Đề tài về : Từ lý thuyết tiếp nhận đến việc giảng dạy tác phẩm văn chương ở trường phổ thông ứng dụng dạy tác phẩm thơ Việt Nam hiện đại ở SGK các lớp THPT
Trang 1BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Thị Phú
TỪ LÝ THUYẾT TIẾP NHẬN ĐẾN VIỆC GIẢNG DẠY TÁC PHẨM VĂN CHƯƠNG
Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG ỨNG DỤNG DẠY TÁC PHẨM THƠ VIỆT NAM
HIỆN ĐẠI Ở SGK CÁC LỚP THPT
Chuyên ngành : Lý luận và phương pháp dạy học môn Văn
Mã số : 60 14 10
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS.TSKH LÊ NGỌC TRÀ
Thành phố Hồ Chí Minh – 2008
Trang 2LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gởi lời tri ân sâu sắc đến GS.TSKH Lê Ngọc Trà, người đã quan tâm, động viên tôi vượt qua khó khăn; tận tình chỉ bảo, hướng dẫn để tôi hoàn thành luận văn này
Xin chân thành cảm ơn quý Thầy, Cô của Trường Đại học Sư phạm
Tp Hồ Chí Minh đã hết lòng dạy dỗ, giúp đỡ chúng tôi trong thời gian học tập tại trường
Xin chân thành cảm ơn Khoa Ngữ văn, Phòng Khoa học công nghệ - Sau Đại học (Trường Đại học Sư phạm Tp Hồ Chí Minh); Sở Giáo dục và Đào tạo Tp Hồ Chí Minh, Ban Giám hiệu, giáo viên và học sinh các trường THPT Mạc Đĩnh Chi, THPT Nguyễn Thị Minh Khai, THPT Thủ Đức và THPT Nguyễn Hiền – Tp HCM); gia đình, bạn bè và đồng nghiệp
đã tạo mọi điều kiện, động viên tôi vượt qua khó khăn, nhiệt tình giúp đỡ tôi về vật chất cũng như tinh thần trong suốt thời gian học tập cũng như hoàn thành luận văn tốt nghiệp
Tác giả luận văn
Trang 3MỞ ĐẦU
1 Lý do chọn đề tài:
Trong bối cảnh nền kinh tế xã hội, khoa học kỹ thuật phát triển với tốc độ chóng mặt thì nhu cầu hội nhập, hợp tác với các quốc gia trên thế giới ngày càng cao Để đáp ứng được nhu cầu hội nhập, vấn đề nguồn nhân lực là vấn đề ưu tiên phát triển hàng đầu Đào tạo nguồn nhân lực không chỉ chú trọng việc phát triển kỹ thuật nghề nghiệp mà còn chú trọng phát triển vốn sống, phát triển những kỹ năng mềm để thích ứng tốt với môi trường làm việc và môi trường sống Để thực hiện được điều đó, chương trình giáo dục phải thay đổi từ gốc đến ngọn, giải quyết vấn đề triết lý, tầm nhìn Không chỉ chạy đua theo bề nổi thành tích để khỏa lấp những lỗ hổng vốn đã có từ trước, giáo dục cần phải đổi mới từ chương trình đào tạo, từ phương pháp (PP) dạy học đến vấn đề kiểm tra đánh giá Và phải bắt đầu thực hiện từ bậc học thấp nhất đến cao nhất
Nhằm mục đích giáo dục con người toàn diện với các yếu tố Đức, Trí, Thể, Mỹ; học để biết, học để làm và học để sống, phát huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo của học sinh, đào tạo những con người năng động, tài năng để làm chủ tương lai của đất nước, nhà nước ta đã thực hiện nhiều cuộc cải cách giáo dục, mới nhất là cuộc cải cách giáo dục phổ thông với việc biên soạn chương trình, sách giáo khoa (SGK) phân ban ở trung học phổ thông (THPT) và được thực hiện đại trà vào năm học 2006-2007 sau
ba năm thực hiện thí điểm
Cùng với việc biên soạn lại chương trình, SGK cho phù hợp với khuynh hướng phát triển của thế giới, đổi mới PP giảng dạy là nhu cầu cấp bách của giáo dục phổ thông nước ta hiện nay Những năm gần đây, không
ít dư luận phàn nàn về chất lượng dạy và học môn Ngữ văn ở nhà trường phổ thông Học sinh (HS) ngày càng chán học, lơ là với môn Ngữ văn; các
Trang 4em không biết viết một bài văn như thế nào, làm một lá đơn cũng không biết phải bắt đầu từ đâu… Vai trò của môn Ngữ văn trong nhà trường đang ngày càng không được nhìn nhận đúng Đối với môn Ngữ văn, việc đổi mới PP giảng dạy là vô cùng cấp thiết Vấn đề đặt ra là đổi mới như thế nào? Và phải chăng những PP mà GV dùng để giảng dạy xưa nay là không phù hợp, không đạt chất lượng?
Trong các phân môn của môn Ngữ văn, phần dạy học tác phẩm văn chương là phân môn giúp HS có nhiều hứng thú với môn học nhất Tuy nhiên, hiệu quả của dạy học tác phẩm văn chương hiện nay cũng là vấn đề đáng bàn Hướng đến mục đích phát huy vai trò của người học, góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn Văn ở trường phổ thông, chúng tôi muốn góp một chút công sức trong việc nghiên cứu và giảng dạy tác phẩm văn chương ở trường phổ thông sao cho chất lượng và hiệu quả Để nâng cao chất lượng dạy và học môn Ngữ văn, đã có rất nhiều PP được nêu ra và đang ngày càng được ứng dụng rộng rãi như: PP dạy học nêu vấn đề, PP dạy học thảo luận nhóm, PP dạy học theo dự án… những PP này đều dựa trên lý thuyết dạy học tích cực, lấy HS làm trung tâm, chú trọng đến vai trò của người học Điều đó có nghĩa là dạy học bằng PP tích cực lấy HS làm trung tâm là chú trọng đến vai trò của người học, người tiếp nhận
Trong giảng dạy tác phẩm văn chương, từ lâu người ta đã nói đến lý thuyết tiếp nhận, trong đó đề cao vai trò của bạn đọc - HS Tuy nhiên, hướng khai thác lý thuyết tiếp nhận và ảnh hưởng của nó đến các PP giảng dạy trong việc dạy học tác phẩm văn chương thì chưa được khai thác đáng
kể Nghiên cứu lý thuyết tiếp nhận và PP dạy học tích cực có một ý nghĩa lớn trong việc phát huy vai trò của người học, nâng cao năng lực văn học
cho HS Vì thế, luận văn chọn đề tài “Từ lý thuyết tiếp nhận đến việc
giảng dạy tác phẩm văn chương ở nhà trường phổ thông - Ứng dụng
Trang 5giảng dạy phần thơ Việt Nam hiện đại ở sách giáo khoa các lớp trung học phổ thông”
2 Lịch sử vấn đề:
Tác phẩm văn chương thực sự trở thành tác phẩm khi bắt đầu dòng đời của nó xuất phát từ tác giả đến tay người đọc Hoạt động tiếp nhận là hoạt động tương tác giữa người đọc và tác phẩm và tương tác với cả tác giả Có thể nói lý luận văn học chỉ chú trọng lý thuyết tiếp nhận nghiên cứu vai trò của người tiếp nhận, nghiên cứu quá trình biện chứng của các mối quan hệ trong tiếp nhận Hoạt động tiếp nhận vốn phong phú, đa chiều do bản chất của văn học là một tác phẩm nghệ thuật; do mỗi người tùy vào tình cảm, tri thức, kinh nghiệm, vốn sống của bản thân mà tiếp nhận tác phẩm mỗi khác Tiếp nhận văn học đề cao vai trò của người tiếp nhận, chính người tiếp nhận quyết định số phận tác phẩm Và việc dạy học tác phẩm văn chương trong nhà trường là một hoạt động tiếp nhận khá đặc biệt Sở dĩ chúng tôi cho rằng nó đặc biệt bởi lẽ đối tượng tiếp nhận ở đây
là học sinh, với lứa tuổi còn trẻ người, ít vốn sống, ít kinh nghiệm, tư duy của các em phần nào còn non nớt thì việc tiếp nhận tác phẩm phụ thuộc vào những yếu tố nhất định
Nghiên cứu vấn đề tiếp nhận tác phẩm văn chương của HS bắt buộc chúng ta phải nghiên cứu những vấn đề PP luận dạy học Văn học; nghiên cứu mối quan hệ giữa lý thuyết tiếp nhận với việc vận dụng các PP dạy học tác phẩm văn chương để tìm một hướng đi đúng trong dạy học tác phẩm hiện nay
Xét về mặt lịch sử, so với các môn khoa học kỹ thuật thì môn Văn – Tiếng việt (hiện nay gọi là Ngữ văn) vốn được giảng dạy trong nhà trường
từ rất sớm Các nhà giáo giảng dạy trên cơ sở tích lũy những tri thức, kinh nghiệm thẩm bình, dạy học qua các hoạt động bình giảng, ngâm vịnh của
Trang 6các nhà nho xưa Dần dần, môn Ngữ văn chiếm một vị trí quan trọng trong chương trình giáo dục phổ thông Điểm số của môn Ngữ văn và Toán ở nhà trường luôn có hệ số điểm như nhau và gấp đôi các môn học khác Thế nhưng, một thời gian dài chúng ta dạy học văn theo kiểu học hỏi kinh nghiệm, tích lũy những kiến thức của người đi trước chứ chưa có một hệ PP luận soi đường nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề dạy học môn Ngữ văn nói chung và tác phẩm văn chương nói riêng Mãi đến những năm 60 của thế kỷ XX mới xuất hiện những bài viết, công trình nghiên cứu về vấn đề này
Nếu tính từ năm 1950 khi cuốn Giảng văn Chinh phụ ngâm khúc của giáo sư Đặng Thai Mai được ấn hành ở liên khu trong thời kì kháng chiến chống Pháp đến nay, phải đến cuối thập kỉ 60 của thế kỉ XX, nhiều chuyên
luận lần lượt ra đời như “Rèn luyện tư duy học sinh qua giờ giảng dạy văn
học” (1969) của Phan Trọng Luận; “Vấn đề giảng dạy văn học theo loại thể” (1970) Trần Thanh Đạm chủ biên; “Phân tích tác phẩm văn học trong nhà trường (1977) của Phan Trọng Luận Những công trình đó bước đầu
