chủ xã hội khiến cho nữ giới có điều kiện tự do cất cao tiếng nói của mình với tư cách là chủ thể độc lập; Thứ hai, bản thân nữ giới đã có những thay đổi lớn về nhận thức, học vấn, điều kiện tự chủ kinh tế, khả năng am hiểu luật pháp…, tức là có đủ các yếu tố để trở thành một chủ thể độc lập, thoát khỏi trình trạng bị “nó, anh ấy, ông ấy hoá”; Thứ ba, cấu trúc sinh học cũng như sự nhạy cảm và mối quan tâm của
nữ giới có nhiều điểm gặp gỡ với nhịp sống thời hiện đại Trong nhiều lĩnh vực, có những vị trí phụ nữ có thể làm tốt hơn nam giới Phụ nữ cũng có khả năng giải toả stress tốt hơn đàn ông Vậy thì âm hưởng nữ quyền trong văn học Việt Nam đương đại được bộc lộ qua những phương diện cơ bản nào? Theo tôi, cần lưu ý đến mấy dấu hiệu cơ bản sau: a- ngôn ngữ trong tác phẩm của các cây bút nữ quyết liệt, mạnh mẽ không kém gì nam giới, thậm chí, nhiều cây bút có ý thức gây hấn và gây shock bằng sức mạnh của ngôn từ; b- không ít cây bút nữ công khai xét lại lịch sử và các điển phạm nghệ thuật bằng cái nhìn riêng của cá nhân và giới nữ mà không ngán/ ngại vấp phải sự phản ứng của người đọc; c- công khai bày tỏ thái độ chống lại sự lệ thuộc vào thế giới đàn ông và dám xông vào các đề tài cấm kị một cách tự do, nhất là đề tài tình dục Tại đây, không phải lúc nào đàn bà cũng chỉ là trò chơi và nô lệ tình dục cho đàn ông mà nhiều khi, quyền chủ động thuộc về nữ giới Với họ, tình dục là một phương diện thể hiện rõ nhất sự tự do bản ngã Thậm chí, đã bắt đầu manh nha lối “viết bằng thân thể”, dùng ngôn ngữ để biểu hiện nhịp điệu của suy nghĩ; d- tuy quyết liệt, mạnh mẽ nhưng hơi ấm nữ tính trong
Trang 29nhiều trường hợp vẫn được “bảo lưu một cách vô thức” đã tạo hương vị riêng cho tác phẩm của các nhà văn nữ Điều này thể hiện ở chỗ các nhà văn nữ thường miêu tả những vấn đề gần gũi với bản thân, những câu chuyện của họ không xa vời to tát mà gắn với đời sống thường nhật, hơi văn giàu cảm xúc
Có lẽ hơi ấm nữ tính này xuất phát từ cấu trúc não bộ và nhịp sinh học của nữ giới
Có thể nói, những làn sóng đấu tranh của phong trào nữ quyền, các lý thuyết phê bình nữ quyền trên thế giới xuất hiện từ cuối thế kỷ XVIII và kéo dài cho đến tận ngày nay như là một minh chứng cho công cuộc đi tìm lại chính mình- tìm lại bản ngã luôn đau đáu, mòn mỏi và chưa bao giờ ngưng nghỉ của một nửa nhân loại Mặc dù nhiều người vẫn có thể nghi ngờ bằng cái cách quen thuộc của Chủ nghĩa hậu hiện đại, rằng không có gì là tuyệt đối mà luôn bất định, không có một đại tự sự; cái tôi là một hư cấu, và do đó, không thể có cái tôi mang bản tính nữ,… thì họ vẫn phải thừa nhận rằng trong các tác phẩm văn học, nhất là những tác phẩm văn học do phụ nữ sáng tác vẫn
luôn tồn tại một “bản sắc nữ giới”, một “hơi ấm nữ tính”, một “thiên tính nữ” mang âm hưởng nữ quyền đầy khát khao
*Tiểu kết: Nghiên cứu về phái tính và nữ quyền trong văn học ở nhiều
