1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Lí tưởng sống của người con trai phong kiến trong thơ văn nguyễn công trứ

64 34 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Lý Tưởng Sống Của Người Con Trai Phong Kiến Trong Thơ Văn Nguyễn Công Trứ
Tác giả Trần Thị Hà
Người hướng dẫn Cô Giáo Thạch Kim Hương
Trường học Vinh
Chuyên ngành Văn học
Thể loại Khoá Luận Tốt Nghiệp
Năm xuất bản 2006
Thành phố Vinh
Định dạng
Số trang 64
Dung lượng 584,55 KB

Cấu trúc

  • Phần I: Mở đầu 3 (3)
    • 1. Lý do chọn đề tài 3 (3)
    • 2. Lịch sử vấn đề 4 (4)
    • 3. Phạm vi và đối t-ợng nghiên cứu 9 (9)
    • 4. Ph-ơng pháp nghiên cứu 10 (10)
    • 5. CÊu tróc luËn v¨n 10 (10)
  • PhÇn II: Néi dung 11 (11)
    • 1.1. Theo quan niệm nho giáo 11 (11)
    • 1.2. Theo quan niệm của một số tác giả tiêu biểu (13)
      • 1.2.1. Phạm Ngũ Lão 13 (0)
      • 1.2.2. Đặng Dung 14 (14)
      • 1.2.3. Nguyễn Trãi 15 (0)
      • 1.2.4. Một số tác giả tiêu biểu khác 18 (18)
    • 2.1. Tích cực hành động - khao khát công danh 22 (22)
      • 2.1.1. Khao khát mộng công danh 23 (23)
      • 2.1.3. Thoả chí tang bồng và l-u danh sử sách 35 (0)
    • 2.2. Say s-a h-ởng lạc - mê đắm yến h-ờng 39 (39)
      • 2.2.1. Say s-a h-ởng lạc 40 (0)
      • 2.2.2. Mê đắm yến h-ờng 53 (53)
    • 2.3. Cơ sở tạo ra quan niệm ở tác giả về lý t-ởng sống của ng-ời con trai phong kiến. 55 (55)
      • 2.3.1. Cơ sở khách quan 56 (56)
      • 2.3.2. Cơ sở chủ quan 58 (58)
  • PhÇn III: KÕt LuËn 61 (61)

Nội dung

Néi dung 11

Theo quan niệm nho giáo 11

Bắt đầu từ thế kỷ X, Việt Nam trở thành một quốc gia độc lập và dưới triều đại nhà Nguyễn, các quân vương đã áp dụng học thuyết Nho giáo của Khổng Tử để cai trị, nhằm xây dựng một nhà nước hòa bình và thịnh vượng Đổng Trọng Thư sau này đã nâng cao học thuyết này thành luật lệ pháp quyền, bắt buộc mọi người trong xã hội phải tuân theo.

Nho giáo đã thiết lập các nguyên tắc sống, nhấn mạnh sự tôn trọng trong mối quan hệ giữa gia đình và xã hội thông qua các mối quan hệ như quân - thần, phụ - tử, phu - thê, huynh - đệ, và bằng - hữu Để trở thành bậc quân tử, con người cần sở hữu những phẩm chất quan trọng như Nhân, lễ, nghĩa, trí, tín Theo Nho giáo, nam nhi phải am hiểu thi thư và học hỏi từ sách thánh hiền, đồng thời cần có chí khí và bản lĩnh vững vàng để phục vụ cho giai cấp thống trị, đặc biệt là trung thành với vua Những người có khát vọng thành công cần chăm chỉ học hành và thi cử để trở thành quan, phục vụ đất nước và dân chúng, sẵn sàng hy sinh vì nghĩa lớn trong những lúc đất nước gặp khó khăn.

Nam nhi cần có chí khí vươn tới những tầm cao, thể hiện bản lĩnh và trách nhiệm với xã hội Trong bối cảnh phong kiến, người con trai phải biết tu dưỡng bản thân, quản lý gia đình, trị vì đất nước và bảo vệ quê hương Khi đất nước gặp nguy hiểm, họ cần nỗ lực xây dựng một quốc gia phú cường, sẵn sàng hy sinh vì vua và đất nước Họ phải tích cực tham gia vào công cuộc xây dựng một chính quyền vững mạnh, với vua sáng và tôi hiền.

Trong suốt mười thế kỷ, đất nước ta đã liên tiếp phải đối mặt với nhiều cuộc chiến tranh xâm lược từ các quốc gia láng giềng, đặc biệt là Trung Hoa Trong bối cảnh lịch sử đầy thách thức này, người con trai phong kiến đã có cơ hội thể hiện những phẩm chất cốt lõi theo tư tưởng Nho giáo Thơ văn của giai đoạn này đã phản ánh rõ nét điều đó.

“Thiếu niên ngẫu thử thỉnh tr-ờng anh.” hay:

“ Đoạt sóc Ch-ơng D-ơng độ Cầm Hồ Hàm Tử quan

Thái bình tu nỗ lực Vạn cổ cựu giang san ”

(Tụng giá hoàn kinh s- - Trần Quang Khải) ( Bến Ch-ơng D-ơng c-ớp giáo giặc

Cửa Hàm Tử bắt quân thù Vì cảnh thái bình nên gắng sức Non n-ớc này vững bền muôn thuở )

Ngoài việc thể hiện tài năng và giúp đỡ cộng đồng, nhiều tác giả Trung Đại còn mong muốn trở về với thiên nhiên sau khi hoàn thành nhiệm vụ của mình Lý tưởng sống này đã có ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng và sáng tác của họ.

Theo quan niệm của một số tác giả tiêu biểu

Phạm Ngũ Lão là một tướng tài ba của nhà Trần, nổi bật trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông với nhiều chiến công lừng lẫy Ông đã đóng góp quan trọng vào việc mở mang biên giới phía Nam, thể hiện tài năng văn võ toàn diện Với tinh thần khoáng đạt và chí lớn, Phạm Ngũ Lão đã khắc họa trong tác phẩm của mình một tầm nhìn vĩ đại và khí thế dũng mãnh.

“ Hoành sóc giang san cáp kỉ thu Tam quân tì hổ khí thôn ng-u ” ( Múa giáo non sông trải mấy thu

Hình ảnh khổng lồ của vị tướng anh hùng bảo vệ tổ quốc nổi bật trên nền giang sơn, sông núi, tạo nên một biểu tượng bất hủ Bức tượng này không chỉ thể hiện lòng dũng cảm mà còn mang tầm vóc vũ trụ, ghi dấu ấn mạnh mẽ trong lòng người dân trong suốt những năm qua.

