1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Pháp luật về xử lý nợ xấu của ngân hàng thương mại nhà nước ở việt nam luận văn ths luật

107 1,6K 3

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 107
Dung lượng 1,34 MB

Nội dung

Với mục đích góp phần vào việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về xử lý nợ xấu ngân hàng nói chung, ngân hàng thương mại nhà nước nói riêng, việc nghiên cứu, đánh giá thực trạng và đề x

Trang 1

KHOA LUẬT

PHẠM KIM THOA

PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ NỢ XẤU CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI NHÀ NƯỚC Ở

VIỆT NAM

Chuyên ngành : Luật kinh tế

Mã số : 60 38 50

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Phạm Duy Nghĩa

Hµ néi - 2007

Trang 2

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NỢ XẤU CỦA NGÂN HÀNG

THƯƠNG MẠI NHÀ NƯỚC

6

1.1 Sự cần thiết phải nghiên cứu và quy định về xử lý nợ xấu 6

1.3 Thực trạng nợ xấu ở khu vực ngân hàng thương mại nhà nước 14

1.4.2.1 Về phía ngân hàng thương mại nhà nước 25 1.4.2.2 Nguyên nhân do chủ quan của khách hàng 29

Chương 2: GIẢI PHÁP XỬ LÝ NỢ XẤU, THÀNH TỰU VÀ MỘT

SỐ BẤT CẬP VỀ PHÁP LUẬT LIÊN QUAN ĐẾN XỬ

LÝ NỢ XẤU

35

2.1 Cơ sở pháp lý và các biện pháp xử lý nợ xấu 35 2.1.1 Nợ quá hạn do vị phạm Quy chế tín dụng 37 2.1.2 Nợ quá hạn do nguyên nhân rủi ro ngoài khả năng kiểm soát 37 2.1.3 Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản trực thuộc ngân

hàng thương mại (AMC)

43

Trang 3

2.1.4 Công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng (DATC) 45

2.4 Các khó khăn trong quá trình xử lý nợ xấu 71

Chương 3: KINH NGHIỆM NƯỚC NGOÀI VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT

VỀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN KHUNG PHÁP LUẬT VỀ

XỬ LÝ NỢ XẤU NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI NHÀ NƯỚC

75

3.2 Thách thức đặt ra đối với hệ thống ngân hàng thương mại

nhà nước trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế

Trang 4

3.3.3 Cổ phần hóa ngân hàng thương mại nhà nước 84

hàng thương mại (AMC)

86

3.3.9 Xây dựng hoàn thiện cơ chế thị trường mua bán nợ 87

3.3.11 Sáp nhập, mua lại, giải thể, phá sản ngân hàng 88

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 93

Trang 5

MỞ ĐẦU

1 Tính cấp thiết của đề tài

Nợ xấu ngân hàng trong những năm gần đây tăng nhanh Sự tồn đọng

và phát triển của nợ xấu đến từ nhiều nguyên nhân khác nhau Nợ xấu gia tăng sẽ có tác động tiêu cực đến hệ thống ngân hàng thương mại nhà nước và cho toàn bộ hệ thống tài chính của Việt Nam Chính vì vậy, nghiên cứu các căn nguyên cũng như thực trạng của nợ xấu sẽ khiến cho việc giải quyết bài toán về nợ có thể trở nên dễ dàng và thuận lợi hơn

Tuy vậy, hiện nay có rất nhiều điểm bất cập trong quá trình xử lý nợ xấu ngân hàng, đặc biệt là ở khối các ngân hàng thương mại nhà nước Quy định về lộ trình, các biện pháp xử lý nợ và các văn bản hướng dẫn thi hành còn thiếu nhiều quy định cần thiết, nhiều điểm còn chưa hợp lý, bất cập, các văn bản luật chuyên ngành khác còn quá cứng nhắc, không phù hợp với thực tiễn Chính vì vậy, dù đã nỗ lực rất nhiều và đã có những thành tựu đáng kể trong tiến trình làm lành mạnh hóa ngân hàng trong những năm qua, dư nợ giảm mạnh nhưng số nợ xấu tuyệt đối vẫn tiếp tục tăng lên Điều này khiến cho ngành ngân hàng, cũng như cả nền kinh tế không tránh khỏi lo âu Đặc biệt, vào tháng 12 năm 2006, Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) Sức ép của sân chơi này đối với các ngân hàng thương mại nhà nước không phải là nhỏ, khi đó là một trong những lĩnh vực phải cam kết mở cửa và cải cách mạnh mẽ nhất Vấn đề nợ xấu lại được đưa ra, vì xử lý được nợ sẽ nâng cao tiềm lực ngành ngân hàng, duy trì sự ổn định và phát triển bền vững của nền kinh tế vĩ mô Thực tiễn và

lý luận đều đòi hỏi quy phạm pháp luật điều chỉnh vấn đề này sâu sắc và chính xác hơn nữa Chính vì vậy, nghiên cứu tổng thể các chính sách cũng như pháp luật về xử lý nợ xấu, tiến tới hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực còn rất nhiều lỗ hổng này là một việc làm tương đối cấp bách trước chủ trương cổ phần hóa ngân hàng thương mại của Nhà nước hiện nay, vừa đáp ứng mục

Trang 6

tiêu phát triển kinh tế, vừa tạo bước đệm cho lĩnh vực ngân hàng - tài chính có được sự bảo hộ cần thiết khi gia nhập WTO

Với mục đích góp phần vào việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về

xử lý nợ xấu ngân hàng nói chung, ngân hàng thương mại nhà nước nói riêng,

việc nghiên cứu, đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp của đề tài "Pháp

luật về xử lý nợ xấu của ngân hàng thương mại nhà nước ở Việt Nam" để

tìm ra những định hướng và giải pháp bổ sung, hoàn thiện quy phạm pháp luật trong vấn đề này là một nhu cầu bức thiết và có ý nghĩa về cả lý luận và thực tiễn

2 T×nh h×nh nghiªn cøu

Xử lý nợ xấu ngân hàng là đề tài nghiên cứu của nhiều nhà khoa học Mỗi nhà khoa học có một cách khám phá, khai thác đề tài này ở những góc độ

khác nhau Ví dụ, bài "Tình hình xử lý nợ tồn đọng của các ngân hàng thương

mại Việt Nam thời gian qua - những tồn tại, vướng mắc và giải pháp tháo gỡ nhằm ngăn ngừa và xử lý nợ tồn đọng" của Trần Minh Tuấn, Phó Thống đốc

Ngân hàng Nhà nước; "Trao đổi về giải pháp xử lý nợ xấu trong hệ thống

ngân hàng thương mại Việt Nam" của TS Lê Quốc Lý, Bộ Kế hoạch Đầu tư;

"Giải quyết nợ xấu và ngăn chặn nợ xấu phát sinh" của Trần Đình Định, Phó

Tổng giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam;

"Nợ xấu - Một số thực trạng, nguyên nhân và giải pháp" của Ngô Minh Châu, Tổng giám đốc Ngân hàng thương mại cổ phần Phương Nam; "Cần thực hiện

đồng bộ các giải pháp trong xử lý nợ xấu của ngân hàng thương mại Việt Nam" của TS Nguyễn Thị Phương Lan, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu

khoa học Ngân hàng; "Vấn đề xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng và của doanh

nghiệp" của TS Nguyễn Đình Tài, Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung

ương; "Cần gắn việc xử lý nợ tồn đọng trong quá trình tái cơ cấu ngân hàng

thương mại Việt Nam với tổng thể xử lý công nợ dây dưa của nền kinh tế quốc dân" của TS Nguyễn Viết Hồng, Giám đốc Công ty BAMC - Ngân hàng Đầu

tư và Phát triển Việt Nam… Các công trình nghiên cứu trên đã phân tích rất

Trang 7

nhiều yếu tố và tỡm hiểu dưới nhiều gúc độ nhưng đa phần đều dừng ở gúc độ nghiệp vụ của ngành, chưa đi sõu về cỏc khớa cạnh luật phỏp Chớnh vỡ vậy, dự

ý thức được tầm quan trọng của cụng tỏc xử lý nợ, nhưng do luật phỏp trong vấn đề này cũn thiếu và yếu nờn việc xử lý nợ chưa mang lại kết quả tốt đẹp theo như mong muốn của cỏc bờn cú liờn quan Ở gúc độ luật phỏp, hiện nay chưa cú một cụng trỡnh khoa học nào nghiờn cứu tổng thể vấn đề nợ xấu, dự đõy là vấn đề gõy bức xỳc, đũi hỏi phải cú sự điều chỉnh toàn diện và cụ thể của cỏc nhà làm luật

3 Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của luận văn Mục đớch nghiờn cứu của luận văn là xõy dựng cỏc luận cứ lý luận và

thực tiễn cho cỏc giải phỏp nhằm nõng cao khả năng xử lý nợ xấu của cỏc ngõn hàng thương mại nhà nước Việt Nam trong tiến trỡnh hội nhập và phỏt triển của cỏc định chế ngõn hàng với cỏc tiờu chuẩn quốc tế

Với mục đớch trờn, đề tài đặt ra cỏc nhiệm vụ nghiờn cứu sau:

- Làm sỏng tỏ về mặt lý luận cỏc khỏi niệm về nợ xấu

- Phõn tớch, đỏnh giỏ một cỏch khoa học và đầy đủ về nguyờn nhõn, thực trạng, kết quả đạt được và những bất cập trong việc xử lý nợ xấu của cỏc ngõn hàng thương mại nhà nước trong những năm qua

- Xỏc định nhu cầu thực tiễn phải hoàn thiện cỏc giải phỏp xử lý nợ xấu đối với cỏc ngõn hàng thương mại nhà nước

- Kinh nghiệm quốc tế trong việc giải quyết nợ xấu của ngõn hàng thương mại

- Đề xuất những giải phỏp khả thi nhằm nõng cao hiệu quả xử lý nợ xấu ngõn hàng thương mại nhà nước

4 Đối tượng, phạm vi, phương phỏp nghiờn cứu

Đối tượng nghiờn cứu: Hoạt động xử lý nợ xấu của cỏc ngõn hàng

thương mại nhà nước tại Việt Nam trong những năm vừa qua

Trang 8

* Phạm vi nghiờn cứu: Cỏc ngõn hàng thương mại nhà nước như: Ngõn

hàng Ngoại thương Việt Nam (VCB), Ngõn hàng Cụng thương Việt Nam (ICB), Ngõn hàng Nụng nghiệp và Phỏt triển Nụng thụn Việt Nam (VBARD), Ngõn hàng Đầu tư và Phỏt triển (BIDV), Ngõn hàng Nhà và đồng bằng sụng Cửu Long (MHB)

* Phương pháp nghiên cứu: Luận văn được thực hiện dựa trờn những chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước Những chủ trương đú được thể hiện nhất quỏn trong cỏc văn kiện của Đại hội Đảng, đặc biệt là Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương khúa X Luận văn vận dụng rất nhiều phương phỏp khỏc nhau trong quỏ trỡnh nghiờn cứu, chủ yếu là sử dụng phương phỏp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử Ngoài ra, để hoàn thành luận văn, người viết cũn sử dụng phối hợp nhiều phương phỏp khỏc, để luận văn cú tớnh lý luận và thực tiễn cao:

- Phương phỏp biện chứng, lịch sử

- Phương phỏp phõn tớch, tổng hợp

- Phương phỏp so sỏnh, thống kờ

- Phương phỏp phõn tớch, tổng hợp

- Phương phỏp điều tra xó hội học, hội thảo và chuyờn gia

- Phương phỏp mụ hỡnh húa, hệ thống húa

5 Đóng góp của luận văn

* Về tư liệu: Hệ thống húa tư liệu, tài liệu, văn bản phỏp lý về hoạt

động xử lý nợ xấu tại cỏc ngõn hàng thương mại nhà nước

* Về nội dung khoa học:

Thứ nhất, lần đầu tiờn vấn đề xử lý nợ xấu được nghiờn cứu một cỏch

toàn diện và hệ thống về lý luận cũng như thực tiễn

Thứ hai, luận văn tiếp cận việc tỡm hiểu, nghiờn cứu về nợ xấu, xử lý

nợ xấu, nguyờn nhõn thực trạng nợ xấu và cỏc phương ỏn cũng như kết quả xử

Trang 9

lý nợ xấu Từ đó đề ra một số giải pháp hoàn thiện để nâng cao chất lượng và hiệu quả của hoạt động xử lý nợ xấu các ngân hàng thương mại nhà nước nói riêng và của cả hệ thống ngân hàng nói chung

Thứ ba, luận văn góp phần nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của

việc xử lý tốt các vấn đề liên quan đến nợ xấu, trên cơ sở phù hợp với thông

lệ quốc tế

Luận văn là công trình nghiên cứu có hệ thống và toàn diện về pháp luật xử lý nợ xấu ngân hàng thương mại nhà nước Kết quả nghiên cứu của luận văn có giá trị tham khảo trong công tác xây dựng, nghiên cứu và áp dụng pháp luật nhất là trong bối cảnh chúng ta tiến hành cổ phần hóa các ngân hàng thương mại nhà nước lớn trong năm 2007 và trong quá trình cải cách ngân hàng theo cam kết và lộ trình với WTO

6 Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Những vấn đề chung về nợ xấu của ngân hàng thương mại

nhà nước

Chương 2: Giải pháp xử lý nợ xấu, thành tựu và một số bất cập về

pháp luật liên quan đến xử lý nợ xấu

Chương 3: Kinh nghiệm nước ngoài và một số đề xuất về giải pháp

hoàn thiện khung pháp luật về xử lý nợ xấu ngân hàng thương mại nhà nước

Trang 10

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NỢ XẤU CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI NHÀ NƯỚC

1.1 SỰ CẦN THIẾT PHẢI NGHIÊN CỨU VÀ QUY ĐỊNH VỀ XỬ LÝ

NỢ XẤU

Là trung gian tài chính, các ngân hàng là cầu nối đầu tư và tiêu thụ, tạo đà phát triển nền kinh tế theo xu hướng tăng về chất lượng và hàm lượng Trong hoàn cảnh nền kinh tế chuyển đổi, để có thể phát triển kinh tế đi đôi với ổn định xã hội, các quốc gia cần phải chú trọng và xây dựng được một hệ thống ngân hàng vững mạnh và hoạt động hiệu quả vì ngân hàng phản ánh sức khỏe nền kinh tế

Các ngân hàng thương mại nhà nước Việt Nam, bao gồm: BIDV, ICB, VCB, MHB, VBARD vẫn đang chiếm giữ hơn 70% huy động vốn và 80% thị phần tín dụng nhưng có mức tỷ lệ nợ quá hạn rất cao; tỷ lệ lãi /tài sản cố định

ở mức rất thấp Các ngân hàng thương mại nhà nước Việt Nam chỉ ở mức trung bình khá so với các nước ở khu vực châu Á như Thái Lan, Singapore…

"Tỷ trọng vốn tự có / tổng tài sản có điều chỉnh rủi ro hiện ở mức trên 5 %

trong khi các nước trong khu vực luôn lớn hơn hoặc bằng 8 %; chi phí nghiệp

vụ / tổng tài sản Có cao hơn tỷ lệ chênh lệch giữa lãi suất cho vay và huy động bình quân 1,5 lần trong khi các nước trong khu vực luôn nhỏ hơn 1" [27]

Hệ quả là, các ngân hàng thương mại nhà nước không phát huy được khả năng sử dụng vốn, chất lượng phục vụ được cải tiến với tốc độ chậm, nếu không nói là tương đối yếu so với thế giới Có thể nói, các ngân hàng thương mại nhà nước có chất lượng và hiệu quả hoạt động không cao Do đó, xử lý

nợ xấu, nâng cao năng lực phòng ngừa và quản trị rủi ro là việc rất cần thiết

Hơn nữa, việc gia nhập WTO đem đến cho đất nước chúng ta nhiều cơ hội và thách thức hơn Rõ ràng, khi bước vào sân chơi chúng ta phải có bản

Trang 11

lĩnh và năng lực thì mới có thể trở thành một người chơi xuất sắc Trong một sân chơi quá rộng và có nhiều anh tài, ngân hàng thương mại nhà nước Việt Nam phải tự cải biến nội lực và nâng cao khả năng cạnh tranh Xử lý nợ xấu giúp ngân hàng có năng lực tài chính và sự lành mạnh trong hoạt động ngân hàng, kéo theo là niềm tin của giới đầu tư và các đối tác Trên nền tảng tài chính vững mạnh, không có quá nhiều rủi ro, việc nhận được nhiều vốn từ kênh quốc tế với ngành ngân hàng sẽ trở thành hệ quả tất yếu

Vì hoạt động chủ yếu dựa trên vốn vay của người có tiền nhàn rỗi trong dân cư nên kinh doanh ngân hàng luôn chứa đựng nhiều rủi ro tiềm ẩn Các ngân hàng thương mại nhà nước là "bà đỡ" cho nền kinh tế, là kênh rót vốn đặc biệt quan trọng (phần lớn tổng nguồn tín dụng của 4 ngân hàng thương mại nhà nước hàng đầu là dành cho doanh nghiệp nhà nước) Rủi ro trong kinh doanh ngân hàng, gồm: rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro tỷ giá, rủi ro lãi suất, rủi ro thị trường, rủi ro đạo đức… Những rủi ro này luôn luôn đe dọa sự an toàn và lành mạnh của toàn bộ hệ thống Trong các loại rủi

ro kể trên, rủi ro tín dụng được đánh giá là loại rủi ro nghiêm trọng nhất đối với ngân hàng Theo cuốn "Risk Management in Banking" của Joel Bessis thì rủi ro tín dụng được hiểu là những tổn thất do khách hàng không trả được nợ hoặc sự giảm sút chất lượng tín dụng của những khoản vay Sự hiện diện của rủi ro tín dụng sẽ đe dọa sự an toàn của cả hệ thống Xử lý nợ xấu là cách hiệu quả giúp cho ngân hàng tích lũy được vốn, nâng cao năng lực tài chính để có thể đối phó được tất cả các rủi ro khác nhau

Trong thời gian dài, các ngân hàng thương mại nhà nước Việt Nam có nguồn tài chính hạn chế và thiếu vốn nghiêm trọng (Phụ lục 4, 5) Trong khoảng 3 năm (từ năm 2002 - 2005) Chính phủ đã bổ sung 9.000 tỷ cho 4 ngân hàng thương mại nhà nước lớn (Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam, ngân hàng Đầu tư và Phát triển, ngân hàng Công thương Việt Nam) chủ yếu là dạng trái phiếu Chính phủ với lãi suất 3,3 % Hàng năm các ngân hàng thương mại nhà nước

Trang 12

còn bổ sung thêm khoảng 3.000 tỷ dưới hình thức trích lập dự phòng và lợi nhuận giữ lại, tuy nhiên nó vẫn chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu của các ngân hàng Rõ ràng, ngân hàng thương mại nhà nước Việt Nam có nội lực yếu, nếu không xử lý tốt nợ xấu thì dù có được rót vốn và sử dụng nhiều phương pháp, các ngân hàng thương mại nhà nước có thể lâm vào tình trạng khó khăn vì nợ xấu đã rút đi phần lãi rất lớn của ngân hàng

1.2 KHÁI NIỆM NỢ XẤU

Nợ xấu là những khoản nợ quá hạn mà người đi vay nợ không trả được

nợ cho ngân hàng Các ngân hàng coi đây là khoản nợ không sinh lời cần theo dõi và xử lý Theo quan điểm của Ngân hàng Liên minh Châu Âu thì có thể xác định nợ xấu trong hoạt động của các ngân hàng thương mại như sau:

a Nợ xấu là những khoản nợ không thể thu hồi được

- Những khoản nợ đã hết hiệu lực hoặc những khoản nợ

không có căn cứ đòi bồi thường từ người mắc nợ;

- Người mắc nợ bỏ trốn hoặc bị mất tích, không có gia tài

hoặc tài sản giữ lại để thanh toán nợ;

- Những khoản nợ mà người mắc nợ đồng ý thanh toán

trong quá khứ nhưng phần còn lại không thể được đền bù, những khoản nợ trong đó tài sản được chuyển để thanh toán nợ nhưng giá trị còn lại không đủ để trang trải toàn bộ nợ;

- Những khoản nợ mà người mắc nợ kết thúc hoạt động kinh

doanh hoặc thanh lý tài sản hoặc kinh doanh bị thua lỗ và tài sản còn lại không đủ để trang trải toàn bộ nợ;

- Những khoản nợ mà người mắc nợ kết thúc hoạt động kinh

doanh hoặc thanh lý tài sản hoặc kinh doanh bị thua lỗ và tài sản còn lại không đủ để trả nợ

b Nợ có thể thanh toán đầy đủ cho ngân hàng

Trang 13

Những khoản nợ không có tài sản thế chấp hoặc tài sản đưa

ra để thế chấp nhưng không đủ

c Nợ có thể không thanh toán đầy đủ cho ngân hàng

Đó là những khoản nợ không có tài sản thế chấp hoặc tài sản đưa ra để thế chấp nhưng không đủ để trả nợ (ngân hàng không thể thu hồi đầy đủ món nợ vì người mắc nợ rất khó kiếm được lợi nhuận đầy đủ món nợ từ công việc kinh doanh) hoặc việc kinh doanh đang bị thua lỗ trong một vài năm hoặc người mắc nợ không liên lạc với ngân hàng để thanh toán lãi hoặc gốc kỳ hạn >1 năm kể

từ ngày đến hạn thanh toán hoặc hoàn cảnh chỉ rõ rằng phần lớn tiền nợ sẽ không thể thu hồi được như:

- Ngân hàng không thể liên lạc được với người mắc nợ hoặc

không thể tìm được người mắc nợ

- Người mắc nợ khó có thể trả nợ và yêu cầu sắp xếp lại lịch

trả nợ nhưng không đền bù được nợ trong thời gian thỏa thuận

- Tài sản thế chấp không đủ để trả nợ và hoàn trả khi đến

hạn hoặc tài sản thế chấp ở ngân hàng không được chấp thuận về mặt pháp lý và hoạt động kinh doanh của người mắc nợ bị thua lỗ trong một vài năm hoặc việc kinh doanh bị chấm dứt hoặc đang trong quá trình thanh lý tài sản

- Những khoản nợ đến hạn thanh toán và hoàn cảnh cho

thấy sự can thiệp của tòa án phải được thực hiện đến cùng hoặc tòa

án can thiệp buộc việc trả nợ phải được thực hiện

- Tòa án tuyên bố người mắc nợ bị phá sản và ngân hàng đã

yêu cầu trả nợ và cho rằng phần bồi hoàn sẽ ít hơn dư nợ [31]

Định nghĩa trên là một định nghĩa của quốc tế về nợ xấu - Nó thể hiện tiêu thức về nợ xấu Nó cũng thể hiện quản điểm phân loại nợ xấu gắn với các nguyên nhân Định nghĩa trên bao quát khá đầy đủ về bản chất nợ xấu khi

Trang 14

nhận định nợ xấu tổng thể dựa trên sự chậm trễ về thời hạn cũng như bản chất khái niệm

Theo ông Trần Đình Định, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, có thể hiểu nợ xấu là nợ gốc, lãi không thu hồi được một phần hay toàn bộ, là nợ không sinh lời bởi không thu được toàn bộ hay chỉ thu được một phần lãi vay

Có rất nhiều cách định nghĩa về nợ xấu Có nhiều khái niệm có liên quan nhưng không đồng nhất, như nợ xấu (bad debt), nợ quá hạn (non - performing loans), nợ có vấn đề (doubtful debt) Chúng đều là các khoản nợ gần như không có khả năng thanh toán và bắt buộc phải xử lý bằng bút toán xóa nợ Theo Điều 13, Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng, ban hành kèm theo Quyết định 1627/QĐ- NHNN ngày 31/12/2001, "khi đến kỳ hạn trả nợ gốc hoặc lãi, nếu khách hàng không trả nợ đúng hạn và không được điều chỉnh kỳ hạn nợ gốc hoặc lãi hoặc không được gia hạn nợ gốc hoặc lãi thì tổ chức tín dụng chuyển toàn bộ số dư nợ sang nợ quá hạn" Định nghĩa này vẫn tập trung ở sự phân tích về nợ xấu, dưới góc độ thời gian

mà chưa chú ý đến bản chất khoản nợ

Hiện nay nợ xấu được định nghĩa trong Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22 tháng 4 năm 2005 (sau đây gọi tắt là Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN) của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của các tổ chức tín dụng và Quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN ngày 25 tháng 04 năm 2007, về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng ban hành theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN

Theo đó, nợ xấu (bad debt) hay còn gọi là nợ không hoạt động (non - performing loans) là các khoản nợ thuộc các nhóm 3,4 và 5 quy định tại Điểm 3, khoản 1, Điều 1 Quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN ngày 25 tháng 04 năm 2007,

về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy định về phân loại nợ, trích lập

Trang 15

và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của

tổ chức tín dụng ban hành theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN và Điều 7 của Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của các tổ chức tín dụng được ban hành theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN, nợ xấu được phân loại theo phương pháp "định lượng" và "định tính" Theo phương pháp "định lượng", nợ xấu gồm 3 nhóm:

Nhóm 3: Nhóm nợ dưới tiêu chuẩn bao gồm:

- Các khoản nợ quá hạn từ 91 ngày đến 180 ngày;

- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu, trừ các khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu phân loại vào nhóm 2 theo quy định tại điểm b khoản này;

- Các khoản nợ được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng không đủ khả năng trả lãi đầy đủ theo hợp đồng tín dụng;

- Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 3 theo quy định tại khoản 3 điều này

Nhóm 4: Nợ nghi ngờ, bao gồm:

Các khoản nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày;

- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu;

- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai;

- Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 4 theo quy định tại khoản 3 điều này

Nhóm 5: Nợ có khả năng mất vốn, bao gồm:

Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày;

- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở lên theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu;

Trang 16

- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai quá hạn theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần thứ hai;

- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ ba trở lên, kể cả chưa

bị quá hạn hoặc đã quá hạn;

- Các khoản nợ khoanh, nợ chờ xử lý;

- Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 5 theo quy định tại khoản 3 điều này

Theo phương pháp " định tính", tại Điều 7của Quy định về phân loại

nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của các tổ chức tín dụng ban hành Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN thì

nợ xấu gồm 3 nhóm:

- Nhóm 3: Nhóm nợ dưới tiêu chuẩn, bao gồm: Các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là không có khả năng thu hồi nợ gốc và lãi khi đến hạn Các khoản nợ này được tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng tổn thất một phần nợ gốc và lãi

- Nhóm 4: Nợ nghi ngờ, bao gồm: Các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là khả năng tổn thất cao

- Nhóm 5: Nợ có khả năng mất vốn: Các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là không còn khả năng thu hồi, mất vốn

Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ban hành Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của các tổ chức tín dụng đã phản ánh một nhu cầu cấp bách, đó là sự phân biệt về tính chất của nợ xấu so với các loại nợ khác như nợ tồn đọng, nợ khó đòi Quyết định trên đặt ra yêu cầu quản lý nợ, kiểm soát rủi ro cao hơn đối với các tổ chức tín dụng và việc thi hành Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN sẽ đánh giá đúng bản chất và chất lượng tín dụng của các tổ chức tín dụng Việc thi hành các quy định mới đòi hỏi nhiều thay đổi tại các ngân hàng, chẳng hạn như yêu cầu đủ vốn chủ sở hữu và các nguồn vốn khác để trích lập dự phòng

Trang 17

cũng như các thay đổi liên quan đến cơ cấu tổ chức, nhân sự, hệ thống thông tin và dữ liệu để quản lý nợ quá hạn Mặt khác, các quy định mới cũng đặt ra những yêu cầu đối với Ngân hàng Nhà nước trong việc phát triển cơ cấu tổ chức và nhân sự để đáp ứng các yêu cầu thực tế Ngân hàng Nhà nước sẽ có những thông tin chính xác hơn về nợ xấu, chất lượng hoạt động tín dụng của từng tổ chức tín dụng và toàn hệ thống tổ chức tín dụng, đồng thời ngân hàng Nhà nước có thể chủ động và có tầm nhìn bao quát hơn trong đánh giá khả năng quản lý, kiểm soát nội bộ và khả năng chịu đựng rủi ro của các chủ thể này Không những thế, Ngân hàng Nhà nước cũng có khả năng quản lý, thanh tra, giám sát các tổ chức tín dụng tốt hơn Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ban hành Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng còn là một công cụ hỗ trợ thực hiện đánh giá tổ chức tín dụng theo CAMELS Sau hai năm ban hành Quy định về việc phân loại nợ, trích lập dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng (Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN), vừa qua ngân hàng Nhà nước

đã sửa đổi, bổ sung một số điều trong văn bản pháp luật này bằng Quyết định 18/2007/QĐ-NHNN ngày 25 tháng 04 năm 2007, về việc sửa đổi, bổ sung một

số điều của Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi

ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng ban hành theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN Cụ thể, rõ ràng và phù hợp với điều kiện thực tế của các tổ chức tín dụng là những tiêu chí mà Ngân hàng Nhà nước hướng đến khi soạn thảo và ban hành Quyết định 18/2007/QĐ-NHNN ngày 25 tháng 04 năm 2007, về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng ban hành theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN

đã quản lý rủi ro chặt chẽ hơn đối với các cam kết ngoại bảng

Theo Quyết định 18/2007/QĐ-NHNN ngày 25 tháng 04 năm 2007, về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng ban hành theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN , các khoản bảo

Trang 18

lãnh, chấp nhận thanh toán và cam kết cho vay không hủy ngang vô điều kiện và

có thời điểm thực hiện cụ thể (gọi chung là các cam kết ngoại bảng) phải được tổ chức tín dụng đánh giá, phân loại theo 5 nhóm thay vì chỉ phân vào nhóm 1 như Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN Điều này có nghĩa, các cam kết ngoại bảng có mức độ rủi ro tín dụng tương đương với các khoản nợ nội bảng được phân loại chặt chẽ hơn, phản ánh chính xác hơn rủi ro tín dụng của tổ chức tín dụng

Quyết định 18/2007/QĐ-NHNN ngày 25 tháng 04 năm 2007, về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng ban hành theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN, đã cụ thể và làm

rõ hơn một số quy định của Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ban hành Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng Nhưng với đặc thù là các quy định mang tính nguyên tắc, nên đòi hỏi khi triển khai thực hiện, tổ chức tín dụng cần căn cứ tình hình cụ thể thực tế và các quy định liên quan để đưa ra các hướng dẫn nội

bộ chi tiết, phù hợp hơn với đặc thù hoạt động của mình, đảm bảo việc quản

lý rủi ro tín dụng được thực hiện tốt

Theo đó, việc kiểm soát dựa trên đánh giá chất lượng tài sản sẽ trở thành nhiệm vụ thường xuyên của các thanh tra Ngân hàng Nhà nước Ngân hàng Nhà nước sẽ phải xây dựng một cơ chế kiểm tra và giám sát trong việc thực hiện nhiệm vụ đánh giá đó Do chi phí phát sinh từ những thay đổi trên

sẽ chuyển sang khách hàng vay nên chi phí cho vay có thể tăng hơn Việc cho vay có bảo đảm sẽ trở thành sự ưu tiên của các ngân hàng để giảm gánh nặng

về dự phòng rủi ro

1.3 THỰC TRẠNG NỢ XẤU Ở KHU VỰC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI NHÀ NƯỚC

Vào những năm 1990, tỷ lệ nợ quá hạn cao trên 20% so với tổng dư

nợ đã gây đổ vỡ nhiều tổ chức tín dụng, gây ra khủng hoảng toàn diện hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần và hợp tác xã tín dụng ở nước ta, gây

Trang 19

nên sự bất bình, thiếu tin tưởng vào hệ thống ngân hàng trong suốt thập kỷ 90 Nhờ có sự xử lý mạnh mẽ, hệ thống ngân hàng và nền kinh tế bắt đầu có những sự phát triển mới, tuy vậy tỷ lệ nợ xấu vẫn rất cao

Tình hình nợ xấu của hệ thống ngân hàng /Tổng dư nợ (Phụ lục 1):

Trong năm 1995, để xử lý các khoản nợ của các doanh nghiệp

mà xét thấy không thể thu hồi được, Chính phủ đã phải tính đến giải pháp khoanh nợ và xóa nợ Tổng số nợ quá hạn của các doanh nghiệp tại các ngân hàng thương mại nhà nước được Chính phủ khoanh lại từ năm 1995 trở về trước để xử lý trong đợt tổng thanh toán nợ giai đoạn 2 là 2233, 2 tỷ đồng Cơ cấu như sau: Nợ xấu lên lưới thanh toán tại Ngân hàng Ngoại thương là 1606 tỷ đồng, bằng 18,2% so với tổng vốn huy động, bao gồm: 570 tỷ đồng đủ điều kiện được xóa, chiếm 35,5 % tổng số nợ lên lưới thanh toán; nợ xấu tại Ngân hàng Công thương là 472 tỷ đồng, bằng 3,6 % tổng số vốn huy động, bao gồm: 421 tỷ đồng đủ điều kiện được xóa, chiếm 89,2% tổng số nợ lên lưới thanh toán; nợ xấu tại Ngân hàng Đầu tư

và Phát triển là 117 tỷ đồng, bằng 7,1% vốn huy động, bao gồm: 87,5 tỷ đồng đủ điều kiện được xóa, chiếm 74,7% tổng số nợ lên lưới thanh toán; Nợ xấu tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn là 38,2 tỷ đồng, bằng 0,2% tổng số vốn huy động, bao gồm: 38,2 tỷ đồng đu điều kiện được xóa, chiếm 100% tổng số nợ lên lưới thanh toán [33]

Dù có nhiều biện pháp xử lý nhưng nợ xấu ngân hàng thương mại nhà nước ở Việt Nam vẫn tăng tốc độ phi mã

Trong giai đoạn từ năm 1996 - 1998, nếu theo tiêu chuẩn Việt Nam tỷ

lệ nợ quá hạn khoảng 13% song theo tiêu chuẩn quốc tế lại không dưới 30% (báo cáo của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) quí IV năm 2001), tương đương với những nước có tỷ lệ nợ quá hạn đặc biệt cao

Trang 20

Nếu theo số liệu của ngân hàng Nhà nước, tính đến cuối năm 2000, nợ của các ngân hàng thương mại nhà nước ở Việt Nam chiếm khoảng 10,78 % / tổng dư nợ Nếu tính cả các khoản nợ chờ xử lý, nợ phải trả thay, nợ thanh toán công nợ giai đoạn II đã lên lưới thì tổng dư nợ quá hạn lên tới khoảng 15,8%/ tổng dư nợ cho vay - gấp 4 lần vốn tự có của các ngân hàng, có nghĩa là

về lý thuyết, các ngân hàng thương mại nhà nước đã lâm vào tình trạng phá sản

Bảng 1.1: Tỷ lệ nợ xấu trên tổng cho vay

(Tỷ lệ %)

2001 2002 2003 2004

Ngân hàng Công thương 17.19 13.09 9.97 3.5 Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn 4.08 5.3 3.1 1.72 Ngân hàng Đầu tư - Phát triển 3.51 4.63 4.71 4.49 Ngân hàng Ngoại thương 11.16 5.8 3.03 2.74

Tính đến cuối năm 2001, ngân hàng thương mại nhà nước chiếm tỷ trọng dư nợ khoảng 70% tổng dư nợ của hệ thống ngân hàng Việt Nam, với tỷ

lệ nợ quá hạn chiếm khoảng 23.000 tỷ

Báo cáo nợ xấu 2005 cho thấy, các ngân hàng thương mại nhà nước hơn 10.000 tỷ đồng, chiếm 2,7% tổng dư nợ Tỷ lệ này tại các ngân hàng thương mại cổ phần <2% nhưng số tuyệt đối là bao nhiêu và tỷ lệ đó có đúng không thì còn phải bàn Nếu theo dự tính của IMF (15%), nợ xấu cả nội và ngoại bảng của các ngân hàng thương mại nhà nước là khoảng 6,2 tỷ USD (13% GDP) Với mức độ tăng trưởng tín dụng hàng năm khá cao (20%) thì tỷ

lệ nợ xấu tăng trưởng nhanh hơn tăng trưởng tín dụng Nếu nợ xấu 2002 là hơn 20000 tỷ đồng (7,2 % dư nợ) thì sang năm 2004 chỉ còn khoảng 13.000 tỷ đồng Năm 2005 nợ xấu được biết là ở khoảng 17.500 tỷ đồng nhưng tỷ lệ giảm xuống chỉ còn 3,18% do tổng dư nợ tăng cao