nước trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng không phải là một hướng đi mới nhưng cũng chưa bao giờ cũ bởi tính hấp dẫn và cả sự phức tạp của vấn đề Trong suốt chặng đường dài của lịch sử văn học dân tộc, chúng tôi nhận thấy giới nữ đã thực sự xác lập tiếng nói của mình bằng rất nhiều cách biểu đạt trong diễn ngôn Để khám phá những cách biểu đạt của các diễn ngôn ấy trong văn học Việt Nam, đặc biệt là văn học Việt Nam đương đại qua sáng tác của chính nữ giới vẫn luôn cần một hướng nghiên cứu đầy triển vọng, có ý nghĩa văn hóa sâu sắc
Trang 30Chương 2
Ý THỨC PHÁI TÍNH VÀ HÀNH TRÌNH TÌM LẠI BẢN NGÃ
TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN THỊ THU HUỆ
Nguyễn Thị Thu Huệ là nhà văn của thời kì đổi mới Với sức trẻ, nét tài hoa cùng với nguồn tri thức được đào tạo bài bản, chị đã nhạy cảm kế thừa những thành tựu của thế hệ đi trước và cũng nhanh chóng tìm cho mình một hướng đi riêng trong nghệ thuật, nhất là khi viết về đề tài người phụ nữ Với tâm niệm, mỗi tác phẩm của mình sẽ “giống như một lời tâm sự, một sự đồng cảm trước muôn mặt của cuộc sống mà ai đã phải trải qua đều biết nhưng họ không có điều kiện nói ra” Nguyễn Thị Thu Huệ luôn cố gắng đào sâu vào các ngõ ngách các phần khuất tối trong đời sống tâm hồn con người để nhận thức, khơi gợi cho người đọc cách hiểu con người Qua các truyện ngắn của mình, Nguyễn Thị Thu Huệ đã thử nghiệm và triển khai những khía cạnh mới
mẻ, linh hoạt trong vấn đề ý thức phái tính và hành trình tìm lại bản ngã Thế giới truyện ngắn của chị là bước vào lãnh địa rất riêng tư của người phụ nữ Ở
đó, tác giả xây dựng bức tranh đời sống nhiều màu vẻ nhưng mối quan tâm lớn nhất, trở thành tâm điểm hút xoáy những vấn đề khác chính là phụ nữ, những vấn đề xoay quanh số phận người phụ nữ Người phụ nữ ý thức được
vẻ đẹp, thiên chức của mình trong cuộc sống cũng như vai trò trong xã hội Với những điều được đặt ra, truyện của chị gợi lên biết bao trăn trở trong mỗi
người về cuộc đời này
2.1 Ý thức về thiên tính nữ
2.1.1 Ý thức về vẻ đẹp ngoại hình
Ngoại hình là một khái niệm dùng để chỉ toàn bộ những biểu hiện tạo nên dáng vẻ bên ngoài của nhân vật, từ diện mạo, trang phục, hình dáng cho đến cử chỉ, tác phong Văn học thường sử dụng các chi tiết để miêu tả chân dung, ngoại hình của nhân vật, và sự miêu tả ấy có thể được thực hiện trực
Trang 31tiếp hoặc gián tiếp thông qua người kể chuyện hoặc qua cái nhìn của một nhân vật khác Để nhân vật trở nên sinh động, hấp dẫn đối với người đọc thì ngoài hoạt động, tính cách, thế giới nội tâm thì ngoại hình của nhân vật đóng vai trò khá quan trọng, bởi “ngoại hình nhân vật được thể hiện sinh động sẽ góp phần bộc lộ tính cách nhân vật, đặc biệt nó có tác dụng khá rõ trong việc
cá biệt hóa nhân vật” [14,134]
Trước đây, khi mô tả vẻ đẹp của những người phụ nữ, các tác giả thời phong kiến và trung đại luôn tránh đề cập đến phần thân thể nhạy cảm của người nữ Người phụ nữ đẹp xưa chỉ được hình dung qua những hình ảnh so sánh như mái tóc dài đen mượt như nhung, cái mũi dọc dừa, đôi mắt lá dăm, khuôn mặt trái xoan,… và gợi tình nhất cũng chỉ là cái eo nhỏ “thắt đáy lưng ong” mà thôi Chúng tôi nhận thấy những cách miêu tả như vậy có thể khiến người ta chấp nhận rằng người con gái đó đẹp theo đúng chuẩn mực và quan niệm về cái đẹp của người phương Đông và cũng có thể tưởng tượng ra một vài nét đẹp phảng phất đâu đó; nhưng cách miêu tả ấy lại không thể cho người