“ Nam nhi vị liễu công danh trái

Người con trai không chỉ mang trong mình khí thế hiên ngang, anh hùng mà còn có trách nhiệm cao cả trong việc phụng sự đất nước Theo quan niệm xưa, đàn ông sinh ra mang nợ tang bồng, phải lập công báo quốc; chỉ những ai hoàn thành nghĩa vụ này mới xứng đáng với danh hiệu "nam tử".

Phạm Ngũ Lão cảm thấy xấu hổ vì chưa đạt được thành công như những người khác, điều này thể hiện lòng tự trọng của tác giả Đồng thời, nó cũng khẳng định lý tưởng cao đẹp, truyền cảm hứng mạnh mẽ cho các thế hệ thanh niên Việt Nam.

Sau khi cuộc kháng chiến chống quân Minh của vương triều Hồ thất bại, Đặng Dung cùng cha là Đặng Tất đã gia nhập nhà Trần Sau cái chết oan uổng của cha, ông đã tập hợp quân đội từ Thuận Hoá đến Thanh Hoá để đưa Trần Quý Khoáng lên ngôi vua tại Nghệ An Trong các trận chiến chống lại Trương Phụ, Đặng Dung đã thể hiện sự dũng cảm phi thường, nhưng không may đã để mất cơ hội bắt sống đối thủ Cuối cùng, ông bị bắt và bị đưa sang Trung Quốc, nhưng để giữ gìn khí tiết, ông đã nhảy xuống sông tự vẫn Tình cảm yêu nước và chí khí của ông được thể hiện rõ trong bài thơ “Cảm hoài” Đặng Dung đã cống hiến cả cuộc đời mình cho lý tưởng cứu nước, mặc dù vận mệnh nhà Trần đã tàn, cơ đồ đang trong tình trạng khó khăn.

“ Thế sự du du nại lão hà Vô cùng thiên địa nhập hàm ca

Thời lai đồ điếu thành công dị , Vận khí anh hùng ẩm hận đa

Trí chủ hữu hoài phô địa trục, Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà

Quốc thù vị báo đầu tiên bạch,

Kỷ độ long tuyền đáo nguyệt ma.”

( Cảm hoài ) ( Việc đời bối rối tuổi già vay,

Trời đất vô cùng một cuộc say

Bần tiện gặp thời lên cũng dễ,

Anh hùng hết vận gẫm càng cay

Vai mang trục đất mong phò chúa, Giáp gột sông trời khó vạch mây

Thù trả chưa xong, đầu đã bạc, Đặng Dung nhận thấy rằng người sống trong thời kỳ thịnh vượng dễ dàng đạt được công danh, nhưng khi thời thế thay đổi, ngay cả anh hùng cũng phải nuốt hận Ông mong muốn nâng đỡ đất nước đang lâm nguy để báo đáp ơn vua Dù vận mệnh đã qua, nhưng ý chí chiến đấu của ông không bao giờ nhụt Đó chính là khát vọng và ý chí của một người anh hùng, tạo nên sự nghiệp vĩ đại.

Nguyễn Trãi bắt đầu sự nghiệp dưới triều đại nhà Hồ nhưng nhanh chóng bị ảnh hưởng bởi sự xâm lược của nhà Minh Trong thời gian bị giam lỏng tại thành Đông Quan, ông vẫn kiên trì chờ đợi một lãnh tụ mới để cống hiến tài năng Khi Lê Lợi khởi nghĩa, Nguyễn Trãi đã tích cực hỗ trợ và góp phần xây dựng chính quyền dân tộc đối lập với quân xâm lược Ông đã phát triển tư tưởng nhân nghĩa, coi đó là lý tưởng sống, và áp dụng hiệu quả trong cuộc kháng chiến chống quân Minh Tuy nhiên, con đường thực hiện lý tưởng của ông gặp nhiều gian nan; sau khi chính quyền mới được củng cố, ông bị Lê Lợi giam giữ vì lo ngại ảnh hưởng của mình Sau khi được thả, vai trò của ông tại triều đình dần bị lu mờ, khiến ông chán nản và quyết định về ẩn dật Dù ở ẩn, ông vẫn mang trong mình hoài bão “trí quân trạch dân” và luôn lo lắng cho vận mệnh đất nước, không bao giờ nguôi ngoai với lý tưởng của mình.

“ Bui một tấc lòng -u ái củ Đêm ngày cuồn cuộn n-ớc triều đông ”

Nguyễn Trãi gặp Lê Lợi như "Rồng mây gặp hội", tạo điều kiện cho ông thể hiện tài năng trong việc "kinh bang tế thế, làm cho quốc phú dân cường" Suốt cuộc đời, ông chỉ ước mơ xây dựng một triều đại "Nghiêu Thuấn" cho vua và dân Dù phải lùi bước trước sự ghen ghét của thế lực hắc ám, ông vẫn luôn mang trong lòng niềm khát khao phục vụ đất nước.

“ Bui có một lòng chăng nỡ trễ Đạo làm con với đạo làm tôi ”

“ Còn có một lòng âu việc n-ớc Đêm đêm thức nhẫn buổi sơ chung ”

Tấm lòng lo cho dân cho n-ớc của ông không bao giờ thay đổi:

“ Bui có một lòng trung mấy hiếu Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen”

Nguyễn Trãi khẳng định lý tưởng giải phóng dân tộc với ý nghĩa chính trị và xã hội sâu sắc, đồng thời nhấn mạnh lý tưởng đấu tranh cho công lý xã hội Ông chống lại áp bức và hướng tới việc xây dựng một xã hội văn minh, thái bình, nhằm giành quyền sống cho nhân dân.

“ Nghĩa khí tảo không thiên ch-ớng vụ Tráng hoài hô khởi bản phàm phong ”

( Quá hải ) ( Nghĩa khí quét tan mây mù hàng nghìn dãy núi

Tấm lòng hùng tráng của người anh hùng, từ thuở tìm về Lam Sơn, luôn nung nấu ý nguyện “kinh bang tế thế”, thể hiện sâu sắc tinh thần cứu nước, giúp dân.

“ Trừ độc, trừ tham, trừ bạo ng-ợc

Có nhân, có chí, có anh hùng ”

(Bảo kính cảnh giới - bài số 5)

Ông là một người xuất chúng, có ý chí và tài năng, luôn dám thực hiện những việc lớn lao Dù gặp khó khăn hay được sùng ái, ông vẫn giữ vững lòng “Trung quân ái quốc”, không bao giờ từ bỏ lý tưởng của mình Suốt đời, ông tận tụy cho lý tưởng nhân nghĩa, mong mỏi phục vụ nhân dân Tinh thần nhập thế là nền tảng tư tưởng và thơ ca của ông Khi trở về quê hương, ông ngay lập tức nhận lãnh trọng trách mới mà không chút do dự.

