1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Cảnh nghèo và thế thái nhân tình trong thơ văn nguyễn công trứ

60 2K 2

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 60
Dung lượng 223 KB

Nội dung

những công trình nghiên cứu về con ngời, cuộc đời cũng nh thơ văn của ông,khẳng định vị trí quan trọng của thi nhân trên thi đàn dân tộc.Luận văn:"Cảnh nghèo và thế thái nhân tình trong

Trang 1

Khoá luận tốt nghiệp

là một trong những tác gia tiêu biểu nhất Cuộc đời của ông có nhiều biến

động, văn nghiệp có nhiều giá trị độc đáo Những năm qua đã có không ít

Trang 2

những công trình nghiên cứu về con ngời, cuộc đời cũng nh thơ văn của ông,khẳng định vị trí quan trọng của thi nhân trên thi đàn dân tộc.

Luận văn:"Cảnh nghèo và thế thái nhân tình trong thơ văn NguyễnCông Trứ"chỉ là bớc tập dợt của việc nghiên cứu khoa học trong đó chúng tôixin phép đợc trình bày những hiểu biết của mình về một mảng đề tài trong nộidung thơ văn của một tác gia văn học lớn Do đó, sẽ không tránh khỏi nhữngthiếu sót nên rất mong đợc sự góp ý của các thầy cô và các bạn đồng nghiệp

Trong quá trình tiến hành làm luận văn tôi đã đợc sự giúp đỡ chỉ bảocủa các thầy cô giáo trong bộ môn Văn học trung đại cũng nh sự hớng dẫntrực tiếp nhiệt tình của cô giáo Thạch Kim Hơng Nhân dịp này tôi xin đợcbày tỏ lòng biết ơn đối với sự giúp đỡ quý báu đó và gửi lời cảm ơn chânthành đến cô giáo hớng dẫn Thạch Kim Hơng đã giúp đỡ tôi hoàn thành côngtrình này

nhân tình trong văn học trung đại Việt Nam 11

Ch ơng 2

Cảnh nghèo và thế thái nhân tình trong thơ văn Nguyễn Công Trứ 23

Trang 3

1.3 Sự khẳng định mình của một cốt cách thanh cao trớc sóng

gió cuộc đời

50

Trang 4

A Phần mở đầu

1.Lý do chọn đề tài:

Nguyễn Công Trứ là tác gia có vị trí quan trọng trong văn học Việt Namgiai đoạn nửa cuối thế kể XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX Khác với những tác giatiêu biểu khác Nguyễn Công Trứ không có văn tập, thi tập để lại Tơng truyền

ông làm rất nhiều bài thơ, chúng ta mới chỉ su tầm đợc trên dới 150 bài Cuộc

đời ông có nhiều thăng trầm, con ngời ông có nhiều nét độc đáo ít gặp tronghàng ngũ tri thức thời phong kiến Đặc biệt ông đã sống một quãng đời nghèokhổ trong rất nhiều năm và có một sự nghiệp làm quan đầy biến động Nghiêncứu về cảnh nghèo và thế thái nhân tình trong thơ văn Nguyễn Công Trứ trớchết là để hiểu hơn về cuộc đời của ông

Những tài liệu nghiên cứu về cuộc đời con ngời và sự nghiệp thơ văncủa Nguyễn Công Trứ từ trớc đến nay hầu hết đều nói đến cái "ngông", cái

"ngất ngởng" của ông thể hiện trong ba chủ đề chính trong thơ văn ông, đó là:Chí nam nhi, triết lý cầu nhàn hởng lạc, cảnh nghèo và thế thái nhân tình Chínam nhi gắn với lý tởng của kẻ làm trai - của ngời quân tử trong xã hội phongkiến, triết lý cầu nhàn hởng lạc - với Nguyễn Công Trứ - là cái mà con ngời

đáng đợc hởng khi đã hoàn thành sự nghiệp công danh Điều đó cho thấy sựkhác ngời, sự độc đáo của con ngời Nguyễn Công Trứ Cho nên việc tìm hiểuthêm về cảnh nghèo và thế thái nhân tình trong thơ văn Nguyễn Công Trứ là

để thấy rằng ông còn là con ngời đã có cuộc sống đời thờng rất gần gũi vớinhân dân

Đối với những ngời trí thức của mọi thời đại, cảnh nghèo và thế tháinhân tình gần nh là một vấn đề chung Đặc biệt là đối với những ai đã từngtrải qua thì đều có những cảm nhận và thái độ nhất định của riêng mình Tìmhiểu về cảnh nghèo và thế thái nhân tình trong thơ văn Nguyễn Công Trứ là đểthấy nét độc đáo khác biệt trong cách cảm nhận cũng nh cách thể hiện của

ông Đồng thời qua đó cũng rút ra đợc những điểm tơng đồng của NguyễnCông Trứ với một số tác giả khác trong việc thể hiện nội dung này

Hơn nữa, những sáng tác của Nguyễn Công Trứ hầu hết đều bằng chữNôm, trong khi giai đoạn mà những sáng tác ấy ra đời trên thi đàn văn học n-

ớc ta, chữ Hán - với u thế có sẵn từ trớc - đang giữ một vị trí quan trọng trongcác sáng tác của các tác gia khác Do vậy việc nghiên cứu về thơ văn NguyễnCông Trứ dù chỉ ở một mảng đề tài nhng cũng để thấy đợc để khẳng địnhthêm những đóng góp của ông cho nền văn học sáng tác bằng chữ Nôm,khẳng định thêm vị trí của chữ Nôm trong nền văn học nớc nhà

Trang 5

Sự nghiệp sáng tác thơ văn của một tác gia lớn nh Nguyễn Công Trứluôn là một thế giới phong phú, hấp dẫn và đã có nhiều công trình nghiên cứu

về thế giới ấy Mặc dù vậy, đó vẫn còn là một ẩn số đối với nhiều sinh viên

nh chúng tôi Và đây là cơ hội, là thử thách để chúng tôi tìm hiểu thêm về mộttác giả đã để lại những dấu ấn khó quên trong hàng ngàn con tim yêu mến vănhọc

Tìm hiểu về cảnh nghèo và thế thái nhân tình trong thơ văn NguyễnCông Trứ, chúng tôi không có tham vọng gì lớn mà chỉ mong muốn góp đợctiếng nói nhỏ trong những tiếng nói lớn để hiểu thêm về thơ văn Nguyễn CôngTrứ cũng nh cuộc đời và con ngời của ông

2 Lịch sử vấn đề.

Nguyễn Công Trứ đợc xem là một trong những tác gia lớn của nền vănhọc Việt Nam trung đại Từ trớc đến nay đã có khá nhiều những công trìnhnghiên cứu về con ngời, cuộc đời và thơ văn Nguyễn Công Trứ Hầu hết trongcác bài viết, các công trình ấy, những ý kiến của các tác giả đều rất chú trọng

và xoay quanh cuộc đời làm quan của Nguyễn Công Trứ với việc thực hiện

"chí nam nhi" và "triết lý cầu nhàn hởng lạc" gắn với cá tính độc đáo và hành

vi "ngất ngởng" trong con ngời ông Đó là những nét nổi bật dễ thấy nhất ởNguyễn Công Trứ Nói đến Nguyễn Công Trứ nhớ đến Nguyễn Công Trứ lànói đến, nhớ đến một con ngời mạnh mẽ với chí làm trai và sự kiên trì miệtmài theo đuổi nghiệp thi cử, thực hiện giấc mộng công danh để "trả nợ đời"cùng với thú hành lạc và những hành vi "ngất ngởng" bất cần đời của ông.Những đặc điểm ấy của con ngời Nguyễn Công Trứ thể hiện rất rõ trongnhững sáng tác của ông Các nhà nghiên cứu đã khá chú trọng về những vấn

đề này Bên cạnh đó những sáng tác về "cảnh nghèo và thế thái nhân tình"cũng đã đợc đề cập đến Nhìn chung, trong các công trình nghiên cứu củamình, mỗi tác giả đều đã ít nhiều có những nhận định về vấn đề này khi tìmhiểu con ngời, cuộc đời, thơ văn của ông nhng cha thực sự có công trình nàonghiên cứu về "cảnh nghèo và thế thái nhân tình" trong thơ văn Nguyễn CôngTrứ nh một vấn đề chuyên biệt Sau đây, chúng tôi xin điểm qua một số ý kiến

mà các tác giả đã đề cập đến trong các công trình nghiên cứu của mình

2.1: Cuốn "thơ văn Nguyễn Công Trứ" do các tác giả Lê Thớc, HoàngNgọc Phách, Trơng Chính giới thiệu, hiệu đính, chú thích, xuất bản năm 1958

đợc xem là tài liệu đáng tin cậy về Nguyễn Công Trứ từ trớc đến nay Trongcông trình này các tác giả đề cập đến một vài nét sơ lợc về tình cảnh khó khăn

và một số quan niệm của Nguyễn Công Trứ về thế thái nhân tình, còn lại chủyếu là nhấn mạnh đến chí nam nhi và sự cầu nhàn hởng lạc Cảnh nghèo vàthế thái nhân tình đợc nói đến trong mục III - T tởng của Nguyễn Công Trứ

Trang 6

trong thơ văn và mục IV - Tính chất hiện thực trong thơ văn Nguyễn Công Trữvới danh từ "buổi hàn vi" và đợc nhìn nhận dới "tính chất hiện thực" Các tácgiả cũng đã khẳng định rằng: "Những bài thơ nói về thế thái nhân tình rấtnhiều trong toàn bộ thơ văn Nguyễn Công Trứ" và cho rằng: "Chính cái hiệnthực xã hội và nền chính trị thối nát dới triều Nguyễn đã làm cho một ngời lạcquan nh ông trở thành yếm thế và làm cho một ngời vốn đã sẵn ngang tàng trởthành ngất ngởng" Nh vậy, "cảnh nghèo và thế thái nhân tình" trong thơ vănNguyễn Công Trứ đã đợc các tác giả đề cập đến tuy còn rất sơ lợc và nhằmmục đích làm nổi bật, rõ hơn con ngời của ông.