đã nghiên cứu về PP theo hướng chú ý đến sự tiếp nhận của HS và từng bước đi vào con đường cải tiến, hoàn thiện và đổi mới về PP Đến năm
1983, Phan Trọng Luận xuất bản chuyên luận “Cảm thụ văn học và giảng
dạy văn học” Với PP luận nghiên cứu khoa học liên hợp, ứng dụng, kết
hợp giữa lý luận với khảo sát thực tiễn Phan Trọng Luận đã cung cấp một
số hiểu biết khoa học về tính đặc thù của cảm thụ văn chương, mối quan hệ thẩm mỹ của người đọc với tác phẩm, tính chủ quan, sáng tạo của tiếp nhận
và những khái quát về đặc điểm cũng như tiêu chí phát triển văn học ở người đọc Qua chặng đường dài, để hình thành lý luận dạy học văn học ở nước ta có thể kể đến những ảnh hưởng của các tài liệu hướng dẫn như
“Phương pháp dạy văn học ở trường phổ thông” của V.A.Nhikônxki,
“Phương pháp luận dạy văn học” do Z.Ia.Rez chủ biên…
Trang 7Nghị quyết Trung Ương II (khoá 8) về giáo dục và khoa học công nghệ, vấn đề nội dung và PP giáo dục đã được đặc biệt lưu ý Vấn đề đổi mới PP được đặt ra một cách chính thức trong văn kiện của Đại hội Đảng cũng như những văn bản pháp quy của Bộ Giáo dục và Đào tạo Đổi mới
PP đã trở thành vấn đề thời sự khoa học Những bài viết nhỏ lẻ đăng trên các báo, các tạp chí về mối quan hệ giữa tác phẩm với HS, hướng đổi mới dạy học văn chương trong nhà trường phổ thông… đã được đúc kết lại trong tài liệu bồi dưỡng chính thức cho các giáo viên toàn quốc trong các chu kì bồi dưỡng thường xuyên
Theo xu hướng phát triển của xã hội, việc dạy học phải đáp ứng những yêu cầu của sự phát triển kinh tế xã hội, khoa học kỹ thuật, những
PP giảng dạy truyền thống trong nhà trường không còn thích hợp Nên từ nghị quyết TW lần thứ tư về "Tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo tháng 1-1993 chỉ rõ xác định lại mục tiêu, thiết kế lại chương trình, kế hoạch nội dung phương pháp giáo dục và đào tạo” Yêu cầu phải có một PP dạy học thích hợp - PP dạy học tích cực phát huy tính chủ động sáng tạo của HS, lấy HS làm trung tâm để đào tạo ra những con người năng động, làm chủ đất nước trong tương lai
Trước sự đòi hỏi phải đổi mới PP dạy học, vận dụng những PP phát huy vai trò của HS trong giờ học, tạo điều kiện để HS hoạt động, làm chủ giờ học, hạn chế việc thuyết giảng một chiều của GV đặt việc dạy học tác phẩm văn chương trước một vấn đề nan giải Làm sao để có thể vừa khơi nguồn thích thú, kích thích tư duy hình tượng cho các em, vừa để các em thảo luận, trao đổi và phát biểu ý kiến trong giờ học? Dành thời gian cho
HS trao đổi, thảo luận thì GV sẽ bình giảng vào lúc nào? Nếu không bình giảng sâu sắc, chi tiết vấn đề, so sánh liên tưởng đến những hình tượng văn học tương tự thì làm hình thành được đam mê, yêu thích tác phẩm? Nếu
Trang 8vận dụng những PP dạy học tích cực, vô tình tạo cho cả thầy và trò những
áp lực lớn trong việc dạy và học Thầy thì phải lo vận động để dạy cho kịp giáo án, vận dụng càng nhiều PP dạy tích cực càng tốt để đối phó với việc kiểm tra đánh giá giáo viên Trò thì căng mình ra để tham gia các hoạt động trong giờ học, không còn khoảng lặng nào cho những hình tượng văn học len lỏi vào tâm hồn HS suốt tiết học
Vì thế, việc nghiên cứu lý thuyết tiếp nhận, mối quan hệ của nó với các PP dạy học trong việc dạy học tác phẩm văn chương cung cấp một cách nhìn khác về hướng nghiên cứu, đổi mới dạy học tác phẩm văn chương nói riêng và dạy học môn Ngữ văn nói chung ở nhà trường phổ thông hiện nay
Đó là cơ sở để chúng tôi thực hiện luận văn này
3 Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu:
3.1 Mục tiêu nghiên cứu:
Mỗi một nghệ sĩ khi sáng tác thường là bộc lộ những tâm tư, tình cảm, suy nghĩ của mình với người đọc Nhưng bên cạnh đó người nghệ sĩ còn có nhu cầu giao cảm, chính nhu cầu giao cảm đó tác động đến người đọc Bản chất của văn học nghệ thuật chính là sự hô ứng, sự giao cảm Người đọc chịu sự tác động của nhà văn qua tác phẩm, từ đó có sự tiếp nhận của riêng mình Việc giảng dạy tác phẩm văn chương không thể bỏ qua yếu tố này Mỗi HS là một chủ thể độc lập trong tiếp nhận, sự tác động của nhà văn, của hình tượng văn học, của tác phẩm đến mỗi học sinh là không giống nhau Vì thế khai thác vai trò chủ thể tiếp nhận, vai trò chủ động của người học là một khuynh hướng phù hợp với tiến trình đổi mới giáo dục hiện nay
Trên cơ sở kết hợp giữa lý thuyết tiếp nhận với PP dạy học tích cực lấy HS làm trung tâm, đề tài khai thác vai trò của sự tác động của hình tượng văn học trong việc giảng dạy tác phẩm văn chương Phân tích, đánh
Trang 9giá cơ sở lý luận của vấn đề này và những hình thức biểu hiện của nó trong thơ ca Ứng dụng thực tế vào vấn đề giảng dạy tác phẩm thơ Việt nam hiện đại ở trường THPT Qua đó đánh giá, rút ra những cơ sở lý luận để dạy học tác phẩm văn chương và đề xuất một số hướng ứng dụng vấn đề này vào thực tế dạy học tác phẩm văn chương ở trường phổ thông
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Nghiên cứu các vấn đề cơ sở lý luận của lý thuyết tiếp nhận, đặc biệt
là tính chất tác động của hình tượng nghệ thuật và vị trí của nó trong việc dạy học tác phẩm văn chương
- Nghiên cứu những đặc điểm của thơ ca từ góc độ của hoạt động nghệ thuật nhắm vào người đọc, người học
- Tiến hành thực nghiệm soạn giảng một số bài giảng ứng dụng lý thuyết trên trong giảng dạy tác phẩm thơ Việt Nam hiện đại ở trường THPT Phân tích, đánh giá mức độ tiếp nhận của người học qua thực nghiệm
4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Với đề tài này, chúng tôi nghiên cứu cơ sở lý luận của lý thuyết tiếp nhận, sự cộng hưởng giữa lý thuyết tiếp nhận và các PP dạy học hiện đại, đặc biệt là tính chất tác động của hình tượng văn học lên người học trong dạy học tác phẩm và vận dụng vào giảng dạy các tác phẩm thơ hiện đại trong chương trình THPT
5 Phương pháp nghiên cứu:
Từ mục đích, nhiệm vụ và đối tượng nghiên cứu nghiên cứu trên, chúng tôi vận dụng các PP sau trong luận văn:
Phương pháp nghiên cứu lý luận: nghiên cứu những vấn đề lý luận
về lý thuyết tiếp nhận, sự cộng hưởng của nó với các phương pháp dạy học trong quá trình dạy học tác phẩm văn chương ở nhà trường phổ thông
Trang 10Phương pháp quan sát, điều tra, phỏng vấn: dự giờ GV dạy các tiết học tác phẩm thơ hiện đại, điều tra bằng bảng hỏi, phỏng vấn GV về những thuận lợi, khó khăn trong việc dạy học tác phẩm văn chương theo hướng chú trọng thi pháp tác động; khảo sát mức độ tiếp nhận của học sinh
Phương pháp nghiên cứu thực nghiệm: thực hành soạn giảng một số bài dạy các tác phẩm văn chương ở trường phổ thông theo sự chi phối của
lý thuyết tiếp nhận
Phương pháp thống kê toán học
Phương pháp phân tích, đánh giá: phân tích hiệu quả của việc khai thác thi pháp tác động trên cơ sớ lý thuyết tiếp nhận và sự kết hợp của nó với phương pháp dạy học hiện đại trong dạy học tác phẩm văn chương và đánh giá những đóng góp của luận văn
6 Giới hạn của đề tài:
Đề tài: “Từ lý thuyết tiếp nhận đến việc giảng dạy tác phẩm văn
chương ở nhà trường phổ thông - Ứng dụng giảng dạy phần thơ Việt Nam hiện đại ở SGK các lớp THPT” nhằm đưa ra một hướng tiếp cận
mới trong việc giảng dạy tác phẩm văn chương ở nhà trường Đề tài phân tích những vấn đề lý luận về lý thuyết tiếp nhận, và những khả năng ứng dụng của nó trong việc giảng dạy tác phẩm văn chương ở trường phổ thông
như thế nào, kết hợp vận dụng vào việc giảng dạy các tác phẩm thơ hiện
đại ở chương trình sách giáo khoa lớp 11, 12 THPT Do giới hạn của một
luận văn cao học và thời gian có hạn nên đề tài chỉ ứng dụng giảng dạy phần thơ hiện đại, còn những thể loại khác nếu có cơ hội chúng tôi sẽ nghiên cứu ớ những đề tài tương tự
Trang 117 Cơ sở khoa học và thực tiễn của đề tài:
7.1 Cơ sở khoa học:
Luận văn thể hiện sự kết hợp giữa lý thuyết tiếp nhận với PP dạy học hiện đại lấy học sinh làm trung tâm, đặc biệt tính chất tác động của hình tượng văn học trong dạy học tác phẩm văn chương góp phần tạo nên hứng thú, say mê, phát huy năng lực cảm thụ của học sinh đáp úng yêu cầu đổi mới giảng dạy văn chương trong nhà trường