ta cảm nhận một cách thực nhất về hình thể người phụ nữ được miêu tả, và nhất là không bao giờ thấy được những nét gợi tình vốn là vẻ đẹp thiên bẩm của người phụ nữ Với các cây bút nữ đương đại, khi khám phá con người bản năng, các tác giả thường chú ý khắc hoạ vẻ đẹp cơ thể của người nữ ở những phần thân thể mà tạo hoá đã ban tặng cho họ Là phụ nữ, các tác giả nữ hiểu hơn ai hết sức mạnh đặc biệt của những phần thân thể ấy trong tình yêu, trong khoái cảm và thăng hoa tình dục Đó là vẻ đẹp của làn da, bầu vú, đôi môi,
cặp mông, đôi chân,… và cả những phần kín nhạy cảm khác của cơ thể nữ
Nếu như trong sáng tác Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Hoàng Diệu tỏ ra là người có biệt tài trong việc miêu tả ngoại hình nhân vật, bởi ngoại hình của nhân vật, ngay từ bên ngoài đã có thể gây một ấn tượng rất đặc biệt, tạo sự ám ảnh sâu sắc trong lòng người đọc Thì với Thu Huệ, việc miêu tả ngoại hình
Trang 32lại không phải là một phương diện thế mạnh trong xây dựng nhân vật của truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ Nhưng cũng có khá nhiều nhân vật của chị gây ấn tượng với độc giả bằng ngoại hình Mang vẻ đẹp của một cô gái dậy
thì, muốn ra thành phố đổi đời, nhưng My (Thiếu phụ chưa chồng) lại bị “tố
cáo” bởi “đôi bàn chân to bè ở các đầu ngón chân Móng chân thì vàng sẫm lại vì từ nhỏ cô chạy chân đất, cấy lúa gặt lúa, chăn trâu cắt cỏ Bàn chân My chỉ hợp với những bà nông dân to cao, quê mùa, My căm thù đôi bàn chân ấy
vì nó không chịu ăn nhập gì với mình” [50,325] Anh chàng thi sĩ trong Tình
yêu ơi ở đâu có “bộ mặt gầy và xanh, môi chàng thâm lại vì rượu Những cái
râu mọc xiên xẹo, không hàng lối,…tóc rối tung trên đầu, áo quần xộc xệch” dường như đối lập hẳn với Bình - một anh bộ đội phục viên “có khuôn mặt đẹp một cách cứng cỏi, rất đàn ông” và “giọng anh trầm ấm, chắc nịch Mái tóc anh lấm tấm bạc Khuôn mặt trầm tĩnh, đôi môi rộng, khi cười trông sang trọng và quyến rũ Nhìn anh, người ta có thể gửi cả lòng tin của mình Anh bình thản nói chuyện chứ không vồ vập hay bẻm mép” [50,280] Giữa hai người đàn ông ấy, việc Quyên lựa chọn ai làm chồng là điều không cần phải đắn đo, suy nghĩ Anh chàng thi sĩ nọ không thể và không bao giờ có thể mang lại một gia đình được chăm sóc chu đáo cho Quyên được Điều đó Quyên chỉ có thể tìm thấy ở Bình - một người đàn ông trách nhiệm, đặc biệt là khi được chứng kiến căn nhà nhỏ được bố trí gọn gàng ngăn nắp của Bình, Quyên càng thêm tin tưởng anh Trong miêu tả ngoại hình, Nguyễn Thị Thu Huệ đã không sao chụp máy móc chân dung các nhân vật mà chỉ phác hoạ bằng một vài nét thoáng qua nhưng những nét thoáng qua ấy lại có giá trị tạo hình, có ý nghĩa lớn trong việc bộc lộ con người nhân vật
Một trong những điểm khác biệt cơ bản của nhân vật nữ trong văn xuôi đổi mới và trong văn xuôi cách mạng là, khi nhìn nhận người phụ nữ ở những cái thuộc về thiên tính, các nhà văn hôm nay quan tâm đến vẻ đẹp cơ thể của