2.2: Trong công trình "Hợp tuyển thơ văn Việt Nam" (thế kỷ XVIII nửa đầu XIX) tập III, nhà xuất bản văn học năm 1978 các tác giả cũng nêu ýkiến cho Nguyễn Công Trứ "là cái vạch nối giữa thời kỳ Nguyễn sơ và thời kỳsuy đồi cùng cực tiếp theo đó, tin tởng ở chế độ, có lý tởng về cuộc sống củamột ngời "nam nhi" thời phong kiến thịnh vợng ông đã bắt đầu chán cái thếthái nhân tình trong xã hội thợng lu và chỉ trích nó" Trong phần nghiên cứuriêng về Nguyễn Công Trứ, tác giả cũng chỉ viết "Nguyễn Công Trứ - ngờilàng Uy Viễn, Huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh đậu giải nguyên năm 41 tuổi,làm quan suốt triều Minh Mệnh và Thiệu Trị, về hu năm 70 tuổi" Nh vậy,quãng đời nghèo khổ của Nguyễn Công Trứ đã không đợc nhắc đến và trong

-số 21 bài thơ đợc trích dẫn cũng chỉ có 5 bài về cảnh nghèo và thế thái nhântình

2.3: Cuốn "Lịch sử văn học Việt Nam" từ thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế

kỷ XIX do nhóm tác giả Lê Trí Viễn, Phan Côn, Đặng Thanh Lê - Phạm VănLuận - Lê Hoài Nam biên soạn xuất bản năm 1978 đã dành hẳn một chơng đểviết về Nguyễn Công Trứ Trong phần viết về cuộc đời Nguyễn Công Trứ cáctác giả nói đến cảnh nghèo rất khái quát: "Lúc nhỏ Nguyễn Công Trứ sốngtrong cảnh túng thiếu nhng vẫn giữ nếp phong lu của kẻ con nhà" Cũng trongcông trình này, những bài thơ về thế thái nhân tình của Nguyễn Công Trứ đợcnhìn nhận, bình giá để minh hoạ cho ý khái quát về "tính chất hiện thực" nóichung trong một số sáng tác của Nguyễn Công Trứ Hơn nữa, đây là một côngtrình có tính tổng hợp nên khó có thể trình bày sâu sắc trọn vẹn về một vấn đề.Cho nên nội dung về cảnh nghèo và thế thái nhân tình trong thơ văn NguyễnCông Trứ mới chỉ dừng lại ở những nhận định sơ lợc

2.4: ở một công trình khác, cuốn "Văn học Việt Nam" (nửa cuối thế kỷXVIII - hết XIX) do nhà xuất bản giáo dục tái bản lần III năm 1999 tác giảNguyễn Lộc cũng đã dành hẳn chơng X trình bày những nghiên cứu vềNguyễn Công Trứ Ngoài việc đa ra những ý kiến của bản thân về nội dungcuộc sống nghèo khổ và thế thái nhân tình trong thơ văn Nguyễn Công Trứ,

Trang 7

tác giả đã nhấn mạnh sự ảnh hởng của Nho giáo trong t tởng của NguyễnCông Trứ biểu hiện trong sáng tác: "Thơ văn Nguyễn Công Trứ ghi lại tìnhcảnh nghèo khổ của bản thân ông, cũng nh của những nho sỹ đơng thời".

"Những bài thơ về "thế thái nhân tình" phản ánh sự nhận thức có tính chấtkhách quan hơn của Nguyễn Công Trứ về xã hội Và nhận thức càng kháchquan bao nhiêu, Nguyễn Công Trứ càng thấy chán ngán bấy nhiêu" Tác giảcho rằng đó là "cơ sở tâm lý để hình thành triết lý cầu nhàn hởng lạc trong thơvăn Nguyễn Công Trứ" Những ý kiến ấy của tác giả Nguyễn Lộc không phải

là không có căn cứ Tuy nhiên nội dung mà chúng tôi nghiên cứu trong đề tàinày: cảnh nghèo và thế thái nhân tình trong thơ văn Nguyễn Công Trứ cũngcha đợc tác giả đi sâu nghiên cứu cụ thể

2.5: Cũng nh công trình trên, trong cuốn "Văn học Việt Nam nửa cuốithế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX" của nhóm tác giả Đặng Thanh Lê - Hoàng HữuYên - Phạm Luận cũng chia nội dung trong sáng tác của Nguyễn Công Trứtheo ba chủ đề là "chí nam nhi", "triết lý cầu nhàn hởng lạc", "cuộc sốngnghèo khổi và thế thái nhân tình" Các tác giả đã quan tâm đến quãng đờinghèo khổ của Nguyễn Công Trứ, những biểu hiện về cảnh nghèo và thế tháinhân tình trong thơ văn ông và xếp những bài thơ này vào "chùm thơ văn hiệnthực" cùng với những bài thơ Nguyễn Công Trứ "viết về bớc đờng làm quan

đầy sóng gió của mình"

2.6: Có thể kể thêm một công trình khác là cuốn "Nguyễn Công Trứthơ và đời" của Chu Trọng Huyến xuất bản năm 1996 của nhà xuất bản vănhọc, ở đây tác giả cũng đề cập đến những bài thơ về cảnh nghèo và thế tháinhân tình với một số câu, đoạn trích dẫn để minh hoạ cho cuộc đời của ôngbởi đây là tác phẩm tái hiện lại cuộc đời Nguyễn Công Trứ dới hình thứctruyện kể

2.7: Bộ sách mở rộng và nâng cao kiến thức văn học do Nhà xuất bảnGiáo dục phát hành năm 1997 có cuốn nghiên cứu chung về 3 tác giả PhạmThái, Cao Bá Quát và Nguyễn Công Trứ trong đó tác giả Vũ Dơng Quỹ cũng

đã nêu những nét về nội dung nghệ thuật trong thơ văn Nguyễn Công Trứ Tácgiả cũng nhìn nhận 3 nội dung chính đó là: "Bài ca về một lẽ sống hăm hở,tích cực thực hiện chí nam nhi, lý tởng anh hùng", là "những khúc hát của nhànho tài tử, ca ngợi thú nhàn tản khẳng định phong cách sống ngất ngởng, thịtài, đa tình, an nhiên" và "Lời than thở về cuộc đời nghèo tùng và thế tháinhân tình đảo điên" Tác giả khẳng định: "Bên cạnh những dòng thơ văn mang

âm hởng ngợi ca hào hùng, ông viết khá nhiều tác phẩm có nội dung than thở

và phê phán xã hội mạnh mẽ", "giọng thơ, cảm hứng của nhà thơ sống ở đầu

Trang 8

thế ký XIX gay gắt hơn, giận dữ hơn khi nói đến thế thái nhân tình" "Bởi vìlúc này chế độ phong kiến đã thực sự suy tàn".

2.8: Cũng cùng mục đích nhằm nâng cao kiến thức tác giả Vũ TiếnQuỳnh cũng đã tập hợp, tuyển chọn, trích dẫn một số bài nghiên cứu về vănhọc trong cuốn "Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Cao Bá Nhạ" khai thác một

số nét trong cuộc đời và thơ văn của các tác gia này Nhng tựu trung lại,những công trình nghiên cứu này chỉ nhằm nâng cao thêm những hiểu biết vănhọc cho học sinh nên không có điều kiện đi sâu tìm hiểu một biểu hiện cụ thểtrong sáng tác của một tác giả cụ thể

2.9: Ngoài ra có rất nhiều bài viết về Nguyễn Công Trứ của đông đảonhững nhà nghiên cứu và bạn đọc đợc đăng trên một số tạp chí và các côngtrình nghiên cứu khác

Cuốn "Nguyễn Công Trứ con ngời, cuộc đời và thơ" nhà xuất bản HàNội 1995 đã tập trung khá đầy đủ các bài viết, các ý kiến của các nhà nghiêncứu, phê bình trong nớc về Nguyễn Công Trứ, lu ý những cống hiến củaNguyễn Công Trứ thời làm quan, nhất là trong việc tổ chức khẩn hoang, đồngthời chú ý phân tích tính độc đáo trong nhân cách của ông Về nội dung cũng

nh những biểu hiện của "cảnh nghèo và thế thái nhân tình" trong sáng tác củaNguyễn Công Trứ tuy có đợc đề cập đến nhng cũng rất sơ lợc Chỉ có một số ýkiến nh trong bài "vài suy nghĩ về t tởng Nguyễn Công Trứ" tác giả Đặng DuyBáu cho rằng: "Thơ Nguyễn Công Trứ gắn với đời, gắn với dân, thơ ông mỉamai châm chọc đối với thói đời đen bạc thời bấy giờ mà nay thấy vẫn cònnhiều tâm đắc" Đáng chú ý là những ý kiến của Trơng Chính trong bài

"phong cách Nguyễn Công Trứ" Trong bài này tác giả đã đề cập đến nhiềunét trong thơ văn mà cuộc đời Nguyễn Công Trứ, nhấn mạnh đến phong cáchbình dân trong thơ ông và khẳng định "từ 20 - 42 tuổi Nguyễn Công Trứ làmột vị hàn nho nghèo khổ sống gần bình dân, nói đúng hơn là trong hàng ngũbình dân Hoàn cảnh ấy tạo nên phong cách ấy" và "thơ ông gắn liền với cuộc

đời ông Ông làm nhiều hơn những bài thơ triết lý nói về thế thái nhân tình,thói đời đen bạc, mạt sát bọn ngời ích kỷ hại ngời, đâm thùng tháo đáy"

Còn lại những bài viết khác trong công trình nói trên đều đề cập, tìmhiểu những nét khác nhau trong cuộc đời Nguyễn Công Trứ nhng cha có ýkiến nào thật sự lu ý một cách chuyên biệt về cảnh nghèo và thế thái nhântình trong thơ văn Nguyễn Công Trứ cũng nh tìm hiểu thật sự xác đáng vềquãng đời nghèo khổ của ông

Nhìn chung những công trình nghiên cứu trên đều có những nét tơng

đồng nhất định khi đa ra những nhận xét về Nguyễn Công Trứ, đều nói đếncảnh nghèo cũng nh thái độ đối với thế thái nhân tình của ông Đặc biệt có

Trang 9

một số công trình đã nhấn mạnh đến sự nhận thức cũng nh thái độ của ông đốivới vai trò, vị thế của đồng tiền.

