Ở mỗi dân tộc lễ cưới đề được thực hiện theo những nghi lễ khác nhau, nhưng có một điểm chung của những nghi lễ này đó đều là những phương thức để cộng đồng thừa nhận quan hệ hôn nhân gi
Trang 1MỞ ĐẦU
1 Lý do chọn đề tài
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc (54 dân tôc), dân tộc nào cũng có một lịch sử lậu dài và có một nền văn hóa cổ truyền giàu bản sắc - từ người H’Mông trên đỉnh núi cao bốn mùa sương mù hay đến người Sán Dìu trên đất trung du đá sỏi cho đến người Việt, Khơme trên những cánh đồng châu thổ tất
cả đều tạo nên vóc dáng Việt Nam đa phong tục, đa bản sắc, giàu tính nhân văn
Trong cuộc sống hằng ngày những nét truyền thống văn hóa của nhiều dân tộc đang bị biến đổi bởi sự giao lưu kinh tế văn hóa các dân tộc trong và ngoài nước vì vậy hơn bao giờ hết chúng ta phải nhìn nhận thật nghiêm túc vấn đề bản sắc văn hóa dân tộc của từng dân tộc trong đại gia đình Việt Nam
Hòa Bình – địa danh thường biết đến là cái nôi của người Mường người Mường là dân tộc đứng hàng thứ năm trong 54 dân tộc Việt Nam về số [4] Ở mảnh đất quần cư đã bao đời, người Mường đã tạo cho mình những quy ước mang tính cộng đồng rộng rãi và từ những quy ước ấy đã tạo nên bản sắc riêng và các giá trị văn hóa của dân tộc này Qua nhiều giai đoạn lịch sử bản sắc ấy lại làm giàu thêm, phong phú thêm Trong đó giá trị văn hóa thiêng liêng đáng nhớ nhất trong mỗi cuộc đời con người đó chính là ngày cưới Lễ cưới là thời điểm xác lập quan hệ vợ, chồng giữa đôi nam nữ trước sự chứng kiến của họ hàng, bè bạn Ở mỗi dân tộc lễ cưới đề được thực hiện theo những nghi lễ khác nhau, nhưng có một điểm chung của những nghi lễ này đó đều là những phương thức để cộng đồng thừa nhận quan hệ hôn nhân giữa người con trai và người con gái
Là người con của dân tộc Mường, sinh ra và lớn lên trên bản Mường, huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình, ngay từ đầu tôi đã được tiếp xúc và ít nhiều
Trang 2hiểu biết phần nào về phong tục tập quán của đồng bào dân tộc miền núi trong
đó có người Mường Nên việc nghiên cứu các phong tục tập quán của người dân tộc miền núi cụ thể là người Mường nhằm bảo tồn và giữ gìn nét truyền thống tốt đẹp văn hóa của người Mường, huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình Từ
đó ta có thể bảo tồn những phong tục tập quán, thuần phong mĩ tục của những dân tộc miền núi và thiểu số đang mỗi ngày bị mai một, và có thể rút ra kết luận và giải pháp để bảo tồn những phong tục, tập quán mang tính tích cực và khắc phục những hủ tục vẫn còn tái diễn trong các lễ cưới ở các vùng dân tộc, miền núi bây giờ, do vậy tôi chọn đề tài “góp phần bảo tồn tục lệ cưới hỏi truyền thống của dân tộc Mường huyện Kim Bôi tỉnh Hòa Bình”
- Cung cấp thông tin cho chính quyền địa phương, các cơ quan nhà nước các tổ chức đảng và các nhà nghiên cứu văn hóa dân tộc để bảo tồn nhiều hơn nữa những tập quán của người Mường đang có nhiều chiều hướng
bị mai một và xóa bỏ những hủ tục không nên trong đời sống hay trong cưới xin bây giờ
3 Đối tượng nghiên cứu
- Đặc điểm tự nhiên, văn hoá xã hội của huyện Kim Bôi, tỉnh Hoà Bình
- Các bước tiến hành một lễ cưới của người Mường ở huyện Kim Bôi,
Trang 34 Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
- Đề tài có ý nghĩa thiết thực trong việc góp phần bảo tồn các giá trị văn hoá truyền thống của người Mường
- Các giải pháp mà đề tài đưa ra có thể được áp dụng để bảo tồn các giái trị văn hoá tương tự
Trang 4CHƯƠNG 1 PHƯƠNG PHÁP, THỜI GIAN, ĐỊA ĐIỂM NGHIÊN CỨU
1.1 Phương pháp nghiên cứu
- Điều tra thực địa từ:
+ Đi thực tế tìm hiểu điều kiện tự nhiên, xã hội của huyện Kim Bôi, tỉnh Hoà Bình
+ Đi thực tế tìm hiểu phong tục tập quán cưới xin của dân tộc Mường sinh sống tại huyện Kim Bôi, tỉnh Hoà Bình
- Phát vấn
Điều tra người dân, chính quyền địa phương, trung tâm văn hoá huyện Kim Bôi về phong tục tập quán cưới xin
- Tra cứu thông tin trên các nguồn tài liệu: báo chí, sách vở, internet…
- Xử lí số liệu theo phương pháp thống kê thông thường
1.2 Thời gian nghiên cứu
- Tôi tiến hành nghiên cứu đề tài từ ngày 10 tháng 8 năm 2008 đến tháng 4 năm 2010
1.3 Địa điểm nghiên cứu