Kể từ khi có Quyết định phân loại nợ 493/2005/QĐ-NHNN của Ngân hàng Nhà nước, con số biểu thị nợ xấu đã có xu hướng giảm Không ít ngân hàng đã cho công bố những con số nợ xấu ở mức lý tưởng Theo nguồn tổng hợp

Trang 21

từ báo chí, nợ xấu của ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đang ở mức khoảng 2,9 - 3% tổng dư nợ, cao hơn tiêu chí phân loại cũ là 0,6% So với 12 - 13% của năm 2000 thì tỷ lệ trên là khá lý tưởng Ngân hàng Công thương có số nợ xấu khoảng 6% tổng dư nợ, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển ở khoảng 9% tổng dư nợ Đặc biệt, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thì có

số nợ xấu khoảng 2,6% tổng dư nợ

Trên thực tế, con số này có thể cao hơn nhiều Chỉ tính riêng 5.000 tỷ đồng nợ đọng của ngành mía đường, hàng nghìn tỷ đồng thua lỗ của Tổng Công

ty Cà phê, hàng chục nghìn tỷ đồng nợ đọng trong xây dựng cơ bản và khó khăn của các doanh nghiệp xây lắp, hàng nghìn tỷ đồng nợ tài sản chưa thi hành án của các vụ án điểm như EPCO - Tăng Minh Phụng, thời điểm Tòa án tuyên án

số nợ là 6.479.386 triệu đồng, dư nợ năm 2003 là 6.117.624 triệu đồng thì có thể khẳng định, số nợ xấu sẽ lớn hơn những công bố mà chúng ta đã biết

Theo bà Susan Adams, đại diện thường trú cao cấp của IMF tại Việt Nam và ông Klaus Roland, Giám đốc quốc gia Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam thì nợ xấu của hệ thống ngân hàng Việt Nam khoảng 45-60 nghìn tỷ đồng, chiếm khoảng 7 - 10 % GDP Theo đánh giá của những chuyên gia kinh

tế thì tỷ lệ nợ xấu của hệ thống ngân hàng Việt Nam có thể lên đến 30%

Theo số liệu giám sát quý 4/2006, tỉ lệ nợ xấu của các ngân hàng tiếp tục giảm, chỉ chiếm 2,48% tổng dư nợ, giảm 3,88% so với quý 3 Như vậy, tính từ đầu năm 2006 đến giữa năm này, tỉ lệ nợ xấu của toàn hệ thống ngân hàng thương mại liên tục giảm Tuy nhiên, không đi cùng với xu hướng của tỉ

lệ nợ xấu, tỉ lệ nợ quá hạn của các ngân hàng thương mại lại tăng lên Tính đến hết quý 3/2006, chỉ tiêu này là 10,3% trong khi đó, đến hết quý 4/2006, chỉ tiêu này là 11,26%, tăng 9,32% Như vậy, việc tỉ lệ nợ xấu giảm nhưng tỉ

lệ nợ quá hạn vẫn tăng lên là một dấu hiệu xấu của tăng trưởng dư nợ Ngày 31/12/2006, khi BIDV công bố tỷ lệ nợ xấu ở mức 9,1%, gấp khoảng 3 lần so với các ngân hàng thương mại nhà nước khác, không chỉ là điều đáng nghi ngờ mà còn thực sự gây sốc cho không ít người Vì BIDV phân loại nợ theo

Trang 22

Điều 7của Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN, nghĩa là gần với chuẩn mực quốc tế hơn Một chuyên viên Ngân hàng Nhà nước tiết lộ: Từ trước tới nay, việc các ngân hàng thương mại nhà nước gia hạn nợ cho các khoản nợ quá hạn đã là chuyện bình thường Khi qui chế mới về cách tính nợ xấu được ban hành vào năm 2005, sự thay đổi về thông tin đã diễn ra Theo cách tính cũ, cả

4 ngân hàng thương mại nhà nước đều có nợ quá hạn dưới 5 %, nhưng khi tính theo cách tính mới thì con số sẽ hoàn toàn khác Theo IMF, con số nợ xấu của ngân hàng Việt Nam ít nhất là 15% Có thể con số thực tế lớn hơn so với mức báo động kia Gia hạn nợ là một nghiệp vụ bình thường, nhưng khi bị lạm dụng, gia hạn nợ trở thành bức màn che giấu nợ xấu Theo Ngân hàng Nhà nước chi nhánh Hà Nội, năm 2005 số nợ đến hạn mà khách hàng chưa có khả năng trả được các chi nhánh ngân hàng gia hạn, gấp hai lần tỷ lệ nợ xấu Một số ngân hàng điều chỉnh kỳ hạn trả nợ 3 - 4 lần cho một khách hàng và

nợ đó vẫn xếp vào nhóm 1 hoặc nhóm 2 Các khảo sát cho thấy, nợ quá hạn thường nổi lên ở nhóm 2 Đó không phải là ngẫu nhiên Vì nợ nhóm 2 chỉ phải trích dự phòng rủi ro là 5% Trong khi nếu tụt xuống nhóm 3 thì ngân hàng phải trích dự phòng rủi ro là 20% Dự phòng nhóm 4 và nhóm 5 thậm chí còn cao hơn nữa Vậy nên sai sót trong phân loại nợ xấu dễ xảy ra, và con

số chênh lệch hay chưa phản ánh đúng thực tế là có thể hiểu được

Thông qua số liệu (Phụ lục 2) có thể thấy, trong thời gian gần đây hệ thống ngân hàng thương mại nhà nước cũng đang giảm nợ xấu do đã có nhiều thành tựu trong công tác xử lý, nhưng nợ quá hạn lại tăng cao Việc tìm hiểu các căn nguyên nợ xấu là điều rất cần thiết, giúp cho công tác xử lý nợ trở nên triệt để và nghiêm túc hơn

1.4 NGUYÊN NHÂN NỢ XẤU

1.4.1 Nguyên nhân khách quan

Thứ nhất, nguyên nhân bất khả kháng như thiên tai, dịch bệnh, mất

mùa,… là nguyên nhân thường hay gặp nhưng lại vượt ngoài tầm kiểm soát

và mong muốn của người cho vay và bản thân người đi vay

Trang 23

Một nguyên nhân khách quan khác gây ra nợ xấu ngân hàng còn đến

từ chính sách vĩ mô Chính sách có nhiều thay đổi gây ra cho người đi vay những gánh nặng nợ nần không đáng có Thực tế, khối doanh nghiệp nhà nước ta gặp rất nhiều khó khăn như: mất thị trường tiêu thụ sản phẩm, biến động giá cả, thị trường, do sắp xếp lại doanh nghiệp, sáp nhập, giải thể, phá sản nhưng không có khả năng trả nợ hoặc không còn đối tượng để thu hồi nợ Rủi ro, mất mát do những nguyên nhân này gây ra cũng nằm ngoài ý chí và cố gắng của những người đi vay

Chính sách và cơ chế quản lý vĩ mô của Nhà nước đang trong quá trình đổi mới và hoàn thiện nên thường có sự điều chỉnh, thay đổi, nhiều doanh nghiệp không theo kịp nên dự báo nhu cầu thị trường không sát, ví dụ trường hợp cho vay xi-măng, mía đường, gạch gốm sứ… Sự thay đổi thường xuyên của chính sách làm cho doanh nghiệp có vay vốn ngân hàng bị đảo lộn

kế hoạch kinh doanh cũng như kế hoạch trả nợ ngân hàng Ví dụ: Chính phủ đột ngột tăng thuế suất thuế xuất nhập khẩu ở một số mặt hàng mà trước đó ngân hàng đã mở L/C bảo lãnh nhập khẩu hoặc cho vay Một số trường hợp thay đổi chính sách điều hành đã trực tiếp tạo ra các khoản nợ xấu cho ngân hàng thương mại nhà nước như chương trình di dân, đóng cửa rừng, ngừng xuất khẩu gỗ, gạo, thay đổi cơ chế sử dụng đất đai … hay tăng giá một số mặt hàng độc quyền như giá xăng… Lãi suất cho vay của ngân hàng giảm và ở mức thấp (thấp hơn so với vay ngoài hay vay Quỹ tín dụng nhân dân) nên người vay có tâm lý là thà để nợ quá hạn dù lãi suất phạt nợ quá hạn 150% vẫn cứ lợi hơn Hơn thế, khi trả nợ rồi thì khó có thể vay tiếp được do không

đủ các điều kiện mới theo quy định về thủ tục vay vốn ngân hàng Rõ ràng, trong thời gian chuyển đổi nền kinh tế từ tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, chính sách của chúng ta đang điều tiết và thay đổi nhanh chóng Điều này dẫn đến rủi ro lớn cho cả hai phía: ngân hàng và khách hàng, và do những rủi ro này ngoài tầm kiểm soát nên cuối cùng ngân hàng cho vay phải gánh chịu tổn thất nặng nề

Trang 24

Bên cạnh đó, các hoạt động cho vay theo một mục đích, theo chỉ đạo của Chính phủ, theo kế hoạch của Nhà nước đã gây rủi ro lớn cho các ngân hàng thương mại Cơ chế bao cấp tín dụng cho doanh nghiệp nhà nước, chính sách tín dụng nông thôn và tín dụng cho ngân sách nhà nước chưa được xóa

bỏ hoàn toàn khiến ngân hàng thương mại nhà nước vẫn chỉ đạo cho vay bất chấp là khoản cho vay đó có hiệu quả hay không Thậm chí, một số chương trình được xây dựng thiếu căn cứ khoa học dẫn đến sự bất cập giữa cung và cầu Ví dụ, có chương trình đang trong giai đoạn thực hiện thì sản lượng sản xuất đã vượt nhu cầu tiêu thụ, làm cho sản phẩm không tiêu thụ được, giá bán

hạ thấp Lẽ ra phải ngừng đầu tư nhưng địa phương vẫn thực hiện kế hoạch và buộc ngân hàng cho vay Nhiều cơ chế chính sách can thiệp quá sâu vào hoạt động của các ngân hàng thương mại nhà nước đã cản trở các ngân hàng hoạt động trong cơ chế thị trường, hạn chế tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm, tạo ra tâm lý ỷ lại cho các ngân hàng này Vậy là ngân hàng thương mại nhà nước

đã gián tiếp làm mất đi những ưu thế trong kinh doanh mà các ngân hàng khác không có được, chẳng những thế mà nợ đọng còn không ngừng tăng cao

Một trong những nguyên nhân lớn khiến cho nợ xấu tồn tại ở khối ngân hàng thương mại nhà nước là do chính sách tín dụng không hợp lý, không phát huy được nét ưu việt Những nhược điểm của chính sách cho vay vừa là nguyên nhân sâu xa, vừa là nguyên nhân trực tiếp gây ra nợ xấu

Điều bất hợp lý đầu tiên là sự chưa triệt để theo nguyên tắc thị trường (cân nhắc về lợi nhuận và mức rủi ro có thể chấp nhận) của chính sách cho vay Mặc dù đã có cảnh báo từ giới phân tích nhưng sau vụ án Epco Minh Phụng thì ngay lập tức các ngân hàng chuyển hướng cho vay vào nhiều doanh nghiệp mà thực lực tài chính rất yếu kém, thậm chí các ngân hàng thương mại nhà nước còn cạnh tranh nhau với một cuộc đua ngầm tiếp thị tới các công ty