Tóm lại, những ý kiến mà chúng tôi tập hợp trên đây có thể cha đầy đủnhng cũng cho thấy những ý kiến ấy nhìn chung cha đi vào nghiên cứu mộtcách rõ ràng, cụ thể, có quy mô, có hệ thống một cách sâu rộng về nội dung

"cảnh nghèo và thế thái nhân tình" trong thơ văn Nguyễn Công Trứ Nhng dùsao các công trình đó cũng là một phần cơ sở, là những ý kiến quý báu, tạotiền đề giúp chúng tôi đi sâu tìm hiểu một cách toàn diện, trực tiếp và có hệthống hơn về vấn đề này

3 Phạm vi và đối t ợng nghiên cứu :

3.1: Phạm vi nghiên cứu:

Hiện nay chúng ta mới chỉ su tầm đợc khoảng 150 trong số hơn 1000tác phẩm của Nguyễn Công Trứ Phần lớn trong số các tác phẩm này biểu hiệnhai chủ đề: "Chí nam nhi" và "triết lý cầu nhàn hởng lạc" ở công trình nàychúng tôi chỉ nghiên cứu những sáng tác về "cảnh nghèo và thế thái nhân tình"

để tập trung làm nổi bật rõ nội dung phản ánh và nghệ thuật biểu hiện của đềtài này trong thơ văn Nguyễn Công Trứ

Những tác gia văn học trung đại hầu hết đều gắn với những giai thoại

Đó là những câu chuyện kể ngắn gọn về những tình tiết có thực hoặc đợc thêudệt của những nhân vật đợc nhiều ngời biết đến, Nguyễn Công Trứ với cá tính

độc đáo và cuộc đời đầy biến động của mình cũng đã trở thành một nhân vậttrong khá nhiều những giai thoại thú vị Để làm phong phú hơn cho luận vănchúng tôi xin đợc bổ sung nghiên cứu thêm những giai thoại có liên quan đếnvấn đề trong công trình này

Bên cạnh những nội dung, chủ đề, đề tài xuyên suốt trong văn học trung

đại nh: Thiên nhiên, tình yêu quê hơng đất nớc thì "cảnh nghèo và thế tháinhân tình" cũng là một mảng đề tài xuất hiện khá phổ biến trong sáng tác củacác tác gia tiêu biểu nh Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến,

Tú Xơng trong công trình này chúng tôi sẽ trích dẫn một số sáng tác củacác tác gia đó để nhằm làm sáng rõ hơn vấn đề đang nghiên cứu

3.2: Đối tợng nghiên cứu:

Thơ văn Nguyễn Công Trứ đợc su tầm, tập hợp một cách tơng đối chínhxác và đáng tin cậy nhất là cuốn "thơ văn Nguyễn Công Trứ" do nhóm tác tácgiả Lê Thớc, Hoàng Ngọc Phách, Trơng Chính giới thiệu, hiệu đính, chú thíchnhà xuất bản văn hoá Hà Nội in năm 1958 Đây là công trình su tập về thơ vănNguyễn Công Trứ mà chúng tôi lấy làm đối tợng nghiên cứu

4 Ph ơng pháp nghiên cứu :

- Phơng pháp phân tích

Trang 10

Một hiện tợng phổ biến trong văn học trung đại Việt Nam là những

đề tài, chủ đề, cảm hứng lớn thờng xuất hiện trong nhiều giai đoạn cũng

nh trong những sáng tác của các tác gia văn học Cùng một hiện thực kháchquan, các nhà văn, nhà thơ đều có những cách cảm nhận, nhìn nhận, đánhgiá của riêng mình về hiện tợng đó Những sự cảm nhận này có thể giốngnhau hoặc khác nhau, hoặc chỉ tơng đồng ở một vài điểm nào đó nhng nó

đã tạo nên một mạch cảm hứng, một đề tài xuyên suốt, một chủ đề chungtrong cả một thời kỳ văn học Chẳng hạn ta đã từng biết đến hai nguồn cảmhứng chủ đạo trong văn học trung đại là cảm hứng yêu n ớc và cảm hứngnhân đạo Trong xu thế chung ấy, "cảnh nghèo và thế thái nhân tình" khôngphải là một ngoại lệ bởi đây là hiện tợng khá phổ biến trong mọi thời đại.Chính vì vậy mà nó cũng luôn đợc quan tâm, nhìn nhận, đánh giá ở đâychúng tôi không có tham vọng sẽ có đủ khả năng thống kê hết mọi biểuhiện của đề tài này trong văn học trung đại mà chỉ xin điểm qua vài nét cơbản của nó trong những sáng tác của các tác giả tiêu biểu có vai trò quyết

định đối với từng giai đoạn văn học Qua đó để thấy một điều rằng "cảnhnghèo và thế thái nhân tình" cũng là một đề tài quen thuộc và xuất hiệnnhiều trong văn học trung đại, đồng thời cũng để khẳng định những sángtác về đề tài này của Nguyễn Công Trứ là nằm trong mạch nguồn chung ấy

1: Cảnh nghèo :

Trang 11

Thực ra mảng đề tài này đợc phản ánh rõ hơn, nhiều hơn trong loạihình văn học dân gian nói về cuộc sống của nhân dân lao động Ta có thểtìm thấy những biểu hiện của nó trong kho tàng ca dao, dân ca, truyện cổ Riêng với các sáng tác của những nho sỹ trí thức phong kiến thì đề tài lại cónhững nét khác biệt dới cái nhìn của mỗi tác giả và có một sự phát triển,biến chuyển trong cách cảm nhận và thể hiện theo thời gian, thời kỳ lịch sử.

Cảnh nghèo, theo cảm nhận của các nho sĩ, trớc hết đó là cảnh sốngthanh bần giản dị nơi miền quê yên tĩnh vắng vẻ khi họ ở ẩn chờ thời cơ ragiúp đời giúp nớc hoặc lui về chốn thôn quê sau thời gian lăn lộn giữa chốnquan trờng Có thể thấy điều đó qua một số sáng tác của Nguyễn Trãi hayNguyễn Bỉnh Khiêm

Chẳng hạn: Cảnh sống giản dị của Nguyễn Trãi khi ông về ở ẩn tạiCôn Sơn an bần lạc đạo:

"Bản tính chẳng hề quên đạm bạc"

(Thơ chữ Nôm - bài 49)

" Bàn cờ cuộc rợu vầy hoa trúc

Bó củi cần câu trốn nớc non"

(Thơ chữ Nôm)

Ông thấy đợc cảnh sống nghèo khổ của nhân dân xung quanh mình

và cho rằng là ngời trị nớc muốn đợc lòng dân thì phải thông cảm với nổikhổ và nguyện vọng chính đáng của dân:

"Cơ tích đa niên t huệ dỡngThân ngâm hà nhật chuyển âu caThiên nh tảo vị sinh dân kế

Ưng tịch nghiêm ngng tác thái hoà"

(Nhiều năm bị gầy đói, trông nhờ vào sự nuôi dỡng ân cần

Trang 12

Đến ngày nào từ rên xiết trở thành ca hátNếu trời sớm vì dân mà toan tính

Thì hãy trừ bỏ sự tàn khốc ghê sợ mà dấy lên khí thái hoà)

(Cảm hứng - thơ chữ Hán)

Dù sao đó cũng là những cảm nhận về cảnh nghèo của những con ng

-ời có "tấm lòng tiên u đến già cha thôi" (Nguyễn Bỉnh Khiêm) và "tấm lòng

đêm ngày cuồn cuộn nớc triều dâng" (Nguyễn Trãi) luôn vì dân vì nớc Vìthế "cảnh nghèo" trong sáng tác của họ là những cảm nhận về cuộc sốngcủa ngời dân lao động gần gũi xung quanh mà ít nói đến bản thân mình

Cho đến những thế kỷ sau, khi chế độ phong kiến đã bắt đầu suy vi,bắt đầu bớc vào giai đoạn thoái trào của nó thì cũng có biết bao sự đảo lộntrật tự cơng thờng xẩy ra Những biến động lớn của lịch sử liên tục diễn ra,xã hội rối ren Trớc hoàn cảnh khó khăn ấy cuộc sống của những nho sỹtrí thức phong kiến ngày càng bấp bênh hơn Họ thực sự phải đối mặt vớicảnh nghèo và vì thế mà cảnh nghèo đợc phản ánh trong các sáng tác của

họ chân thực và sâu sắc hơn Từ cảnh ngộ của bản thân và việc chứng kiếncuộc sống lao khổ của ngời dân đã làm bật lên những tiếng lòng đồng cảm

ở họ

Với nhà đại thi hào dân tộc Nguyễn Du, cuộc sống vất vả, cơ cực của

"mời năm gió bụi" hẳn đã in dấu rất sâu đậm trong ông Nguyễn Du nói rấtnhiều đến cảnh nghèo túng, thiếu thốn, cơ cực của bản thân trong thơ chữHán: "Mới chớm rét đã cảm thấy nổi khổ không áo" (Đêm thu) "Bếp núcsuốt ngày không khỏi lửa" (Tạp ngâm),"Tóc bạc còn loay hoay vì cơm áo"(Ngồi đêm), "Trăm năm thân thế giữa phong trần Hết ăn nhờ ở miền đônglại ở miền bể; ba tháng xuân bệnh liên miên, nghèo không thuốc, cuộc phùsinh 30 năm vẫn vì có thân mà phải lo" (Khởi hứng lan man I) Nhữngcảnh đời cơ cực ấy của bản thân, "chính những thiếu thốn ấy đã đ a Nguyễn

Du về với quần chúng Nguyễn Du học đợc những bài hát cùng tiếng nóicủa quần chúng, Nguyễn Du thông cảm với những đau xót của quần chúng"

4

"Thôn ca sơ học tang ma ngữ

Dã khốc thời văn chiến phạt thanh"

(Trong tiếng hát nơi thôn xóm, ta bắt đầu học đợc những câu chuyện

về trồng dâu trồng gai

Trang 13

Trong tiếng khóc nơi đồng ruộng ta nghe có tiếng dội của chiếntranh).