- Trong quá trình tiến hành nghiên cứu tôi đã tiến hành triển khai cụ thể trên địa bàn các xóm, thôn trong các xã Sơn Thủy, xã Vĩnh Đồng, xã Vĩnh Tiến xã Nật Sơn của huyện Kim Bôi tỉnh Hòa Bình
- Ngoài ra tôi còn tiến hành khai thác thông tin ở các UBND xã và trung tâm văn hóa huyện, UBND huyện Kim Bôi tỉnh Hòa Bình
Trang 5
CHƯƠNG 2 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 2.1 Sơ lược lịch sử nghiên cứu nguồn gốc dân tộc Mường
Không phải ngay từ buổi đầu lịch sử, dân tộc Mường đã có tộc danh như ngày nay Và đương nhiên trước đây, người Mường cũng không dùng danh từ này làm tên gọi cho dân tộc mình Theo Trần Từ (tức Nguyễn Đức Từ Chi),[4] Mường là từ dùng để chỉ một vùng cư trú của đồng bào bao gồm nhiều làng Mỗi vùng được đặt dưới sự cai quản của một nhà Lang Qua sự tiếp xúc giao lưu giữa người Mường và người Kinh, người Kinh đã sử dụng
từ Mường để gọi dân tộc này Cho đến tận bây giờ, Người Mường vẫn từ gọi mình là mol, moăn như ở Hoà Bình; Mon, mwanl như ở Thanh Hoá Còn ở Phú Thọ, đặc biệt là ở Thanh Sơn, nơi Người Mường tập trung đông đảo nhất cũng như Người Mường ở huyện Yên Lập và một số xã thuộc huyện Thanh Thuỷ đồng bào tự gọi mình là Mol, Monl Mặc dù những từ này có biến âm hơi khác ở mỗi vùng, mỗi địa phương nhưng đều quan niệm giống nhau về mặt nghĩa Tất cả những từ mà đồng bào dùng để chỉ dân tộc mình có nghĩa là người Vì lẽ đó mà người Mường thường tự xưng mình là con Mol hoặc là
con monl: con người Còn từ Mường vốn là từ mương đồng bào dùng để chỉ
nơi cư trú chứ không liên quan gì đến tộc danh ngày nay của mình Mặc dù vậy cùng sự biến động của lịch sử cũng như quá trình giao lưu kinh tế, văn hoá với các dân tộc anh em khác cho đến nay “Mường” đã được đồng bào chấp nhận và coi đó là tộc danh của mình, và hiển nhiên, họ tự nhận mình là người Mường như ngày nay Do đó, Mường đã trở thành tên gọi chính thức
và duy nhất của tộc người này để phân biệt với các dân tộc khác Tộc danh Mường đã được các tổ chức, thể chế, các nhà nghiên cứu và nhân dân dùng khi tìm hiểu, nghiên cứu và gọi dân tộc này là Người Mường
Trang 6Cũng như các dân tộc khác, để lý giải về nguồn gốc của dân tộc mình, dân gian Mường Thanh Sơn còn lưu giữ và truyền kể những huyền thoại về
sự xuất hiện dân tộc mình Mặc dù vậy, những truyền thuyết đó được lưu truyền chủ yếu dưới dạng các bản mo hát với dài ngắn khác nhau
2.2 Nét văn hoá truyền thống dân tộc Mường
Dân tộc Mường có trên 914.596 người Đồng bào Mường cư trú ở nhiều tỉnh phía Bắc, nhưng tập trung đông nhất là ở Hòa Bình và các huyện miền núi tỉnh Thanh Hóa [1]
Đồng bào Mường sống định canh định cư miền núi, nơi có nhiều đất sản xuất, gần đường giao thông, thuận tiện cho việc làm ăn Người Mường làm ruộng từ lâu đời Lúa nước là cây lương thực chủ yếu Trước đây, đồng bào trồng lúa nếp nhiều hơn lúa tẻ và gạo nếp là lương thực ăn hàng ngày Nguồn kinh tế phụ đáng kể của gia đình người Mường là khai thác lâm thổ sản như nấm hương, mộc nhĩ, sa nhân, cánh kiến, quế, mật ong, gỗ, tre, nứa, mây, song Nghề thủ công tiêu biểu của người Mường là dệt vải, đan lát, ươm tơ Nhiều phụ nữ Mường dệt thủ công với kỹ nghệ khá tinh xảo
Trang phục của nam giới Mường là bộ quần áo cánh màu chàm Phụ nữ đội khăn màu trắng hình chữ nhật, mặc yếm và áo cánh ngắn thân có xẻ ngực (có nơi xẻ vai), ít cài cúc Váy của phụ nữ Mường khá dài, mặc cao đến nách Những chiếc cạp váy được dệt bằng tơ nhuộm màu, tạo những hoa văn hình học và những hình con rồng, phượng, hươu, chim tuyệt đẹp
Xưa kia, hình thái tổ chức xã hội đặc thù của người Mường là chế độ lang đạo, các dòng họ lang đạo (Đinh, Quách, Bạch, Hà) chia nhau cai quản các vùng Đứng đầu mỗi mường có các lang cun, dưới lang cun có các lang xóm hoặc đạo xóm, cai quản một xóm
Trang 7cầu thang chính bằng phên nứa Khi trẻ lớn khoảng một tuổi mới đặt tên Khi
có người chết, tang lễ thường có thầy cúng hát - kể về buổi khai thiên lập địa,
về tổ tiên xưa
Người Mường thường có câu tục ngữ: “Cơm đồ, nhà gác, nước vác, lợn thui, ngày lui tháng tới” [1] Nghĩa là “cơm đồ” ở đây là cơm nếp được đồ bằng một khúc cây gỗ được khoét ở giữa dùng để đồ xôi; “nhà gác” là nhà sàn, là một nét văn hoá kiến trúc đặc sắc của người Mường; “nước vác” chính