Nguyễn Trãi ra làm quan không phải vì mục đích hưởng thụ phú quý, mà là để cống hiến cho đất nước và nhân dân Ông luôn mong muốn được trở về sống an bình sau khi hoàn thành nhiệm vụ Trong bài thơ “Loạn hậu đáo Côn Sơn cảm tác,” ông đã bày tỏ những ước mơ thầm kín này.

Thời gian sống ẩn dật tại Côn Sơn là khoảng thời gian nghỉ ngơi và dưỡng lão của ông, nhưng trong lòng ông vẫn luôn canh cánh nỗi lo cho đất nước Ông chưa bao giờ thực sự có được sự thanh thản như mong muốn, bởi lý tưởng phục vụ quốc gia luôn thôi thúc ông suốt cuộc đời Những câu thơ của ông phản ánh tâm tư ấy: dù sống trong cảnh thanh bình, ông vẫn không thể quên trách nhiệm với dân tộc.

1.2.4 Một số tác giả tiêu biểu khác

Nhà nghiên cứu Nguyễn Lộc cho rằng, theo Nho giáo, quá khứ là điều không thể thay đổi, trong khi sự trong sạch lại nằm ở thiên nhiên Các nhà Nho thường hành động theo bối cảnh: khi đất nước thịnh trị, họ sẽ phục vụ vua và giúp dân, còn khi xã hội loạn lạc, họ sẽ ẩn dật, tìm kiếm sự an lạc trong thiên nhiên Nguyễn Bĩnh Khiêm nhận thức rõ sự biến động của xã hội và quy luật phát triển tuần hoàn Ông tin rằng trong thời kỳ thịnh vượng, những người tài giỏi cần cống hiến cho đất nước, nhưng khi đối mặt với khó khăn, họ nên "Độc thiện kỳ thân", lánh xa những rối ren để chờ đợi sự chuyển mình của thời cuộc.

Nguyễn Bĩnh Khiêm (1491 - 1585) sống trong một thời đại rối ren và loạn lạc, khi chế độ phong kiến đã suy yếu nhưng chưa hoàn toàn sụp đổ Mặc dù xã hội đang trong khủng hoảng, ông vẫn giữ niềm tin mạnh mẽ vào chế độ phong kiến và nhiệt tình bảo vệ nó Ông nhấn mạnh tầm quan trọng của chữ "Nhàn", nhưng đồng thời cũng yêu cầu phải hành động sao cho không gây hại cho trật tự phong kiến và cuộc sống chung của xã hội.

“ Đạo ở mình ta lấy đạo trung Chớ cho đục, chớ cho trong ”

Tích cực hành động - khao khát công danh 22

Nho giáo, trong ba ý thức hệ chi phối xã hội trước đây, được xem là tích cực nhất, hướng con người đến cái chân, cái thiện và cái mỹ Nó đặt ra nhiều vấn đề về luân lý, triết lý, chính trị và học thuật, giúp nam giới thực hiện lý tưởng “tu, tề, trị, bình” nhằm củng cố xã hội phong kiến thịnh vượng, có trật tự và tôn ti Với vua hiền và quan tốt, thần dân sẽ chăm lo sản xuất và phục tùng, từ đó Nho giáo đã đào tạo ra những con người xuất chúng, góp phần vào sự nghiệp vĩ đại của đất nước.

Nho giáo trong quản lý quốc gia nhấn mạnh tầm quan trọng của việc hoạt động theo tinh thần ôn hòa, không khuyến khích đấu tranh vũ trang Mục tiêu chính là tham gia vào chính quyền với vai trò “bề tôi” để thực hiện các giá trị đạo đức.

Nguyễn Công Trứ là một nhà Nho chính thống, sống trong thời kỳ phong kiến phân hoá sâu sắc Hệ tư tưởng Nho giáo không còn đồng nhất, nội bộ trí thức sĩ phu cũng chia thành nhiều xu hướng; một số bảo thủ, một số muốn cải cách để cứu vãn chính quyền, và một số ít tham gia đấu tranh nông dân Ông thuộc nhóm thứ hai, mang lý tưởng “trí quân trạch dân”, với chí khí và tài năng, khao khát cống hiến cho đất nước và lợi ích của nhân dân.

2.1.1 Khao khát mộng công danh

Khát khao xây dựng sự nghiệp là mục tiêu sống của người con trai phong kiến trong thơ văn Nguyễn Công Trứ Từ nhỏ, ông đã xác định hướng đi của mình là học sách thánh hiền và thi cử để thành danh Dù gặp khó khăn như "trái mùa" hay "ế chợ", ông vẫn kiên quyết theo đuổi "nghiệp cũ" và "nghề nhà" để thực hiện ước mơ của mình.

Trong xã hội phong kiến, việc theo đuổi con đường công danh là điều tất yếu để xây dựng sự nghiệp, bất kể thời kỳ thịnh hay suy Nguyễn Công Trứ, từ khi còn trẻ, đã nhận thức rõ điều này và quyết tâm học hành chăm chỉ để trở thành một nhân vật có tiếng tăm, với mong muốn góp phần làm rạng danh tổ tông.

“ Phụng thờ h-ơng khói bấy nhiêu đông Một phút làm nên rạng tổ tông

Trống đánh vang lừng miền ấp lý, Tàn bay giấp giới cỏi tây đông

Làng trên xã d-ới đem đầu lại,

Kẻ ng-ợc ng-ời xuôi ngoảnh mặt trông

Vận hội khi may đen hoa đỏ, Làm trai nh- thế s-ớng hay không.”

(Nhà thờ thất hoả ) Cái mộng công danh này còn đ-ợc bộc lộ trong những câu thơ tổ tôm:

“ Thiên tử nhất văn rồi chẳng thiếu ”

(Khất nợ ) “ T-ởng làm ba chữ mà chơi vậy Bỗng chốc nên quan đã s-ớng ch-a ! ”

Nguyễn Công Trứ luôn mang trong mình tâm lý hy vọng mỗi khi tham gia thi cử, với mong muốn được ghi danh trên "bảng vàng bia đá" và nhận vinh quang từ triều đình Ông tin rằng thành công trong thi cử sẽ mang lại danh vọng và ơn lộc, khẳng định vị thế của một "anh hùng".