Và cũng chính vì trải qua những lăn lộn của đời thờng, mời năm gióbụi nên dù là một ông quan với gia đình có truyền thống làm quan nh ngNguyễn Du đã biết vợt qua ranh giới đó để bắc nhịp cầu nối yêu thơng đếnvới những con ngời nghèo khổ

"Hà xứ thôn xa hánTơng kha lục lục đồng"

(Anh đẩy xe kia ở đâu ta nhỉNhìn nhau thấy vất vả nh nhau)

(Hà Nam đạo trung khốc thử)

Từ cảnh sống nghèo khổ cơ cực mà bản thân trải qua để đi đến sự đồngcảm với bao cảnh đời khác, tấm lòng của Nguyễn Du thật đáng trân trọng.Cảnh nghèo đợc phản ánh trong thơ ông cũng vì thế mà trở nên sâu sắc hơn

Và càng về sau, cảnh nghèo đợc các tác gia văn học - những nho sỹ tríthức trong thời đại phong kiến cảm nhận và phản ánh ngày một đầy đủ vàchân thực hơn Chẳng hạn với Nguyễn Khuyến, cảnh nghèo là sự đói khổ vìmất mùa:

"Năm nay cày cấy vẫn chân thuaChiêm mất đằng chiêm mùa mất mùa"

(Chốn quê)của nhân dân nơi vùng quê ông sống Bởi ngay chính Nguyễn Khuyến cũngphải nếm trải sự thiếu thốn:

"Sớm tra da muối cho qua bữaChợ búa trầu cau chằng dám mua"

(Chốn quê)Rồi đến Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ, Tú Xơng thì cảnh nghèo đ-

ợc nói đến rất nhiều trong sáng tác của họ Họ bày tỏ cạnh ngộ của bản thânmình một cách chân thực, không dấu diếm Ta hãy xem cảnh hàn vi của chàngnho sỹ tài hoa Cao Bá Quát

" Lều nho nhỏ kéo tấm tranh lớt thớt, ngày thê lơng nặng giọt ma sa"

Đèn cỏn con có chiếc chiếc lôi thôi, đêm tịch mịch soi vầng trăng tỏ

áo Trọng Do bạc thếch, giải xuân thu cho đợm sắc cầu lao

Trang 14

Cơm Phiếu Mẫu hầm sì, đòi tuế nguyệt phải ngậm ngùi tân khổ"

(Tài tử đa cùng phú)

Và cho đến Tú Xơng thì cảnh nghèo thực sự trở thành một nỗi ám ảnhlớn đối với tầng lớp nho sỹ Các nho sỹ thời trớc dù bần hàn đến đâu cũng thểhiện cốt cách thanh tao nho nhã trong cuộc sống đạm bạc Tú Xơng lại khác:

Ông vẽ về gia cảnh bần hàn không dấu diếm bởi với chính ông cái nghèo đã làmột trong những nguyên nhân dẫn đến bi kịch trong cuộc đời ông

Cái sự nghèo đã hành hạ Tú Xơng về tinh thần cũng nh vật chất:

"Van nợ lắm khi trào nớc mắtChạy ăn từng bữa toát mồ hôi"

Cảnh nghèo với Tú Xơng là cái tội, cái tội cơ cực nhất:

"Chẳng tội gì hơn cái tội nghèo"

Bởi ông thấm thía lắm cái cảnh:

"Hỏi vợ vợ còn đi chạy gạo"

và:

"Một tuồng rách rới con nh bố

Ba chữ nghêu ngao vợ chán chồng"

"Cảnh nghèo" qua những sáng tác của Tú Xơng làm ta thấy xót xa,

th-ơng cảm Ông đã nói đến hoàn cảnh của riêng cá nhân nhng ta có thể hìnhdung ra cả một tình cảnh chung của giới trí thức nho sỹ thời ấy

Nh vậy là trong văn học trung đại Việt Nam, "cảnh nghèo" đợc cảmnhận, thể hiện với một sự phát triển biến đổi qua từng giai đoạn lịch sử Quanniệm, cách đánh giá qua từng thời kỳ tuy có khác nhau nhng có sự thống nhấthợp lô gíc và hoàn cảnh Qua đó ta thấy đợc rằng "cảnh nghèo" cũng là một

đề tài trong văn học, là vấn đề của trí thức mọi thời đại và đến Nguyễn CôngTrứ nó đợc gọi tên là một nội dung trong thơ văn của ông

2 Thế thái nhân tình.

Trong xã hội phong kiến, bất cứ một nho sỹ trí thức nào cũng đều sốngkiên trì con đờng công danh Nhng khi đã bớc chân vào chốn quan trờng họmới nhận ra và đối mặt với bao sự phức tạp của thói đời, của cách đối xử củangời đời Có lẽ vì thế mà những cảm nhận của họ về "thế thái nhân tình" cónhiều nét chung, tơng đồng nhau và cũng đều rất sâu sắc

Trớc hết phải kể đến Nguyễn Trãi - cả cuộc đời vì dân vì nớc, đến lúcthanh bình thì ngời anh hùng phải ôm hận Bọn gian thần xiểm nịnh dèm phahiềm khích muốn chiếm đoạt quyền vị nên đã gây ra bao nỗi đau buồn cho

ông Nguyễn Trãi bày tỏ niềm bi phẫn của mình trong thơ:

" ở thế nhiều phen thấy khóc cời"

Trang 15

"Càng một ngày càng ngặt đến xơng

ắt và số mệnh ắt văn chơng"

Buồn trớc thế sự đen bạc đổi thay Nguyễn Trãi ngậm ngùi một triết lý:

"Ngoài chng mọi chốn đều thông hếtBui một lòng ngời cực hiểm thay"

"Miệng thế nhọn hơn chông mác nhọnLòng ngời quanh nửa nớc non quanh"

Ông cũng thấy lòng dạ con ngời thật khó lờng:

"Dễ hay ruột bể sâu cạnKhôn biết lòng ngời ngắn hay dài"

Và rồi khi hiểu hết đợc bản chất cửa xã hội, nhận thức ra sự thật màmình đang phải đối mặt Nguyễn Trãi đã chọn cách giữ cho mình một thái độ

6 Bùi Duy Tân: "Nguyễn Bình Khiêm và tấm lòng tiên u đến già cha thôi".

"Giàu sang ngời trọng khó ai nhìnMấy dạ yêu vì kẻ nhỡ nhàng"

Thớt có tanh tao ruồi đậu đếnAng không mật mỡ kiến bò chiThế nay những trọng ngời nhiều củaRằng đến tay không ai kẻ vì "

(Thơ chữ Nôm: Bài 58)

Ông thấy đợc sự đối lập: giàu sang thì nhiều kẻ nể vì, nghèo hèn thìchẳng ai đoái tới Nguyễn Bỉnh Khiêm thốt ra những lời mỉa mai, chua chát:

Trang 16

"Thủa khó dẫu chào, chào cũng lảngKhi giàu chẳng hỏi, hỏi thời quen"

(Thơ chữ Nôm: bài 5)

"Đời nay nhân nghĩa tựa vàng mời

Có của thời hơn hết mọi lờiTrớc đến tay không nào thốt hỏiSau vào gánh nặng lại vui cờiAnh anh, chú chú mừng hơ hảiRợu rợu, chè chè thết tả tơiNgời, của, lấy cân ta thử nhắcMới hay rằng của nặng hơn ngời"

(Thơ chữ Nôm: bài 86)Ngay cả cách nhìn nhận về ngời, về đời ông cũng bày tỏ không che dấu:

"Miệng ngời tựa mật mùi càng ngọt

Đạo thánh bằng tơ mối hãy dài"

(Thơ chữ Nôm: bài 86)

"Vuốt mặt còn chừa qua mũi nọRút dây lại nể động rừng chăng"

(Thơ chữ Nôm: bài 96)hay

"Cáo mợn oai hùm mà nát chúngRuồi nơng đuôi ký luống khoe ngời)

(Thơ chữ Nôm: Bài 99)

Có thể nói Nguyễn Bĩnh Khiêm đã nhận thức khá sâu sắc và đã lên ánmạnh mẽ thói đời đen bạc Đó cũng là một cách thể hiện thái độ đối với thếthái nhân tình của một nho sỹ có hoài bão, đạo lý chân chính theo hớng trungtinh liêm khiết Đây thực sự là một điều đáng quý

Rồi khi xã hội lâm vào cảnh rối ren, khi trật tự cơng thờng bị đảo lộn thìlúc đó con ngời ta càng nhận chân ra bộ mặt thực của thế thái nhân tình xungquanh mình Thi hào Nguyễn Du cũng đã nhận ra bộ mặt thực của các thế lựcthống trị bạo tàn trong thời đại mà ông sống và ông đã lớn tiếng tố cáo tội áccủa bọn bất nhân Những câu thơ đanh thép nh những làn roi quất vào mặt bọnthống trị:

"Kim nhân bất thiểu thực đa nhụcCơ linh gia dỡng vô di súc

Thanh bình thì tiết vô chiến tranhNhất khẩu hùng đàm bất sổ Liêm Pha dữ Lý Mục"

Trang 17

(Ngời đời nay không ít ngời cũng ăn nhiều thịtCơ hồ khiến cho trong nhà không sót một con gia súcThời buổi thái bình không có chiến tranh

Mở miệng nói mạnh chẳng kể Liêm Pha, Lý Mục vào đâu cả)

(Liêm Pha bi)Bằng cách miêu tả thói phàm ăn tục uống, tác giả đã vạch tội bọnchúng: những kẻ nắm quyền sinh sát ăn trên ngồi trông cớp của hại dân Vàcũng để phản ánh thế thái nhân tình bạc bẽo đang diễn ra trong cái xã hội này

đến mức nào Nguyễn Du quay về quá khứ so sánh với thời đại Khuất Nguyên:

"Cận thời mỗi hiếu vi kỳ nhục

Sở bội tiêu lan cánh bất đồng"

(Gần đây ngời ta thờng thích ăn mặc lạNhng hoa tiêu hoa lan họ đeo khác với ông lắm)

(Tơng đàm điếu Tam L đại phu)Ngày nay đã khác với ngày xa rồi Giờ đây họ phàn ăn tục uống hơnchứ không thanh cao nh trớc nữa Xót xa, đau đớn trớc cảnh đó tác giả kêu gọimọi ngời phải cảnh giác bởi đâu đâu trong cuộc đời cũng là sông Mịch La,

đâu đâu cũng là hùm sói:

"Tảo liễm tinh thần phản thái cựcThân vật tác phân linh nhân xi

Đại địa xứ xứ giai Mịch La

Ng long bất thực sài hổ thựcHồn hề! Hồn hề! Nại hồn hà!"

(Hãy sớm thu tinh thần về với thái h

Đừng trở lại đây mà ngời ta mai mỉa

Đời sau ai cũng là thợng quanMặt đất đâu đâu cũng là sông Mịch LaCá rồng không ăn hùm sói cũng ănHồn ơi, hồn ơi! Biết làm thế nào?)

(Phản chiêu hồn)

Và để tồn tại đợc trong xã hội mà thế thái nhân tình đang đảo điên đókhông phải là một điều đơn giản " Nguyễn Du thờng than thở về nỗi ở trongxã hội (phong kiến) khóc cời cũng không đợc tự do: "Danh lợi doanh trờng luỹtiếu tần": trên đờng danh lợi một tiếng cời hay cái nhăm mặt có khi cũngkhông đợc tự do" 4 Chính "danh lợi" cũng là một trong những nguyên nhânkhiến cho tác giả "bạc tóc" sớm:

"Vạn lý lợi danh khu bạch phát"

Trang 18

(Vì lợi danh khiến cho tóc bạc trên con đờng muôn dặm)

(Từ khâu đạo trung)

"H danh vị phóng bạch đầu nhân"

(Cái h danh cha tha cho ngời đầu bạc)

Có thể nói, đến Nguyễn Du "thế thái nhân tình" lại đợc phản ánh mộtcách sâu sắc hơn dới con mắt nhìn thấu sáu cõi của một nho sỹ đã từng trảiqua bao vất vả gian nan giữa cuộc đời

Với những nhà nho đã từng thành danh trên con đờng sự nghiệp, đếnkhi trở về với cuộc sống đời thờng, ngoài vòng danh lợi thì họ lại càng nhậnthức rõ hơn về thế thái nhân tình đã và đang diễn ra xung quanh Tam nguyênYên Đỗ Nguyễn Khuyến cũng đã từng chua chát "Tạ lại ngời cho hoa trà"vào dịp tết - một loài hoa hữu sắc vô hơng khi mà bản thân mắt đã kém vì tuổigià:

"Tết đến ngời cho một chậu trà

Đang say ta chẳng biết là hoa

Đếch thấy hơi thơm một tiếng khà!"

4Xuân Diệu -"Con ngời Nguyễn Du trong thơ chữ Hán"

Và ông cũng đau đớn nhận ra con ngời sống vì tiền, từ chuyện trongquá khứ:

"Có tiền việc ấy mà xong nhỉ

Đời trớc làm quan cũng thế a?"

(Kiều bán mình)

đến chuyện hiện tại:

"Cậy sức cây đu nhiều chị nhúnTham tiền cột mỡ lắm anh leo"

(Hội Tây)Bản chất của xã hội và của không ít những con ngời sống trong xã hội

ấy là nh vậy: tất cả chạy theo đồng tiền, chạy theo danh vọng đánh mất đạo lý

Trang 19

nhân phẩm Nhận thức rõ điều đó nhng không tìm ra cách thay đổi cũng làmột điều ám ảnh đối với những nho sỹ có lơng tâm.

Tóm lại, với những nét hết sức sơ lợc nh vậy chúng ta có thể thấy rằng:

"Cảnh nghèo và thế thái nhân tình" đã là một mảng đề tài xuất hiện trong khánhiều các sáng tác của những tác gia tiêu biểu trong văn học trung đại ViệtNam Nó mang những nét phong cách riêng của từng tác giả bởi mỗi ngời đều

có những cách cảm nhận và thể hiện riêng Đối với Nguyễn Công Trứ nhữngcảm nhận của ông đối với "cảnh nghèo và thế thái nhân tình" mang phongcách của một con ngời có bản lĩnh vững vàng, cá tính mạnh mẽ, độc đáo màchúng ta sẽ tiếp tục tìm hiểu

Trang 20

Ch ơng 2

Cảnh nghèo và thế thái nhân tình trong thơ văn Nguyễn Công Trứ

1 Nội dung phản ánh.

1.1: Cảnh nghèo trong thơ văn Nguyễn Công Trứ

"Hơn nửa đời ngời Nguyễn Công Trứ sống trong cảnh nghèo ở thôn quê.Hai mơi tám năm làm quan là chừng ấy năm ba chìm bảy nổi lúc lên voi, lúcxuống chó! Những cảnh đời ấy để lại những dấu ấn sâu sắc trong thơ văn ông" 8

.Quả vậy, viết về cảnh nghèo trớc hết Nguyễn Công Trứ bày tỏ cảnh nghèo củachính bản thân và gia đình mình Từ bé Nguyễn Công Trứ đã sống trong cảnhnghèo khổ: cha ông vốn là một viên tri phủ, sau việc chống Tây Sơn không thành

đã từ quan đa gia đình về quê mở lớp dạy học sống cuộc sống đạm bạc giữa nhữngngời nông dân ở vùng quê vốn có tiếng là nghèo khó - đất Hà Tĩnh Cho nên, hơn

ai hết Nguyễn Công Trứ thấm thía cảnh nghèo "Thơ văn ông viết về đề tài này rấtthực, rất giản dị, dễ đi vào lòng ngời" 8 Ttong số gần 150 tác phẩm của NguyễnCông Trứ mà chúng ta su tầm đợc từ trớc đến nay, chủ đề về cảnh nghèo đợc tácgiả thể hiện trong hầu hết các thể loại: Về thơ Nôm Đờng luật có đến hơn 10 bàitrong đó một số bài tác giả gọi hẳn tên nh: Vịnh cảnh nghèo, Than cảnh nghèo,Phận anh nghèo Về câu đối, có cả câu đối bằng chữ Hán và chữ Nôm nói đêncảnh nghèo Đặc biệt là bài phú duy nhất mà chúng ta su tầm đợc của ông: "Hànnho phong vị phú" - bài phú về phong vị cảnh nghèo của nhà nho đợc coi là bàiphú đặc sắc bậc nhất trong văn học trung đại cũng với đề tài về cảnh nghèo

Có thể khẳng định rằng: ít có một vị quan nào lại phải nếm trải cảnh hàn vinhiều và lâu dài nh Nguyễn Công Trứ Thấm thía nỗi khổ do cảnh nghèo gây ra chonên trong những sáng tác về cảnh nghèo của Nguyễn Công Trứ ta thấy rất rõ nhữnglời than thở về nỗi khổ của ngời nghèo: nỗi khổ về tinh thần và nghèo về vật chất

1.1.1: Nỗi khổ về vật chất:

Nói đến cái nghèo trớc hết là nói đến nỗi khổ vì sự thiếu thốn vật chất.Nỗi khổ ấy luôn luôn thờng trực, đeo đẳng, ám ảnh tất cả mọi ngời, nhất là vớinhững ngời đang phải chịu đựng nó thì lại càng khủng khiếp Nguyễn CôngTrứ đã lột tả nỗi khổ ấy - nỗi khổ của sự thiếu thốn: đói cơm, rách áo, nợ nầnchồng chất của một cuộc sống cùng quẫn trong bài "Hàn nho phong vị phú"(Bài phú về phong vị cảnh nghèo của nhà nho):

"Kìa ai: bốn vách tờng mo, ba gian nhà cỏ

Đầu kèo mọt tạc vẽ sao, trớc cửa nhện giăng màn gió

Trang 21

Phên trúc ngăn nửa bếp nửa buồngống nứa đựng đầu kê đầu đỗ

Đầu giờng tre mối giũi quanh coGóc tờng đất, trùn lên lố nhốBóng nắng giọi trứng gà bên vách, thằng bé tri trô

Hạt ma xoi hang chuột trong nhà, con mèo ngấp ngóTrong củi, lợn nằm gặm máng, đói chẳng muốn kêu

Đầu giàn, chuột lóc khua niêu, buồn thôi lại bỏ"