Trang 33người phụ nữ và những nhu cầu bản năng của họ Con người trong văn học cách mạng nói chung và người phụ nữ nói chung đều rất đẹp, nhưng đó là vẻ đẹp của tâm hồn, vẻ đẹp toát ra từ những phẩm chất cao quý như lòng dũng
cảm, sự hi sinh…Đó là vẻ đẹp của Nguyệt (Mảnh trăng cuối rừng), của Phương Định (Những ngôi sao xa xôi), của chị Tư Hậu, chị Út Tịch…Và thật
khó có thể dùng hai chữ “hồng nhan” khi nói đến người phụ nữ “giỏi việc nước đảm việc nhà” Tác giả Đào Đồng Điện trong bài viết Phụ nữ là…đàn bà trên báo Tuoitre.com.vn đã có những nhận xét rất chính xác khi cho rằng,“dễ nhận thấy khi mô tả ngoại hình của nhân vật nữ, nhà văn cách mạng thường chọn mô tả mái tóc Đây là bộ phận vừa thể hiện được vẻ đẹp nữ tính lại vừa
an toàn Hơn nữa mái tóc dài đối với phụ nữ Việt Nam truyền thống đã nhuốm vẻ đẹp tinh thần và có tính tượng trưng cao” [12] Còn trong thời đại ngày nay, “tóc tai không còn quá nhiều giá trị khu biệt về giới tính nữa”, chúng ta thấy ít xuất hiện những mái tóc dài thướt tha đầy dịu dàng, nữ tính như vẫn thường thấy trong văn học cách mạng Các nhà văn ngày càng quan tâm hơn đến vẻ đẹp của làn da, của bộ ngực, đôi chân, những đường cong cơ thể Đó là vẻ đẹp tự nhiên mà tạo hoá ban tặng cho người phụ nữ, đánh thức ở
họ những khát khao nhục cảm rất người Khi họ ý thức được vẻ đẹp ấy, cũng
có nghĩa là họ ý thức được giá trị của mình Các nhà văn nữ đã thẳng thắn
miêu tả vẻ đẹp khó cưỡng của những cô gái mới lớn: My (Thiếu phụ chưa
chồng - Nguyễn Thị Thu Huệ) mang một “vẻ đẹp của cô gái thôn quê khoẻ
mạnh đang tuổi dậy thì…Người My thấp, chắc lẳn…Khuôn mặt tròn Hai mắt
to Môi dầy và đỏ Ngực to hông nở Bà Ngài bên hàng xóm bảo My có bộ
ngực và cái mông giết đàn ông…” [50,325] Phượng (Sơ - ri đắng) có chiếc
“cổ cao và thanh, những ngón tay bé xíu…Cặp đùi nhỏ và tròn…kẻ thèm khát
dục vọng thì thấy ở em sự đam mê cuồng dại…” [24,92] Hay Vy (Tình
chuột) được hết thảy những người đàn ông ngây ngất bởi hình dáng đẹp với
Trang 34“mông và ngực đều nhỏ nhưng săn chắc Miệng rộng, trán cao mênh mông…Cặp đùi dài thẳng băng, mắt ướt rườn rượt và mở to sáng long lanh không hề có ý khêu gợi nhưng ẩn chứa ma lực chết người Đó là vẻ đẹp căng tràn sự sống, vẻ đẹp của tuổi thanh xuân mà tạo hoá ban tặng cho họ Ca ngợi
vẻ đẹp tự nhiên, quyến rũ của người phụ nữ, dường như các tác giả cũng muốn qua đó để nói về sự khao khát đời sống bản năng trong sạch của người phụ nữ Sự mô tả đặc trưng nữ tính về mặt cơ thể như thế, trong văn học cách mạng được hạn chế hết sức, một phần vì yếu tố tự nhiên không được quan tâm, phần vì nó gợi dục, cho nên nó phải nói theo cách “ước lệ”, nói tránh
Bằng những chi tiết miêu tả ngoại hình có chọn lọc, Nguyễn Thị Thu Huệ, đã mang đến cho nhân vật của mình sự sinh động riêng Sự sinh động ấy của nhân vật cũng đã chứng tỏ nỗ lực tìm tòi, khám phá của các tác giả về những biểu hiện khác nhau trong đời sống, tính cách con người khi các nhà văn coi con người là chất liệu của nhận thức và sáng tạo nghệ thuật