Nguyễn Công Trứ có tư tưởng mạnh mẽ về việc thể hiện tài năng và chí khí của mình trong bối cảnh triều đại mới, nơi mở ra nhiều cơ hội Vào năm 1803, khi vua Gia Long thăm Nghệ An, ông đã tận tình đón tiếp và dâng lên nhà vua cuốn điều trần “Thái bình thập sách”, thể hiện khát vọng công danh mãnh liệt Ông xem sự nghiệp là lẽ sống cao nhất của người đàn ông, cho rằng nếu không có danh phận, con người sẽ không có lý do để tồn tại và không thể coi mình hơn cây cỏ.

“ Có trung hiếu nên đứng trong trời đất Không công danh thời nát với cỏ cây ”

“ Đã mang tiếng đứng trong trời đất Phải có danh gì với núi sông ”

Ông nhấn mạnh rằng, để trở thành một con người có giá trị, cần phải xây dựng sự nghiệp vững chắc Danh tiếng gắn liền với bản thân, vì vậy mọi người cần nỗ lực phấn đấu để đạt được những thành tựu đáng tự hào.

“ Nhập thế cục bất khả vô công nghiệp Xuất mẫu hoài tiện thị hữu quân thân

Mà chữ danh liền với chữ thân Thân đã có ắt danh âu phải có ”

Khao khát công danh là điều tự nhiên, nhưng cơ hội để thành danh lại rất mong manh Dù ông say mê học tập với hy vọng đạt được thành công, nhưng thi cử không thuận lợi, ông chỉ có thể trở thành một ông đồ quê sau hai lần thất bại Thế nhưng, sự kiên trì của ông không hề suy giảm, minh chứng cho tinh thần không bỏ cuộc của một thí sinh dù đã trải qua hai lần thất bại.

“ Anh em ơi ! băm sáu tuổi rồi, khắp đông tây nam bắc bốn ph-ơng trời, đâu cũng lừng danh công tử xác

Trời đất nhẽ, một phen này nữa, xếp cung kiếm cầm th- vào một gánh, làm cho nổi tiếng tr-ợng phu kềnh.”

Nguyễn Công Trứ, trong suốt cuộc đời, luôn mang trong mình lý tưởng cháy bỏng về việc “lập danh” và “thành danh” muộn màng trên con đường hoạn lộ Ông không giấu diếm sự sốt ruột và mong mỏi thành công, thể hiện qua những câu thơ như “Cảnh muộn đi về nghĩ cũng rầu, trông gương mà thẹn với hàm râu” Sự quyết tâm của ông càng lớn khi tuổi tác ngày một cao: “Khi vui diễu cợt mà chơi vậy, tuổi tác ngần này đã chịu đâu” Có những lúc, nỗi lo âu về chữ “danh” chưa đến khiến ông tự nhủ: “Còn trời còn đất còn non nước, có lẽ ta đâu mãi thế này”, nhưng cũng có lúc ông cảm thấy nản lòng: “Chẳng lợi danh chi lại hóa hay, chẳng ai phiền lụy chẳng ai rầy” Tuy nhiên, ông vẫn tự an ủi và nhắc nhở bản thân cần kiên trì: “Thôi hãy đợi thời bình trị đã, Gặp thời vỗ cánh sẽ ra danh” Thời gian không chờ đợi, nỗi khát khao “thành danh” càng trở nên mãnh liệt hơn.

“ Trót sinh ra thì phải có chi chi

Chẳng lẽ tiêu l-ng ba vạn sáu”

Vào năm 1819, ở tuổi bốn mươi mốt, ông đã kiên trì vượt qua mọi thử thách và đạt được vị trí "khanh tướng", khẳng định quyết tâm và bền chí của mình.

“ Hội rồng mây cho phỉ chí tang bồng ,

Cờ báo tiệp giữa trời nam bay b-ớm nhẹ”

Trong xã hội phong kiến, để đạt được công danh sự nghiệp, con trai phải học làm kẻ sĩ, và kẻ sĩ đó chính là Nho sĩ Vai trò của kẻ sĩ rất quan trọng, từ thời Chu, Hán, họ đã trở thành trụ cột của đất nước.

“ Có giang sơn thì sĩ đã có tên,

Từ Chu, Hán vốn sĩ này là quý”

(Luận kẻ sĩ) kẻ sĩ mang trong mình đạo lý của thánh hiền, tiêu biểu cho tiếng nói và sức mạnh của chính nghĩa :

“ Miền h-ơng đảng đã khen rằng hiếu để, Đạo lập thân phải giữ lấy c-ơng th-ờng”

Kẻ sĩ là người có tài năng và trí tuệ, giữ gìn đạo lý ở nơi thôn quê trước khi được vua trọng dụng, trở thành trụ cột của đất nước Để trở thành người có ích, nam nhi cần học theo Khổng Tử và Mạnh Tử, rèn luyện chí lớn và đức lớn nhằm phục vụ đất nước Đây là lý tưởng sống và khát vọng của Nguyễn Công Trứ, người đã nuôi mộng công hầu suốt nửa đời trong cảnh nghèo khó Ông tin tưởng vào tài năng của mình và vào sự ưu ái của trời dành cho người có đức có tài, với niềm tin rằng một ngày nào đó ông sẽ thành công rực rỡ.

“ Thiên phú ngô, địa tái ngô, Thiên địa sinh ngô nguyên hữu ý

Dã thị giang sơn chung tú khí, Quả nhiên đài các xuất danh công.”

Nguyễn Công Trứ đã khắc ghi trong cuộc đời mình một khát vọng công danh sự nghiệp mạnh mẽ, thúc đẩy ông hành động từ khi còn là một “bạch diện thư sinh” cho đến khi trở thành “khanh tướng” Tất cả những nỗ lực của ông đều hướng tới chữ “danh”, thể hiện tâm tư và suy nghĩ sâu sắc về giá trị của sự nghiệp và danh vọng.

“ Hơn nhau một tiếng công hầu”

“ Hơn nhau hai chữ anh hùng”

Nguyễn Công Trứ thể hiện rõ chân dung của một người cầu tiến, với khát vọng công danh không phải vì danh hảo mà từ sự cống hiến và gánh vác trách nhiệm Ông cho rằng, nam giới cần có công danh sự nghiệp, và chữ "danh" trong tác phẩm của ông luôn gắn liền với "núi sông", "trời đất", nhấn mạnh rằng mục đích công việc phải cao hơn danh vọng và tiền bạc Mục đích này không chỉ làm rạng danh sông núi mà còn thể hiện trách nhiệm của tuổi trẻ và bản lĩnh của những đấng nam nhi trong việc xây dựng và bảo vệ đất nước.