Cả một bức tranh về cảnh nghèo của vị hàn nho hiện ra trớc mắt ta Sựsơ sài nhếch nhác hiện lên trong mỗi sự vật: tờng bằng mo, phên che nứa, máinhà lợp cỏ, giờng bằng tre nền nhà đất; Cùng với sự nát hỏng tàn tạ: "Đầu kèomọt tạc trớc cửa nhện giăng" "nền nhà mối giũi, góc nhà giun đùn" Cảnh t-ợng ấy gợi cho ta hình dung ra một nơi hoang tàn, sự sống dờng nh không thểtồn tại ở đó.Nhng ở đây vẫn là một căn nhà có cuộc sống, cái hơi cuộc sống đ-

ợc đặc tả qua hình ảnh ánh nắng dọi vào vách nhà thủng thành những lỗ introng nh quả trứng gà khiến "thằng bé tri trô" và "hạt ma xoi hang chuột"khiến "con mèo ngấp ngó"

Bức tranh hiện thực cảnh nghèo còn đợc khắc sâu thêm qua việc tả dáng

vẻ những con vật: Con lợn gặm máng "đói chẳng muốn kêu", lũ chuột ăn vụngkhông đợc chút gì "lại bỏ" - Tác giả bộc lộ nỗi xót xa thấm thía của lòng ngời:cái nghèo, cái đói đã khiến con vật mệt mỏi uể oải (đối chẳng muốn kêu) - vàngất ngơ vật vờ (buồn thôi lại bỏ)

Cho đến những sinh hoạt thờng ngày trong cảnh cùng khổ: ăn không no

"ngày ba bữa vỗ bụng rau bịch bịch", uống nớc không trà "ấm chè góp lá bànglá gối pha mùi chát chát chua chua", ăn trầu không cau "têm vỏ mận vỏ dà".Rồi những vật dụng của bản thân: một tấm áo thô dùng để "bốn mùa thay đổibấy nhiêu" lạnh làm mềm để đắp, nực làm gối kê, một tấm khăn "trải làmchiếu, vận lầm quần" Có thể nói nhà nho của chúng ta sống trong cảnh thiếuthốn gần nh đến mức cùng cực

Nổi khổ về sự túng thiếu vật chất còn đợc diễn tả qua sự ít ỏi của nhữngthực phẩm để duy trì cuộc sống: lúa chỉ vừa "một giờng" còn khoai cũng chỉ

"vừa một giỏ" Sự ăn tiêu cũng không rộng rãi vì tiền chỉ "ba cọc ba đồng" thuhoạch mùa màng chỉ có "một triêng một bó" Nhà đông con, đến bữa ăn cha

có cơm thì kêu khóc "dờng ong", nghèo nên mắc nợ đến kỳ cha trả bị chủ nợtới đòi "kêu nh ó"

Trang 22

Sự thiếu thốn vì cảnh nghèo ấy trong ngày thờng đã khiến cho ta thấyxót xa nhng đến những ngày tết thì lại càng xót xa tội nghiệp hơn:

"Bánh chng chất chật chừng ba chiếcRợu thuốc ngâm đầy độ nửa siêu"

(Tết nhà nghèo)Cái ít ỏi, đơn sơ của nhà nghèo đón tết đợc đặc tả qua những hình ảnh

đặc trng của ngày tết: bánh chng: ba chiếc, rợu thuốc: nửa siêu đúng phong

vị cái tết của nhà nghèo

Ta biết Nguyễn Công Trứ là những có cá tính độc đáo Cuộc đời ônggắn với khá nhiều những giai thoại thú vị Ngời ta kể trong cảnh nghèo thời

"bạch diện th sinh" ông thờng tham gia giải trí với các thú chơi ở thôn quê,một trong số đó là thú tổ tôm Có lần Nguyễn Công Trứ bị thua, biết chủ nợ sẽ

đến nhà đòi nên ông đã làm một bài thơ khất nợ độc đáo và đã thành công Dùrằng đây chỉ là một câu chuyện vui nhng qua đó ta cũng thấy đợc phần nào giacảnh nghèo túng của Nguyễn Công Trứ trong buổi "hàn vi":

"Thân bát văn tôi đã xác vờTrong nhà còn biết bán chi giờ"

(Khất nợ tổ tôm)Cảnh nghèo túng cứ đeo đẳng, ám ảnh ông mãi suốt cuộc đời Cho đếnnhững lúc đã về già ông cũng nh còn thấy cảnh nghèo đeo đuổi:

"Mây về ngàn Hống đen nh mựcGió lọt rèm tha lạnh tựa đồng"

(Vịnh mùa đông)Cảnh rét mớt mùa đông nh đợc nhân lên, hình ảnh "gió lọt rèm tha lạnhtựa đồng" gợi tả cái lạnh đối với một anh hàn nho "bốn vách tờng mo, ba giannhà cỏ" (Hàn nho phong vị phú) Là nho sỹ lại sống trong cảnh nghèo khóthiếu thốn vào mùa đông vì thế cái rét, cái lạnh của gió bấc nh càng đợc nhânlên đã lạnh lại càng thêm lạnh:"lạnh tựa đồng"

Thật ra sự nghèo túng, cảnh nghèo khó, nhất là phải chịu đựng nỗi khổvì sự thiếu thốn vật chất ấy không phải chỉ riêng mình Nguyễn Công Trứ cảmthấy mà đó là cảnh chung của một tầng lớp ngời Thời đại mà Nguyễn CôngTrứ sống có rất nhiều sự đổi thay: triều đình phong kiến đã sắp đến hồi kếtthúc vai trò của nó trong lịch sử, bọn thống trị cầm quyền thì sống xa hoa, rasức bóc lột nhân dân lao động còn những ngời nông dân phải sống cực khổtrong cảnh su cao thuế nặng, mùa màng thất thu Những nho sỹ nh Nguyễn

Trang 23

Công Trứ cũng lao đao trong "nợ công danh" Hơn nữa với riêng NguyễnCông Trứ lại có hoàn cảnh khá đặc biệt Cha ông vốn là quan tri phủ, đã xớngnghĩa chống lại khi quân đội Tây Sơn ra Bắc Cuộc khởi nghĩa thất bại, vịquan này đã từ chức, đa cả gia đình về quê mở lớp dạy học, sống một cuộcsống đạm bạc giữa những ngời dân quê trên mảnh đất nghèo Hà Tĩnh Lúc nàyNguyễn Công Trứ mới mời tuổi Cho nên có thể nói rằng ông đã sống gần gũivới những ngời dân lao động từ nhỏ, phải sống trong cảnh nghèo khổ một thờigian dài (hơn 40 tuổi ông mới thi đậu và làm quan) Vì vậy, lời than thở vềcuộc sống nghèo nàn vật chất thiếu thốn không chỉ là tiếng lòng của riêng mộtmình ông mà còn là tiếng nói xót xa đồng cảm với biết bao ngời nghèo khổ.

Vả lại, không chỉ có một mình Nguyễn Công Trứ nói về cảnh nghèo củanhững vị hàn nho Ta đã biết đến Cao Bá Quát một nho sĩ cùng thời NguyễnCông Trứ cũng nói đến cảnh nghèo nàn thanh bạch của những nho lớp dới.Cảnh nghèo mà Cao Bá Quát diễn tả cũng hết sức xót xa:

"Lều nho nhỏ kéo tấm tranh lớt thớt ngày thê lơng nặng giọt ma sa

Đèn cỏn con chiếc chiếc lôi thôi, đêm tịch mịch soi vầng trăng tỏ

áo Trọng Do bạc thếch giải xuân thu cho đợm sắc cần lao

Cơm phiếu mẫu hầm sì, đòi tuế nguyệt phải ngậm ngùi tân khổ"

(Tài tử đa cùng phú)Hoặc sau này Nguyễn Khuyến - một trong những nhà nho cuối cùngcủa thế ký XIX cũng than thở về cảnh nghèo Cảnh nghèo đợc diễn tả cónhững nét đồng điệu khi nói đến sự thiếu thốn vật chất

"Năm nay cày cấy vẫn chân thuaChiêm mất đằng chiêm mùa mất mùa Sớm tra da muối cho qua bữaChợ búa trầu cau chẳng dám mua "

(Chốn quê)

Đó là những cảm nhận về cảnh nghèo của một vị quan lui về ở ẩn giữachốn thôn quê Dù sao, cảnh nghèo mà Nguyễn Khuyến chứng kiến và nếmtrải là sau khi ông đã thành đạt Còn với Nguyễn Công Trứ vừa phải chịu đựngcảnh nghèo khó lại vừa liên tục gặp thất vọng trên con đờng công danh: Ôngliên tục hỏng thi cho mãi đến năm hơn 40 tuổi Có một vị nho sỹ cũng cùngchung cảnh ngộ ấy nh Nguyễn Công Trứ nhng là ở thời gian sau đó là Tú X-

ơng Tú Xơng có lúc đã ghi lại cảnh nghèo túng của gia đình mình một cáchthực thà, chua xót:

Trang 24

"Van nợ lắm khi trào nớc mắtChạy ăn từng bữa toát mồ hôi "

Hay

"Bức sốt nhng mình vẫn áo bôngTởng rằng ốm dậy hoá ra khôngMột tuồng rách rới con nh bố

Ba chữ nghêu ngao vợ chán chồng

(Mùa nực mặc áo bông)

Ta thấy có sự đồng cảm, đồng cảnh của hai nhà nho sống ở hai thế kỷ.Nếu Nguyễn Công Trứ "áo vải thô nặng trịch bốn mùa thay đổi bấy nhiêu"thì Tú Xơng "bức sốt" mà vẫn "áo bông" Sự thiếu thốn về vật chất ấy là cảnhchung của một số không ít những nho sỹ, trí thức sống ở các thời đại