Phụ nữ hiện đại giác ngộ về sức mạnh thể chất, về vẻ đẹp thân thể, hưởng thụ khoái cảm thân thể là thứ quyền được giác ngộ muộn nhất Thoát khỏi mặc cảm thân xác, quan niệm thân xác là cái tầm thường cái dơ bẩn không có giá trị gì so với tinh thần Say mê thân thể mình nên thất vọng, đau khổ khi nhìn thấy cả bộ phận kín đáo
2.1.2 Ý thức về vẻ đẹp tâm hồn
2.1.2.1 Người phụ nữ với khao khát kiếm tìm tình yêu, hạnh phúc
Không thể phủ nhận rằng, khao khát hạnh phúc, đấu tranh cho hạnh phúc, chủ động kiếm tìm hạnh phúc, được bình quyền trong tình cảm là một trong những biểu hiện rất rõ ràng của tính nữ quyền trong truyện ngắn của những cây bút nữ Tình yêu, hạnh phúc, muôn đời vẫn là nỗi khát khao rất chân chính, rất người của con người nói chung, đặc biệt là ở những người phụ
nữ Cách đây hàng trăm năm, nữ sĩ Hồ Xuân Hương cũng đã từng cất lên
Trang 35những tiếng nói khát khao hạnh phúc, xuất phát từ trái tim rạo rực và tràn đầy yêu đương Theo thời gian, vị trí của người phụ nữ đã có nhiều thay đổi Trước đây, người phụ nữ có thể mặc nhiên chấp nhận làm lẽ, làm thiếp, là
“phận sắn bìm”, là “thân cát đằng” bám víu và phụ thuộc vào người đàn ông, thì nay, quan niệm ấy đã thay đổi Người phụ nữ của thời hiện đại năng động, thể hiện năng lực của mình trên nhiều phương diện, đặc biệt là họ chủ động trong tình yêu, chủ động kiếm tìm hạnh phúc, cũng có nghĩa là họ chủ động quyết định số phận đời mình Nhân vật nữ trong truyện ngắn của Thu Huệ, dù dịu dàng, nhu mì hay mạnh mẽ, cứng cỏi cũng đều giống nhau ở cái khát khao
hạnh phúc chính đáng ấy Nhưng, hạnh phúc, với họ là gì?
Kiếm tìm ý nghĩa tồn tại là cuộc hành trình vĩnh cửu của con người Nhân vật kiếm tìm là những con người mang hy vọng sống mãnh liệt Họ ra
đi vì không hòa mình được vào cuộc sống trì trệ, mòn mỏi; họ kiếm tìm những điều “thanh cao hoang tưởng” để bù đắp, khỏa lấp sự trống vắng, thiếu hụt trong đời sống cùng khốn thực tại
Khảo sát truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ, chúng tôi nhận thấy,
ám ảnh trong sáng tác của chị là những cuộc săn tìm hạnh phúc, trong đó chị quan tâm đến một đối tượng rất đặc biệt, đó là những người điên với ước mơ
khát khao về hạnh phúc Trong truyện Cõi mê tác giả viết: “Tình yêu của một
người điên Nó trong trẻo, thánh thiện và cổ xưa” Vì thế mà một cô gái bị mọi người xem như một người điên vẫn hồn nhiên, vô tư, say sưa sống trong tình yêu và tận hưởng tình yêu Đặt ra sự tương phản giữa một bên là những người tỉnh táo, đầy mưu lợi, lúc nào cũng thấy đau khổ, một bên là người điên thì trong sáng, hồn nhiên, thành thật trong tình yêu, Thu Huệ đã đưa ra triết lý
về cuộc sống Cuộc sống đang như một cõi mê, đang trở nên bức bối, ngột
ngạt chỉ vì sự ích kỉ, vụ lợi của con người Truyện Người đi tìm giấc mơ mở
ra hai thế giới: Thế giới của những giấc mơ và hi vọng, niềm vui, hạnh phúc
Trang 36và thế giới của thực tại với thất vọng, nỗi buồn và bất hạnh Giấc mơ cuối
cùng của cô gái trong Người đi tìm giấc mơ ngập mùi xú uế, khiến cô kinh
hoàng thét lên thì bà cô lại sung sướng như tìm được lối thoát: “Cháu ơi! Bà cháu mình sắp sướng rồi Suốt cả đời bà chỉ mơ thấy cứt một lần, bà buôn lãi mấy thúng gạo tám ngày ngày, bà mong mơ thấy cứt mãi mà không được