7.2 Cơ sở thực tiễn:
Luận văn thực hiện theo chương trình sách giáo khoa THPT của Bộ Giáo dục và Đào tạo, khảo sát, thực nghiệm giảng dạy tại các trường THPT tại Tp.HCM năm học 2006-2007, 2007-2008
8 Đóng góp của luận văn:
Vai trò của người tiếp nhận, mối tương quan giữa nguời tiếp nhận và chủ thể sáng tác, vấn đề cảm thụ văn học của HS đã được nghiên cứu nhiều trong những năm gần đây Tuy nhiên, vấn đề kết hợp, cộng hưởng giữa lý thuyết tiếp nhận với các PP dạy học hiện đại lấy HS làm trung tâm, phát huy năng lực tiếp nhận của HS qua dạy học tác phẩm văn chương thì chưa
có một công trình nghiên cứu cụ thể, chuyên sâu Trong giới hạn có thể, luận văn cung cấp một cái nhìn chi tiết hơn về vấn đề này nhằm góp một chút công sức trong việc nghiên cứu và đổi mới dạy và học tác phẩm văn chương trong nhà trường
9 Bố cục của luận văn:
Luận văn được thiết kế theo 3 phần:
Phần mở đầu: Nêu lý do chọn đề tài, lịch sử phát triển của vấn đề,
đối tượng nghiên cứu, mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu, giới hạn của đề tài, cơ sở khoa học và thực tiễn của đề tài và bố cục của luận văn
Trang 12Phần nội dung: gồm 3 chương
Chương một: Cơ sở lý luận của lý thuyết tiếp nhận và sự kết hợp
giữa lý thuyết tiếp nhận và phương pháp dạy học tích cực lấy học sinh làm trung tâm
Chương hai: Những hình thức tác động của hình tượng văn học tới
người đọc trong thơ ca và việc dạy tác phẩm thơ hiện đại
Chương ba: Thực nghiệm giảng dạy các tác phẩm thơ hiện đại trong
nhà trường phổ thông
Phần kết luận
Tài liệu tham khảo
Phụ lục
Trang 13CHƯƠNG 1: LÝ THUYẾT TIẾP NHẬN VÀ SỰ KẾT HỢP GIỮA LÝ THUYẾT TIẾP NHẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC LẤY HỌC SINH LÀM
TRUNG TÂM
1.1 Lý thuyết tiếp nhận và những vấn đề lý luận:
1.1.1 Một số vấn đề về lý thuyết tiếp nhận
1.1.1.1 Sơ lược về nguồn gốc và cơ sở lý luận:
Tác phẩm văn học được sáng tác ra để thưởng thức, tiếp nhận Một tác phẩm sau khi được tác giả hoàn thành còn ở dưới dạng văn bản, nó thật
sự trở thành tác phẩm chỉ khi đến tay người đọc, bắt đầu đời sống của nó Đời sống của một tác phẩm văn học diễn tiến từ hai phía: người sáng tạo ra
nó và phía người tiếp nhận Nghiên cứu văn học cũng xuất phát từ hai phía, phía sáng tạo và phía tiếp nhận Thế nhưng, từ trước đến nay lý luận văn học chủ yếu tập trung nghiên cứu khâu sáng tác, nghiên cứu sáng tác tách rời với các quy luật tiếp nhận
Với tư cách là một lý thuyết khoa học, lý thuyết tiếp nhận là một bổ sung cần thiết cho khoa nghiên cứu văn học nhằm khám pháp đầy đủ hơn tác phẩm văn học và sự vận hành của nó trong đời sống Lý luận tiếp nhận không phủ nhận mối quan hệ giữa tác phẩm với nhà văn, với môi trường sinh thành ra nó, không phủ định tác phẩm như một quá trình sáng tạo và như một cấu trúc thẩm mỹ
Lý thuyết tiếp nhận vốn không xa lạ Ở phương Đông, từ thế kỷ I
trước CN lý luận tiếp nhận văn học đã hình thành hai quan niệm: Tri âm và
Kí thác Quan niệm tri âm cho rằng nhiệm vụ tiếp nhận văn học là cảm và
hiểu cuộc sống được gợi lên trong tác phẩm như chính tác giả Vì sao Bá
Trang 14Nha đập vỡ cây đàn khi Chung Tử Kỳ chết? Vì đã không còn người tri âm,
thấu hiểu nỗi lòng của cầm gia thì đàn còn ý nghĩa gì nữa Quan niệm ký
thác thì xem tác phẩm như nơi để gởi gắm tư tưởng, tình cảm của người
đọc Ở phương Tây, trường phái phê bình ấn tượng do J.Lemaitre chủ xướng chủ trương tái hiện cảm xúc tinh khôi, tươi mới của người đọc trong việc tiếp nhận tác phẩm Hoạt động cảm thụ, phê bình tác phẩm diễn tiến phong phú, đa dạng tác động không ít đến những người nhà nghiên cứu lý luận, những người muốn đặt lý thuyết tiếp nhận trên bình diện phương pháp luận để mổ xẻ, nghiên cứu
Năm 1967, Hans Rober Jauss, một đại biểu của trường phái Constance đã nêu ra vấn đề tiếp nhận: sự tiếp nhận của truyền thống văn hóa này đối với tác phẩm của truyền thống văn hóa khác; của một xã hội này đối với tác phẩm của một xã hội khác và của công chúng xác định đối
với một tác phẩm Trong quyển “Vì một nền mỹ học tiếp nhận”, Jauss đã
đặt giả thuyết rằng một tác phẩm đồng thời bao gồm văn bản với tư cách là một cấu trúc cho sẵn và sự tiếp nhận của người đọc Ý nghĩa của nó thay đổi theo điều kiện và lịch sử xã hội của tiếp nhận nên nó không cố định, bất biến mà mang ý nghĩa của cuộc đối thoại
Năm 1976-1978, công trình “Xã hội, văn học, sự đọc” của các nhà
nghiên cứu Đức do Manfred Nauman chủ biên đã nêu những vấn đề cốt lõi nhất của lý thuyết tiếp nhận Họ cho rằng trung tâm lý thuyết tiếp nhận là giải quyết vấn đề tương quan chặt chẽ giữa các thành tố khác nhau của quá trình tiếp nhận văn học Từ đó cần làm rõ ý nghĩa các thành tố: tác giả, tác phẩm, người đọc và hiện thực
Xét về mặt giáo trình giảng dạy ở nhà trường sư phạm, theo Trần Đình Sử, cấu trúc của các giáo trình lý luận văn học, kể cả sách lý luận của
Viện Văn học Liên Xô như Dẫn luận nghiên cứu văn học (M., 1976, 1983),
Trang 15Lý luận văn học, 3 tập (M., 1962-1965), Khoa học về văn học của Viện sĩ
Busowmin (1980) đều không nhắc đến vấn đề tiếp nhận văn học Lý luận văn học với tư cách là một khoa học ra đời vào buổi giao thời thế kỷ XVIII-XIX (P.Nikolaiek, 1983) thì lý luận tiếp nhận phải đến đầu thế kỷ XX mới
được ý thức và đến năm 1986 ở nước ta mới có bài Tiếp nhận văn học trong giáo trình Lý luận văn học, trong khi trước đó các giáo trình nghiên
cứu Lý luận văn học đều không đề cập đến vấn đề tiếp nhận Và trong thế
kỷ XX, lý luận tiếp nhận văn học đã được hình thành và phát triển có hệ thống dần dần trở thành một hướng nghiên cứu có triểm vọng
Mối quan hệ giữa tác phẩm và người đọc là vấn đề trung tâm của lý thuyết tiếp nhận, là cơ sở lý luận của lý thuyết tiếp nhận Nghiên cứu lý thuyết tiếp nhận tức là nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa tác phẩm
và người đọc Tác phẩm văn học đến tay độc giả, được độc giả đọc, thẩm bình Sau đó tác phẩm lại quay về với nhà văn, tác động ngược trở lại nhà văn Có trường hợp nhà văn phải viết những chuyên luận để giải thích cho bạn đọc những vấn đề đã thể hiên trong tác phẩm Tuy nhiên, việc tiếp nhận văn học vốn vận động, bất biến Qua mỗi thời đại, mỗi hoàn cảnh xã hội lịch sử khác nhau, mỗi con người khác nhau thì việc tiếp nhận đã hoàn toàn đổi khác Nhà văn không thể sống mãi với thời gian và cũng không thể giải thích hết được những vấn đề người đọc suy nghĩ
Có thể thấy vai trò của người đọc quyết định số phận tác phẩm Vì
sao Chiến tranh và hòa bình (L Tolstoi), Những người khốn khổ
(V.Huygo)… sống mãi với thời gian, trở thành những kiệt tác vượt qua mọi thời đại, mọi đối tượng tiếp nhận? Vì sao lại có những tác phẩm mới đến tay người đọc hôm nay hôm sau đã không còn một dư âm nào về nó cả? Ở đây, người tiếp nhận là người thẩm định tốt nhất giá trị tác phẩm “Hữu xạ
tự nhiên hương”, đối với những tác phẩm lớn thì cuộc đời nó luôn ẩn chứa
Trang 16những khả năng mới sẽ bộc lộ khi nó tiến hành cuộc hành trình qua không gian và thời gian
Bạn đọc, và mối quan hệ giữa bạn đọc và tác phẩm văn học là nguồn gốc xuất hiện lý luận tiếp nhận văn học và cũng là cơ sở lý luận nghiên cứu vấn đề tiếp nhận
1.1.1.2 Những đặc điểm của lý thuyết tiếp nhận
Tiếp nhận văn học là một quá trình tiếp thu lĩnh hội một đối tượng nghệ thuật là tác phẩm văn học Tiếp nhận văn học đồng nghĩa với việc đọc hiểu những gì đã đọc thông qua ngôn từ và những gì có ý nghĩa nhân sinh thẩm mỹ trong tác phẩm văn chương Nguyên lý chú giải theo Gađamelà
“phải cố gắng hiểu tất cả những gì có thể hiểu được” Khi đọc tác phẩm văn
chương, người tiếp nhận không thể với tới hiện thực tiếp nhận ở dạng nguyên thủy được mà chỉ có thể hiểu được qua thế giới nghệ thuật được sắp đặt, tổ chức bằng ngôn ngữ và trong ngôn ngữ Theo Gađame con người sống trong ngôn ngữ và không thể bước ra ngoài dù là một phút giây nào