1.1.2: Nổi khổ về tinh thần

Sống trong cảnh nghèo, thiếu thốn cơ cực về vật chất con ngời cũng cóthể chịu đựng đợc nếu nh nó không kéo theo nỗi khổ nhục về tinh thần Nhữngngời nghèo không chỉ phải chịu đựng sự khổ ải vì những thiếu thốn về vật chất

mà còn phải gánh chịu một nỗi đau khổ lớn hơn rất nhiều đó là sự khổ nhục vềtinh thần Nhà nho nghèo Nguyễn Công Trứ cũng không nằm ngoài ngoại lệ

đó "khi còn là một kể hàn sĩ" 3 Nguyễn Công Trứ đã "phải sống trong sựkhinh khi của những kẻ trọc phú quê nhà 3, những kẻ dốt nát nhng lắm tiềnnhiều của

Nỗi khổ về tinh thần mà Nguyễn Công Trứ phải chịu đựng do cảnhnghèo gây ra trớc hết là sự lép vế Vì nghèo đói túng thiếu đủ bề nên phải nhờvả, phải luỵ ngời khác "gặp khi chân sẩy đờng cùng phải tới cửa này của nọ"

Và chính ở đó ông đã phải nếm nỗi nhục vì nghèo Tác giả thực sự cảm thấtnỗi nhục nhã trớc một bọn trọc phú dốt nát vênh vang lúc nào cũng chỉ biếttrọng có đồng tiền:

"Thân thì to to nhỏ nhỏ ta đà mỏi cẳng ngồi chờDần dà nọ nọ kia kia, nó những vuốt râu làm bộ"

Trang 25

"Nói phô nghe cũng giỏi con traiVì nỗi không tiền hoá dỡ ngài"

(Phận anh nghèo)Chính vì sự nghèo hèn, vì "nhà khó" vì "nỗi không tiền" mà hoá ra lẩnthẩn, lại bị lũ ngời có của khinh bỉ, ghét bỏ:

"Đơng cơn khổ nhục lám ngời khinh"

"Thầy tớ sợ men tìm đến cửa, ngảnh mặt cúi đầuChị em e vất lấm vào lng, trìa môi nhọn mỏLáng giềng ít kẻ tới nhà

Thân thích chẳng ai nhìn họ"

(Hàn nho phong vị phú)Bất bình trớc những nỗi khổ nhục mà ngời nghèo phải chịu đựngNguyễn Công Trứ đã bày tỏ một thái độ mạnh mẽ lên án, phủ nhận nạn đóinghèo luôn luôn đè nặng lên cuộc sống của con ngời:

"Chém cha cái khó! Chém cha cái khó!

Khôn khéo mấy ai! Xấu xa một nóLục cực bày ra hàng sáu, rành rành kinh huấn chẳng saiVạn tội lấy làm đầu, ấy ấy ngạn ngôn hẳn có"

(Hàn nho phong vị phú)Nguyễn Công Trứ bực dọc vì trong sáu cái hoạ (lục cực: yểu - chết non,tật - đau ốm, u - lo phiền, bần - nghèo đói, ác - xấu xa, nhợc - tính hèn) thì sự

Trang 26

nghèo đói là đứng đầu Sau này với Tú Xơng cái nghèo cũng là một cái tội, cáitội cơ cực nhất "chẳng tội gì hơn cái tội nghèo Nghèo là cái hoạ, cái - tội Đó

là những cách nhìn nhận giống nhau của những nho sỹ, những ngời trí thứccùng có hoàn cảnh tơng tự nhau, cùng chịu đựng cảnh nghèo và những nỗikhổ nhục vì nó

Nh vậy, cảnh nghèo trong thơ văn Nguyễn Công Trứ trớc hết là lời than

về hiện thực cuộc sống cơ cực về những nổi khổ vật chất và tinh thần do cuộcsống nghèo khổ gây ra Đó cũng là tiếng nói chung của những nho sỹ cùngcảnh ngộ ở bất kỳ thời đại nào

1.1.3: Cách lý giải nguyên nhân gây nên cảnh nghèo

Với Nguyễn Công Trứ, do hoàn cảnh gia đình khá đặc biệt nên ông đãphải sống trong cảnh nghèo túng từ nhỏ Cho đến khi thi đậu làm quan ôngcũng đã hơn 40 tuổi Nguyễn Công Trứ muốn đem cả tài, đức, cả tấm lòngcống hiến cho dân cho nớc nhng xã hội thời bấy giờ đầy ngang trái đảo điên

Ông muốn thành tâm xây dựng cho triều đình hng thịnh thì chính cái triều

đình nhà Nguyễn ấy lại nghi ngờ ông Nguyễn Công Trứ đã mấy lần thănggiáng trong quãng đời làm quan Ông muốn làm quan thanh liêm thì có lầntriều đình bắt tội ông, ông muốn cải cách xã hội thì phần lớn đề nghị bị bác

bỏ Do đó gia đình ông luôn nghèo túng, hàng ngày ông lại phải chứng kiếnbao nhiêu cách trớ truê nghịch lý cứ diễn ra trớc mắt Cảnh nghèo theo đuổi

ông gần nh suốt cuộc đời, nhất là trong buổi hàn vi lúc công cha thành, danhcha toại, lúc gia cảnh vất vả nhất Trớc sự khổ nhục vì cảnh nghèo khó ông đãtìm những nguyên nhân gây nên cảnh ấy tìm cách lý giải cho hoàn cảnh màmình đang chịu đựng

Nguyễn Công Trứ đã cho rằng cảnh nghèo mà mình đang phải sống là

do cái mệnh, cái số, do trời quyết định

"Cùng con cháu thủa nói năng chuyện cũ thờng ngâm câu "lạc đạo vongbần"

Gặp anh em khi bàn bạc sự đời, lại đọc chữ "vi nhân bất phú".Tất do thiên, âu phận ấy là thờng

Hữu kỳ đức, ắt giời kia chẳng phụ"

(Hàn nho phong vị phú)Cũng trong bài "Hàn nho phong vị phú" Nguyễn Công Trứ dẫn ra gơngnhững ngời nghèo trở nên giàu: ông Phó cày ruộng, ông Hồ chăn trâu, chàngKhuông xoi vách, chàng Vũ làm đèn, Hàn Tín câu cá, Trần Bình chia phần,Mãi Thần bán củi, Mông Chính làm thuê mà ngày sau làm nên sự nghiệp,

Trang 27

còn nh Vơng Khải, Thạch Sùng giàu sang tột bậc mà lại phải chết trong cảnhkhốn cùng.

Ông tin vào số mệnh "bởi số chạy đâu cho khỏi số":

"Mới biết: khó bởi tại trời, giàu là cái số"

Có một nhà nghiên cứu đã cho rằng vì Nguyễn Công Trứ "cha thấynguyên nhân của sự nghèo khổ 9 nên "đã đi đến những giải thích sai lệch vềmệnh số" 9.Thực ra Nguyễn Công Trứ đã tìm ra đợc nhiều nguyên nhân khácgây nên cảnh nghèo khổ ấy của mình, chẳng hạn:

"Mỏng lng xem cũng không giàuNhiều miệng lấy chi cho đủ"

(Hàn nho phong vị phú)Sinh sống trên vùng đất nổi tiếng khô cằn sỏi đá xa nay, lập gia đìnhtrong cảnh hàn vi, nhà vốn đã nghèo, công danh thì cha đạt, con lại đông

"nhiều miệng" cảnh nghèo khổ là điều không tránh khỏi Hơn nữa NguyễnCông Trứ còn tự biết bản thân mình vốn có cá tính khác ngời nên chính mìnhcũng là nguyên nhân gây nên cảnh nghèo cho gia đình

"Mang danh tài sắc cho nên nợQuen thói phong lu hoá phải vay"

(Ngời giỏi thờng nghèo)

Một điều đặc biệt, độc đáo, khác ngời của Nguyễn Công Trứ là ông đãtìm ra cách lý giải nguyên nhân gây nên cảnh nghèo của riêng mình Một cách

lý giải đầy lạc quan tin tởng

"Vốn hễ anh hùng mới có nghèo"

(Than cảnh nghèo)Ngời anh hùng thì thờng là nghèo! Cách lý giải ấy mang đúng phongcách của Nguyễn Công Trứ: tự tin, ngông, rất hiểu giá trị của chính mình Ôngcũng cho rằng "ngời giỏi thờng nghèo"

Và rồi ông nhận ra trong xã hội không chỉ có một mình ông phải chịu

đựng cảnh nghèo khó ấy:

"Suy ra mới biết rằng hay dở

Kể trớc nh ta dáng cũng nhiều"

Trang 28

(Than cảnh nghèo)

"Dáng cũng nhiều" - đúng nh vậy Cảnh nghèo mà Nguyễn Công Trứ đãphải chịu đựng ấy cũng là cảnh mà Cao Bá Quát, Tú Xơng và còn biết baonho sỹ - những kẻ trí thức ở thời đại trớc, sau và cùng thời với ông đã phảichịu đựng

Nói tóm lại, những bài thơ về cảnh nghèo của Nguyễn Công Trứ lànhững lời tự bạch rất đời mà cũng rất thơ, đem đến cho ngời đọc sự đồng cảm,thông cảm, xót xa và pha lẫn trong đó một chút vui mà ứa nớc mắt Từ nhữngchiêm nghiệm về cuộc sống của bản thân bật lên những lời tự bạch rất chânthực ấy đã không chỉ là tiếng lòng của riêng một mình Nguyễn Công Trứ mà

nó đã trở thành tiếng nói chung cho tầng lớp nho sỹ và nhân dân lao độngnghèo khổ thời ấy