Mơ thấy điều đó là may càng thối càng tốt cháu ạ” Bà tin chắc điềm may sẽ đến với bà, với cháu gái đến mức không làm gì cả, đóng cửa hàng mua gà về cúng tổ tiên và ngồi chờ vận may Bà “sung sướng chờ đợi một cái gì vô hình đang bay trên không trung, như thể nó đang lượn vòng vèo tìm chỗ đậu xuống mái nhà” Và người ấy - chàng trai con nhà giàu bị liệt đã đến Nhờ giấc mơ anh ta đã trở thành vị cứu tinh, là sự lựa chọn không được phép nghi ngại, đắn
đo, cân nhắc Vì giấc mơ, cháu gái bà lấy chồng Thu Huệ đã nhìn thấy ẩn sau hình thể tật nguyền của người điên là một số phận, một cuộc đời nhiều ngang trái, nhưng biểu hiện nổi bật lên là khát vọng khôn nguôi về tình yêu và về hạnh phúc trong trái tim người phụ nữ, dù điều đó chỉ trở thành hiện thực trong những giấc mơ: “Tôi thích sống trong những cõi mê Bởi lẽ, lúc ấy tôi không phải là một kẻ tật nguyền Tôi có bố mẹ, có sắc đẹp và tình yêu Tôi có tất”, “Tôi sống ban ngày như một cái bóng Ban đêm mới là cuộc sống thực Trong mơ Tôi được yêu”
Trong sáng tác rất hay của Nguyễn Ngọc Tư, đã mấy mùa gió bấc trôi
qua nhưng chị Hảo (Hiu hiu gió bấc - Nguyễn Ngọc Tư) vẫn chưa lấy chồng
Chưa nặng lòng với ai, chưa lấy ai là bởi chị còn thương anh Hết, chị còn chờ người ta “thôi buồn khi đưa con chốt qua sông” Yêu anh ngay từ khi thấy anh khóc mà bên ngoài vẫn giả đò làm lơ khi người yêu đi lấy chồng, chị Hảo đã nghiệm ngay rằng, “con người này nghĩa biết trọng mà tình cũng thâm” Thế đấy, với những người phụ nữ của Nguyễn Ngọc Tư, hạnh phúc là khi lấy được một người đàn ông nặng tình nặng nghĩa, không phải một sớm một
Trang 37chiều mà quên ngay, bỏ ngay người xưa được Có một chút chạnh lòng khi người ta chưa nguôi quên tình xưa, nhưng để được trái tim người đàn ông ấy, với họ, “có chờ bao lâu cũng đáng” Họ tìm thấy sự tử tế, sự tin tưởng, sự yêu thương ở người đàn ông như vậy: “Con người ta, nhất là đàn ông, thương ai
mà vì một nỗi gì đó quay lưng lại quên mất tiêu thì đúng là không tử tế, không đáng tin chút nào…” Vì thế mà trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư, chúng ta thấy rất nhiều nhân vật nữ là những người thứ ba, họ sẵn sàng chờ đợi, dù tuổi thanh xuân có qua đi rồi thì họ vẫn đợi, để có được người đàn ông vẹn tình vẹn nghĩa Và họ thèm lắm một hạnh phúc - đơn sơ, giản dị thôi nhưng nhiều khi sao lại quá xa vời - là một mái ấm gia đình mà ở đó, họ được
là một người bình thường “có chồng, sống với nhau trong căn nhà xưa, cũ kĩ Buổi sáng chở mớ rau vườn ra chợ, mua ít thức ăn mang về nấu bữa cơm chiều, chiều phụ chồng mần cỏ rẫy, chạng vạng nhờ chồng từ ngoài đìa vác một mớ bông súng bước vô…và để nghe con trai mình nói với mình những câu chuyện chỉ để dành nói cho má nó nghe thôi…”
Hạnh phúc với Quyên trong truyện ngắn Tình yêu ơi ở đâu? của
Nguyễn Thị Thu Huệ lại là khi cô có được một người đàn ông biết vun vén, chăm lo cho hạnh phúc gia đình Trải qua cái thời sinh viên lãng mạn, bồng bột, nông nổi, luôn “tưởng tượng ra chàng trai yêu nàng thật lịch lãm, văn hoá