là dụng cụ mà người Mường dùng để đi lấy nước từ các khe suối, dụng cụ này được làm từ cây bương dài khoảng 2m, các đốt bương được thông với nhau, riêng đốt cuối thì để nguyên và được vác trên vai nên mới gọi là nước vác Nói đến ẩm thực thì người Mường cũng là một trong những dân tộc có nét khá độc đáo về ẩm thực Khi nói đến “lợn thui” hay nói đến cơm lam và rượu cần là nói đến một trong những đặc sản của người Mường; còn “ngày lui tháng tới” thì đây là một cách tính lịch của người Mường: đó là một cách tính lịch rất khác bịêt so với lịch người Kinh hoặc các dân tộc khác, người Mường tính lịch âm luôn lùi sau một ngày so với lịch âm của người Kinh (nếu lịch âm của người Kinh là ngay mồng 05 thì người Mường là ngày mồng 04), nhưng tháng của người Mường thì lại nhanh hơn tháng âm của người Kinh một tháng trong lịch âm
2.3 Nghiên cứu về các phong tục tập quán người Mường huyện Kim Bôi, tỉnh Hoà Bình
Người Mường có nhiều ngày lễ hội hằng năm: Hội xuống đồng (Khuông mùa), hội cầu mưa (tháng 4), lễ rửa lá lúa (tháng 7, 8 âm lịch), lễ cơm mới [3]
Kho tàng văn nghệ dân gian của người Mường khá phong phú, có các thể loại: thơ dài, bài mo, truyện cổ, dân ca, ví đúm, tục ngữ Người Mường còn có hát ru em, đồng dao, hát đập hoa, hát đố, hát trẻ con chơi Cồng là
Trang 8nhạc cụ đặc sắc của đồng bào Mường, ngoài ra còn nhị, sáo, trống, khèn lù Người Mường còn dùng ống nứa gõ vào những tấm gỗ trên sàn nhà, tạo thành những âm thanh để thưởng thức gọi là ''đâm đuống''
Ngoài các lễ hội chính ra thì nét văn hoá đặc sắc ẩn sâu trong nếp ăn,ở của người Mường đã được đúc kết sau bao đời quần cư, đó chính là những nét văn hoá trong cưới xin, ma chay, giỗ chạp nhìn bề ngoài ta tưởng chừng như rất bình thường nhưng đều ẩn chứa bên trong là cả một kho tàng về văn hóa truyền thống của một dân tộc Trong phạm vi công trình cho phép nên đề tài chỉ có thể được thực hiện nghiên cứu phong tục tập quán cưới xin của người Mường huyện Kim Bôi tỉnh Hoà Bình
Trang 9CHƯƠNG 3
SƠ LƯỢC ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN –VĂN HÓA XÃ HỘI HUYỆN KIM
BÔI TỈNH HÒA BÌNH
3.1 Sơ lược vị trí địa lý
Huyện Kim Bôi nằm ở phần phía đông tỉnh Hoà Bình, có vị trí toạ độ là:
20032’ đến 20049’ vĩ độ Bắc, 105022’ đến 105043’ kinh độ Đông
Ngày trước, giao thông chưa phát triển, Kim Bôi là vùng sâu ít người sinh sống, khai khẩn Người Mường có câu: "Yêu nhau cho thịt cho xôi, Ghét nhau đưa đến Kim Bôi, Hạ Bì" với hàm ý Kim Bôi là vùng đất khó sinh sống Ngày nay, hệ thống giao thông đường bộ phát triển nối Kim Bôi với bên ngoài
Quốc lộ 21A chạy gần rìa ranh giới với huyện Mỹ Đức (Hà Tây), gần như theo hướng Bắc Nam, từ huyện Lương Sơn sang tới huyện Lạc Thủy
Đường quốc lộ nối đường 21A với đường 6, cắt ngang địa bàn huyện, theo hướng Tây Bắc Đông Nam, nối đường 21A, tại thị trấn Thanh Hà (xã Thanh Nông) với đường 6 tại địa điểm gần dốc Cun (huyện Cao Phong) [4]
Đường Hồ Chí Minh mới (đoạn Hòa Lạc - Cúc Phương) chạy qua
3.1.1 Lịch sử hình thành
Dưới triều Lê, vùng đất Kim Bôi thuộc phủ Gia Hưng, trấn Hưng Hoá Đến năm Tự Đức thứ 5 (1851) Kim Bôi là một tổng của huyện Mỹ Lương, phủ Quốc Oai
Ngày 22-6-1886, khi tỉnh Mường được thành lập, Kim Bôi là một tổng của phủ Lương Sơn Đến năm 1890 phủ Lương sơn được sát nhập về Mỹ Đức, đến ngày 18-3-1891, sát nhập trở lại tỉnh Hoà Bình và được đổi tên thành châu Lương Sơn
Trang 10Trước năm 1959 huyện Kim Bôi vẫn được gọi là châu Lương Sơn, sau ngày 17-04-1959 huyện Lương Sơn được tách thành 2 huyện Lương Sơn Và Kim Bôi, gồm có 22 xã rồi tăng lên 27 xã Năm 1971 lấy thêm 7 xã của huyện Lương Sơn nằm ở phía đông huyện và từ đó Kim bôi giáp với tỉnh Hà Tây (nay là TP Hà Nội) đến thời điểm năm 2008 thì Kim Bôi có 35 xã và 2 thị trấn, [2] sau đó chính phủ ra nghị quyết 31/NQ - CP điều chỉnh ngày 14 tháng
7 năm 2009 điều chỉnh địa giới hành chính của huyện chuyển thị trấn Thanh
Hà và một số xã sang các huyện khác [5]
3.1.2 Đặc điểm tự nhiên
Kim Bôi có tổng diện tích tự nhiên là 551.03 km2 [5] Phía bắc giáp huyện Lương Sơn, phía tây giáp huyện Lạc Sơn, Tân Lạc, Kỳ Sơn và thị xã Hoà Bình, phía nam giáp huyện Lạc Thuỷ, phía đông giáp với Mĩ Đức của tỉnh Hà Tây (cũ) nay thuộc về Hà Nội