Tác phẩm văn học là một đối tượng nhận thức đặc thù vì nó là sản phẩm tinh thần đặc biệt Muốn chiếm lĩnh, tiếp nhận không thể vận dụng những năng lực hoạt động nhận thức chung mà cần đến những năng lực đặc thù qua hình tượng thẩm mỹ vốn là một hình tượng nhận thức phát triển ở mức cao hơn những hoạt động nhận thức bằng lý luận Tác phẩm văn học
là một sáng tạo tinh thần của cá nhân người nghệ sĩ Nó không phải là một vật thể thẩm mỹ cụ thể mà là một tồn tại phi vật thể thông qua hình tượng thẩm mỹ được vật chất hoá bằng hệ thống tín hiệu ngôn ngữ nghệ thuật Tác phẩm văn chương nào cũng nhằm mục đích thông báo tình cảm thẩm
mỹ Nhà văn gửi đến cho người đọc nhiều xúc động mãnh liệt nhất về cuộc sống, con người dưới ánh sáng của một lý tưởng thẩm mỹ Nội dung đó nó được thể hiện qua hình tượng thẩm mỹ được hệ thống hoá qua hệ thống
Trang 17ngôn ngữ nghệ thuật do nhà văn sáng tạo nên Nó là một đặc trưng riêng trong sáng tác văn học và trong tiếp nhận văn học Tiếp nhận chính là tìm hiểu những tình cảm thẩm mỹ bằng hình tượng thẩm mỹ qua hệ thống ngôn ngữ Đây là một qui trình khép kín của tác phẩm văn học từ sáng tác đến bạn đọc và ngược lại
Từ qui trình tác động của tác phẩm văn học đối với bạn đọc, chúng ta nhận thấy qui trình tiếp nhận tác phẩm là quá trình tiếp thu, lĩnh hội những giá trị mà văn bản tác phẩm văn học mang đến cho người đọc Nó đòi hỏi người đọc phải có những năng lực cụ thể Quá trình đó diễn ra theo một
chiều duy nhất đó đọc văn và tri giác ngôn ngữ “Tiếp nhận văn học là một
quá trình, vì nó chỉ thực sự diễn ra theo một hoạt động duy nhất là đọc văn”[34, tr.35]
Tiếp nhận văn học là giai đoạn hoàn tất qua trình sáng tác - giao
tế của tác phẩm: Nghệ sĩ sáng tạo tác phẩm là để truyền đạt những khát
quát, rung cảm của mình về cuộc sống cho người đọc, chỉ khi người đọc tiếp nhận tác phẩm thì quá tình sáng tạo mới hoàn tất Muốn hiểu rõ bản chất của quá trình tiếp nhận, cần thấy rõ hình tượng nghệ thuật tồn tại như một quá trình có nhiều giai đoạn trước tiên nó nảy sinh trong ý đồ tác giả, sau đó được vật chất hóa qua tác phẩm Tác phẩm chỉ được tồn tại khi đến tay độc giả, hình tượng văn học bước vào giai đoạn chuyển nội dung văn bản thành yếu tố tinh thần, biến tác phẩm thành một yếu tố của đời sống ý thức xã hội
Sự tiếp nhận văn học không phải là việc sử dụng từ ngữ, tìm kiếm kiến thức xã hội, văn hóa, lịch sử, kinh tế, chính trị… mà là sự tiếp nhận, giao thoa giữa người đọc với tác phẩm, là những kết tinh kinh nghiệm, tư tưởng tình cảm mà người đọc có được từ tác phẩm
Trang 18Tiếp nhận đòi hỏi người đọc phải biết tri giác, cảm thụ tác phẩm, phải hiểu tình tiết, ngôn ngữ, cốt truyện, thể loại cảm nhận hình tượng văn học toàn vẹn Người đọc thâm nhập vào hệ thống hình tượng tác phẩm và đưa hình tượng tác phẩm vào văn cảnh đời sống và kinh nghiệm sống của mình để thể nghiệm, đồng cảm Mức độ cuối cùng của quá trình tiếp nhận
là người đọc lí giải tác phẩm, hiểu được vị trí của tác phẩm trong lịch sử văn hóa, tư tưởng và truyền thống nghệ thuật Tiếp nhận văn học đòi hỏi sự tham gia của tri giác, cảm giác, trực giác, tưởng tượng; và bộc lộ cá tính của người tiếp nhận, lập trường của người đọc với giá trị tác phẩm
Tính khách quan của tiếp nhận văn học: Tiếp nhận văn học xuất
phát từ người đọc Mỗi người đọc có một suy nghĩ chủ quan riêng, và việc tiếp nhận tùy thuộc vào những suy nghĩ, độ tinh tế, kiến thức, vốn sống của người đó Cùng một tác phẩm nhưng có người thì say mê ngôn ngữ của tác phẩm, người thì tìm kiếm trong đó sự đồng cảm, đồng điệu trong cuộc sống, có người thì chú trọng khai thác tác phẩm trên các quan điểm nghệ thuật Có nhiều trường hợp cùng một câu chữ nhưng mỗi người lại có mỗi cách tiếp cận khác nhau, lý giải khác nhau tùy thuộc vào thị hiếu, vào vốn sống, vào năng lực thẩm mỹ của mỗi người
Tuy nhiên, tiếp nhận văn học lại là hoạt động mang tính lịch sử xã hội và khách quan Có rất nhiều quan niệm về tiếp nhận văn học như vấn
đề tri âm, người tri âm là người thấu hiểu nỗi lòng của người sáng tạo Nhưng trong đời sống văn học nghệ thuật, có được bao nhiêu Bá Nha với Chung Tử Kỳ? Quan niệm đọc văn lấy lòng mình mà đọc không quan tâm đến dụng tâm của tác giả giải phóng sức sáng tạo, liên tưởng của người đọc Có lẽ nhờ cách đọc văn, bình văn như thế mà Tây Sương Ký trở thành tuyệt tác qua lời bình của Kim Thánh Thán Tuy nhiên, cách tiếp nhận này
dễ khiến người đọc rơi vào chủ quan và có thể xuyên tạc tác phẩm
Trang 19Văn học phản ánh đời sống xã hội nên vốn mang tính khách quan Nội dung tinh thần của tác phẩm được sáng tạo trên cơ sở ngôn ngữ toàn dân và các phương tiện tạo hình, biểu hiện nên hoàn toàn có thể truyền đạt những yếu tố, nội dung tương đồng từ tác giả đến người đọc Đó là những
cơ sở định hướng tiếp nhận của người đọc Bằng chứng Lỗ Tấn sau khi xuất bản AQ chính truyện đã bị rất nhiều độc giả gởi thư mắng chửi tại sao ông lại đưa họ vào tác phẩm của ông Thành công của Lỗ Tấn là đã xây dựng một hình tượng nhân vật phổ chúng, mọi tầng lớp người đều như thấy dáng dấp của mình trong tác phẩm
Tiếp nhận là hoạt động khách quan Người tiếp nhận phải dựa trên những định hướng giới hạn về nội dung, nghệ thuật tác phẩm để tránh chủ nghĩa cá nhân và xuyên tạc nội dung tác phẩm Một tác phẩm luôn có giá trị tự thân của nó, người đọc phải cảm thụ khách quan và tôn trọng Không phải nói tiếp nhận là chủ quan của người đọc thì anh muốn hiểu thế nào cũng được
Tính sáng tạo của tiếp nhận văn học: Như ta đã biết, tiếp nhận văn
học là hoạt động chủ quan của người đọc, người đọc lí giải tác phẩm bình giảng tác phẩm vì thế nó là một hoạt động tích cực Tùy vào tri thức, kinh nghiệm sống của mỗi người mà việc lý giải có thể sâu sắc, cũng có thể hời hợt, phiến diện tác phẩm văn học khi mới đến tay người đọc tự bản thân nó mang những ý tưởng mà tác giả thể hiện Thế nhưng, khi người đọc bắt đầu can thiệp vào tác phẩm bằng những suy nghĩ cá nhân thì tác phẩm không còn ý nghĩa như ban đầu nữa Tiếp nhận văn học không chỉ đọc tác phẩm,
mà còn phân tích, bình giải những nội dung ý tưởng của tác phẩm
Do tính tương tác, do những yếu tố tự thân của tác phẩm, do trình độ của người đọc mà sự sáng tạo trong tiếp nhận cũng đa dạng và phong phú Người đọc có thể phát hiện ra những tầng bậc ý nghĩa mà ngay cả tác giả
Trang 20cũng sẽ bất ngờ Đỉnh cao của sáng tạo trong tiếp nhận văn học là những kiến giải bình giảng tác phẩm còn sâu sắc hơn bản thân tác phẩm, thẩm bình về Tây Sương Ký của Kim Thánh Thán là một ví dụ Hay như hoạt
động sáng tạo lại tác phẩm từ nguyên tác Đoạn trường tân thanh, Nguyễn
Du đã để lại cho dân tộc Việt Nam một tuyệt tác bất hủ - Truyện Kiều
1.1.2 Tính chất tác động của hình tượng văn học – cơ sở của lý thuyết
tiếp nhận
Tác động là một tính chất của quá trình tiếp nhận Tác phẩm văn học thông qua các phương tiện biểu đạt như ngôn từ, cú pháp, biện pháp tu từ… tạo nên những hình tượng âm thanh, hình ảnh, nhịp điệu… tác động lên tri giác, xúc giác của người đọc, bắt đầu một quá trình chuyển hóa tác phẩm từ văn bản đến nội dung ý nghĩa trong tư duy của người đọc
Quá trình tác động có tính chất tương tác Hình tượng văn học tác động lên tri giác, xúc giác của người đọc, khai mở những giác quan, tư duy Ngược lại, người đọc tiếp nhận các hình tượng lại tác động ngược lại hình tượng, gắn cho nó những cung bậc ý nghĩa mới
Hình tượng văn học vốn phong phú, đa dạng Một tác phẩm nghệ thuật luôn chứa trong mình cả một hệ thống hình tượng Màu sắc, âm thanh, nhịp điệu, nhạc tính… là những biểu hiện sinh động thể hiện hình tượng tác phẩm xây dựng nên Tại sao trái tim ta cũng như ngừng đập, tĩnh lặng theo Xuân Diệu để lắng nghe, để cảm giác mùa thu đang về đâu đây?
Có phải do những hình tượng hoa lá, những âm thanh, sắc màu của cảnh vật, những rung cảm rất tinh tế, nhạy cảm của tác giả kéo chúng ta vào tác phẩm, vào cùng cảm giác giao mùa? Vì sao rất nhiều chàng trai muốn mình
được một lần “mắt trừng gởi mộng qua biên giới”? Có phải do tác động
của hình tượng người anh hùng Tây Tiến quá bay bổng, quá lãng mạn trong lòng người đọc?