và quyến rũ, chàng ta có tiền nhưng không đặt tiền lên tất cả”, Quyên thấy thất vọng khi không thể tìm được cho mình một người đàn ông vừa ý Nhưng khi gặp Bình - một anh bộ đội phục viên cứng cỏi, rất đàn ông, đặc biệt là được chứng kiến những cử chỉ ân cần, trách nhiệm với hai đứa con, với căn nhà nhỏ, Quyên lại thèm một mái ấm gia đình hạnh phúc bên anh: “Căn phòng anh ở nhỏ nhưng gọn gàng, góc học tập của hai đứa trẻ rất ngăn nắp Nhìn căn phòng biết chủ của nó là người cẩn thận, yêu quý cuộc sống gia đình, dù nghèo và đạm bạc…Trông sự tất tả của anh, nàng bỗng trào dâng
Trang 38trong lòng một tình cảm thương yêu mà từ trước tới giờ chưa có với ai Nàng mỉm cười và hình dung một lúc nào đó, người này sẽ là chồng mình Một
người như anh, Quyên có thể gửi gắm cả lòng tin của mình Với Linh (Hình
bóng cuộc đời), hạnh phúc sẽ lại là khi chồng chị bớt lãng mạn, văn vẻ đi mà
thay vào đó là hãy chăm chút cho mái ấm gia đình, quan tâm và san sẻ với chị nhiều hơn nữa nỗi lo lắng thường nhật của một người đàn bà để gia đình được tồn tại - về cái ăn, cái mặc, về thuốc thang những khi con bị ốm Còn My
(Thiếu phụ chưa chồng) lại quan sát anh rể “Từ cách chăm con đến cách chiều
vợ, ở anh toát lên vẻ lịch lãm mà trong đời My chưa từng gặp ai như thế Anh xách nước cho chị Hảo tắm, lấy những cái khăn bông rất đẹp cho chị lau chân Anh dọn mâm cơm cho mẹ, lấy nước sôi tráng từng cái cốc, cái bát” và thầm
ao ước có được người chồng như thế
Trong tình yêu họ say sưa với hạnh phúc “Tôi yêu anh như một tình
yêu đầu tiên thánh thiện và trong sáng vô cùng” (Biển ấm), “Anh là tất cả của cuộc đời tôi”; “Ôi! Tôi yêu cuộc sống, yêu đêm nay và yêu anh quá” (Còn lại
một vầng trăng) Tình yêu đã làm tâm hồn họ trong sáng, lãng mạn, đắm say
Và họ mạnh mẽ đi theo tiếng gọi của tình yêu, đến với người yêu mặc dù bị
bố mẹ ngăn cản: “Tôi quyết tâm đi bằng được Tôi đã thắng” (Biển ấm), họ
chủ động giành lấy tình yêu: “Trong tình yêu phải giành lấy như chơi bạc ấy”
(Cát đợi), khao khát yêu đương đến mức: “Thời buổi hiện đại người ta có thể
tỏ tình ngay trong tiệm phở” (Minu xinh đẹp) Có thể nói trong tình yêu, với
khát vọng tình yêu, tâm hồn người phụ nữ biểu lộ thật đẹp cả những bồng bột say đắm, những lo âu, kì vọng, sự cả tin, ảo vọng, sự mạnh mẽ táo bạo Tất cả đều trong sáng, tự nhiên trân thành, sâu lắng Ngay cả những người phụ nữ đã
có gia đình mà rơi vào trụy lạc ái tình vẫn yêu tha thiết vẫn kì vọng khôn nguôi Ở họ, sự từng trải không cứu được cho sự khờ khạo, ngây thơ của trái tim đàn bà; dẫu đã nếm những đắng cay của tình yêu mà vẫn còn cả tin trong
Trang 39sự nhẹ dạ của trái tim rất đàn bà Căn nguyên của những lầm lạc cũng bởi khát khao về tình yêu và hạnh phúc ở người phụ nữ là thiết tha, cháy bỏng Không chỉ dừng ở rung động đầu đời, phụ nữ trong tình yêu còn bộc lộ khao khát yêu đương thành thực, họ mạnh dạn biểu lộ mình trong tình yêu, cả những ham muốn về thể xác, những ước mơ tâm lý đầy tế nhị: “Người con gái đến tuổi dậy thì có những đụng chạm đầu tiên với một người đàn ông,
thường bị xúc động ghê gớm và không bao giờ quên” (Biển ấm), “Anh chồm