Địa hình huyện Kim Bôi khá phức tạp bị chia cắt bởi các hệ thống khe suối, gồm 2/3 diện tích huyện là đồi núi với độ cao trung bình so với mặt nước biển là 310m [4]
3.1.3 Dân cư
Theo thống kê dân số - gia đình thì dân số toàn huyện đến ngày 01 tháng 04 năm 2009 là 114.015 người Trong đó dân tộc Mường chiếm khoảng 73%, dân tộc Kinh chiếm 10%, còn lại là dân tộc khác như Dao, Thái, Tày…[5]
3.1.4 Đặc điểm kinh tế văn hoá – xã hội
Kinh tế toàn huyện chiếm vị trí chủ đạo là ngành nông lâm nghiệp vì từ
xa xưa người dân đã biết dựa vào đồng ruộng và rừng là chính Cùng với nghề trồng lúa (lúa nương và lúa nước), người dân còn tăng gia sản xuất với những
Trang 11phải là lao động sản xuất chính nhằm đảm bảo cuộc sống của người dân trong huyện nhưng những nghề phụ này lại đóng vai trò tương đối quan trọng trong việc cung cấp nhu yếu phẩm trong đời sống hàng ngày của họ
Ngoài những đặc điểm kinh tế trọng điểm về nghề chính của đồng bào dân tộc thì huyện được phát triển thế mạnh về ngành kinh tế không khói đó là ngành du lịch, đến với Kim Bôi bạn sẽ được thưởng thức cơm lam, rượu cần
và được hoà mình trong suối nước nóng; ngoài ra còn có khu du lịch sinh thái, khu du lịch thác bạc long cung và rất nhiều điểm du lịch khác nữa
Trang 12CHƯƠNG 4 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1 Các quan niệm, quy tắc và các tiêu chí chọn vợ của người Mường ở vùng Kim Bôi tỉnh Hoà Bình
4.2 Quan niệm về cưới xin dân tộc Mường
Quan niệm về cưới xin của người Mường ở vùng này là con cái lớn lên đến tuổi lấy vợ, lấy chồng thì phải dựng vợ gả chồng để bố mẹ khi về già có người trông cậy Nam nữ người Mường thường kết hôn ở độ tuổi 16 – 17 vì
họ cho rằng đây là lứa tuổi thích hợp nhất, khi đó ông bà có sức khoẻ chăm sóc con cháu, người già sẽ có cháu đỡ đần nối dõi và thờ cúng hương hoa tổ tiên, gia đình nào có con, cháu đông đúc là gia đình đó có phúc lớn Đây là quan niệm quan trọng nhất trong cưới xin của họ
Người Mường chủ yếu sống thuần nông lâu đời nên mỗi gia đình cần nhiều nhân lực để sản xuất, vì vậy họ có quan niệm lấy vợ sớm cho con, cháu
để tăng thêm nhân lực lao động trong gia đình Do vậy họ thường lấy vợ lấy chồng rất sớm
Tuy vậy người Mường Kim Bôi cũng như người Mường ở các vùng khác cũng có quan niệm về con cháu nối dõi, chỗ dựa khi về già Bởi vậy việc duy trì nòi giống là yếu tố quan trọng để tồn tại thế giới con người Ở đây ta xét một góc độ dòng họ thì việc sinh con cháu nối dõi tông đường là một tất yếu Đặc biệt hơn, họ còn ảnh hưởng bởi lối sống phong kiến nên sinh cháu trai là một yêu cầu hàng đầu đối với mỗi cặp vợ chồng trẻ, mà nhất là cặp vợ chồng mà chồng là con trưởng Vì đây cũng là quan niệm ở hầu hết các dân tộc, chứ không riêng dân tộc Mường
Trang 134.3 Một số quy tắc cơ bản trong cưới xin
Đối với người Mường huyện Kim Bôi, tỉnh Hoà Bình thì nguyên tắc chung thuỷ là hàng đầu, bởi lẽ trong tư tưởng người Mường thì họ không chấp nhận chuyện vợ cả, vợ lẽ, nếu vậy sẽ bị hàng xóm chê bai, kinh miệt và
họ chỉ “một vợ, một chồng” Tuy vậy trong thời kỳ “nhà Lang”, Lang được lấy đa thê, nhiều thiếp Bởi quyền lực tập trung trong tay nhà Lang
Người Mường có quan niệm giống với người Việt là “xuất giá tòng phu” nghĩa là lấy chồng phải theo chồng Hơn nữa trong chế độ phụ quyền con trai được cho là trụ cột trong gia đình, nên trường hợp đi ở rể là rất ít, dù khó khăn nhưng họ vẫn cố gắng để không phải đi ở rể Đây là quy tắc chung của người Mường
Không chỉ người Mường huyện Kim Bôi mà người Mường ở nơi khác cũng vậy họ rất tôn trọng và phải tuân theo nguyên tắc ngoại hôn rất nghiêm ngặt Cụ thể là: những người trong cùng dòng họ không được lấy nhau, mặc
dù đã xa đến mấy đời cũng không được lấy nhau Nguyên tắc này rất ít người
vi phạm vì họ được bố mẹ, họ hàng truyền dạy Họ cho rằng người cùng họ lấy nhau thì con cái không được lành lặn và phạm tội loạn luân lý, bị đuổi ra khỏi dòng tộc Trong chế độ phong kiến, chế độ nhà Lang, chỉ những người trong họ lớn: Đinh, Quách, Bạch, Hoàng mới được lấy nhau; còn họ không có quyền lực, họ bé thì không được lấy người những họ này Quy tắc này cho ta thấy sự phân biệt đẳng cấp rõ rệt Tuy nhiên với một số tộc người thì họ chỉ quy định sau ba đời thì sẽ chấp nhận: như Tày, Nùng…