2.1.2 “ Vũ trụ nội mạc phi phận sự ”

Say s-a h-ởng lạc - mê đắm yến h-ờng 39

Văn học Việt Nam trung đại nổi bật với sự lặp lại của các đề tài, chủ đề và cảm hứng qua các giai đoạn và tác giả khác nhau Tuy nhiên, sự lặp lại này không mang tính chất sáo mòn hay công thức, mà phản ánh quy luật phát triển của nghệ thuật Mỗi tác phẩm văn học đều mang dấu ấn chủ quan của tác giả, và mỗi giai đoạn văn học thực sự là một "tấm gương phản chiếu thời đại".

Sự lặp lại trong văn học trung đại Việt Nam thể hiện một mạch cảm hứng và chủ đề chung, với hai cảm hứng lớn là yêu nước và nhân văn Ngoài ra, còn có nhiều chủ đề khác xuất hiện xuyên suốt các giai đoạn văn học, trong đó tư tưởng cầu nhàn hưởng lạc là một hiện tượng phổ biến Tư tưởng này, đặc biệt được thể hiện qua tác phẩm của Nguyễn Công Trứ, chính là sự kế thừa từ tư tưởng của tầng lớp nhà Nho trước đó.

2.2.1 Say mê h-ởng lạc ở nhiều nhà Nho, nhàn là một thái độ xuất thế, chán phồn hoa danh lợi đã đành, song lại th-ờng kèm theo một nếp sống thanh đạm, tri túc quả dục, yên lặng để h-ớng tâm về sự suy t-ởng, về đạo, hoặc h-ởng lạc để thoả mãn cá nhân Thì cái nhàn ở Nguyễn Công Trứ lại mang tinh thần nhập thế tích cực, có tính cách hoạt động

Nguyễn Công Trứ trong bản "tuyên ngôn" về kẻ sĩ khẳng định con người có quyền hưởng lạc, xem đây là một phần quan trọng trong lý tưởng sống của mình Qua việc khảo sát gần 150 tác phẩm, có khoảng 20 bài thơ thể hiện tư tưởng hưởng nhàn, tiêu biểu như "Cầm kỳ thi tửu" và "Chơi xuân kẻo hết xuân đi" Điều này cho thấy niềm say mê hưởng lạc được đặt ra cấp thiết như khát khao công danh Ông đã tích cực hành động, không ngại khó khăn để đạt được công danh, từ đó có cuộc sống nhàn hạ, phú quý Theo ông, chỉ khi hoàn thành nhiệm vụ, con người mới được hưởng lạc, với hình ảnh "thảnh thơi thơ túi rượu bầu" khi đã thực hiện được giấc mộng công hầu Ông vạch ra con đường hành động để trở thành khanh tướng, trả nợ tang bồng và hoá công, rồi trở về sống với chính mình và tận hưởng những thú vui của cuộc đời.

“ Nhà n-ớc yên mà sĩ cũng thung dung, Bây giờ sĩ mới tìm ông Hoàng Thạch

Năm ba chú tiểu đồng lếch thếch, Tiêu dao nơi hàn cốc thâm sơn

Nào thơ, nào r-ợu, nào địch, nào đờn, Đồ thích chí vẫy vùng trong một túi

Mặc ai hỏi mặc ai không hỏi,

Dẫu việc đời mà lắm kẻ trọc thanh

Nhà thơ quan niệm hành lạc là phần thưởng xứng đáng cho những người anh hùng và hành động, thể hiện sự thanh cao của kẻ sĩ quân tử, không màng danh lợi Hành lạc bao gồm những trải nghiệm tinh tế như thưởng thức thơ, rượu, và âm nhạc nơi núi rừng Đối với Nguyễn Công Trứ, những giây phút nhàn rỗi không chỉ là giải trí mà còn là nguồn động lực để con người tiếp tục nỗ lực thực hiện hoài bão và lập công danh.

“ Đã mang tiếng ở trong trời đất, Phải có danh gì với núi sông.”

( Đi thi tự vịnh) hoặc là:

“ Chí những toan xẽ núi lấp sông

Nguyễn Công Trứ đã thể hiện rõ chí khí anh hùng của mình trong hành trình theo đuổi giấc mơ vĩ đại, với khát vọng làm nên tên tuổi lừng lẫy khắp đất nước Ông nhấn mạnh rằng, sau khi hoàn thành trách nhiệm của một người anh hùng, thì sẽ có thời gian để tận hưởng cuộc sống và thỏa mãn những ước mơ của mình Chí khí anh hùng không chỉ là một lý tưởng, mà còn là động lực để phấn đấu và cống hiến.

“ Chơi cho phỉ chí tang bồng”

Khi đã hoàn tất việc trả nợ, người quân tử có thể thoải mái tận hưởng cuộc sống, thư giãn và tìm niềm vui, để bù đắp cho những tháng ngày đã trải qua vất vả và khó khăn.

“ Đ-ờng mây rộng thênh thênh cử bộ

Nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo Thảnh thơi thơ túi r-ợu bầu.”

Nguyễn Công Trứ thể hiện sự nhất quán giữa hành động và hưởng thụ trong cuộc sống, nhấn mạnh trách nhiệm và quyền lợi của mỗi người Ông cho rằng, sau khi xây dựng sự nghiệp lẫy lừng, kẻ sĩ nên sống một cuộc đời phong lưu để trọn vẹn với kiếp người.

Đối với các nhà Nho như Nguyễn Trãi và Nguyễn Bĩnh Khiêm, cầu nhàn thường được xem là thái độ của người đã về già, hoàn thành nhiệm vụ với vua và đất nước Nguyễn Trãi, sau khi giúp vua xây dựng đất nước thái bình thịnh trị, đã quyết định trở về Côn Sơn để sống hòa mình với thiên nhiên, vui thú với cảnh điền viên Ngược lại, Nguyễn Công Trứ lại ca ngợi sự hưởng nhàn và hành lạc trong suốt cuộc đời, coi nhàn hạ là cơ hội quý giá để tận hưởng cuộc sống.