để cho vay Thực trạng cho vay với mức dư nợ tới 35- 40% vào các tổng công

ty của một số ngân hàng thương mại nhà nước đã là hồi chuông báo động đỏ

về chất lượng tín dụng, điển hình là các tổng công ty thuộc ngành xây dựng

Trang 25

và giao thông vận tải, với con số công nợ lên tới 11.000 tỷ đồng, trong đó theo báo cáo của Bộ Tài chính có tới hơn 90% khoản nợ này là thuộc vốn vay ngân hàng thương mại nhà nước Trong khi đó, khu vực dân doanh đã có bước phát triển vững mạnh không ngừng, làm ăn thực sự có lãi nhưng gặp rất nhiều khó khăn khi tiếp cận được nguồn vốn tín dụng ngân hàng Sự phân biệt đối

xử trong cho vay tuy đã có giảm song nỗi bức xúc của doanh nghiệp ngoài quốc doanh vẫn còn Khi cho vay, các ngân hàng đã phân biệt người vay có tài sản hay không có tài sản và mặc nhiên bỏ qua các yếu tố khác như uy tín, hiệu quả sử dụng vốn, với thói quen ưu đãi doanh nghiệp nhà nước và nghi ngại doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việc phân biệt dẫn đến sự nhầm lẫn trong việc lựa chọn khách hàng để cho vay và hậu quả của nó là sự dây dưa, chây ỳ, không có khả năng trả nợ Hệ quả là, các doanh nghiệp muốn vay thì phải thiếu trung thực, các ngân hàng sẽ bị suy giảm khả năng kiểm soát tình trạng sử dụng vốn vay của khách hàng Tuy vậy chính sự yếu kém của khối doanh nghiệp nhà nước mới là hiểm họa Theo cảnh báo của IMF, số nợ của các ngân hàng thương mại nhà nước có thể sẽ lại trên 4% GDP Rủi ro tín dụng rất dễ xảy ra

Hai là, các ngân hàng thương mại nhà nước chưa có sự quản trị rõ

ràng về danh mục cho vay Một số ngân hàng thương mại nhà nước chưa có

Ủy ban quản lý tài sản nợ (tài sản Nợ - tài sản Có), trong danh mục cho vay hiện nay đều hiện diện hầu hết các nhóm hàng và dịch vụ Cạnh tranh giành thị phần

ở các ngành, các nhóm khách hàng mà chính ngân hàng mình không có sở trường đã mang đến rủi ro bất thường ở một số ngân hàng thương mại Trong chính sách cho vay còn có điểm chưa rõ ràng là quy định về nhóm khách hàng liên quan, sau này mới được quy định tại Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ban hành Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi

ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của các tổ chức tín dụng Tuy nhiên, trên thực tế các công ty thành viên của tổng công ty có tư cách pháp nhân độc lập Khi họ là khách hàng vay vốn của ngân hàng thương mại thì mức cho vay

Trang 26

cũng tuân theo quy định ≤ 15% vốn tự có của ngân hàng thương mại Với cách hiểu này, tuy không phạm luật nhưng với những ràng buộc lỏng và trong giai đoạn vốn ứ đọng, vô hình chung đã đưa ngân hàng thương mại vào tình thế rủi ro cao

Ba là, các ngân hàng thương mại nhà nước chưa công bố công khai về

danh mục cho vay: như đặc điểm của một danh mục cho vay chất lượng cao, loại hình cho vay, thời gian đáo hạn, quy mô và chất lượng của khoản vay Việc công bố danh mục cho vay theo báo cáo thường niên của ngân hàng thương mại nhà nước Việt Nam hầu như chỉ dừng lại ở sự thống kê khoản mục cho vay vào các ngành hoặc loại công việc ngắn hạn, trung hạn, dài hạn Tuy vậy, thông tin một danh mục cho vay chất lượng cao, thời gian cho vay… của một ngân hàng theo chiến lược và theo đặc thù riêng ít được truyền dẫn đến công chúng

Ngoài ra, còn tồn tại vấn đề là các doanh nghiệp nhà nước được "ưu đãi lãi suất" Trên thực tế, nếu áp dụng đúng nguyên tắc thị trường thì lãi suất cho vay đối với doanh nghiệp nhà nước phải là cao nhất, vì mức độ rủi ro cao, phần lớn cho vay không có tài sản bảo đảm hoặc có tài sản bảo đảm thì hồ sơ pháp lý chưa đủ hoặc thủ tục về thế chấp tài sản của doanh nghiệp nhà nước phức tạp, không phải lúc nào cũng được các ngành, nhất là cơ quan ký quyết định thành lập doanh nghiệp nhà nước đồng ý cho cầm cố, thế chấp dây chuyền sản xuất chính Tuy nhiên, trên thực tế, lãi suất cho vay doanh nghiệp nhà nước, nhất là các tổng công ty gần như là thấp nhất trong các nhóm khách hàng Việc cho vay dựa vào các dự án chỉ định của Chính phủ cũng đã diễn ra với mục đích bù lãi suất và tránh rủi ro pháp luật Đây là căn nguyên sâu xa dẫn đến khoản tín dụng chất lượng thấp Cũng xuất phát ở điểm này, khi các Bộ ngành vẫn xem xét trình Chính phủ xử lý, thì mức độ lỗ vốn của ngân hàng thương mại nhà nước trong các món vay này đã vượt khỏi dự kiến ban đầu

Bên cạnh đó, việc phân định rõ giữa khâu thẩm định và khâu cho vay

ở các ngân hàng thương mại nhà nước chưa thực sự rõ ràng Thẩm định và

Trang 27

cho vay vẫn cùng do cán bộ tín dụng làm, sau đó qua kiểm soát của lãnh đạo phòng tín dụng và giám đốc duyệt cho vay, các khâu tiếp cận lập hồ sơ, tờ trình tài liệu thông tin chủ yếu dựa trên thông tin của khách hàng cung cấp nguồn thông tin từ kênh khác nhau để kiểm định Quy chế về Hội đồng tín dụng đã được ban hành, việc thẩm định các món vay vượt mức phân công ủy quyền hoặc trong trường hợp người có quyền quyết định thấy có vấn đề cần lấy ý kiến của Hội đồng tín dụng thì có quyền đề nghị họp Hội đồng tín dụng Các thành viên của Hội đồng tín dụng gần như không phải là chuyên gia trong các lĩnh vực, thời gian đọc và nghiên cứu tài liệu vẫn chỉ dừng lại ở sự cung cấp của cán bộ tín dụng Việc thuê chuyên gia tư vấn các lĩnh vực mà ngân hàng ít am hiểu hầu như chưa có, thêm vào đó, việc ràng buộc trách nhiệm của bên tư vấn cũng chưa chặt chẽ, ngân hàng chỉ dựa trên thẩm định của các

cơ quan chức năng thường là chủ quản của doanh nghiệp dẫn đến việc "thuận tình" giữa các bên để vay được vốn ngân hàng trở nên phổ biến hiện nay Tách bạch giữa hai khâu thẩm định và cho vay đã khó, việc đòi hỏi bóc tách

ba khâu: thẩm định - cho vay - thu hồi nợ sẽ là vấn đề lâu dài, nhất là đối với các ngân hàng thương mại nhà nước khi mà vấn đề sở hữu chưa được cải cách

Mặt khác, chúng ta đều nhận thấy tư tưởng vay cho bằng được, vay bằng mọi giá để kỳ vọng vào việc khoanh, xóa, giãn nợ đã ăn sâu vào tiềm thức của người vay thì việc giải quyết các vụ thi hành án mà phía ngân hàng thương mại đã thắng kiện trở thành một điều rất khó khăn Việc niêm phong tài sản của khách hàng vay vốn khi không trả được nợ là "một hành trình gian khổ", điều mà cán bộ tín dụng luôn phải gánh trọng trách

Hơn nữa, việc quản trị, đánh giá, lựa chọn về tài sản bảo đảm còn yếu kém Quản trị danh mục tài sản bảo đảm là một khâu quan trọng trong công tác quản trị ngân hàng thương mại nhà nước Đối với Việt Nam, các quy định của pháp luật đã có và được tiến hành ở một mức độ nhất định nhưng việc quản lý, đánh giá, phân loại, dự báo, cảnh báo về danh mục những tài sản mà một ngân hàng thương mại lựa chọn, xét ưu tiên, nhận làm bảo đảm tiền vay

Trang 28

chưa có tính thống nhất mà chỉ dừng lại ở sự kiểm tra hồ sơ pháp lý, định kỳ đánh giá lại giá trị để điều chỉnh mức dư nợ cho vay hoặc yêu cầu khách hàng

bổ sung tài sản bảo đảm

Nợ tồn đọng phát sinh đã lâu nhưng chậm có cơ chế trích lập dự phòng rủi ro nên lãi giả vẫn phải nộp ngân sách, nợ tồn đọng thì không có nguồn dự phòng để giải quyết Trước năm 1999, các ngân hàng thương mại nhà nước ở Việt Nam chỉ trích lập dự phòng từ nguồn 10% lợi nhuận để lại mà không căn

cứ vào mức độ rủi ro Vì vậy, các ngân hàng hầu như không còn khả năng tài chính để tự giải quyết tình trạng nợ xấu của mình Chỉ từ sau năm 1999, các ngân hàng mới áp dụng cơ chế dự phòng rủi ro Nhưng chỉ mới vài năm trích lập dự phòng không thể bù đắp được nợ tồn đọng cho cả một quá trình lịch sử dài đã đặt các ngân hàng thương mại nhà nước vào thực trạng khó khăn về mặt tài chính

Ngoài những nguyên nhân kể trên, nhìn trên bình diện rộng, rõ ràng môi trường pháp lý nước ta chưa hoàn chỉnh, (Luật đất đai, Luật Tổ chức tín dụng, Luật Doanh nghiệp …) với những qui phạm, văn bản còn chồng chéo, mâu thuẫn Điều này gây ra những tác động tiêu cực không nhỏ đến ngân hàng, biểu hiện ở sự tồn tại của nợ xấu Có thể dẫn ra trường hợp vụ án nổi tiếng Tamexco Hệ thống các ngân hàng chấp nhận các hợp đồng chuyển nhượng, nhận thầu thi công đất đai trên cơ sở các quyết định giao đất của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố và chủ trương làm thử việc sử dụng quỹ đất

để tạo vốn xây dựng cơ sở hạ tầng (hay còn gọi là " chủ trương đổi đất lấy cơ

sở hạ tầng") áp dụng thí điểm cho tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, sau đó nhiều địa phương khác cũng áp dụng Tuy nhiên trên thực tế, giữa chủ trương với biện pháp thực thi vẫn còn rất nhiều khoảng cách mà một trong những điều chưa hợp lý đó là một số cơ quan chức năng, không phân biệt được thế nào là một việc sử dụng, chuyển nhượng đúng pháp luật hoặc giá trị thế chấp, bảo đảm cho các khoản nợ vay ngân hàng là giá trị đầu tư trên đất? [28] Phân tích như trên mới thấy những tác động "ngược" của quy phạm pháp luật đến các hoạt

Trang 29

động ngân hàng là không nhỏ Hệ quả là, việc cho vay có bảo đảm bằng tài sản gặp rất nhiều khó khăn sau đó Thậm chí, pháp luật cho vay có bảo đảm bằng tài sản còn quá nhiều bất cập, mâu thuẫn, thậm chí chồng chéo Đó là nguyên nhân lớn gây ách tắc trong phát mại tài sản, khiến cho ngân hàng không

có nguồn để cấn trừ nợ Đặc biệt là những bất cập liên quan đến ba nhóm chính:

- Các bất cập liên quan tới điều kiện của tài sản bảo đảm như quy định

về cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản, đăng ký pháp lý đối với tài sản bảo đảm chưa phù hợp với thực tiễn

- Các bất cập liên quan tới thủ tục nhận tài sản bảo đảm như các quy định về thủ tục xin phép thế chấp cầm cố không minh bạch, quy định về định giá tái sản bảo đảm mang nặng tính hình thức