Trang 21Tác phẩm văn chương được biểu đạt bằng hệ thống hình tượng, những hình tượng này tác động tích cực hay tiêu cực lên người đọc tùy thuộc vào hoàn cảnh, tâm trạng của người tiếp nhận, tùy thuộc vào bối cảnh
mà người tiếp nhận thực hiện quá trình tiếp nhận
Để phản ánh và nhận thức hiện thực, các khoa học đều chịu tác động của các quy luật nhận thức nhưng phương thức phản ánh của khoa học và văn học không giống nhau Tính hình tượng là một trong những thuộc tính
cơ bản của văn học nghệ thuật Văn học phản ánh bằng hình tượng Hình tượng được xây dựng bằng vật liệu ngôn ngữ, bằng hư cấu và theo lý tưởng thẫm mỹ của nhà văn Trong khoa học, cái đơn lẻ được phản ánh thông qua cái chung, dưới hình thức khái quát của các quy luật, các khái niệm, công thức… Ngược lại, trong văn học cái đơn lẻ, cá thể lại trở thành hình thức phản ánh cái chung Hình tượng văn học vừa có tính khái quát sâu vừa mang tính cụ thể Tính chất tác động của hình tượng văn học lên người đọc chính là cơ sở để hình thành sự tiếp nhận
Tính chất tác động của hình tượng văn học lên người đọc là một đặc tính của vấn đề tiếp nhận Nếu không có sự tác động, không có sự hô ứng của hình tượng văn học lên tri giác, cảm giác, xúc giác của người đọc thì quá trình tiếp nhận sẽ không thể diễn ra Có thể thấy, tính chất tác động của hình tượng đến người đọc, người học là hạt nhân của sự tiếp nhận Nghiên cứu lý luận tiếp nhận không thể bỏ qua vấn đề tác động của hình tượng lên người đọc
cực lấy học sinh làm trung tâm
1.2.1 Vai trò của lý thuyết tiếp nhận trong việc dạy học tác phẩm văn
chương ở nhà trường phổ thông
1.2.1.1 Vai trò của người đọc - học sinh và vấn đề tiếp nhận văn học
Trang 22Người đọc bình thường bao gồm tất cả công chúng thuộc mọi tầng lớp, lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp, trình độ văn hóa, thành phần xã hội, thị hiếu thẩm mỹ và khuynh hướng tư tưởng Công chúng tiếp nhận văn học xuất phát từ thực tiễn đời sống và nhu cầu tự nhiên của tình cảm vì thế
mà sụ tiếp nhận cũng đa dạng muôn màu như cá tính của mỗi cá nhân
Có thể phân biệt nhiều loại tiếp nhận: tiếp nhận của bạn đọc nói chung, tiếp nhận của nhà văn, nhà phê bình và đặc biệt ở đây chúng ta khai thác vấn đề tiếp nhận của HS
Tiếp nhận của công chúng như trên đã nói vốn đa dạng, phong phú, tùy vào hoàn cảnh, năng lực cá nhân mà việc tiếp nhận ở những mức độ khác nhau Trong hoàn cảnh xã hội phong kiến, Tự Đức đọc Truyện Kiều
đã đòi nọc Nguyễn Du ra đánh mấy roi, có một thời gian nhiều người còn cho nó là “dâm thư”, nhưng đến hôm nay thời đại cởi mở, nghiên cứu tiếp nhận văn học không bị bao phủ bởi những tư tưởng, định kiến xã hội, Truyện Kiều đã được thừa nhận là một tuyệt phẩm lớn của nền văn học nước nhà
Tiếp nhận của nhà văn, nhà phê bình là hoạt động tiếp nhận mang tính chất nghề nghiệp và chuyên sâu Nhà văn vừa là người sáng tạo vừa là người đọc nên việc tiếp nhận của nhà văn thường theo khuynh hướng tìm tòi những khía cạnh tư duy nghề nghiệp mới, những phân tích có tính chất nghề nghiệp, thiên về kỹ thuật Tiếp nhận của nhà phê bình cũng mang tính chất chuyên nghiệp nhưng ở khía cạnh ý thức về văn học trên cấp độ ý nghĩa xã hội của tác phẩm
Như chúng ta đã biết, người tiếp nhận là HS có tính chất đặc thù riêng Thứ nhất, tuổi đời các em còn rất trẻ, tâm lý đang giao thoa giữa tính cách còn trẻ con trên bước đường thành người lớn nên chưa ổn định Thứ hai là do non tuổi đời nên những tri thức về lịch sử xã hội còn khá hạn hẹp
Trang 23Các em chỉ mới tích lũy được những kiến thức được dạy ở nhà trường, những tri thức khác nếu có cũng ở mức độ giới hạn Và nhất là các em còn rất non kinh nghiệm, vốn sống, trải đời nên việc hiểu nghĩa, liên tưởng trong học tập tác phẩm văn chương, hiểu hết được ý nghĩa lịch sử xã hội của tác phẩm là một thách thức không nhỏ
Tuy vậy, ở lứa tuổi này, các em đã bắt đầu hình thành tính chủ định trong quá trình tư duy nhận thức L.I Bojovich thừa nhận:
Khác với thiếu niên, là lứa tuổi trong một chừng mực đáng
kể, vẫn hướng về việc tự nhận thức bản thân mình, cảm xúc của mình, khác với các em học sinh nhỏ hoàn toàn bị cuốn hút vào thế giới bên ngoài, học sinh các lớp lớn trong nhà trường lại cố gắng tìm hiểu cái thế giới bên ngoài ấy nhằm tìm thấy chỗ đứng của mình trong đó, và cũng có thể một chỗ dựa mà xác lập quan điểm
và niềm tin của mình” [75, tr.75].
Cùng với sự phát triển về nhận thức, các em bắt đầu hình thành tâm
lý tự ý thức Các em có nhu cầu tự khám phá những đặc điểm tâm lý và lý giải nó theo quan điểm riêng, theo mục đích sống và theo lý tưởng của các
em Việc biết tự nhìn nhận, đánh giá thể hiện khả năng cảm thụ, sáng tạo của các em trong học tập
Sự phát triển của khoa học kỹ thuật và internet đã tạo ra những trào lưu mới trong HS Những thú vui giải trí vì thế cũng đặc thù như game, chat, truyện tranh… trở thành ưu tiên số một nên việc tích lũy kiến thức lịch sử xã hội đối với các em không được coi trọng Trước thực trạng một
số em HS phát biểu em không sinh ra vào thời Nguyễn Đình Chiểu làm sao
hiểu được Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc (Nguyễn Đình Chiểu), các em không
phải là Kiều làm sao hiểu và chia sẻ tâm tư tình cảm và hiểu số phận bi thương của Kiều Tất nhiên, tiếp nhận tác phẩm văn chương là phải đặt nó
Trang 24trong hệ quy chiếu với hoàn cảnh lịch sử xã hội, xuất xứ của tác phẩm, những hoàn cảnh mà tác giả trải qua khi cho tác phẩm ra đời, từ đó có cái nhìn tổng thể, bao quát và chính xác trong tiếp nhận Những ý kiến của các
em chỉ là ngụy biện nhưng cũng đặt ra những vấn đề cần giải quyết tận gốc trong việc dạy học tác phẩm văn chương ở nhà trường
Tuy non nớt về tuổi đời, kinh nghiệm sống nhưng các em lại có một tâm hồn tinh tế, rộng mở, trí tưởng tượng phong phú, đa dạng, khả năng liên tưởng cao Vấn đề là làm thế nào kích thích, định hướng và phát huy những mặt tích cực cũng như hạn chế những suy nghĩ, tác động tiêu cực của tác phẩm văn học lên tư tưởng, tâm hồn các em Một khi hiểu được vấn
đề tâm sinh lý HS, việc nghiên cứu để tạo cho các em sự hứng khởi trong học tập là rất cần thiết Phát huy vai trò bạn đọc, năng lực cảm thụ của HS
là huy động một cách khoa học những năng lực chủ quan của các em, để các em thật sự thấy hứng khởi, chủ động tham gia vào quá trình tiếp nhận văn học, như thế giờ dạy học tác phẩm văn chương mới có hiệu quả
1.2.1.2 Vai trò của lý thuyết tiếp nhận trong việc dạy học tác phẩm văn chương
Dạy học tác phẩm văn chương là quá trình người thầy chuyển tải những nội dung mà hình tượng tác phẩm thể hiện đến HS Mối quan hệ giữa giáo viên - học sinh - tác phẩm là mối quan hệ vòng tròn khép kín Tác phẩm là đối tượng chung để giáo viên lẫn HS cùng nhau khai thác GV trong tư cách là người đọc trước có kinh nghiệm nắm vững kiến thức sẽ là người hướng dẫn, truyền thụ kinh nghiệm cho HS, chỉ cho các em con đường tiếp cận tác phẩm HS chính là trung tâm của dạy học, bằng mọi con đường trực tiếp tác động lên tác phẩm để tìm ra chân lý dưới sự hướng dẫn của giáo viên Chúng ta có thể thấy mối quan hệ đó qua mô hình sau:
Trang 25Tác phẩm văn chương được xây dựng từ ngôn từ nghệ thuật Dạy đọc hiểu tác phẩm văn chương là dạy cho HS cách thức tiếp nhận tác phẩm văn chương trên cơ sở đọc hiểu ngôn từ nghệ thuật là chủ yếu Muốn hiểu được tác phẩm văn chương phải đi từ ngôn từ nghệ thuật và vận dụng những kiến thức về loại thể, xã hội, Tiếng Việt, Làm văn để tìm hiểu nghĩa
từ và nắm bắt thông tin tác phẩm muốn truyền đạt
Muốn dạy học tác phẩm văn chương, trước tiên đòi hỏi GV phải nắm
rõ những đặc điểm của quá trình tiếp nhận; nắm rõ đặc tính của bạn đọc HS; nắm rõ mối quan hệ biện chứng, tương tác giữa thầy giáo, tác phẩm và HS; và cuối cùng là phải nắm rõ đặc trưng cơ bản của tác phẩm văn chương, những vấn đề nội dung, nghệ thuật, hình tượng mà tác phẩm chuyển tải