4.4 Tiêu chí chọn vợ, chọn chồng
Trong thời kỳ phong kiến còn tồn tại sâu sắc tư tưởng “bố mẹ đặt đâu con ngồi đấy” đó là tư tưởng cứng nhắc của bố mẹ Như vậy con cái không có quyền lựa chọn bạn đời mà nhất nhất phải theo sự sắp đặt toàn quyền của bố
mẹ
Trang 14Trong xã hội người Mường kinh tế là yếu tố quan trọng nhất trong tiêu chí chọn vợ, chọn chồng Những gia đình phong kiến thường chọn những gia đình khá giả, môn đăng hộ đối Vì thế những gia đình nghèo rất khó lấy vợ, lấy chồng cho con cái mình Không chỉ vậy, đối với họ, một người con rể tốt,
lý tưởng là người có sức khoẻ, biết làm ruộng, làm vườn, thành thạo công việc: cày, bừa, đan lát … Nhưng yếu tố quan trọng nhất là gốc gác của người con rể Họ thường có câu “lấy chồng xem họ”, như vậy việc xem xét về họ hàng gốc gác là mang ý nghĩa quyết định trong hôn nhân Do vậy, những dòng họ đoàn kết khá giả, hoà nhã với mọi người trong xóm, tốt bụng, không
có bệnh di truyền thì rất dễ lấy vợ gả chồng cho con cháu
Trong khi đó tiêu chí chọn một cô con dâu lại kĩ càng hơn: một người con dâu được cho là lý tưởng phải là một người ngoan ngoãn, chăm chỉ, hiền lành, luôn lễ phép với mọi người, biết cấy hái, “nữ công gia chánh”, có họ hàng đoàn kết, đông đúc Ngoài ra, để chọn một người con dâu trưởng, yêu cầu họ phải là người am hiểu các tục lệ, lễ nghi, nhanh nhẹn, giao tiếp tốt Như vậy người Mường đề cao cái “nết” ở người phụ nữ chứ không tôn vinh
vẻ đẹp bên ngoài, đó là cách nhìn nhận đúng Tiêu chí chọn vợ chọn chồng của người Mường xuất phát từ mong muốn của bố mẹ về cuộc sống hạnh phúc ấm no và giữ được tình đoàn kết họ hàng cho con cái mình Đó là nét đẹp trong nếp sống của người Mường Họ rất coi trọng cuộc sống gia đình, tình đoàn kết giữa mọi người Tất cả những tiêu chí đó cho ta thấy cách nhìn
và quan niệm về cái đẹp của họ không phải đơn thuần mà là tổng thể từ nhiều yếu tố Đó cũng là những tiêu chí làm cho người con gái của bản Mường ngày một hoàn thiện về mình hơn Vậy nên những người con gái được nhà trai chọn phải luôn là niềm tự hào của bố mẹ họ hàng
Trang 154.5 Các bước chính trong lễ cưới của người Mường Kim Bôi – Hoà Bình
4.5.1 Tục lệ trước khi cưới
Khi gia đình nhà trai đã để ý chọn được người ưng ý thì họ chọn một người có uy tín, khéo léo ăn nói, được kính trọng trong làng, gia đình hạnh phúc và đầy đủ vợ chồng, con trai, con gái làm ông mối Vai trò của ông mối được đề cao vì ông mối là người quan trọng trong các lễ, từ lễ đầu tiên là chạm ngõ đến kết thúc lễ cưới đều cần thiết phải có sự hiện diện của ông mối 4.5.2 Lễ ướm hỏi
Ngay sau khi đã tìm được bạn ưng ý, chàng trai về báo cáo với cha mẹ
để tìm người làm mối đến nhà cô gái thưa chuyện Người làm mối sau khi hiểu sơ qua về cô gái, gia cảnh của cô, ông mối đến nhà để dạm tiếng Người làm mối thưa chuyện với gia đình nhà gái cho chàng trai được đi lại kết thân Lần đi đầu tiên này người làm mối không mang theo lễ vật gì, nhà gái cũng chỉ nói lời cảm ơn với nhà trai đã có lời và hẹn sẽ có câu trả lời sau để chờ ý kiến của con gái
Cách vài ngày sau ông bà mối đến nhà gái nhắc lại chuyện hôm trước nếu cô gái gia đình ưng thuận, chủ nhà sẽ hẹn với nhà trai một ngày lành có
ấm chè, chai rượu để bàn bạc Người làm mối có nhiệm vụ thưa chuyện với gia đình nhà trai
4.5.3 Lễ dạm ngõ
Trong ngày dạm ngõ, ông mối đem theo lễ vật sang nhà gái Lễ gồm: bốn chai rượu trắng, bốn chai rượu đỏ (ý nghĩa của bốn chai rượu trắng là biểu hiện cho người con trai, rượu đỏ là biểu hiện cho người con gái), mười hai bánh trưng không nhân (bánh trưng không có nhân ở trong là biểu hiện cho sự trinh tiết của người con gái, được biểu hiện con gái trong trắng như bánh trưng), hai gói chè, hai gói bánh, hai mươi quả cau, hai mươi lá trầu, đôi
gà một trống một mái mang sang nhà gái để thưa chuyện
Trang 16Nhà gái nhận lễ vật đặt lên bàn thờ tổ tiên và sau 3 ngày nhà gái không trả lại lễ vật của nhà trai thì khi đó hai gia đình trở thành thông gia Sở dĩ để
ba ngày sau vì họ muốn tham khảo ý kiến gia đình, họ hàng, làng xóm về người con trai xem có đủ tiêu chuẩn hay không nếu trong ba ngày mà không