- Các bất cập trong xử lý tài sản bảo đảm như chưa trao quyền chủ động

xử lý cho ngân hàng, trình tự xử lý tài sản bảo đảm kéo dài, với chi phí rất lớn

1.4.2 Nguyên nhân chủ quan

Nguyên nhân chủ quan gây ra nợ xấu có rất nhiều nhưng điểm xuất phát cũng từ chỗ: Một mặt luật pháp còn nhiều kẽ hở, cơ chế chính sách còn đang trong quá trình đổi mới, mặt khác, việc thực hiện không nghiêm và kém hiểu biết về nghiệp vụ đưa đến sự cố tình hoặc vô tình làm sai

1.4.2.1 Về phía ngân hàng thương mại nhà nước

Trong một thời gian dài, hoạt động của các ngân hàng thương mại nhà nước vẫn chỉ trong tình trạng lấy ngắn nuôi dài, thiếu một chiến lược kinh doanh hiệu quả và bền vững Dù đã có nhiều đổi mới song hoạt động tín dụng

ở một số ngân hàng vẫn chủ yếu là chạy theo tín hiệu thị trường, nếu thị trường đất đai sôi động thì cho vay kinh doanh bất động sản, nếu địa phương nào có phong trào cho vay nuôi tôm thì cho vay nuôi tôm, khi rộ lên phong trào chơi chứng khoán thì cho vay kinh doanh chứng khoán … Các ngân hàng đầu tư số lượng vốn lớn vào các lĩnh vực nhạy cảm như bất động sản, chứng khoán… dù biết các lĩnh vực này tăng trưởng lúc thì quá nóng, lúc thì đóng

Trang 30

băng, gây nên tình trạng nợ đọng Trong hoàn cảnh thị trường bất động sản mới hình thành, việc định giá bất động sản dễ dãi, vượt quá giá chuyển nhượng trên thị trường, bỏ qua việc phòng ngừa rủi ro khiến thị trường này rơi vào trạng thái bất ổn rất nhanh

Bên cạnh đó, chức năng kinh doanh, sự chủ động sáng tạo của các ngân hàng thương mại chưa được thực sự tôn trọng Dù luật pháp đã chỉ rõ chức năng của ngân hàng thương mại là kinh doanh, nhưng các ngân hàng thương mại nhà nước hoàn toàn không tự chủ với hoạt động của mình Cho vay theo chỉ đạo của Chính phủ, theo kế hoạch của Nhà nước… khiến các ngân hàng lớn không hoàn toàn né tránh được những tác động chỉ thị mang tính hạn chế nhằm can thiệp, chi phối hoạt động cho vay của họ Ngay cả Ngân hàng Nhà nước - đơn vị thực hiện chức năng quản lý nhà nước về các hoạt động tín dụng trong toàn quốc, trong nhiều văn bản quy phạm đưa ra vẫn can thiệp quá sâu vào hoạt động của các ngân hàng này bằng cách cụ thể hóa từng quy trình nghiệp vụ cụ thể Vì vậy mà nảy sinh tính ỷ lại, đối phó Dù tính sáng tạo, tính

tự chủ có bị hạn chế nhưng lại có cảm giác an tâm vì luôn có sự bao bọc

Sự thiếu đa dạng trong hoạt động cung cấp sản phẩm dịch vụ ngân hàng cũng là một nguyên nhân khiếu nợ xấu tồn tại Hoạt động tín dụng vẫn

là hoạt động chủ yếu đem lại thu nhập cao nhất cho các ngân hàng thương mại Các ngân hàng thương mại nhà nước đã song hành với công cuộc cải tổ

và đổi mới bằng việc mở rộng và phát triển mảng dịch vụ Tuy nhiên, sau hơn

10 năm đổi mới, hoạt động tín dụng và nguồn thu từ hoạt động này vẫn đóng vai trò chủ yếu, tỷ lệ thu lãi cho vay của một số ngân hàng vẫn chiếm trên 70%,

cá biệt có ngân hàng lên đến > 80% tổng thu Nguồn thu nợ từ hoạt động dịch

vụ ngân hàng còn chiếm tỷ trọng thấp Việc quản lý tín dụng vẫn theo lối cổ truyền Yếu tố này làm tăng mức rủi ro tiềm ẩn cho các ngân hàng thương mại nhà nước (phụ lục 3)

Một nguyên nhân nội tại khác của phía ngân hàng xuất phát từ khả năng và điều kiện xử lý nợ tồn đọng của ngân hàng, có thể nói là thấp, biểu hiện cụ thể:

Trang 31

Thứ nhất, sự phối hợp giữa ngân hàng và các ban ngành khác nhau

trong xử lý nợ còn thiếu chặt chẽ, ngân hàng chưa thực sự nhận được sự ủng

hộ tích cực của các ngành, cấp có liên quan Thậm chí các cơ quan trên coi đó

là việc riêng của ngành ngân hàng

Thứ hai, chế độ chính sách về đảm bảo, xử lý tài sản chưa thông thoáng Thứ ba, vấn đề định giá tài sản đảm bảo và thủ tục định giá còn nhiều

vướng mắc về giá cả, cơ chế

Thứ tư, trình độ, kinh nghiệm quản lý và tác nghiệp của một số cán bộ

và lãnh đạo của hệ thống ngân hàng thương mại nhà nước còn chậm phát hiện các nguy cơ rủi ro tiềm ẩn, dẫn đến những sai lầm trong các quy định cho vay

và chất lượng tín dụng không tốt kéo dài Trong một thời gian dài, cơ chế chính sách lỏng lẻo chưa có sự thưởng phạt nghiêm minh, chịu trách nhiệm đến cùng của các cá nhân đối với các khoản do họ cho vay mà không thu được, tạo ra chất lượng tín dụng thấp Thực tế, có nhiều cán bộ cho vay và lãnh đạo các chi nhánh ngân hàng vẫn bình an và lên chức, trong khi sau một thời gian dài các khoản do họ cho vay đều không thu hồi được và thất thoát Một bộ phận nhỏ cán bộ trong hệ thống ngân hàng bị sa sút về phẩm chất, đạo đức nghề nghiệp trong cơ chế thị trường đã gây thiệt hại kinh tế cho các ngân hàng Lực lượng lao động trong ngân hàng hầu hết chuyển tiếp từ hệ thống ngân hàng thời bao cấp Số mới tuyển dụng chưa tích lũy được nhiều kiến thức và kinh nghiệm trong nền kinh tế thị trường Do vậy, đôi khi cán bộ ngân hàng không bắt kịp mạch phát triển của nền kinh tế, bỏ lỡ cơ hội đầu tư

Bên cạnh những yếu tố kể trên, sự thiếu độc lập của Ngân hàng Nhà nước trong việc điều hành chính sách tiền tệ đã gây ra những hiệu ứng thiếu tích cực trong hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại Ngân hàng Nhà nước có nhiều bất cập trong việc thanh tra, giám sát tài chính Hệ thống bộ máy tổ chức Ngân hàng Nhà nước theo tỉnh, thành phố và quan hệ quản lý hành chính lại càng làm giảm tính độc lập của Ngân hàng Nhà nước Tương

tự, hệ thống các chi nhánh ngân hàng thương mại nhà nước cũng được phân

Trang 32

bố theo địa bàn các tỉnh thành phố và quan hệ hành chính lại càng làm giảm tính độc lập, tự chịu trách nhiệm của các ngân hàng Trong điều kiện đó, chính quyền địa phương thường can thiệp vào các quyết định cho vay của các ngân hàng thương mại nhà nước một cách trực tiếp hoặc gián tiếp Vậy nên các quyết định cho vay của các ngân hàng không hoàn toàn mang tính thương mại không phải là điều quá khó hiểu Không những thế, các dự án cho vay đối với doanh nghiệp nhà nước thường bị đánh giá với mức độ rủi ro nhỏ hơn so với bình thường Chính điều đó cũng chứa đựng nguy cơ nợ xấu tăng cao

Mặt khác, hệ thống quản trị quản lý của các ngân hàng thương mại nhà nước cũng bộc lộ rất nhiều điều bất hợp lý Đa số các ngân hàng này chưa

có hệ thống quản lý rủi ro phù hợp Khi thị trường tiền tệ còn đang xây dựng, thị trường mở hoạt động tẻ nhạt thì sự tham gia của các ngân hàng thương mại nhà nước đóng vai trò quan trọng đặc biệt Tuy vậy, việc quản lý, dự báo vốn khả dụng còn hạn chế, công cụ thị trường nghèo nàn, tính lưu hoạt thấp Các công cụ tài chính thiếu tính linh hoạt chắc chắn cũng hạn chế khả năng quản

lý vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng Hệ quả là năng lực xử lý nợ quá hạn

bị hạn chế, sức đề kháng của ngân hàng suy giảm, sự quản lý yếu kém của ngân hàng thương mại luôn đi đôi với tình trạng nợ xấu cao Một ngân hàng yếu kém trong phân tích tín dụng, chấp nhận các kế hoạch rủi ro quá mức chắc chắn sẽ phải chấp nhận nợ xấu cao

Không những vậy, công tác tổ chức giáo dục thanh tra, kiểm tra, kiểm soát của hệ thống ngân hàng chưa đáp ứng được yêu cầu quốc tế, nên chậm phát hiện và xử lý những vi phạm trong quá trình cấp tín dụng Điều này càng góp phần đẩy mạnh nợ xấu tăng cao

Điều gây nên sự lo lắng là, do năng lực tài chính của các ngân hàng thương mại nhà nước chưa đủ mạnh nên công tác xử lý nợ xấu còn chưa thực

sự hiệu quả Ví dụ:

Thứ nhất, do chất lượng tài sản thấp: Tỷ lệ nợ xấu phân theo tiêu chuẩn

quốc tế cao (lên tới 2 con số) và chưa được kiểm soát hợp lý, tiềm ẩn rủi ro

Trang 33

trong hoạt động ngân hàng thương mại nhà nước Các khoản cho vay theo chỉ định của nhà nước (mía đường, cà phê, khắc phục thiên tai ) và những khoản cho vay của các ngân hàng thương mại nhà nước cho các doanh nghiệp nhà nước đã, đang và sẽ là nguy cơ chủ yếu đối với an toàn hệ thống Việc trích lập dự phòng rủi ro cũng chưa đúng với thực tế rủi ro mà các ngân hàng thương mại phải đối mặt thể hiện qua bảng thống kê (Phụ lục 4, 5)

Thêm vào đó, vốn tự có nhỏ so với quy mô tài sản ở ngân hàng thương mại nhà nước: Khả năng tự bổ sung vốn tự có bị hạn chế do tốc độ tăng tài sản Có lớn nhưng khả năng sinh lời không được cải thiện tương ứng Hiện tại

hệ số an toàn vốn (vốn tự có/tổng tài sản Có rủi ro)thấp hơn so với hệ số an toàn vốn của nhiều ngân hàng trong khu vực châu Á; thậm chí, có nguy cơ ngày càng xấu đi do tốc độ tăng tài sản có nhanh hơn nhiều so với tốc độ tăng vốn tự có mà nợ xấu tiếp tục gia tăng (Ngân hàng Nhà nước, 2006) Hầu hết các tổ chức tín dụng cổ phần, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đã đạt được mức an toàn vốn trên 8% Trong khi đó một số ngân hàng thương mại nhà nước lớn nhất của Việt Nam 2006 chưa đạt được mức chuẩn này

Bảng 1.2: Hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại nhà nước

Chỉ tiêu 1999 2000 2001 2002 2003

Nợ quá hạn/tổng dư nợ (%) 14,74 11,19 8,74 7,58 5,01 Lợi nhuận ròng/ Vốn tự có (RoE)(%) 8,63 12,81 15,58 9,43 6,54 Lợi nhuận ròng/Tổng tài sản Có (RoA)(%) 0,36 0,36 0,38 0,3 0,38

Lợi nhuận thấp, nợ quá hạn cao dẫn tới việc các ngân hàng này không

có nguồn trích dẫn để có thể tăng vốn điều lệ và vốn tự có ngoài việc trông chờ vào ngân sách nhà nước Đây chính là một nghịch lý mà các ngân hàng gặp phải trong quá trình xử lý những khoản nợ khó đòi

1.4.2.2 Nguyên nhân do chủ quan của khách hàng

Do hiệu quả sản xuất kinh doanh kém, kinh doanh chủ yếu bằng vốn vay ngân hàng nên nhiều khách hàng gặp rủi ro cao và kết quả là gây thiệt hại