“Điền viên vui thú vẫn x-a nay Giang hồ bạn lứa cầu tam hợp Tùng cúc anh em cuộc tỉnh say

Toà đá Kh-ơng Công đôi khóm trúc áo xuân nghiêm tử một vai cày”

(Tù thuËt III) Trong bài “Chơi xuân kẻo hết xuân đi” ông còn nói:

“Hạn lấy tuổi để mà chơi lấy” và ngay cả đầu đề bài thơ ta cũng đã thấy tác giả cố nắm bắt thời gian để h-ởng thụ:

“ Dẫu ba vạn sáu ngàn ngày là mấy chốc”

(Chơi xuân kẻo hết xuân đi)

“Lần lữa tiết xuân đ-ơng có mấy Bóng quang âm kêu lấy kẻo già Tr¨m n¨m trong cái ng-êi ta

Xóc sổ ngày chơi đà đ-ợc mấy”

(Trong trần mấy mặt làng chơi )

“ Ba vạn sáu ngàn ngày thấm thoắt ” ( Nghĩa ở đời)

“ Ba m-ơi năm h-ởng thụ biết chừng nào

Vừa tỉnh giấc nồi kê ch-a chín”

“ Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy”

(Vịnh nhàn) Khi còn hàn vi, khao khát lập công danh để đ-ợc nhàn hạ phú quý, nh-ng cứ trầy trật mãi ông viết:

“ Chẳng lợi danh chi lại hoá hay Chẳng ai phiền luỵ chẳng ai rầy

Ngoài vòng c-ơng toả chân cao thấp Trong cuộc yên hà mặt tỉnh say “ (Than cùng) Lúc đ-ơng làm quan ông vẫn có dịp ca tụng:

“Cầm kỳ thi tửu với giang san

Dễ mấy kẻ xuất trần là thế ”

(Cầm đ-ờng ngày tháng thanh nhàn) Khi về già “thoát vòng danh lợi ” ông càng -a thích:

- “Chuyện cổ kim so tựa bàn cờ Riêng vui thú giang sơn phong nguyệt Mặc xa mã thị thành không giám biết

Thú yên hà trời đất để riêng ta”

Được mất, dương dương người tái thượng, khen chê phơi phới như ngọn đông phong Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng, không phật, không tiên, không vướng tục.

(Bài ca ngất ng-ỡng) và:

“Nợ phong l-u tính đã lãi rồi

Ngàn vàng chác lấy trận c-ời”

Nguyễn Công Trứ nhấn mạnh rằng con người không chỉ nên hành động và cống hiến mà còn cần biết tận hưởng những niềm vui trong cuộc sống Ông cho rằng nếu không biết hưởng lạc, dù sống hàng nghìn năm, cuộc đời cũng trở nên vô nghĩa như chết non.

“Nhân sinh bất hành lạc Thiên tuế diệc vi th-ơng”

(Đánh thức ng-ời đời)

"Cầu nhàn" là một phần quan trọng trong lý tưởng sống của người con trai phong kiến trong thơ văn Nguyễn Công Trứ Ông không chỉ phấn đấu để trả “Nợ tang bồng” và “Nợ công danh”, mà còn để thực hiện “Nợ phong lưu” Khi chưa đỗ đạt, ông tìm niềm vui trong những thú tiêu khiển thanh tao để xoa dịu nỗi buồn và lo lắng về cảnh nghèo Sau khi trở thành quan, nhàn trở thành phần thưởng xứng đáng cho những nỗ lực của ông Ông thường lo sợ thời gian trôi qua mà chưa thực hiện được lý tưởng của mình, bởi mỗi khoảnh khắc, đặc biệt là mùa xuân, đều quý giá.

“ Xuân một khắc dễ nghìn vàng đổi chác” vì thế nên:

“ Tế suy vật lý tu hành lạc

An dụng phù danh bạn thử thân”

(Chơi xuân kẻo hết xuân đi) (Xét cho kĩ thì ở đời cũng nên vui chơi

Sao nỡ để công danh bó buộc thân mình)

Cuộc chơi mà ông nói đến không chỉ có: thơ, r-ợu, cờ:

- “Đánh ba chén r-ợu khoanh tay giấc Ngâm một câu thơ vỗ bụng c-ời ” (Hành tàng)

- “Đàn một cung, cờ một cuộc, thơ một túi, r-ợu một bÇu

Khi đắc ý ngao du ờ cũng phải ” (ThÝch chÝ ngao du)

- “S-ờn non bầu r-ợu túi thơ

Thảnh thơi ngồi gẫm cuộc cờ Tràng An ” ( )“R-ợu một bầu, thơ một túi, cờ một cuộc, cầm một xoang

Khi đắc ý gật trên lừa c-ời ra rả ”

- “Bạn tùng cúc x-a kia là cố cựu Hẹn với lợi danh ba chén r-ợu

Vui cùng phong nguyệt một bầu thơ

Cuộc cổ kim so sánh tựa bàn cờ Riêng vui thú giang sơn phong nguyệt ”

“Cầm kỳ thi tửu, Đ-ờng ăn chơi một vẻ một hay Đàn năm cung réo rắt tính tình dây,

Cờ đôi n-ớc rập rình xe ngựa đó

Thơ một túi phẩm đề câu nguyệt lộ,

R-ợu ba chung tiêu sái cuộc yên hà Thú xuất trần tiên vẫn là ta ”

“Cuộc ăn chơi gì hơn thú tụ tam ” (Thú tổ tôm )

Nguyễn Công Trứ không chỉ say s-a h-ởng lạc mà ông còn ca tụng nó:

“Một chữ nhàn giá lại đáng muôn chung Ng-ời ở thế dẫu trăm năm là mấy ”

- “Thú gì hơn nữa thú ăn chơi ” (ThÝch chÝ ngao du)

- “Nhân trung thụy giác tam can nhật, Vắt chân ngồi bạn với khách cầm ca Cuộc tỉnh say bầu r-ợu chén trà Cơn đắc ý thùng thùng đôi tiếng trống

Bạch tuyết thanh cao oanh yến lộng Quân thiểu h-ởng triệt cổ chung minh

Này tiếng đàn tinh tỉnh tình tinh Thú vui thú ném ngang vành tráng sĩ ” (Thú thanh nhàn )

Thi tửu cầm kỳ khách, phong vân tuyết nguyệt thiên, mặc tài tình đang độ thiếu niên Cuộc hành lạc vẫy vùng cho phỉ chí, thơ một túi gieo vần Đỗ Lý.

R-ợu l-ng bầu rót chén L-u Linh Đàn Bá Nha gãy khúc tính tang tình

Nguyễn Công Trứ không chỉ ca ngợi vẻ đẹp của cuộc sống mà còn khuyên mọi người nên tìm niềm vui trong những khoảnh khắc thảnh thơi, như thưởng thức thơ ca và rượu, đặc biệt sau những giờ lao động căng thẳng Ông nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nghỉ ngơi để tâm trí được thư giãn, tránh mệt mỏi và căng thẳng.

“ Tri túc, tiện túc, đãi túc, hà thời túc Tri nhàn, tiện nhàn, đãi nhàn, hà thời nhàn ” (Biết đủ là đủ, đợi khi nào cho đủ ,

Biết nhàn là nhàn, đợi khi nào cho nhàn )

"Biết nhàn" là khả năng tạo ra những khoảnh khắc thư giãn, tìm kiếm cơ hội để thưởng thức cuộc sống Điều này bao gồm việc tạm gác công việc và những khó khăn, bất công trong cuộc sống Sống là cần biết hưởng thụ những giây phút nhàn rỗi, không chỉ để tái tạo năng lượng tinh thần mà còn để thể hiện bản thân.