có ý kiến gì khác thì lễ vật được đem xuống mời họ hàng, và từ đó cho phép con cái được đi lại thăm hỏi nhau Sau ba ngày ông mối có nhiệm vụ đến nhà gái để bàn bạc chọn ngày một lành để tổ chức làm lễ hỏi Việc lễ hỏi được tổ chức sớm hay muộn thì còn tuỳ thuộc theo điều kiện của từng gia đình
4.5.4 Lễ ăn hỏi
Lễ vật nhà trai mang đến nhà gái gồm có: một con lợn khoảng 40kg, một thúng gạo tẻ 40kg, và mười hai bánh trưng không nhân, rượu trắng bốn chai, rượu màu bốn chai, và kèm theo khoảng 20lít rượu, trầu một trăm lá, cau một buồng, chè bốn gói và hai kg đường trắng, bánh bốn gói, và tiền mặt khoảng hai trăm nghìn đồng (tuỳ thuộc vào thời điểm thì khoản tiền cho lễ hỏi này mới có sự thay đổi) Ý nghĩa của khoản tiền này là tiền đưa đánh tiếng để đặt tên gọi mới cho đôi bạn trẻ Tên được đặt tuỳ thuộc vào thứ bậc con cái trong gia đình để họ nhà trai và họ nhà gái xưng hô cho đúng trong gia đình
Khi ông mối đưa lễ vật đến, ông mối cùng đoàn đưa lễ dùng bữa cơm thân mật với gia đình nhà gái, cùng bàn ngày cưới cho đôi bạn trẻ và bàn lễ vật thách cưới Đại diện họ nhà gái (thường là bác hoặc chị em gái ruột của bố) sẽ đứng ra bàn bạc cụ thể việc thách cưới đó với ông mối Lễ vật thách cưới nhà gái thường thách 40 tức là cái gì cũng 40
4.5.5 Lễ cưới
Người Mường thường chọn ngày cưới bằng cách xem tuổi của đôi trai gái, họ thường tránh cưới năm tuổi, vào tháng mưa ngâu (tháng bảy âm lịch),
Trang 17mình để quyết định Vì họ quan niệm con người có số mệnh, có giờ tốt đẹp thường họ lấy giờ và ngày cưới bằng cách xem sách những người trong làng hoặc đến những thầy bói nổi tiếng trong vùng để chọn được một ngày lành tháng tốt tổ chức đám cưới cho con, cháu mình
Trước ngày lễ cưới chính thức người Mường có tục lệ có một ngày là ngày nhà trai mang đồ lễ (lợn, rượu) sang nhà gái gọi là ngày “triển cáo rạo” Đến ngày cưới chính thức thì mới mang trầu cau, đồ lễ sang gồm có tiền mặt
và những lễ vật còn lại Tối hôm nhà trai mang lễ sang nhà gái thì người Mường ở Kim Bôi thường có một nét độc đáo khác với một số tộc người khác
là thanh niên nhà trai nhà gái giao lưu với nhau Đây là dịp tốt để hát giao duyên, đối đáp, hát ví, hát mời trầu, rằng thường, “pôộ mẹng”: các khúc hát mời trầu rằng thường được các nam thanh nữ tú thể hiện mình và đó cũng là dịp để các thanh niên có cơ hội tìm hiểu và tìm cho mình một ý chung nhân tương lai cho đời mình Nhạc cụ thường được dùng trong đám cưới chủ yếu là sáo, nhị; tất cả đều vang lên sôi nổi như những cuộc sinh hoạt văn nghệ truyền thống Họ vui đến tầm 22h00, 22h30 thì nghỉ để chuẩn bị cho ngày mai ngày cưới chính
Ngày cưới chính thức người Mường tự làm mâm cỗ để mời họ hàng bạn, bè thân thích Khoảng 4h00 sáng thì người được gia đình chọn là người phụ trách cơm, nước đã phải dậy sớm để làm công việc của mình Con trai thì thịt lợn, mổ gà, con gái thì nấu nướng đồ xôi và gói xôi… Mâm cỗ của người Mường đều được bày đặt lên mâm bằng lá chuối và nguời con trai là nguời có nhiệm vụ bày đặt mâm cỗ Tất cả các công việc được phân công từ tối hôm trước nên các công việc đều được diễn ra như đã định 9 giờ sáng, đó là lúc khách đến mừng hạnh phúc cho đôi bạn trẻ Đứng hai bên cổng của đám cưới
là hai ông bà có uy tín và một đôi bạn thanh niên trẻ để đón khách Bố, mẹ cô dâu, chú rể ngồi trong bàn nước để tiếp khách Đến 11h30 khi khách đã dùng
Trang 18cơm xong thì dọn hết mâm cỗ để bày bàn nước, bánh kẹo, thuốc lá trầu cau ra chuẩn bị cho đoàn nhà trai về đón dâu Đoàn nhà gái đưa dâu đến, dùng kẹo bánh, trầu để các cụ có dịp hàn huyên, thanh niên hai họ có dịp hát giao duyên trong những chén chè tự sao và những miếng trầu được têm khéo léo Một nghi lễ quan trọng khi đến nhà trai là con dâu phải đi rót nước trước tiên là mời ông bà cao tuổi nhất trong họ nhà trai, sau đó rót nước mời trầu bố mẹ chồng và lần lượt từ người cao tuổi nhất đến các cô các dì trong họ có trong hồi hôn hôm đó
Ngày đón dâu thì nhà trai sẽ chọn giờ để đi đến đón dâu Người Mường thường đi đón dâu vào đầu giờ chiều vì lúc đó chú rể, cô dâu cũng đã tiếp khách xong và có thời gian để trang điểm cho cô dâu, chú rể Thường là người Mường đi đón dâu vào lúc 2 giờ chiều (vì người Mường quan niệm là đi vào giờ chẵn là giờ đẹp nên chọn giờ đó bắt đầu đi đón dâu) Khi đó chú rể được ông mối dẫn đầu Trước khi đi sẽ làm lễ với tổ tiên xin phép tổ tiên được đi đón một thành viên mới trong gia đình, trong họ hàng Đoàn đi đón dâu gồm