Trang 34

lớn cho chủ thể cho vay Năng lực tài chính của doanh nghiệp Việt Nam còn yếu Mô hình Tổng công ty 90, 91 và các đơn vị thành viên độc lập khiến cho tiềm lực kinh tế bị phân tán Kết quả kiểm tra cho thấy doanh nghiệp nhà nước chỉ có từ 5 - 10% vốn để hoạt động, còn lại là vay ngân hàng tới hơn 90% để sản xuất kinh doanh (doanh nghiệp ngoài quốc doanh cũng vay hơn 70% vốn kinh doanh).Trong khi đó, cơ chế quản lý của doanh nghiệp còn nhiều sơ hở và bất cập, năng lực và kinh nghiệm quản lý yếu kém, công nghệ lạc hậu, máy móc thiết bị cũ kĩ, hàng hóa không đủ sức cạnh tranh dẫn đến hiệu quả kinh doanh thấp và đây cũng là gánh nặng trong môi trường đầu tư ngân hàng

Bên cạnh đó, nhiều khách hàng có tư tưởng lợi dụng kẽ hở của pháp luật để tính toán lừa đảo, sử dụng vốn sai mục đích, vay không có ý định trả

nợ Trong đó có nhiều giám đốc doanh nghiệp còn có những hành vi phạm pháp như lạm dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản, có nhiều biểu hiện sai phạm trong chi tiêu, gây lãng phí tài sản nhà nước Có thể kể ra trường hợp điển hình từ vụ án Epco Minh Phụng

Công ty Minh Phụng đã được các cơ quan chức năng có thẩm quyền cho phép thực hiện chức năng kinh doanh xây dựng cơ

sở hạ tầng, địa ốc Toàn bộ hoạt động của Tăng Minh Phụng đã được thực hiện trong phạm vi chức năng cho phép Tuy nhiên, từ những quy định của Luật công ty về điều kiện, thủ tục thành lập công ty TNHH, về vốn pháp định đăng ký… Tăng Minh Phụng đã

"lách" luật bằng việc mượn danh nghĩa người thân, anh em, bạn bè

và cung cấp vốn để họ tiến hành thành lập các công ty nói trên theo đúng thủ tục luật định Các công ty "vệ tinh" được thành lập chỉ nhằm mục đích giúp Tăng Minh Phụng vay vốn để đối phó với hạn mức cho vay "10%" như là một sự "lách luật" đã cho thấy tính bất cập của quy định này với những hạn chế trong cơ chế kiểm tra, giám sát tính xác thực về tư cách chủ thể trong quan hệ tín dụng ngân hàng, cũng như những quy định về thẩm định giá trị tài sản khi xem xét cho vay hoặc bảo lãnh hoạt động tín dụng ngân hàng

Trang 35

Vậy là, cùng với hệ thống pháp luật đất đai chưa ổn định, sự nhận thức và những biện pháp "lách luật" của Minh Phụng đã tạo ra một vòng xoáy địa ốc của những cơn báo tín dụng, mở ra một trong những vụ án trọng điểm kinh tế trong những năm gầy đây mà đến nay cũng chưa khắc phục hết hậu quả [28]

1.4.2.3 Những nguyên nhân khác

Ngoài những nguyên nhân khách quan và chủ quan, có rất nhiều nguyên nhân khác đan chéo, gây ra nợ xấu ở khối ngân hàng thương mại nhà nước trong những năm qua Có thể coi đây là những "gia vị", làm cho "món nợ xấu" trở nên "đậm đà" hơn Đó là:

- Chiến lược hoạt động và quy hoạch phát triển của toàn hệ thống ngân hàng cũng đang trong quá trình hình thành và phát triển, cùng với chiến lược kinh doanh của các ngân hàng thương mại nhà nước Việt Nam chưa rõ ràng, dẫn đến việc cấp vốn điều lệ của Chính phủ cho các ngân hàng thương mại nhà nước kém hiệu quả

- Nhiều phương tiện nghiệp vụ hoạt động của ngân hàng còn đang trong quá trình xây dựng, thích ứng dần tới môi trường kinh doanh quốc tế Mặt khác, quyền chủ động và tự chủ về tài chính của các ngân hàng cũng còn bị hạn chế, chưa tách bạch giữa tín dụng ưu đãi theo chính sách của Chính phủ với tín dụng thương mại theo cơ chế thị trường, dẫn tới việc quản lý hạch toán

và phân định trách nhiệm không minh bạch và kết quả là bị lợi dụng

- Việc sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước tiến hành chậm, gây ảnh hưởng đến tiến độ và tình hình xử lý nợ của ngân hàng

- Hệ thống thông tin quản lý chưa chính xác dẫn đến nguy cơ nợ xấu Việt Nam chưa có một cơ chế công bố thông tin đầy đủ về doanh nghiệp và ngân hàng Khi các ngân hàng thương mại nhà nước cố gắng chạy mở rộng tín dụng trong điều kiện môi trường thông tin không cân xứng thì nguy cơ nợ xấu tất yếu sẽ phát sinh

Trang 36

Việc chuyển đổi hoạt động tín dụng sang cơ chế thương mại thực sự còn bất cập là: chỉ muốn cho vay đối với doanh nghiệp nhà nước vì yêu cầu

về thẩm định dự án quản lý rủi ro đơn giản hoặc hầu như không đặt ra đối với doanh nghiệp tư nhân 60% tín dụng của các ngân hàng thương mại nhà nước

là dành cho các doanh nghiệp nhà nước với các điều kiện tín dụng ưu đãi hơn như thẩm định dễ dàng và không cần thế chấp

- Lãi suất tự do hóa, tỉ giá thả nổi là khuynh hướng của tự do hóa tài chính, hội nhập quốc tế Tuy nhiên, do nền kinh tế đang trong giai đoạn phát triển nên giai đoạn đầu của việc làm này có hạn chế là không phản ánh đúng cung cầu trên thị trường, không gắn với mức độ rủi ro của vốn vay

- Tăng trưởng tín dụng cao trong khi khả năng phát triển kinh tế không đạt (mía đường, vay đánh bắt xa bờ), tập trung cho vay vào khối doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ, đa phần phải tái cơ cấu khiến cho nợ xấu tăng mạnh

- Tham nhũng làm suy yếu hệ thống tài chính, ảnh hưởng tiêu cực đến

sự phân bổ các nguồn lực tài chính trong nền kinh tế dẫn đến nợ xấu trong hệ thống ngân hàng

- Bảo hiểm chưa phát triển Bảo hiểm tiền gửi vẫn đang trong giai đoạn phát triển, khi mới chỉ có bảo hiểm tiền gửi mà chưa có sự liên hệ với pháp luật phá sản nên ít nhiều có tác dụng tiêu cực đến ngành ngân hàng, làm cho

sự an toàn và lành mạnh trong ngành tài chính ngân hàng bị sút giảm

1.5 HẬU QUẢ CỦA NỢ XẤU

Khi ngân hàng hoạt động kém hiệu quả, đặc biệt là do sự không thành công của khối ngân hàng thương mại nhà nước, công chúng sẽ thiếu tin tưởng khiến cho tích lũy nội bộ ở Việt Nam thấp Tỷ lệ tích lũy nội bộ thấp là nguyên nhân hạn chế tăng trưởng dài hạn đồng thời duy trì sự lệ thuộc vào quốc tế Các ngân hàng thương mại nhà nước sẽ không làm tốt chức năng trung gian tài chính, luồng vốn nhàn rỗi trong dân cư sẽ tự động chảy đến những chỗ khác nhau Trong khi nền kinh tế của chúng ta đang khát vốn, người gửi tiền bị suy

Trang 37

giảm lợi nhuận, nợ không sinh lời gia tăng làm cho ngân sách nhà nước bị suy giảm mạnh

Mặt khác, nợ xấu có nguy cơ gây ra sự sụp đổ cho hệ thống ngân hàng, gây mất ổn định xã hội vì nợ xấu có thể gây khủng hoảng tài chính Lãi suất tăng dẫn đến nợ xấu tăng Khi người gửi tiền nhận ra dấu hiệu không lành mạnh của các định chế tài chính này, một hiệu ứng nguy hiểm mang tính dây chuyền sẽ xảy ra: người gửi tiền đồng loạt rút tiền ra khỏi hệ thống, làm cho ngân hàng có thể bị sụp đổ tức thì Khi ngân hàng bị mất khả năng thanh toán thì nền kinh tế và sự ổn định xã hội cũng đi xuống

Bên cạnh đó, nợ xấu cũng khiến ngân hàng mất cơ hội nhập Khi ngân hàng thương mại nhà nước có lượng nợ xấu cao, họ không thể công khai thực trạng tài chính của mình Sự không minh bạch thông tin kéo dài làm giảm, thậm chí mất lòng tin của dân chúng và quốc tế Khi đó các cánh cửa có thể đóng sập lại ngay trước mỗi ngân hàng

Nợ xấu làm chậm quá trình tuần hoàn và chu chuyển vốn của các Tổ chức tín dụng, làm chậm vòng quay của vốn, giảm hiệu quả sử dụng vốn, giảm lợi nhuận

Chi phí xử lý các khoản nợ xấu lớn (lãi tiền gửi, chi phí quản lý và chi phí khác ) Tất cả các loại chi phí này đều phải được bù từ nguồn lãi, do đó đương nhiên làm giảm lợi nhuận của ngân hàng và làm cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng đi xuống, thậm chí gây lỗ Quỹ lương dành cho cán bộ công nhân viên ngân hàng do ngân hàng đã trích tiền ở đây bù vào quỹ dự phòng rủi ro sẽ giảm, gây ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của những người làm ngân hàng

Không những thế, nợ xấu còn hạn chế khả năng mở rộng và tăng trưởng tín dụng Nó tác động trực tiếp đến khả năng tài chính của ngân hàng thương mại nhà nước khi phân tích đánh giá tình hình tài chính, làm họ mất khả năng

và cơ hội đầu tư cũng như hội nhập

Trang 38

Dịch vụ ngân hàng bị hạn chế sẽ kìm hãm sự phát triển nền kinh tế Vốn ứ đọng sản xuất kinh doanh đình trệ làm cho doanh nghiệp hoạt động càng kém hiệu quả hơn

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

Có thể thấy sự tồn tại nợ xấu trong khối ngân hàng thương mại nhà nước là điều đã diễn ra trong hoạt động của hệ thống ngân hàng từ lâu nay Sự hiện diện của nợ xấu là một kết quả phức hợp của rất nhiều nguyên nhân khác nhau, từ những nguyên nhân khách quan bất khả kháng như thiên tai, môi trường kinh tế chưa năng động, chính sách pháp luật chưa phù hợp đến những nguyên nhân chủ quan của ngành ngân hàng, đòi hỏi phương pháp xử lý phải được tiếp cận từ nhiều khía cạnh Các công cụ, cách thức khác nhau đều phải được Luật hóa, thông qua quá trình này, các biện pháp khác được chính thức thừa nhận và có hiệu lực thi hành trên toàn hệ thống Pháp luật xử lý nợ xấu là tổng thể các phương pháp, cách thức, biện pháp khác nhau điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình xử lý nợ xấu giữa chủ nợ, con nợ và

các bên có liên quan Tuy không có một đạo luật chính thức điều chỉnh vấn đề

nợ xấu song nhiều vấn đề liên thông trong quá trình xử lý nợ giữa các cơ quan khác nhau trong hệ thống lập pháp, hành pháp, tư pháp của nước ta được giải quyết bằng một hệ thống các văn bản pháp luật khác nhau Chính phủ và các ngân hàng đã và đang nỗ lực tìm ra các giải pháp để giải quyết nợ xấu Xu hướng chung là kết hợp các công cụ hành chính, tư pháp và nghiệp vụ ngân hàng để

xử lý tận gốc các khoản nợ xấu ở khu vực ngân hàng thương mại nhà nước

Trang 39

Chương 2

GIẢI PHÁP XỬ LÝ NỢ XẤU, THÀNH TỰU VÀ MỘT SỐ BẤT CẬP

VỀ PHÁP LUẬT LIÊN QUAN ĐẾN XỬ LÝ NỢ XẤU

2.1 CƠ SỞ PHÁP LÝ VÀ CÁC BIỆN PHÁP XỬ LÝ NỢ XẤU

Đứng trước nguy cơ nghiêm trọng đối với ngân hàng và nền kinh tế, nếu không có sự phản ứng kịp thời, các định chế tài chính ở nước ta sẽ có thể tan vỡ bất cứ lúc nào nên Nhà nước, Chính phủ và các Bộ, ban, ngành đã đồng loạt ban hành những văn bản quy phạm pháp luật để đối phó với tỉ lệ nợ đọng quá hạn tăng cao ở doanh nghiệp nhà nước cũng như nợ xấu ở khối ngân hàng Những văn bản quan trọng nhất gồm có:

- Luật Đất đai 2003

- Luật Doanh nghiệp nhà nước 2004

- Luật Hôn nhân và Gia đình 2000

- Luật Phá sản 1993, 2004

- Nghị định 69/2002/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý và xử lý nợ tồn đọng đối với doanh nghiệp nhà nước

- Thông tư 85/2002/TT-BTC ngày 26 tháng 9 năm 2002 hướng dẫn thực hiện Nghị định số 69/2002/NĐ-CP ngày 12/7/2002 của Chính phủ về quản lý và xử lý nợ tồn đọng đối với doanh nghiệp nhà nước

- Thông tư 74/2002/TT-BTC của BTC ngày 9 tháng 9 năm 2002 hướng dẫn việc đánh giá lại khoản nợ tồn đọng không có tài sản bảo đảm của ngân hàng thương mại nhà nước

- Quyết định số 92/2002/QĐ-TTg ngày 29 tháng 1 năm 2001 phê duyệt phương án tài chính để thực hiện cơ cấu, sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước

và ngân hàng thương mại nhà nước 2001-2003 và Công văn số 36/CP-KTTH ngày 15/7/2002 về cấp bổ sung vốn điều lệ

Trang 40

- Quyết định số 43/2001-TTg ngày 27 tháng 3 năm 2001 thành lập Ban Chỉ đạo cơ cấu lại tài chính ngân hàng thương mại do Phó Thủ tướng Chính phủ làm trưởng ban

- Quyết định 131/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về thành lập Ngân hàng Chính sách Xã hội

- Quyết định 109/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 5 tháng 6 năm 2003 về việc thành lập công ty mua, bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp

- Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2001 về việc ban hành Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng

- Quyết định 127/2005/QĐ-NHNN ngày 3 tháng 2 năm 2005 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng an hành theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước

- Quyết định 150/2001/QĐ-TTg của ngày 5 tháng 10 năm 2001 về việc thành lập công ty quản lý nợ và khai thác tài sản trực thuộc ngân hàng thương mại

- Quyết định 149/2001/TTg về việc phê duyệt đề án xử lý nợ tồn đọng của các ngân hàng thương mại

- Quyết định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22 tháng 4 năm 2005 ban hành quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng

- Quyết định 18/2007 sửa đổi Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22 tháng 4 năm 2005 ban hành Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng

Những văn bản pháp luật trên là những căn cứ pháp lý quan trọng nhất trong quá trình tái cơ cấu và xử lý tận gốc các khoản nợ có vấn đề của ngân

Ngày đăng: 20/10/2015, 16:06

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Bộ Tài chính (2002), Thông tư của số 27/2002/TT-BTC ngày 22/03 hướng dẫn chế độ tài chính đối với công ty quản lý nợ và khai thác tài sản trực thuộc ngân hàng thương mại, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thông tư của số 27/2002/TT-BTC ngày 22/03 hướng dẫn chế độ tài chính đối với công ty quản lý nợ và khai thác tài sản trực thuộc ngân hàng thương mại
Tác giả: Bộ Tài chính
Năm: 2002
2. Bộ Tài chính (2002), Thông tư số 74/2002/TT-BTC ngày 9/9 hướng dẫn việc đánh giá lại khoản nợ tồn đọng không có tài sản bảo đảm của ngân hàng thương mại nhà nước, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thông tư số 74/2002/TT-BTC ngày 9/9 hướng dẫn việc đánh giá lại khoản nợ tồn đọng không có tài sản bảo đảm của ngân hàng thương mại nhà nước
Tác giả: Bộ Tài chính
Năm: 2002
3. Bộ Tài chính (2003), Quyết định số 199/2003/QĐ-BTC ngày 05/12 của Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành điều lệ tạm thời về tổ chức và hoạt động của công ty mua, bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quyết định số 199/2003/QĐ-BTC ngày 05/12 của Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành điều lệ tạm thời về tổ chức và hoạt động của công ty mua, bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp
Tác giả: Bộ Tài chính
Năm: 2003
4. Bộ Tài chính (2006), Thông tư số 38/2006/TT-BTC ngày 10/5 hướng dẫn trình tự, thủ tục và xử lí tài chính đối với hoạt động mua, bán, bàn giao, tiếp nhận, xử lí nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thông tư số 38/2006/TT-BTC ngày 10/5 hướng dẫn trình tự, thủ tục và xử lí tài chính đối với hoạt động mua, bán, bàn giao, tiếp nhận, xử lí nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp
Tác giả: Bộ Tài chính
Năm: 2006
5. Chính phủ (1999), Nghị định số 178/1999/NĐ-CP về xử lý tài sản đảm bảo, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghị định số 178/1999/NĐ-CP về xử lý tài sản đảm bảo
Tác giả: Chính phủ
Năm: 1999
6. Chính phủ (2001), Quyết định số 149/2001/QĐ-TTg ngày 5/11 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án xử lý nợ tồn đọng của các ngân hàng thương mại, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quyết định số 149/2001/QĐ-TTg ngày 5/11 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án xử lý nợ tồn đọng của các ngân hàng thương mại
Tác giả: Chính phủ
Năm: 2001
7. Chính phủ (2001), Quyết định số 150/2001/QĐ-TTg ngày 05/10 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập công ty quản lý nợ và khai thác tài sản trực thuộc ngân hàng thương mại, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quyết định số 150/2001/QĐ-TTg ngày 05/10 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập công ty quản lý nợ và khai thác tài sản trực thuộc ngân hàng thương mại
Tác giả: Chính phủ
Năm: 2001
8. Chính phủ (2002), Nghị định số 69/2002/NĐ-CP ngày 12/7 về quản lý và xử lý nợ tồn đọng đối với doanh nghiệp nhà nước, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghị định số 69/2002/NĐ-CP ngày 12/7 về quản lý và xử lý nợ tồn đọng đối với doanh nghiệp nhà nước
Tác giả: Chính phủ
Năm: 2002
9. Chính phủ (2003), Quyết định số 109/2003/QĐ-TTg ngày 05/6 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập công ty mua, bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quyết định số 109/2003/QĐ-TTg ngày 05/6 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập công ty mua, bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp
Tác giả: Chính phủ
Năm: 2003
10. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2004), Thông tư của số 01/2004/TT- NHNN ngày 20/02 hướng dẫn thực hiện Quyết định số 1197/QĐ-TTg ngày 05/11/2003 của Thủ tướng Chính phủ về việc xử lý nợ tồn đọng của hợp tác xã phi nông nghiệp, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thông tư của số 01/2004/TT-NHNN ngày 20/02 hướng dẫn thực hiện Quyết định số 1197/QĐ-TTg ngày 05/11/2003 của Thủ tướng Chính phủ về việc xử lý nợ tồn đọng của hợp tác xã phi nông nghiệp
Tác giả: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Năm: 2004
11. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2005), Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về quy định phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về quy định phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng
Tác giả: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Năm: 2005
12. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2005), Chỉ thị số 05/2005/CT-NHNN ngày 26/4 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về việc thực hiện phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chỉ thị số 05/2005/CT-NHNN ngày 26/4 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về việc thực hiện phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN
Tác giả: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Năm: 2005
13. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2006), Chỉ thị số 01/2002/CT-NHNN ngày 07/01 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về việc xử lý nợ tồn đọng của các ngân hàng thương mại, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chỉ thị số 01/2002/CT-NHNN ngày 07/01 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về việc xử lý nợ tồn đọng của các ngân hàng thương mại
Tác giả: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Năm: 2006
14. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2006), Quyết định số 59/2006/QĐ-NHNN ngày 21/12 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành quy chế mua, bán nợ của các tổ chức tín dụng, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quyết định số 59/2006/QĐ-NHNN ngày 21/12 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành quy chế mua, bán nợ của các tổ chức tín dụng
Tác giả: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Năm: 2006
26. Lê Huyền Diệu (2006), "Cổ phần hóa các ngân hàng thương mại nhà nước - Đôi điều bàn luận", Nghiên cứu kinh tế, (337) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cổ phần hóa các ngân hàng thương mại nhà nước - Đôi điều bàn luận
Tác giả: Lê Huyền Diệu
Năm: 2006
27. Phí Trọng Hiển (2003), "Một số vấn đề xung quanh quá trình tái cơ cấu các ngân hàng thương mại nhà nước", Kỷ yếu hội thảo khoa học: Tái cơ cấu các ngân hàng thương mại nhà nước, kỷ yếu hội thảo khoa học " Giải pháp xử lý nợ xấu trong tiến trình tái cơ cấu các ngân hàng thương mại Việt Nam, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một số vấn đề xung quanh quá trình tái cơ cấu các ngân hàng thương mại nhà nước", Kỷ yếu hội thảo khoa học: Tái cơ cấu các ngân hàng thương mại nhà nước, kỷ yếu hội thảo khoa học
Tác giả: Phí Trọng Hiển
Năm: 2003
29. Lê Đình Hợp (2005), "Xu thế tập trung hóa trong tái cơ cấu ngân hàng thương mại Việt Nam", Kỷ yếu hội thảo khoa học: Tái cơ cấu các ngân hàng thương mại nhà nước, thực trạng và triển vọng, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Xu thế tập trung hóa trong tái cơ cấu ngân hàng thương mại Việt Nam
Tác giả: Lê Đình Hợp
Năm: 2005
30. Nguyễn Thị Phương Lan (2003), "Cần thực hiện đồng bộ các giải pháp trong xử lý nợ xấu của ngân hàng thương mại Việt Nam", Kỷ yếu hội thảo khoa học: Giải pháp xử lý nợ xấu trong tiến trình tái cơ cấu các ngân hàng thương mại Việt Nam, Nxb Thống kê, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cần thực hiện đồng bộ các giải pháp trong xử lý nợ xấu của ngân hàng thương mại Việt Nam
Tác giả: Nguyễn Thị Phương Lan
Nhà XB: Nxb Thống kê
Năm: 2003
31. Nguyễn Đình Lưu (2003), "Một số đề xuất và giải pháp về xử lý nợ xấu đối với Ngân hàng thương mại qua kinh nghiệm chỉ đạo xử lý nợ xấu của hệ thống quỹ tín dụng nhân dân", Kỷ yếu hội thảo khoa học:Giải pháp xử lý nợ xấu trong tiến trình tái cơ cấu các ngân hàng thương mại Việt Nam, Nxb Thống kê, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một số đề xuất và giải pháp về xử lý nợ xấu đối với Ngân hàng thương mại qua kinh nghiệm chỉ đạo xử lý nợ xấu của hệ thống quỹ tín dụng nhân dân
Tác giả: Nguyễn Đình Lưu
Nhà XB: Nxb Thống kê
Năm: 2003
43. http://www.div.gov.vn/Bulletin/VN/2007/3/Mai_Thanh.pdf (2006), Tình hình hoạt động của các ngân hàng thương mại quí IV/2006 Link

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Bảng 1.1: Tỷ lệ nợ xấu trên tổng cho vay - Pháp luật về xử lý nợ xấu của ngân hàng thương mại nhà nước ở việt nam  luận văn ths  luật
Bảng 1.1 Tỷ lệ nợ xấu trên tổng cho vay (Trang 20)
Bảng 1.2: Hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại nhà nước - Pháp luật về xử lý nợ xấu của ngân hàng thương mại nhà nước ở việt nam  luận văn ths  luật
Bảng 1.2 Hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại nhà nước (Trang 33)

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w