Tác phẩm văn chương tự bản thân người thầy tiếp nhận đã khó, chuyển tải cho HS những vấn đề xương sống và nhất là cái thần của tác phẩm càng khó Và lý giải cho HS cảm thụ trong các mối tương tác của quá trình dạy học càng là một việc khó hơn nữa
Một thời gian dài chúng ta dạy học tác phẩm theo kiểu truyền thụ một chiều, thầy giảng trò nghe Thầy nói theo khả năng của thầy, thầy hiểu đến đâu thì giải nghĩa đến đó, không chú ý đến vai trò của HS trong tiến trình dạy học Trên cơ sở lý thuyết tiếp nhận, việc dạy học tác phẩm văn chương mở ra một con đường mới, chú trọng đến tiếp nhận của HS, chú trọng việc hô ứng trong dạy học Nếu chỉ truyền thụ một chiều, không đặt việc dạy học trong tương quan giữa thầy giáo – tác phẩm – học trò – thầy
Trang 26giáo thì việc tiếp nhận tác phẩm của các em chỉ là học thuộc lại kiến thức của người khác, không tư duy sáng tạo và không chủ động trong việc học tập Điều đó vô tình chúng ta hạn chế năng lực tiếp nhận, năng lực sáng tạo của HS và làm thui chột niềm hứng thú học tập
1.2.2 Sự kết hợp giữa lý thuyết tiếp nhận và phương pháp dạy học lấy
học sinh làm trung tâm
1.2.2.1 Đặc trưng cơ bản của phương pháp dạy học tích cực lấy học sinh
làm trung tâm
Ở Việt Nam, từ năm 1993 đã bắt đầu thử nghiệm PP dạy học tích cực
lấy học sinh làm trung tâm và được phổ biến với các công trình: Phương
pháp giáo dục tích cực (Nguyễn Kỳ, NXB Giáo dục, 1994); Phương pháp giáo dục tích cực lấy người học làm trung tâm, Nguyễn Kỳ, Nxb Giáo dục,
1995; Mô hình dạy học tích cực lấy học sinh làm trung tâm, Nguyễn Kỳ,
Trường cán bộ quản lý giáo dục, 1996… Dạy học tích cực lấy HS làm trung tâm đề cao vai trò chủ động của người học, người học tích cực tìm tòi, chiếm lĩnh kiến thức Tuy nhiên, nói như thế không có nghĩa là hạ thấp vai trò của người thầy, người thầy không phải đứng bên lề hoạt động học tập của HS mà vị thế của người thầy được nâng lên một tầng bậc cao hơn
Và PP dạy học này cũng đòi hỏi hoạt động dạy học của người thầy phải khoa học hơn và nghệ thuật hơn
Sau đây là những đặc trưng cơ bản của PP dạy học tích cực lấy HS làm trung tâm:
* Người học, chủ thể của hoạt động học, tự mình tìm ra kiến thức
cùng với cách tìm ra kiến thức bằng hành động của mình
Đối với dạy học lấy HS làm trung tâm người học không phải được đặt trước những kiến thức định sẵn mà là tự đặt mình trước các tình huống, vấn đề thực tế Từ đó thấy có nhu cầu và hứng thú giải quyết những vật cản
Trang 27của nhận thức bản thân, tìm ra cái chưa biết, cái mới Học để hành, hành để
học, “cách tốt nhất để hiểu chính là làm” (Kant), “suy nghĩ tức là hành
động” (J.Piaget) Quá trình người học từ học, tự nghiên cứu là quá trình tự
hoàn thiện bản thân Tri thức người tự mình nghiên cứu, tìm tòi dễ mang tính chủ quan, phiến diện vì thế cần phải có sự kết họp, kiểm chứng tri thức với bạn bè, đồng nghiệp
* Người học tự thể hiện mình và hợp tác với bạn học
Học ở mọi người, mọi nơi, mọi lúc và học bằng mọi phương tiện là kim chỉ nam của quá trình dạy học lấy HS làm trung tâm Quá trình khám phá tri thức, người học có thể tạo ra sản phẩm ban đầu mang tính chất cá nhân Sản phẩm đó phải được xã hội kiểm chứng, thừa nhận trước khi trở thành khoa học Trong quá trình lao động tập thể, tranh luận, đối thoại giữa thầy và trò, giữa trò với nhau thường có những mặt đối lập giữa chủ quan với khách quan, giữa đúng và sai, khẳng định và phủ định, cá nhân và cộng đồng… Quá trình tự học là quá trình tích lũy kinh nghiệm, qua đó hình thành nhân cách cá nhân
* Người dạy là thầy học – chuyên gia về việc học và tự học, là người hướng dẫn quá trình dạy tự học
Người thầy đóng vai trò là người hướng dẫn, lấy người học và việc học làm gốc cho mọi hoạt động giáo dục, lấy năng lực tự học sáng tạo của người học làm mục tiêu dạy học Trước hết người thầy hướng dẫn cho HS
tự tìm kiến thức, sau đó định hướng cho từng cá nhân tổ chức nghiên cứu, kích thích người học tự học và can thiệp đúng lúc những vấn đề, tình huống khó khăn mà người học mắc phải
* Người học tự kiểm tra, tự đánh giá và tự điều chỉnh
Sau khi thực hiện những kết quả nghiên cứu trên cơ sở kết hợp với bạn, người học tự đánh giả kết quả của mình, sau đó bạn đánh giá và thầy
Trang 28sẽ đánh giá lại và người học tự điều chỉnh những sai sót để sản phẩm đạt chất lượng nhất định Qua quá trình tự kiểm tra, tự đánh giá, người học sẽ thêm một lần học hỏi, tích lũy kinh nghiệm nữa Việc tự kiểm tra, tự đánh giá giúp người học hiểu rõ hơn những sai sót, hạn chế của mình trong quá trình học tập
PP dạy học này cung cấp cho người học PP tự học và kích thích lòng ham học Người học tự chủ quá trình học tập, tự lập kế hoạch học, tự phát triển những khả năng tiềm ẩn của mình mà không phải để thầy giáo cầm tay chỉ việc, áp đặt kiến thức như PP dạy học truyền thống truyền thụ một chiều trước đây Đó là PP phù hợp để ứng dụng dạy học trong nhà trường
1.2.2.2 Sự kết hợp giữa lý thuyết tiếp nhận và phương pháp dạy học lấy
học sinh làm trung tâm
PP giảng văn truyền thống trong nhà trường đã tồn tại từ rất lâu Quan niệm dạy học văn truyền thống với tất cả bề dầy kiến thức và kinh nghiệm phong phú của nó, nhìn chung còn có nhược điểm là chưa phát huy đúng mức tính tích cực chủ động sáng tạo trong học tập của HS Mô hình tiêu biểu của PP dạy đó là thầy giảng - trò nghe, thầy đọc - trò chép Kiểm tra thì thầy ra đề hỏi về những điều đã học, trò thuộc bài và trả lời Trong
PP này, GV đóng vai trò trung tâm của tiết học, mọi hoạt động của tiết học nghiêng về phía người thầy GV cảm thụ thay cho HS những cái hay cái đẹp của tác phẩm văn học còn HS chỉ thụ động ngồi nghe và ghi lại Quá trình đó là quá trình truyền thụ một chiều, từ GV đến HS và từ tác phẩm đến HS Học trò chỉ cảm thụ được những giá trị tác phẩm thông qua kiến thức truyền thụ của người thầy
Ngày nay tất cả các môn học đều thay đổi PP nhằm nâng cao hiệu quả học tập của HS Quan điểm dạy học mới là đầu tư phát huy chủ thể HS Với quan điểm lấy HS làm trung tâm, những hạn chế, khuyết điểm của PP
Trang 29dạy học truyền thống không còn phù hợp nữa HS ngày nay phải năng động tích cực, chủ động đi tìm kiến thức chứ không phải chờ đợi người khác mang kiến thức đến Giáo sư Phan Trọng Luận đã khẳng định điều này:
Không thể tạo được một hiệu quả đào tạo tốt đẹp ngoài sự vận động tâm lý của bản thân Học sinh càng tích cực tham gia
và tham gia một cách tự giác, có ý thức vào quá trình dạy học bao nhiêu thì kết quả của việc giảng dạy văn học càng vững chắc
và sâu sắc bấy nhiêu [47, tr.232-233]
Từ khi nhà nước tiến hành biên soạn lại chương trình, SGK theo hướng tích hợp phân môn, liên môn thì yêu cầu đổi mới PP cũng được đặt
ra Theo chương trình phân ban và theo chủ trương của nhà nước về đổi mới giáo dục phổ thông, mọi GV đều phải tiến hành đổi mới PP giảng dạy
Và khoảng thời gian từ năm 2000 trở lại đây rộ lên phong trào dạy học theo
PP dạy học tích cực lấy HS làm trung tâm
PP dạy học lấy HS làm trung tâm nghĩa là học trò là trung tâm của quá trình dạy học GV chỉ có nhiệm vụ khơi mở, hướng dẫn, điều khiển các
em trong các hoạt động học tập PP dạy học phát huy vai trò chủ thể của
HS phù hợp với quy luật cảm thụ, với vấn đề tiếp nhận văn học, với tâm lý nhận thức của bản thân HS
Với PP này, việc dạy và học tác phẩm văn chương được nhìn nhận trên một hệ quy chiếu mới Trong giờ học, HS được nói lên ý kiến chủ quan của mình, được tham gia vào tiến trình tiếp nhận tác phẩm, được tác động trực tiếp đến tác phẩm văn chương theo đúng vai trò của chủ thể tiếp nhận Nói cách khác, PP dạy học tích cực lấy HS làm trung tâm là PP dạy học thể hiện rõ nhất lý thuyết tiếp nhận trong việc dạy học tác phẩm văn chương