Cơ sở tạo ra quan niệm ở tác giả về lý t-ởng sống của ng-ời con trai phong kiến 55

Tất cả các hình thái ý thức đều phản ánh thế giới khách quan qua chủ thể con người Do đó, sáng tác văn học vừa thể hiện tính chủ quan vừa có tính khách quan.

T- t-ởng nghệ thuật của một tác giả văn học không phải là một hiện t-ợng tiên nghiệm, mà là sự ảnh h-ởng bởi hoàn cảnh xã hội và thời đại mà tác giả đang sống.Nó chi phối toàn bộ t- t-ởng, tình cảm, và việc xác định h-ớng đi cho mình Cho nên ta có thể nói rằng t- t-ởng hành đạo, thái độ tích cực nhập thế, khao khát công danh hay là sự ham muốn đ-ợc h-ởng lạc, đ-ợc thích chí ngao du với bầu r-ợu túi thơ khi dã hoàn thành nghĩa vụ, đã trả hết nợ đời trong thơ văn Nguyễn công Trứ là có cơ sở của nó

Ba thập kỷ đầu thế kỷ XVI tại Việt Nam chứng kiến những biến động xã hội phức tạp với sự tồn tại song song của hai chính quyền Trịnh – Nguyễn, dẫn đến những cuộc tranh chấp khốc liệt và sự khổ cực của nhân dân Nền kinh tế lâm vào cảnh kiệt quệ, giá trị đạo đức bị đảo lộn, và sự bùng nổ của các cuộc khởi nghĩa nông dân, đặc biệt là phong trào Tây Sơn do Nguyễn Huệ lãnh đạo, chỉ mang lại hào quang ngắn ngủi Đầu thế kỷ XIX, Nguyễn Ánh chiến thắng nhà Tây Sơn và lập ra triều đại Nguyễn, một chính quyền độc tài và tàn nhẫn Tuy nhiên, để củng cố quyền lực, Nguyễn Ánh đã áp dụng những biện pháp mị dân, đưa Nho giáo làm Quốc giáo và mở lại các trường học nhằm đào tạo nhân tài phục vụ triều đình, đồng thời kêu gọi sĩ phu Bắc Hà hợp tác với chính quyền mới.

Sau hàng trăm năm chiến tranh và nỗi khổ đau, việc thành lập chính quyền nhà Nguyễn đã mang lại vẻ ổn định cho xã hội, tạo ra ảo tưởng cho một bộ phận người, đặc biệt là tầng lớp Nho sĩ Xuất thân từ gia đình quan lại lớp dưới, họ hy vọng vào “thắng lợi” của nhà Nguyễn Khác với quan lại thời Lê - Trịnh, tầng lớp Nho sĩ này có tiếp xúc với quần chúng và tiếp thu được sức mạnh của họ Trong khi những quan lại trước đó e dè trước thực tế mới, họ lại có thể thích nghi hơn với thời cuộc.

Đối với lớp người "ngoan dân", việc phục vụ triều đại đương thời là điều tối quan trọng, bởi họ chưa từng nhận nhiều ân huệ từ triều đại trước Hơn nữa, hệ thống thi cử để đào tạo quan liêu dưới thời nhà Nguyễn đã mở ra triển vọng tương lai cho họ.

Suốt hàng trăm năm chiến tranh, nền kinh tế rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng Nông nghiệp liên tục mất mùa, khiến người dân rơi vào cảnh đói khát, phải đi ăn xin khắp nơi Ruộng đất ngày càng tập trung vào tay các địa chủ cường hào, tạo ra sự bất bình đẳng trong xã hội.

Công nghiệp và thương mại bị đình trệ do chính sách "bế quan tỏa cảng" của các tập đoàn phong kiến, khiến cho ngành công nghiệp chỉ được ưu tiên phát triển phục vụ cho triều đình và các cuộc chiến tranh Hệ quả là nền kinh tế không có điều kiện phát triển, dẫn đến đời sống của nhân dân trở nên khổ cực.

Mặc dù các chính quyền phong kiến không thể kiểm soát được sự thay đổi của thời đại, nhưng sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế hàng hóa trong các thế kỷ XVII và XVIII đã làm thay đổi bộ mặt các đô thị và mang đến một luồng văn hóa mới cho đời sống người dân Luồng văn hóa này đã tác động sâu sắc đến cuộc sống và tư tưởng của người dân, đặc biệt là tầng lớp Nho sĩ và trí thức, những người nhanh chóng thích nghi với những thay đổi Tư tưởng thị dân, với nhu cầu hưởng thụ và thể hiện bản thân, đã góp phần hình thành nên tư tưởng hành lạc của Nguyễn Công Trứ.

Trong bối cảnh xã hội Việt Nam trải qua hàng trăm năm loạn lạc, việc tiếp thu tư tưởng thị dân mới trở nên cần thiết Điều này giúp con người bứt phá khỏi những ràng buộc của Nho giáo, thể hiện bản thân và thỏa mãn nhu cầu cá nhân Từ đó, trào lưu nhân văn chủ nghĩa đã ra đời, phản ánh sự khát khao tự do và phát triển trong xã hội.

Chủ nghĩa nhân văn, theo Vôn-ghin, là những quan điểm đạo đức chính trị xuất phát từ con người thực tế, không dựa vào yếu tố siêu nhiên Nó nhấn mạnh tầm quan trọng của cá nhân, cuộc sống trần tục và khát vọng tự do, vượt qua các khuôn khổ phong kiến Trong khi trước thế kỷ XVIII, con người thường bị gắn liền với đạo đức, thì nay nhu cầu tự nhiên của cá nhân được khẳng định, với các khái niệm như "thân", "tài", và "tình" giúp con người nhận thức về chính mình Họ công khai thể hiện nhu cầu sống và hưởng thụ, coi đó là một phần chính đáng trong cuộc sống.

2.3.2 Cơ sở chủ quan Để hình thành nên t- t-ởng sáng tác của một nhà văn nhà thơ ngoài cơ sở khách quan thì cơ sở chủ quan cũng đóng một vai trò quan trọng

Nguyễn Công Trứ sinh ra trong một gia đình trí thức Nho học, với thân phụ là tri huyện Quỳnh Côi và sau đó là tri phủ Tiên Hưng Mẹ ông là con gái của một quan quản Nội thị, tạo nên môi trường xã hội giàu truyền thống văn hóa Sự giáo dục từ nhỏ đã hình thành trong ông nếp cương thường và ý thức về quân thần, phụ tử Thân sinh ông là một trung thần nhà Lê, kiên quyết không hợp tác với Tây Sơn, mặc dù phải sống trong cảnh nghèo khó Tấm gương trung trinh ái quốc của cha đã ảnh hưởng sâu sắc đến hoài bão công danh của Nguyễn Công Trứ sau này.