có đại diện họ nhà trai: anh trai, chị gái bố của chú rể đại diện làm “ông, bà đón dâu” của họ nhà trai đến để đón con dâu; ngoài ra còn có bạn bè, họ hàng cùng đi Người Mường quan niệm đoàn nhà trai đi đón dâu phải là con số chẵn không được phép lẻ nên họ sắp xếp người cho phù hợp không được phép
lẻ, vì người Mường rất kiêng con số lẻ Nhà trai khi đi đón dâu mang theo lễ vật gồm có mười hai chiếc bánh trưng (mâm bánh này tượng trưng cho mười hai tháng trong năm), một buồng cau và một trăm lá trầu Lễ vật được đặt lên bàn thờ tổ tiên nhà gái để báo với tổ tiên là gia đình có con rể Ngoài ra còn phải có chè bốn lạng và bánh mua chợ bốn gói Tất cả đều được nam, nữ thanh niên bê và những thanh niên đó cũng sẽ có nhiệm vụ sau khi đón được
Trang 19vẫn phải đợi đến giờ đẹp mới được vào cổng Khi đoàn nhà trai đến cổng thì nhà gái có hai ông bà được cử làm công việc đưa dâu sẽ ra đón đoàn nhà trai, mời đoàn nhà trai vào lễ hồi hôn Ông mối sẽ đưa chú rể vào trong buồng cô dâu để đón cô dâu ra bàn thờ tổ tiên tiên vái lạy tổ tiên để xin dâu về nhà trai Đôi bạn trẻ phải lạy hết những người lớn tuổi hơn bố mẹ vợ trong họ hàng và nhận được những lời chúc cùng tiền mừng của các ông các bà Nghi thức đó như là lời giới thiệu chú rể với họ hàng Sau khi đã làm lễ xong với tổ tiên chú
rể được họ hàng nhà gái coi như con cái trong nhà Sự quan tâm đó chính là một lời nhắn nhủ với chú rể rằng phải biết quan tâm, chăm sóc tới họ hàng nhà vợ để tỏ lòng biết ơn của mình Khi làm lễ xong cô dâu mặc trang phục đẹp nhất, chiếc váy bằng vải lanh màu đen hoặc vải lụa dài tới mắt cá chân, lưng thắt khăn lụa màu xanh lá cây để lộ cạp váy, áo cánh thân dài để đầu gối
xẻ giữa không cúc, bên trong mặc yếm trắng, đầu đội khăn bằng vải trắng Nhìn chung trang phục của cô dâu rất giản dị, điều dáng chú ý nhất là nơi cạp váy nổi lên những hoạ tiết độc đáo, đó là những hoạ tiết về rồng, rùa, chim, ngựa, cá… Để có những hoa văn đó, người con gái Mường phải thật tỉ mỉ, chăm chỉ, khéo léo Do vậy, cạp váy của cô dâu nó tượng trưng cho tài hoa của cô dâu trong thêu dệt cũng như trong việc khác Như vậy, bộ váy của cô dâu cũng là bộ váy truyền thống của dân tộc Mường nó không chỉ mang giá trị sử dụng mà còn chứa đựng những giá trị thẩm mỹ đáng quý
Khi đã đến giờ đẹp (giờ đón dâu) thì cô dâu mới được bước ra khỏi cửa
và không được phép ngoảnh mặt lại nhìn nhà mình (Họ quan niệm rằng con gái đi lấy chồng nếu nhìn lại nhà mẹ đẻ sẽ không tốt) Khi sắp rời khỏi nhà thì một người bác gái có tuổi trong họ sẽ cầm một cái nón đội lên đầu cho cô dâu, đưa cho cô dâu một con dao và dặn dò về nhà chồng phải biết cư xử Đi cùng
cô dâu là phù dâu Phù dâu cũng được đội nón như cô dâu Chiếc nón được
Trang 20đội từ nhà cho đến nhà chồng và mẹ chồng sẽ là người cầm nón từ trên đầu cho cô dâu
Thứ tự đoàn đưa dâu là: ông mối đi trước đến ông bà đưa dâu và ông bà đón dâu tiếp sau là cô dâu, chú rể cùng phù dâu, phù rể sau đó là khách của đoàn nhà trai, gái, cuối cùng là đoàn thanh niên khiêng các đồ dùng mà cô dâu mang về nhà chồng Người Mường có tục lệ cô dâu về nhà chồng phải có một cái “Trlặng” (cái nôi) Cái nôi này do bố của cô dâu đan tặng cháu của mình
Đó là ý muốn con gái mình sau khi về nhà chồng làm tốt nhiệm vụ sinh nở của mình Ngoài ra cô dâu còn mang theo chăn màn tự làm gồm có một đôi chăn biếu ông bà mối, một đôi chăn đệm và gối cho bố, mẹ chồng Tất cả chăn và gối đều phải tự tay cô dâu dệt và làm thì mới được chấp thuận, sau đó
là đến các bác, các cô, chú trong gia đình Nếu bác, cô, chú đã có gia đình thì
sẽ biếu một đôi gối còn những cô, chú nào chưa có gia đình thì sẽ được biếu một chăn một gối còn lại là chăn, màn của đôi vợ chồng trẻ dùng Ngoài ra còn có một chiếc tủ đứng và một chiếc hòm to dùng để đựng đồ dùng sinh hoạt hằng ngày của hai vợ chồng và đồ dùng sinh hoạt của cô dâu