1.2: Thế thái nhân tình trong thơ văn Nguyễn Công Trứ

"Cuộc đời của Nguyễn Công Trứ nằm giữa hai sự kiện lịch sử quantrọng: Từ khi Nguyễn Nhạc khởi binh (1771) đến tiếng súng xâm lợc của thựcdân Pháp (1858) Khi triều Tây Sơn còn đang thịnh trị thì ông mới là một cậu

bé 10 tuổi Với tuổi ấu thơ ấy, thời thế cha gây ảnh hởng gì lắm Đến lúc ônglớn lên thì Tây Sơn đã bớc vào thế tan rã Hai phần ba cuộc đời ông chứngkiến sự khôi phục chế độ quân chủ của triều Nguyễn và sự xuống dốc khôngthể cỡng lại của chế độ ấy 16 Nh vậy là từ khi nhận thức đợc mọi chuyện, từkhi bớc vào tuổi trẻ cũng là lúc Nguyễn Công Trứ phải trải qua những cuộcbiến thiên dữ dội Ông đã từng phải chứng kiến và nếm trải đủ thứ mùi đời củacảnh bể dâu đó Và chính ông đã phản ánh điều đó trong văn thơ để bày tỏthái độ của mình đối với nhân tình thế thái "Những bài thơ nói về nhân tìnhthế thái rất nhiều trong toàn bộ thơ văn của Nguyễn Công Trứ, và đều cógiọng thấm thía của ngời từng trải 3

ở mảng thơ văn viết về đề tài này nổi bật lên là những lời tố cáo phêphán hiện thực một cách mạnh mẽ, là những lời than về thế thái nhân tình đảo

điên, là một thái độ phê phán đồng tiền Tất cả những nội dung ấy đợc thểhiện trong hơn 20 bài thơ, ca trù, câu đối trong toàn bộ sáng tác còn tìm lại

đợc của Nguyễn Công Trứ

Trang 29

16 Lê Trí Viễn - Lịch sử văn học Việt Nam tập 3.

Nguyễn Công Trứ".

1.2: Thế thái nhân tình trong thơ văn Nguyễn Công Trứ

1.2.1: Nỗi đau trớc sự tráo trở của thế thái nhân tình

Cũng nh một số ý kiến của các nhà nghiên cứu về Nguyễn Công Trứ,chúng tôi nhận thấy một điều rằng: trong mỗi bài thơ về nhân tình thế thái,ngoài những lời đả kích phê phán, thậm chí đôi khi thoá mạ đối với thói đời,lòng ngời đen bạc Nguyễn Công Trứ cũng không tránh khỏi những lúc ngậmngùi trớc tình cảnh ấy Đó không phải là điều phi lô gíc bởi "Nguyễn CôngTrứ là một khối mâu thuẫn lớn"9 nội dung thơ văn của ông "vừa lạc quan tin t-ởng lại vừa bi quan thất vọng" 9 ở đây chúng ta tìm hiểu lời than thở của ôngtrớc thói đời cũng là để xem xét, tìm hiểu thêm một nét biểu hiện trong thái độcủa ông đối với thế thái nhân tình

Chúng ta thấy rằng trớc thói đời đen bạc Nguyễn Công Trứ rất cămgiận, ông buông những lời thoá mạ có phần nặng nề đối với nó.Chẳng hạntrong một câu đối ông viết:

"Đợc thì vơ, thua thì chạy, ghét chứng anh hùng rơm

Ăn lấy thuở, ở lấy thì, coi ngời ta nh rác"

hoặc:

" Đ m nhân tình đã biết rồiNhạt nh nớc ốc, bạc nh vôi"

(Thế tình bạc bẽo)Nhng rồi lúc ông thấy chán ngán thực sự trớc cảnh thực tại trái ngangtráo trở ấy cứ diễn ra trớc mắt Thủa hàn vi, sống trong cảnh nghèo vốn chứngkiến điều đó đã nhiều, đến khi thi đỗ làm quan ông lại phải chứng kiến và nếmtrải nó trong suốt con đờng hoạn lộ của mình Và dù sự phản ứng của ông cómạnh mẽ đến mấy thì cũng không ngăn đợc hiện thực trớ trêu cứ diễn ra trớcmắt Nguyễn Công Trứ đã phải ngậm ngùi thốt lên những lời than đau xót cho

đời và cho chính bản thân ông

Trớc cảnh ngời đời bon chen "khéo khôn ai cũng tranh phần đợc" vàbiết bao cảnh đời đổi thay, Nguyễn Công Trứ tỏ ra bi quan, thất vọng:

Trang 30

"Mặc ai chi để điều ân oánChung cuộc thời chi cũng tại trời"

(Cách ở đời)

Ông thấy lòng ngời thật khó mà đo lờng để đối xử cho thích hợp: "Aihay lặn lội đo mồm cá Mà biết vuông tròn uốn lỡi câu", bởi "lòng ngời mỏngtựa mây", còn miệng thế "khi yêu ghét" cho nên:

"Thôi thôi chẳng nói chi cho lắmVốn hễ ân thâm, oán cũng thâm"

"Vì chữ "thời" nên phải chịu luồnNhững xem nông nổi khéo mà buồnNghỉ mình hay nhịn cho nên dạiThấy kẻ nhiều điều cũng biết khônLúc giận dệt ngay thêu hoá vạyKhi a tô vẽ méo nên tròn"

(Thói đời)Cho đến cả cuộc đời làm quan của ông phải chịu biết bao lần thănggiáng, có khi lên đến tột đỉnh của vinh quang nhng cũng có lúc xuống đến tậncùng của sự cực nhục Đã có lúc Nguyễn Công Trứ tỏ ra hối hận vì đã "nhậpthế cuộc" đã lẫn lộn "chí làm trai" với giấc mộng công hầu, tởng "nợ tangbồng hồ thỉ "là" đánh Tây dẹp Bắc, tởng trung tín với nhà vua là "vì dân vì n-ớc" Trong bài "Tình cảnh làm quan" ông viết:

"Tuổi tác tuy rằng đã mấy mơi

Đổi thay mắt đã thấy ba đời

Ra trờng danh lợi vinh liền nhụcVào cuộc trần ai khóc trớc cờiChuyện cũ trải qua đà chắn mắtViệc sau nghỉ lại chẳng thừa hơi

Đã hay đờng cái thời ra thế

Ngày đăng: 15/12/2015, 13:35

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1.Lại Nguyên Ân (chủ biên), Từ điển văn học Việt Nam từ nguồn gốc đến hết thể kỷ XIX. NXB giáo dục 1997 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từ điển văn học Việt Nam từ nguồn gốc "đến hết thể kỷ XIX
Nhà XB: NXB giáo dục 1997
2. Hà Nh Chi, Việt Nam thi văn giảng luận, NXB Đồng Tháp 1994 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Việt Nam thi văn giảng luận
Nhà XB: NXB Đồng Tháp 1994
3. Trơng Chính, Lê Thớc ... Thơ văn Nguyễn Công Trứ , NXB văn hoá, H, 1958 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thơ văn Nguyễn Công Trứ
Nhà XB: NXB văn hoá
4. Trịnh Bá Đĩnh - Nguyễn Hữu Sơn ... Nguyễn Du về tác gia và tác phẩm. NXB giáo dục 1998 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nguyễn Du về tác gia và tác phẩm
Nhà XB: NXB giáo dục 1998
5. Chu Trọng Huyến, Nguyễn Công Trứ thơ và đời, NXB VH, H, 1996 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nguyễn Công Trứ thơ và đời
Nhà XB: NXB VH
6. Đinh Gia Khánh (chủ biên) Văn học Việt Nam thế kỷ X nửa đầu XVIII. NXB giáo dục 1998 Sách, tạp chí
Tiêu đề: ) Văn học Việt Nam thế kỷ X nửa đầu XVIII
Nhà XB: NXB giáo dục 1998
7. Nguyễn Thị Thuý Lài, Đồng tiền trong Truyện Kiều của Nguyễn Du luận văn tốt nghiệp khoá 1993 - 1007 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đồng tiền trong Truyện Kiều của Nguyễn Du
8. Đặng Thanh Lê, Hoàng Hữu Yên ... Văn học Việt Nam nửa cuối XVIII đầu XIX , NXB giáo dục 1997 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn học Việt Nam nửa cuối XVIII đầu XIX
Nhà XB: NXB giáo dục 1997
9. Nguyễn Lộc, Văn học Việt Nam nửa sau VXIII hết XIX, NXB giáo dôc 1999 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn học Việt Nam nửa sau VXIII hết XIX
Nhà XB: NXB giáo dôc 1999
10. Nhiều tác giả, Nguyễn Công Trứ con ngời cuộc đời và thơ. NXB Hội nhà văn HN 1996 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nguyễn Công Trứ con ngời cuộc đời và thơ
Nhà XB: NXB Hội nhà văn HN 1996
11. Nhiều tác giả, Hợp tuyển thơ văn Việt Nam tập 3 NXB, VH, H 1978. NXB giáo dục 1999 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hợp tuyển thơ văn Việt Nam
Nhà XB: NXB giáo dục 1999
12. Vũ Dơng Quỹ, Phạm Thái, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát. NXB giáo dục 1999 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phạm Thái, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát
Nhà XB: NXB giáo dục 1999
13. Vũ Tiến Quỳnh, Thơ văn Nguyễn Công Trứ, NXB văn nghệ Tp HCM 2000 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thơ văn Nguyễn Công Trứ
Nhà XB: NXB văn nghệ Tp HCM 2000
14. Vũ Tiến Quỳnh, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Cao Bá Nhạ, NXB văn nghệ TP HCM 1997 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Cao Bá Nhạ
Nhà XB: NXB văn nghệ TP HCM 1997
15. Phan Thị Thơm, Hình tợng tác giả trong thơ chữ Hán Nguyễn Du luận văn tốt nghiệp khoá 1997 - 2001 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hình tợng tác giả trong thơ chữ Hán Nguyễn Du
16. Lê Trí Viễn , Phan Côn ... Lịch sử văn học Việt Nam, tập 3 - NXB giáo dục 1978 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lịch sử văn học Việt Nam
Nhà XB: NXB giáo dục 1978

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w