người lên tôi Tôi im lặng và chờ đợi Người tôi run lên vì anh gần gũi tôi quá”, “Tôi tự động nằm xuống cát Tôi cần anh, đã tìm thấy anh và cần dâng
hiến cho anh” (Cát đợi) “Tình yêu đầu tiên, những va chạm đầu tiên luôn làm
tôi run rẩy, hồi hộp Anh gần tôi khuôn mặt thân yêu như chính máu thịt của
là để anh được vui và yêu em” (Một chiều mưa), có thể tôn vinh: “anh là tất
cả cuộc đời em” (Còn lại một vầng trăng) Không chỉ có những người con gái
tuổi mới lớn âu yếm dịu dàng, rạo rực yêu thương, ngay cả những người phụ
nữ đã từng trải vẫn chăm chút, ân cần, si mê, say đắm với người yêu Mại trong truyện ngắn cùng tên chăm sóc Hưng như một đứa trẻ “Hưng uống ước đi! Mại nâng đầu Hưng dậy, kề li nước chạm vào môi Hưng” Còn Thủy trong
Mi-nu xinh đẹp thì chăm chút cho người tình: “Dưới đĩa phở xào là những
miếng thịt gà trắng nõn với ít lá chanh mỏng tang như sợi chỉ” Thậm chí cái
ý nghĩ tự ảo của đứa trẻ ngây thơ cũng vì người yêu “sao anh ấy khổ thế nhỉ? Ước gì mình có thể chia sẻ cho anh ấy”, “mình thương anh ấy thế không biết”
(Hậu thiên đường) Trong tác phẩm của Thu Huệ nhân vật mải miết kiếm tìm
Trang 40hạnh phúc nhưng cũng có lúc giàu tính mẫn cảm trước con người Trước cuộc đời Như nhân vật Mại trong truyện cùng tên “bỗng xót thương cô bé con đang quằn quại vì ghen tuông kia”, “Cô chỉ muốn ôm cả người Hưng và cô bé
kia vào lòng” Đặc biệt truyện Biển ấm đem lại cho người đọc cảm giác dịu
dàng, “ấm áp và êm ái một phần bởi tình người trong truyện Ngoài cách đối
xử cao thượng của người đàn ông với cô gái tâm hồn ngân thơ, trong sáng, sự mẫn cảm của cô cũng tạo nên “chất thơ” cho truyện ngắn này: “Tôi yêu cuộc sống, yêu tất cả những gì xung quanh tôi Những người đàn bà lầm lụi Những người đàn ông đen sạm vì gió biển” Nhân vật tôi thương, xót xa trước cả những con chim bị bắt nhốt trong lồng Sự mẫn cảm của người con gái như trở thành bản năng, làm thành sự tinh tế nhạy cảm của tâm hồn Có thể gọi đó
là một phần của “thiên tính nữ”
Ám ảnh trong văn Nguyễn Thị Thu Huệ là những cuộc săn tìm hạnh phúc Chị đã nhìn thấy những biểu hiện khát vọng khôn nguôi về tình yêu và hạnh phúc trong trái tim người phụ nữ Phụ nữ luôn kỳ vọng về tình yêu bởi đối với họ là sự sống, là cứu cánh bởi vậy họ mạnh dạn biểu lộ mình trong tình yêu dám sống thành thực với con người tự nhiên của mình, tha thiết, mạnh mẽ chủ động trong tình yêu mặc dù trong cuộc sống của họ đầy những bộn bề và phức tạp người phụ nữ vẫn tha thiết yêu và mong ước gắn bó
2.1.2.2 Người phụ nữ với bi kịch về tình yêu, hôn nhân gia đình
Bi kịch là một loại hình thẩm mỹ có ý nghĩa triết lý sâu xa Từ điển tiếng Việt có lý giải: “Bi kịch có nội dung phản ánh cuộc xung đột gay gắt giữa nhân vật chính diện với hiện thực, có kết cục bi thảm” [35; tr.82] Arixtôt
trong Nghệ thuật thi ca, khi so sánh bi kịch và hài kịch đã cho rằng: Bi kịch
khác với hài kịch và nó có một kết thúc không vui Nhân vật bi kịch là con người ở trên mức bình thường về địa vị và tính cách, phải chịu một sự thay đổi vận mệnh Họ là những con người dám đấu tranh chống lại vận mệnh,