Một điều đặc biệt của người Mường là khi chuẩn bị bước vào nhà chồng thì gia đình nhà chồng phải mua lại một đôi mía tím do một bé trai và một bé gái luôn được cầm đi đầu tiên Nó mang ý nghĩa tránh tà, ma dòm ngó đến đôi vợ chồng trẻ Khi thủ tục này được làm xong thì đoàn đưa và đón dâu mới được vào cổng Đôi mía này còn mang ý nghĩa cho hai vợ chồng trẻ sống mãi bên nhau và đây cũng là một nét đặc trưng độc đáo của Hoà Bình: “Hoà Bình nếp cẩm măng khô, có cây mía tím, có cô gái Mường” Khi cô dâu đã vào trong nhà chồng thì ông mối đưa đôi vợ chồng trẻ vào làm lễ tổ tiên bên nhà chồng Lễ giống như lễ bên nhà gái nhưng đây là lễ đón dâu và họ nhà gái
Trang 21đoàn nhà gái có đại diện là ông, bà đưa dâu sẽ xin phép gửi con gái sang bên nhà chồng để các ông, bà bên nhà chồng dạy bảo rồi xin phép cho đoàn nhà gái ra về
Và một điều nữa là khi cô dâu về nhà chồng không được đi tắt, nếu như vậy họ cho rằng vợ chồng không được đường hoàng, không được chung thuỷ
về sau này Còn những người khiêng đồ biếu của cô dâu không được dừng lại hoặc đặt xuống, rẽ ngang; họ cho rằng nếu như vậy sẽ không tốt cho đôi vợ chồng sau này
4.6 Tục lệ sau khi cưới
Sau khi cưới ba đêm, sang ngày thứ tư, cô dâu chú rể và một đại diện họ nhà trai đưa cô dâu về nhà gái Lễ vật “lại nhà” mà cô dâu và chú rể mang sang nhà gái gồm có hai chai rượu: một chai rượu đỏ, một chai rượu trắng biểu hiện cho màu hạnh phúc Đến ngày sau ông bà nội (bố, mẹ chú rể) sang gia đình nhà gái tạo mối quan hệ khăng khít hơn giữa hai gia đình Từ đó cứ đến mỗi lần làm làm lễ cơm mới, lễ tết, giỗ chạp… vợ chồng đều phải mang lễ vật sang nhà
bố mẹ vợ với ý nghĩa trả công bố, mẹ vợ đã sinh thành con gái
4.7 Các trường hợp hôn nhân ngoại lệ
Trong trường hợp đi ở rể, họ vẫn luôn tuân theo các tục lệ trong tập quán cưới xin nhưng có điểm khác là nhà gái không được thách cưới và người con gái không phải chuẩn bị nhiều chăn, gối để biếu nhà trai Thật ra hình thức thách cưới của người Mường khi người con gái đi lấy chồng là sự trao đổi, nên hôn nhân mang tính chất mua bán, vậy khi con gái không đi làm dâu thì không được thách cưới Đối với người Mường con trai chỉ đi ở rể khi hoàn cảnh gia đình khó khăn Những trường hợp ở rể rất ít Người Mường mang tính chất phụ quyền rõ rệt, người con trai luôn có quyền lực trong gia đình, nên họ không có tư tưởng ở rể Khi ở rể người con gái chỉ chuẩn bị một đôi chăn phà và một đệm, gối để biếu bố mẹ chồng
Trang 22Trong trường hợp trai gái lỡ thì, thì tục lệ cưới xin cũng tương tự như trường hợp bình thường lễ vật thách cưới ít hơn, tổ chức cưới không linh đình
Đối với trường hợp trai goá, vợ goá, lễ cưới tổ chức trong phạm vi hẹp chỉ họ hàng Các bước trong tục lệ giảm đi, họ chỉ ăn hỏi sau một vài tuần sau
đó là tổ chức lễ cưới nên người Mường không có tục lệ cưới xin riêng cho đôi trai gái không được bố, mẹ cho phép Bố, mẹ không đồng ý do rất nhiều nguyên nhân: do hai bên gia đình quan hệ không tốt hoặc con trai, con gái hai gia đình đều không thích Tư tưởng của người Mường đôi lúc có quan niệm
“môn đăng hộ đối” rất quan trọng, đó cũng là nguyên nhân ép gả Tính đẳng cấp trong hôn nhân của họ cũng rõ rệt: những họ lớn (họ lang) mới được phép lấy nhau hoặc con cô con cậu không được lấy nhau Chính vì quy định nghiêm ngặt đó nên tục lệ hôn nhân cướp vợ, hôn nhân anh em chồng, hôn nhân chị em vợ, không xuất hiện trong tục lệ cưới xin của người Mường
4.8 Những biến đổi trong tập quán cưới xin dân tộc Mường ở huyện Kim Bôi
Ngày nay trong các thôn, bản có nhiều biến đổi rõ rệt theo thời đại Khi chế độ phong kiến không còn thì “Lang” cũng mất quyền lực, sự phân biệt đẳng cấp giảm đi rõ rệt, không còn sự phân biệt họ lớn, họ nhỏ Tuy họ sống dưới chế độ phụ quyền nhưng sự gia trưởng trong gia đình không còn quá khắc nhiệt, nên việc chọn vợ, chọn chồng đã thuộc quyền của con cái Trong tiêu chí chọn vợ, chọn chồng ngày nay, là do con cái quyết định Ngày xưa chọn vợ là nhìn cạp váy, tức là họ đề cao sự chăm chỉ, khéo léo trong thêu dệt
và công việc gia đình ngày nay không chỉ vậy họ còn mong lấy được người
vợ thông minh, nhanh nhẹn trong mọi công việc và đối với người chồng cũng vậy Những bước cưới trong tục cưới ngày nay vẫn được người Mường tuân theo nhưng xu hướng giảm bớt nghi thức mà họ cho là rườm rà không cần