Thiếu thời nghèo khổ, ông vẫn không ngừng khát vọng lập thân qua con đường thi cử và làm quan Dù trải qua nhiều lần thi hỏng, ngọn lửa đam mê trong ông vẫn luôn rực cháy Cuối cùng, ở tuổi bốn mươi hai, ông thi đỗ và lần đầu tiên xuất chính, đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp của mình.

Nho giáo đã định hướng con đường của Nguyễn Công Trứ, khi xã hội ổn định và ông không mắc nợ triều đình, ông quyết tâm cống hiến tài năng cho đất nước Truyền thống “tu thân” để đền ơn vua và khát vọng có công danh đã trở thành tiêu chí sống của ông Dù nhiều lần bị nghi ngờ do những lời nịnh hót, ông vẫn không ngừng phấn đấu cho lý tưởng của mình Tuy nhiên, việc thăng giáng trong quan trường khiến ông ngày càng chán nản và mất niềm tin vào những giá trị mà trước đây ông từng tôn thờ, dẫn đến việc ông tìm đến cuộc sống thanh nhàn, xa rời chốn phồn hoa đầy ghen ghét và đố kỵ.

Nguyễn Công Trứ là một nhân vật nổi bật với cá tính mạnh mẽ, luôn khẳng định sự tồn tại của mình trong cuộc sống Ông không ngại vượt qua mọi khó khăn, thể hiện sự tự tin và kiêu hãnh trước những thách thức của cuộc đời Dáng dấp ngạo nghễ của ông là minh chứng cho một con người luôn tự tin vào bản thân.

“Kiếp sau xin chớ làm ng-ời Làm cây thông đứng giữa trời mà reo”

Ngày đăng: 27/07/2021, 15:46

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Lại Nguyên Ân (chủ biên), Từ điển văn học Việt Nam từ nguồn gốc đến hÕt thÕ kû XIX, NxbGD,1997 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từ điển văn học Việt Nam từ nguồn gốc đến hÕt thÕ kû XIX
Nhà XB: NxbGD
2. Tr-ơng Chính, Lê Th-ớc, Hoàng Ngọc Phách,Thơ văn Nguyễn Công Trứ,NxbVH,H,1958 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thơ văn Nguyễn Công Trứ
Nhà XB: NxbVH
3. Chu Trọng Huyến, Nguyễn Công Trứ thơ và đời, NxbVH, 1996 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nguyễn Công Trứ thơ và đời
Nhà XB: NxbVH
4. Chu Trọng Huyến, Nguyễn Công Trứ - con ng-ời và sự nghiệp, NxbKHXH,1995 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nguyễn Công Trứ - con ng-ời và sự nghiệp
Nhà XB: NxbKHXH
5. Trần Đình H-ợu, Nho giáo và văn học Việt Nam trung - cận đại, NxbGD,H,1999 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nho giáo và văn học Việt Nam trung - cận đại
Nhà XB: NxbGD
6. Trần Đình H-ợu, Mấy ý kiến bàn về nghiên cứu Nho giáo, TCNCNT số 1,2,3/ 1984 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Mấy ý kiến bàn về nghiên cứu Nho giáo
7. Đinh Gia Khánh (chủ biên), Văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến nửa đầu thÕ kû XVIII, NxbGD,1998 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến nửa đầu thÕ kû XVIII
Nhà XB: NxbGD
8. Vũ Ngọc Khánh, Nguyễn Công Trứ, NxbVăn hoá, H,1983 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nguyễn Công Trứ
Nhà XB: NxbVăn hoá
9. Đặng Thanh Lê, Hoàng Hữu Yên, Phạm Luận,Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX, NxbGD,1998 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX
Nhà XB: NxbGD
10. Nguyễn Lộc, Văn học Việt nam nửa cuối thế kỷ XVIII đến hết thế kỷ XIX, NxbGD,1999 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn học Việt nam nửa cuối thế kỷ XVIII đến hết thế kỷ XIX
Nhà XB: NxbGD
11. Nguyễn Đăng Mạnh(chủ biên), Phân tích bình giảng văn học 11, NxbGD,H,2000 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phân tích bình giảng văn học 11
Nhà XB: NxbGD
12. Phan Ngọc, Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều, NxbVH,H,2000 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều
Nhà XB: NxbVH
13. Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức, Thơ ca Việt Nam, hình thức và thể loại, Nxb§HQG,H,2003 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thơ ca Việt Nam, hình thức và thể loại
Nhà XB: Nxb§HQG
14. Vũ D-ơng Quỹ (tuyển chon, biên soạn), Nhà văn và tác phẩm văn học trong nhà tr-ờng,NxbGD,1997 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nhà văn và tác phẩm văn học trong nhà tr-ờng
Nhà XB: NxbGD
15. Vũ Tiến Quỳnh (tuyển chọn, biên soạn), Phê bình và bình luận văn học: Nguyễn Công Trứ, NxbVH,TPHCM,1999 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phê bình và bình luận văn học: "Nguyễn Công Trứ
Nhà XB: NxbVH
16. Trần Đình Sữ, Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam, NxbGD,1999 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam
Nhà XB: NxbGD
17. Trần Nho Thìn (tuyển chọn, biên soạn), Nguyễn Công Trứ về tác gia và tác phẩm, NxbGD,2003 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nguyễn Công Trứ về tác gia và tác phẩm
Nhà XB: NxbGD
19. Mai Khắc ứng, Đôi điều về tồn chất Nguyễn Công Trứ, NxbThuận Hoá, 2004 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đôi điều về tồn chất Nguyễn Công Trứ
Nhà XB: NxbThuận Hoá
20. Lê Trí Viễn, Đặng Thanh Lê, Phan Côn, Lịch sử văn học Việt Nam thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX, NxbVH, H, 1978 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lịch sử văn học Việt Nam thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX
Nhà XB: NxbVH
21. Trần Ngọc V-ơng, Nhà Nho tài tử và văn học Việt Nam, NxbGD,2001 22. (Nhiều tác giả), Nguyễn Công Trứ - con ng-ời, cuộc đời và thơ, Nxb Hộinhà văn, H, 1996 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nhà Nho tài tử và văn học Việt Nam", NxbGD,2001 22. (Nhiều tác giả), "Nguyễn Công Trứ - con ng-ời, cuộc đời và thơ
Nhà XB: NxbGD

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w