Trang 30Tuy nhiên, việc dạy học tác phẩm văn chương bên cạnh phát huy vai trò chủ thể, sáng tạo trong cảm nhận tác phẩm thì giáo viên cần phải khơi gợi được niềm hứng thú, say mê học tập Muốn khơi gợi niềm hứng thú, đam mê văn học ấy trong quá trình dạy học, GV chỉ có thể phân tích, bình giảng chuyên sâu, liên tưởng so sánh tác phẩm trong nhiều mối tương quan giữa những hình tượng văn học mới giúp các em hiểu một cách thấu đáo, sâu sắc tác phẩm Nếu áp dụng các PP dạy học tích cực theo đúng quy trình thì GV không có thời gian để khai thác tác phẩm theo chiều hướng phân tích, bình giảng Xét về thực tế giảng dạy thì đây là vấn đề nan giải mà hiện nay GV chưa biết giải quyết thế nào cho hợp lý
Một số PP hiện nay các giáo viên thường khai thác khi thực hiện việc dạy học tác phẩm phát huy vai trò của chủ thể sáng tạo là PP dạy học nêu vấn đề, PP dạy đọc hiểu, PP pháp vấn, PP dạy học theo dự án, PP thảo luận nhóm… bên cạnh những PP vẫn được sử dụng lâu nay như PP phân tích, bình giảng, PP so sánh liên tưởng… Và việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học cũng là cách dạy học mới mà các GV đã và đang áp dụng… Trong thời lượng một tiết học, không thể cùng một lúc sử dụng tất cả các
PP mà chúng ta đã nêu Nhiều giáo viên lúng túng thấy rõ khi không biết phải sử dụng PP nào cho hợp lý
Phát huy năng lực sáng tạo của HS là yêu cầu đúng đắn trong đổi mới PP dạy học Thế nhưng, để thực hiện được điều này đòi hỏi người thầy phải xem xét trên nhiều bình diện: am hiểu PP, am hiểu tác phẩm và không ngừng học hỏi để vận dụng giảng dạy một cách hợp lý nhất
Trang 31CHƯƠNG 2: NHỮNG HÌNH THỨC TÁC ĐỘNG CỦA HÌNH TƯỢNG VĂN HỌC TRONG THƠ CA
VÀ VIỆC DẠY TÁC PHẨM THƠ HIỆN ĐẠI Ở SGK
CÁC LỚP 11, 12 THPT 2.1 Tác động của hình tượng văn học lên người tiếp nhận trong thơ ca
2.1.1 Tính hình tượng của thơ ca và sự tác động của nó đến người đọc
2.1.1.1 Tính hình tượng của thơ ca
Hình tượng là đặc điểm cơ bản của nghệ thuật với tính cách sự phản ánh đặc thù thực tại Trong các hình tượng nghệ thuật phản ánh những cảnh sống của con người, các tính cách, xung đột hành vi, cảm xúc của con người Hình tượng nghệ thuật bắt nguồn từ cái mà chúng ta gọi là tính hình tượng hoặc tư duy hình tượng Hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm thường do tác giả tạo ra Thông thường hình tượng nghệ thuật được phân tích về phương diện làm sáng tỏ trong nó phép biện chứng giữa lý tính và cảm tính, khách quan và chủ quan, điển hình và cá thể Nhà văn, nghệ sĩ giữ nguyên đặc điểm cá thể của các tính cách và hoàn cảnh, nhưng họ thể hiện cái điển hình, tiêu biểu, biểu hiện bản chất của các hiện tượng sống
V.G Bealinxki đã nói rằng: “Nhà thơ suy nghĩ bằng hình tượng, ông
ta không chứng minh chân lý mà thể hiển nó” [53, tr.261] Bằng nghệ thuật ngôn từ, tác giả xây dựng những hình tượng, những hình tượng đó tác động đến người đọc tạo nên sự hô ứng trong thi ca
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi…
(Vội vàng, Xuân Diệu)
Trang 32Nắng làm sao có thể tắt, gió làm sao có thể buộc? nhưng tác giả vẫn muốn thực hiện những điều không tưởng, thể hiện nỗi khát khao, ham muốn, kể cả nỗi sợ hãi về sự tàn phai Hình tượng nhân vật trữ tình đầy vội
vã, đầy đam mê, khát khao sống được thể hiện qua hệ thống ngôn từ mạnh bạo: muốn tắt, muốn buộc…
Ta như nhìn thấy nhân vật trữ tình đang lặng lẽ lắng nghe từng giọt nước trên mái, theo cái nặng rơi của giọt nước, nghe trời cũng nặng trĩu
theo những hạt mưa, nghe tâm hồn u uất, buồn bã “Nghe đi rời rạc trong
hồn”
Tai nương nước giọt mái nhà
Nghe trời nằng nặng nghe ta buồn buồn
Nghe đi rời rạc trong hồn
Những chân xa vắng dặm mòn lẻ loi…
(Huy Cận)
Trong thế giới nghệ thuật của nhà văn thường có những hình tượng tâm huyết nhất, trở đi trở lại ám ảnh nhà văn, nó hình thành nên một hệ thống tín hiệu nghệ thuật đặc trưng Ví dụ, đi vào thế giới nghệ thuật của Nam Cao ta nhận thấy hình tượng ám ảnh, day dứt nhà văn là những con
người, cả trí thức nghèo lẫn nông dân nghèo đều bị “áo cơm ghì sát đất”, bị
lăng nhục, ám ảnh bởi cái đói, miếng ăn và hình tượng người kể chuyện luôn trăn trở, suy tư về triết lý nhân sinh Thế giới hình tượng trong thơ Xuân Diệu là một thế giới mơn mởn, thơm tho, hồng tươi và đầy sắc dục,
là sự khát khao giao cảm mãnh liệt với đời bằng cả tâm hồn và thể xác Trong khi đó, Hàn Mặc Tử lại chìm đắm trong những đêm trăng tràn ngập
vũ trụ, những hình ảnh hư ảo, siêu thực, trong đó có một linh hồn luôn khát khao tìm đến một thế giới sáng láng nhưng vẫn không thoát khỏi được trần tục đầy máu và nước mắt của một linh hồn luôn đau đớn, quằn quại Hoàng
Trang 33Cầm lại đi vào một thế giới với vùng quê Kinh Bắc trù phú, vói những hội
hè, đình đám, với người con gái Kinh Bắc thấp thoáng, ẩn hiện trong các tác phẩm Và, thế giới hình tượng là thứ không thể cân đo đong đếm được,
nó phụ thuộc vào khả năng đánh giá rất chủ quan của người tiếp nhận
Hình tượng của thơ ca được xây dựng bằng ngôn ngữ Ngôn ngữ trong thơ là ngôn ngữ mang tính hình tượng, biểu tượng, có sức gợi mở rất cao
Sương nương theo trăng ngừng lưng trời
Tương tư nâng lòng lên chơi vơi
(Huy Cận) Nghệ thuật sử dụng ngôn từ ở đây thật sự khéo léo, mô tả cảnh sương rơi nhưng tác giả diễn tả bằng những từ ngữ chỉ duy thi nhân mới nghĩ ra được Giọt sương rơi từ trên cao xuống là một hiện tượng bình thường của tự nhiên, nhưng trong tâm hồn nhạy cảm của thi nhân, sương như đang nương theo bóng trăng mà rơi xuống, nhưng không rơi hẳn mà… ngừng ở lưng trời Đối lập giọt sương từ trên cao đang rơi mà như ngừng lại ấy là sự tương tư u uẩn của tác giả, “nâng lòng lên”, sương chơi vơi lưng trời và sự tương tư thương nhớ của thi nhân cũng chơi vơi lưng trời theo
Tính hình tượng của thơ ca thể hiện qua ngôn từ, và ngôn từ chuyển tải những âm thanh, màu sắc, tiết tấu, nhịp điệu tác phẩm đến người tiếp nhận Bản chất của thơ ca là sự hô ứng, là sự tương tác giữa người đọc và người tiếp nhận Và sự tiếp nhận đó được thực hiện khi các hình tượng tác phẩm tác động đến người đọc Vậy sự tác động của thơ ca đến người đọc diễn ra như thế nào?
Trang 342.1.1.2 Sự tác động của thơ ca đến người đọc
Khi có người bảo Hàn Mặc Tử cắt nghĩa những tác phẩm trong tập Thơ điên, thi nhân đã nói rằng:
Giải nghĩa văn thơ, thật là một vấn đề to lớn và phức tạp quá, và cứ theo như lối thơ tôi là đó, thì phải giảng giải đến bao nhiêu trang giấy mà rốt cuộc chưa chắc người ta đã hiểu được tí gì! Nói như anh, thấy một cành hoa mà mường tượng ra một mùi hương, thấy một làn trắng tinh mà hình dung được cái gì thanh sạch ở thế giới khác, thế là đủ rồi Vì tất cả thi vị là ở đấy… Và như thế, sự cắt nghĩa đối với thơ là vô ích Người ta cảm biết một cách tự nhiên [43, tr.1392]
Việc giải nghĩa thơ, từ vấn đề từ ngữ, cú pháp, các biện pháp nghệ thuật, các ý tưởng nội tại của tác phẩm… là một vấn đề vô cùng khó khăn Bản chất của tác phẩm văn chương tuy ốn định về mặt câu chữ nhưng lại biến thiến về mặt ngữ nghĩa qua từng thời đại, qua từng bối cảnh xã hội và qua từng người đọc Thơ vốn là tư duy hình tượng của thi nhân, thì việc tiếp nhận của người đọc, người học cảm biết một cách tự nhiên, giản dị
Đã nghe rét mướt luồn trong gió (Xuân Diệu)
Hình tượng thơ hiện lên rõ mồn một, rét mướt không chỉ được cảm bằng xúc giác (lạnh thấm qua da), bằng thị giác (nhìn thấy những cơn gió chuyển mùa), chỉ một chữ “luồn” mà rét mướt như nghe được, sờ nắn được, cảm nhận được, một thoáng bất chợt rùng mình trước giao cảm của mùa
Sự tác động của thơ ca lên người đọc không chỉ đơn thuần là sự tác động về mặt ngữ nghĩa Không phải người đọc chỉ cần đọc văn bản, phân tích những nội dung, ý nghĩa của tác phẩm rồi thôi Mà thơ ca có tính chất tác động lâu dài Vì sao khi đọc bài thơ này ta lại có thể cảm được và thuộc được ngay bài thơ đó mà bài thơ khác thì không như thế? Ấn tượng mỗi bài
Trang 35thơ trong mỗi người tiếp nhận là khác nhau Vì sao chúng ta thổn thức theo tiếng thu của Lưu Trọng Lư, vì sao chúng ta vội vàng theo Xuân Diệu, và quằn quại đau trong nỗi bi thương cùng Hàn Mặc Tử?
Muốn hiểu, muốn cảm được thơ, người đọc huy động mọi giác quan vốn có theo bước chân của thi nhân chiếm lĩnh tác phẩm văn học Những
âm thanh rạo rực, những màu sắc rực rỡ, hay nhịp điều trầm buồn, cảnh sắc
u hoài… đều thể hiển những nỗi niềm của thi nhân
Thơ ca là tác phẩm trữ tình, bộc lộ cảm xúc, tâm trạng, ý nghĩ thế giới chủ quan của con người một cách trực tiếp
Này lắng nghe em khúc nhạc thơm
Say người như rượu tối tân hôn
Như hương thấm tận qua xương tủy
Âm điệu, thần tiên, thấm tận hồn…
(Huyền Diệu, Xuân Diệu)
Chỉ cần một “khúc nhạc thơm” đã làm cho thi nhân say sưa, nhạc thấm
qua xương tủy và thấm đến tận hồn Hình tượng tiếng nhạc đầy cung bậc, đầy
mê hoặc được miêu tả như say như si, âm điệu thần tiên thấm đẫm trong từng câu chữ, từng lời thơ, lan tỏa ra cả những khoảng lặng của trang thơ
Có thể nói, thơ ca với nghệ thuật sử dụng từ ngữ súc tích, tinh tế, chắt lọc đã biểu đạt một cách sâu sắc nội dung tự thân của hình tượng văn học Sự tác động của hình tượng thơ ca đến người đọc là sự tác động đa chiều Người đọc có thể buồn vui theo tâm trạng của nhân vật trữ tình, có thể rơi nước mắt, có thể căm uất phẫn nộ theo nhân vật
Tác động của thơ ca đến người đọc có thể tích cực, có thể tiêu cực tùy vào hoàn cảnh tiếp nhận và hình tượng của tác phẩm Một thời đại trong thơ ca (Thơ mới) phản ánh những cái tôi của những thi nhân đang hăm hở tìm kiếm cái mới, thể hiện cái mới trong nghệ thuật và tư tưởng
Trang 36Đây là giai đoạn văn học cổ xúy cho chủ nghĩa cá nhân “ta là một, là riêng,
là thứ nhất” Cái tôi cao ngạo, đứng trên mọi người, và cái tôi đó thật sự cô
đơn “không có ai bè bạn nỗi cùng ta” Tư tưởng đó ở trong thời đại đó thể
hiện một sự chuyển biến lớn trong tư tưởng, trong nhận thức của con người
về cá nhân, về xã hội Dạy học tác phẩm giai đoạn này phải chú ý trong việc bình giảng, phân tích để tránh những tác động tiêu cực với HS, tránh cho HS hiểu sai vấn đề dẫn đến có tư tưởng vị kỷ yếm thế
Những yêu thương ghét hận, những niềm vui nỗi buồn, những hân hoan hay tuyệt vọng của bản thân nhân vật trữ tình tác động mạnh mẽ tới người đọc
Tôi có chờ đâu có đợi đâu
Đem chi xuân đến dạ thêm sầu…
(Xuân, Chế Lan Viên) Hai câu thơ là nỗi niềm của buồn sầu, tuyệt vọng của thi nhân, xuân đến biểu trưng cho niềm vui, sự tươi mới, long lanh cũng đang đến, thế nhưng tác giả chỉ cảm thấy một nỗi buồn sầu vô tận Xuân là biểu tượng của hạnh phúc, nhưng dù xuân có đến đây thì cũng không xoa dịu được nỗi
ảo não sầu thương của thi sĩ
Tình cảm thể hiện trong thơ ca được chắt lọc đến mức tinh tế những rung cảm sâu xa, mọi cung bậc tình cảm đều được thể hiện Có thể nói, tình cảm của nhân vật trữ tình chi phối tâm tư, tình cảm của người tiếp nhận Về phương diện này, mọi sự cắt nghĩa thơ ca đều là việc làm khập khiễng Tình cảm chỉ có thể cảm, có thể trải nghiệm bằng chính những tâm tư, cảm xúc của mình Không thể chất vấn thi nhân sao không mô tả nỗi buồn kiểu này kiểu kia, tình cảm là tự nhiên như chính bản thân con người, và sự tác động của nhân vật trữ tình lên tình cảm người đọc cũng tự nhiên như chính bản chất của tình cảm vậy
Trang 37Xem một vở kịch, tới cảnh bi thương chúng ta rơi nước mắt theo nhân vật, tới cảnh buồn cười ta cũng bật cười theo nhân vật một cách tự nhiên, không tính toán Bản chất của thơ ca cũng chính là như thế
2.1.2 Những hình thức tác động của hình tượng văn học tới người
tiếp nhận trong thơ ca và những lưu ý trong dạy học
2.1.2.1 Tác động bằng hình ảnh:
Thể hiện rõ nhất sự tác động bằng hình ảnh trong thơ ca chính là khi đọc một bài thơ ta cứ có cảm giác như đang xem một bức tranh vậy “Thi trung hữu họa” là một đặc tính của thơ vốn thể hiên nhiều trong thơ Đường luật với lối thi pháp sáng tác ước lệ, miêu tả phong cảnh như tranh thủy mặc Ngôn ngữ thơ vốn tinh tế, chắt lọc, cô đọng và hàm súc Mỗi một từ ngữ thi nhân lựa chọn sử dụng đều mang một ý nghĩa nhất định trong việc biểu đạt sắc thái cảm xúc
Màu sắc ở đây không chỉ đơn thuần là xanh đỏ tím vàng mà là sự hài hòa của cảnh vật, là bức tranh đời sống với các góc nhìn khác nhau của thi nhân
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc (Hàn Mặc Tử), ở đây không còn
đơn thuần là màu xanh của cây cỏ trong vườn mà là màu xanh của sự sống,
của tươi mới, trinh nguyên Bên kia sông Đuống với “xanh xanh bãi mía bờ
dâu”, với những “cô hàng xén răng đen, cười như mùa thu tỏa nắng”, hình
ảnh răng đen cười sáng trong tươi tắn vẽ nên một cảnh sắc bình yên, thư thái của vùng quê yên bình thuở nào
Thơ xưa dùng cảnh để tả tình, thơ hiện đại không đi ngoài quy luật
đó Cảnh sắc luôn gắn liền với tâm trạng của nhân vật trữ tình “người buồn
cảnh có vui đâu bao giờ” Như một sáng mùa thu, người chiến sĩ giã từ
người thân yêu ra chiến trận:
Trang 38Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những dãy phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy
(Đất nước, Nguyễn Đình Thi) Góc phố xao xác, thềm lá vương nắng… người đi nhưng lòng vẫn vương vấn đâu đây Màu sắc không chỉ là màu của cảnh vật mà còn là là màu của tâm tư, của nỗi niềm
2.1.2.2 Tác động bằng nhạc tính:
Chế Lan Viên từng nói rằng: “Thơ đi giữa ý và nhạc” Ý nương theo
nhạc mà đến, nhạc dìu theo ý mà đi
Nhạc tính trong thơ thể hiện ở sự cân đối, sự trầm bổng và sự trùng điệp Sự cân đối là sự tương xứng, hài hòa giữa các dòng thơ Thơ Đường tuân thủ chặt chẽ quy tắc này, thơ hiện đại phóng khoáng và đa dạng hơn trong cách thể hiện nhưng vẫn không ra ngoài quy luật cân đối ấy
Trầm bổng là sự thay đổi những âm thanh cao thấp khác nhau giữa các thanh bằng và thanh trắc Điệu nhạc du dương trầm bổng của nhị hồ khúc làm Xuân Diệu không nén được lòng mình:
Sương nương theo trăng ngừng lưng trời
Tương tư nâng lòng lên chơi vơi…
(Huyền diệu, Xuân Diệu)
Sự trầm bổng còn thể hiện qua nhịp cắt của câu thơ:
Nhiều đấy ư em/ mấy tuổi rồi?
Hai mươi
Ờ nhỉ/ tháng năm trôi
Sóng bồi thêm bãi/ thuyền thêm bến
Gió lộng đường khơi/ rộng đất trời
(Tố Hữu)
Trang 39“Trong hai câu thơ có âm vang của sóng và gió, âm vang của một
tấm lòng Nếu viết sóng biển lao xao, gió thổi rì rào thì có lẽ không còn gì”
[41, tr368] là lời tự nhận xét của Tố Hữu về nhịp điệu và sự âm vang của đoạn thơ Hay như nhịp điệu gấp gáp, rạo rực của trái tim nóng bỏng muốn thu gom tất cả những hồng tươi, thanh tân của cuộc sống vào mình của Xuân Diệu:
Ta muốn ôm /
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết / mây đưa và gió lượn
Tay muốn say / cánh bướm với chiều hôm
Ta muốn thâu / trong một cái hôn nhiều…
(Vội vàng, Xuân Diệu) Tác phẩm thơ ca là một cấu trúc đầy âm vang Các bài thơ thể hiện nhạc tính rõ nhất phải kể đến những bài đã được các nhạc sĩ phổ nhạc và
được công chúng biết đến rộng rãi như: Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải,
Viếng lăng bác của Vũ Quần Phương, Thuyền và biến của Xuân Quỳnh…
Với cấu trúc các khổ thơ theo cùng một kết cấu: ba câu đầu là những
âm điệu dữ dội, trác trở lên xuống khúc khuỷu và các câu thơ đó được mềm mại hóa đi với sự dịu dàng, nhịp nhàng của câu thơ cuối, Tây Tiến vang lên như một khúc ca trữ tình, vừa dữ dội cũng vừa dịu êm, vừa bi tráng cũng thật lãng mạn
Những giai điệu của bài thơ ngân nga, vang động đến trái tim người đồng điệu, đó chính là khúc nhạc lòng của thi nhân gởi gắm trong thơ Dạy học tác phẩm văn chương, nói một cách hiện thực nhất chính là đem chính tác phẩm tác động lên mọi tri giác, xúc giác của người đọc
Trang 40Nhạc tính còn là sự trùng điệp của những ngôn từ, cấu trúc Trùng điệp có tác dụng tạo những nhịp điệu tương ứng trong suốt bài thơ, tạo những âm vang, tiếng rung trong thơ Ví dụ sự lặp đi lặp lại:
Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Những cánh đồng thơm mát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa
(Nguyễn Đình Thi)
“trời xanh đây”, “núi rừng đây”… sự khẳng định mạnh mẽ chủ quyền đất
nước, đất của những con người bất khuất, chúng ta sẽ đánh đuổi được quân thù, lấy lại sự bình yên cho muôn dân
2.1.2.3 Tác động bằng cảm xúc:
Thơ là tiếng lòng của thi nhân, là những tâm trạng, cảm xúc của thi nhân về cuộc sống Tâm hồn mỗi con người là một tiểu vũ trụ phong phú, phức tạp và đầy bí ẩn Thế giới tâm tư càng kín đáo và sâu sắc, càng nhạy cảm và tinh tế thì độ rung cảm với đời sống, với nghệ thuật càng mãnh liệt
Màu sắc tác động đến thị giác, âm thanh tác động đến thính giác còn cảm xúc rung động đến tâm hồn Mỗi bài thơ là sự hòa điệu của cầm, thi, họa là khúc giao hưởng của tâm cảm thi nhân Cảm xúc trong thơ có thể là cảm xúc của nhân vật trữ tình, mà cũng là của chính tác giả Hình ảnh
người lính bồn chồn nhớ người yêu trong những đêm “xẻ dọc Trường Sơn
đi cứu nước”, hình ảnh làng quê máu chảy xương tan, hình ảnh “dây thép gai đâm nát trời chiều” vẽ nên một cảnh tượng thê lương, tạo nên một âm
hưởng xót xa lẫn căm hận trong lòng người nghe:
Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều