Vì vậy, việc khai thác nguồn lực tự nhiên phục vụ phát triển kinh tế - xã hội nói chung và quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói riêng phải luôn luôn dựa trên cơ sở triết lý về mối
Trang 1ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
- -
TRẦN DANH NAM
ĐẢNG BỘ TỈNH THANH HOÁ LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN Y TẾ (1986-2005)
CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
MÃ SỐ: 60.22.56
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS HỒ KHANG
HÀ NỘI – 2008
Trang 2MỤC LỤC
Trang
Chương 1: VAI TRÕ CỦA NGUỒN LỰC TỰ NHIÊN VÀ VẤN ĐỀ
KHAI THÁC NÓ MỘT CÁCH HỢP LÝ TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG
NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
9
1.1 Khái niệm nguồn lực tự nhiên và vai trò của nó trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay
9
1.1.1 Khái niệm nguồn lực tự nhiên 9
1.1.2 Vai trò của nguồn lực tự nhiên đối với sự phát triển xã hội nói chung và
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam nói riêng
14
1.2 Sự cần thiết phải khai thác một cách hợp lý nguồn lực tự nhiên trong
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay
23
Chương 2: THỰC TRẠNG KHAI THÁC NGUỒN LỰC TỰ NHIÊN
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay 62
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG CHUNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP - KIẾN NGHỊ
CƠ BẢN NHẰM KHAI THÁC HỢP LÝ NGUỒN LỰC
TỰ NHIÊN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
68
Trang 3MỞ ĐẦU
1 Lý do chọn đề tài
Hiện nay, khi đề cập đến vấn đề các nguồn lực cho sự phát triển kinh tế
- xã hội, người ta thường nhấn mạnh đến nguồn lực con người Điều đó là hoàn toàn chính xác, đặc biệt là trong điều kiện các nước đang phát triển như Việt Nam muốn rút ngắn quá trình phát triển để từng bước theo kịp trình độ của các nước trong khu vực và trên thế giới Tuy nhiên, nguồn lực tự nhiên là yếu tố đặc biệt quan trọng không thể thiếu trong quá trình sản xuất của xã hội loài người Mặc dù bản thân nguồn lực tự nhiên tự nó không thể tạo ra của cải vật chất cho xã hội, nhưng không có nguồn lực tự nhiên thì sẽ không có bất
kỳ quá trình sản xuất xã hội nào để tạo ra của cải vật chất Có thể khẳng định, quy mô và tốc độ phát triển của sản xuất xã hội phụ thuộc rất nhiều vào nguồn lực tự nhiên
Tuy nhiên, việc khai thác, sử dụng nguồn lực tự nhiên để đáp ứng sự phát triển kinh tế - xã hội là vấn đề rất phức tạp, bởi lẽ phải giải quyết được một vấn đề cơ bản là mối quan hệ tương tác giữa nguồn lực tự nhiên và sản xuất xã hội, có tính đối lập nhau: một phía là nguồn lực tự nhiên trong thiên nhiên có hạn; còn phía khác là nhu cầu khai thác và sử dụng nguồn lực tự nhiên để phục vụ cho sản xuất xã hội và con người là vô hạn Nếu con người khai thác nguồn lực tự nhiên một cách hợp lý trên cơ sở tôn trọng quy luật tự nhiên, quy luật sinh thái thì sự giàu có về nguồn lực tự nhiên sẽ là những yếu
tố thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội Ngược lại, nếu khai thác một cách bừa bãi vì lợi ích trước mắt theo kiểu “tước đoạt tự nhiên” không biết tái tạo thì đến một lúc nào đó nguồn lực tự nhiên sẽ bị cạn kiệt và con người sẽ phải trả giá Những biến động bất thường của thiên nhiên theo chiều hướng xấu trong những năm qua do kết quả của sự khai thác nguồn lực tự nhiên một cách bừa bãi là những lời cảnh tỉnh, báo động cho sự bất ổn của nền kinh tế -
xã hội phát triển không bền vững Các khái niệm “khủng hoảng sinh thái” và
Trang 4“cạn kiệt tài nguyên” đã xuất hiện và cũng đã trở nên quen thuộc trong thời gian vừa qua đã cảnh báo con người về một nguy cơ có thật đã đặt ra trước sự phát triển – nguy cơ bùng nổ khủng hoảng sinh thái Chính vì vậy, trong giai đoạn hiện nay, vấn đề khai thác và sử dụng hợp lý các nguồn lực tự nhiên và bảo vệ môi trường sống là những vấn đề quan trọng nằm trong chiến lược phát triển bền vững của toàn nhân loại, cũng như của tất cả các quốc gia dân tộc Vấn đề này đã trở thành mối quan tâm sâu sắc của cộng đồng quốc tế, trước hết là các nhà khoa học, đồng thời nó cũng trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học và nhiều nhà khoa học
Mặt khác, ở một khía cạnh nhất định trong mối quan hệ giữa con người với tự nhiên nói chung và mối quan hệ giữa nguồn lực tự nhiên với sự phát triển kinh tế - xã hội nói riêng thì “con người với tự nhiên là một”, bởi “tự nhiên là thân thể vô cơ của con người” Do đó, việc khai thác nguồn lực tự nhiên phục vụ quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa không chỉ dừng lại ở khía cạnh kinh tế, mà còn có ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường tự nhiên, môi trường sinh thái, và qua đó trực tiếp hoặc gián tiếp tác động đến cuộc sống của con người Ph.Ăng-ghen đã từng cảnh báo chúng ta rằng: Con người hoàn toàn không thể thống trị giới tự nhiên như một người sống bên ngoài giới tự nhiên, như một kẻ xâm lược thống trị một dân tộc khác, bởi vì bản thân chúng ta, với cả xương thịt, máu mủ và đầu óc, chúng ta thuộc về giới tự nhiên, nằm trong lòng giới tự nhiên [30, 655] Vì vậy, việc khai thác nguồn lực tự nhiên phục vụ phát triển kinh tế - xã hội nói chung và quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói riêng phải luôn luôn dựa trên cơ sở triết lý về mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, sao cho sự phát triển kinh tế phải đi đôi với sự phát triển và tiến bộ nói chung của loài người
Hiện nay, Việt Nam chúng ta đang ở trong giai đoạn phát triển mới: giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, đòi hỏi chúng ta phải huy động tối đa mọi nguồn lực, trong đó có nguồn lực tự nhiên để phát triển sản xuất, nâng cao
Trang 5năng suất lao động, cải thiện đời sống cho nhân dân Thời gian qua bằng việc phát huy tốt các nguồn lực, trong đó có nguồn lực tự nhiên tương đối giàu có, chúng ta đã xây dựng được một nền kinh tế với cơ cấu đa dạng, tốc độ tăng trưởng kinh tế khá nhanh và vững chắc Tuy nhiên, công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường cũng có những tác động không nhỏ làm suy giảm nguồn lực tự nhiên và môi trường sống của con người Nền kinh tế thị trường với đặc điểm là luôn lấy lợi ích, trước hết là lợi ích kinh tế của cá nhân người lao động làm động lực, làm mục tiêu của sự phát triển Điều này ngoài mặt tích cực là khơi dậy tính năng động, sáng tạo của con người trong việc cải biến thế giới xung quanh, thì mặt tiêu cực của nó là làm trỗi dậy và tiếp sức cho những ham muốn cá nhân vị kỷ trước lợi ích vật chất - một chất men kích thích các chủ thể kinh tế Vì thế, họ sẵn sàng dùng mọi thủ đoạn, bất chấp pháp luật, lương tâm để trà đạp lên thiên nhiên, khai thác cạn kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên nhằm đạt được mục đích hẹp hòi của mình, làm cho môi trường tự nhiên bị tàn phá, ô nhiễm nặng nề; thiên tai xảy ra liên tục, ảnh hưởng không nhỏ đến sức khỏe, đời sống và sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung
Những lý do trên đây đã đặt ra vấn đề cần phải nghiên cứu và đưa ra được các giải pháp hữu hiệu cho việc khai thác nguồn lực tự nhiên ở nước ta hiện nay, sao cho việc khai thác đó vừa đảm bảo đẩy mạnh phát triển sản xuất, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vừa phải tăng cường bảo vệ, cải tạo và bồi dưỡng nguồn lực tự nhiên vì sự phát triển lâu bền Nghĩa là phải đảm bảo mối quan hệ hài hòa giữa nguồn lực tự nhiên và con người trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội nói chung, đặc biệt là trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay
Trên cơ sở tính cấp thiết đó, tác giả đã quyết định chọn “Vấn đề khai
thác nguồn lực tự nhiên trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam” làm đề tài luận văn của mình
Trang 62 Tình hình nghiên cứu
Liên quan đến đề tài nghiên cứu, có thể chia tài liệu thành các nhóm theo những vấn đề cơ bản sau đây:
- Thứ nhất, nhóm tài liệu đề cập đến mối quan hệ giữa con người và tự
nhiên trong sự phát triển xã hội và triết lý về sự phát triển Thuộc nhóm vấn
đề này có thể kể đến các công trình và bài viết: “Mối quan hệ giữa con người
và tự nhiên trong sự phát triển xã hội” do Hồ Sĩ Quý chủ biên, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2000; Phạm Thị Ngọc Trầm với các bài viết: “Sự thống nhất biện chứng của các mối quan hệ “con người và con người”, “con người và tự nhiên” trong quá trình lịch sử tự nhiên”, Tạp chí Triết học, số 2 năm 1991; “Những tư tưởng cơ bản của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin về mối quan hệ con người, xã hội, tự nhiên”, Tạp chí Triết học, số 1 năm 1992;
“Tư tưởng của Ph.Ăngghen về tính thống nhất vật chất của thế giới và ý nghĩa của nó đối với việc giải quyết vấn đề sinh thái hiện nay”, Tạp chí Triết
học, số 4 năm 1995… và một số bài viết sau này của tác giả đề cập đến đạo đức sinh thái
- Thứ hai, nhóm tài liệu đề cập đến một số đặc điểm của nguồn lực tự
nhiên và thực trạng khai thác nguồn lực tự nhiên ở nước ta hiện nay Nhóm vấn đề này được trình bày chủ yếu trong các sách và giáo trình về địa lý tự
nhiên và địa lý kinh tế - xã hội Việt Nam như: “Địa lý Việt Nam” do Trần Đình Gián chủ biên, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1990; “Thiên nhiên Việt Nam” của Lê Bá Thảo, Nhà xuất bản Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội, 1990; “Địa lý tự nhiên Việt Nam” của Vũ Tự Lập, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 1999; “Địa lý kinh tế - xã hội Việt Nam” do Lê Thông chủ biên,
Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 2001…
- Thứ ba, nhóm tài liệu đề cập đến thực trạng môi trường sinh thái
trước tác động của sự phát triển kinh tế - xã hội và vấn đề xây dựng ý thức, đạo đức sinh thái trong giai đoạn hiện nay, bao gồm các công trình và bài
viết: “Triết học sinh thái” của Đỗ Minh Hợp, Tạp chí Triết học, số 4 năm
Trang 71995; Phạm Thị Ngọc Trầm với các bài viết: “Khía cạnh triết học – xã hội của vấn đề môi trường sinh thái ở Việt Nam”, Tạp chí Triết học, số 6 năm 1998; “Đạo đức sinh thái: từ lý luận đến thực tiễn”, Tạp chí Triết học, số 2 năm 1999; “Đô thị hóa ở Việt Nam và vấn đề xây dựng nếp sống văn hóa sinh thái”, Tạp chí Triết học, số 4 năm 2001; Đoàn Văn Khiêm với “Một vài suy nghĩ về đạo đức sinh thái”, Tạp chí Triết học, số 1 năm 2000; Phạm Văn Boong với bài viết “Một số nhận thức triết học – xã hội về vấn đề môi trường sinh thái”, Tạp chí Triết học, số 4 năm 2000; Hồ Sĩ Quý với “Đạo đức môi trường Hội nghị quốc gia về phát triển bền vững, tháng 12 năm 2004”, Tạp
chí Triết học, số 9 năm 2005…
- Thứ tư, nhóm tài liệu đề cập đến mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với sự phát triển bền vững, bao gồm các bài viết: “Tăng trưởng kinh tế và những bảo đảm cần có nhằm duy trì môi trường cho sự phát triển lâu bền” của Nguyễn Trọng Chuẩn, Tạp chí Triết học, số 4 năm 1992; “Sản xuất nông nghiệp và vấn đề bảo vệ môi trường sinh thái ở nước ta hiện nay” của Nguyễn Đình Hòa, Tạp chí Triết học, số 6 năm 1997; “Sự kết hợp giữa các mục tiêu kinh tế và sinh thái trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Tạp chí Triết học, số 5 năm 1996; “Một số vấn đề xã hội và nhân văn trong việc sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường ở Việt Nam”
do Hà Huy Thành chủ biên, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001;
“Xây dựng môi trường văn hóa cho sự phát triển bền vững của đất nước” của Trần Ngọc Hiên, Tạp chí Cộng sản, số 11 năm 2006; “Vấn đề đất đai trong phát triển bền vững ở nước ta hiện nay” của Đào Thế Tuấn, Tạp chí Cộng
sản, số 20 năm 2006…
- Thứ năm, nhóm tài liệu đề cập đến một số giải pháp bảo vệ môi
trường trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bao gồm các công trình:
“Chiến lược và chính sách môi trường” của nhóm tác giả Lê Văn Khoa,
Nguyễn Ngọc Sinh, Nguyễn Tiến Dũng, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà
Nội, 2000; “Về cách tiếp cận triết học – xã hội đối với hiện trạng môi trường
Trang 8sinh thái nhân văn ở Việt Nam: các vấn đề, nguyên nhân và giải pháp (Nhân ngày môi trường thế giới 05/6/2004)” của Phạm Thị Ngọc Trầm, Tạp chí Triết học, số 6 năm 2004; “Thực hiện đồng bộ các giải pháp bảo vệ môi trường trong thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” của Phạm Khôi Nguyên, Tạp chí Cộng sản, số 10 năm 2006; “Những tác động của yếu tố văn hóa – xã hội trong quản lý nhà nước đối với tài nguyên, môi trường trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa” do Hoàng Hữu Bình
chủ biên, Nhà xuất bản Lý luận chính trị, Hà Nội, 2006…
Tuy nhiên, chưa có công trình nào tập trung nghiên cứu một cách độc lập vấn đề khai thác nguồn lực tự nhiên trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay Chúng tôi coi những công trình đó là nguồn tài liệu tham khảo hết sức phong phú và hữu ích trong quá trình thực hiện đề tài luận văn của chúng tôi
3 Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ về mặt lý luận và thực tiễn vai trò của nguồn lực tự nhiên và thực trạng khai thác nó ở nước ta, luận văn đưa ra những phương hướng và giải pháp – kiến nghị nhằm khai thác một cách hợp lý và có hiệu quả các nguồn lực tự nhiên trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ khái niệm nguồn lực tự nhiên và vai trò của nó đối với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
- Trình bày thực trạng vấn đề khai thác nguồn lực tự nhiên ở nước ta hiện nay: những ưu điểm, hạn chế và các nguyên nhân của những hạn chế đó; những vấn đề đặt ra đối với việc tiếp tục khai thác nguồn lực tự nhiên trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Trang 9- Đưa ra một số phương hướng và giải pháp – kiến nghị cơ bản nhằm khai thác một cách hợp lý, có hiệu quả nguồn lực tự nhiên trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay
4 Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các văn kiện, nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam về mối quan hệ biện chứng giữa tự nhiên và con người nói chung, mối quan hệ biện chứng giữa nguồn lực tự nhiên và công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc nói riêng; đồng thời kế thừa những thành tựu trong các nghiên cứu trước đó về các vấn đề liên quan đến luận văn
* Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu là: phương pháp phân tích, tổng hợp, lôgic và lịch sử…
5 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vấn đề khai thác nguồn lực tự nhiên phục vụ cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam
* Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chỉ tập trung phân tích và đánh giá thực trạng của việc khai thác, sử dụng nguồn lực tự nhiên ở nước ta từ đổi mới đến nay
6 Đóng góp của luận văn
- Luận văn làm rõ thêm khái niệm cũng như vai trò của nguồn lực tự nhiên đối với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong mối quan hệ biện chứng giữa tự nhiên với con người và nguồn lực tự nhiên với sự phát triển kinh tế - xã hội
- Đưa ra một cách phân tích hợp lý thực trạng khai thác nguồn lực tự nhiên ở Việt Nam thời gian vừa qua, qua đó thấy rõ hơn tầm quan trọng của
Trang 10việc hiểu và vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa tự nhiên và con người, giữa nguồn lực tự nhiên và sự phát triển kinh tế - xã hội trong quá trình tiếp tục khai thác nguồn lực tự nhiên để phát triển đất nước
- Đưa ra được những nét cơ bản về phương hướng cũng như một số giải pháp - kiến nghị có tính khả thi nhằm khai thác một cách hợp lý và có hiệu quả nguồn lực tự nhiên trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong thời gian tới
7 Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
* Về mặt lý luận
Luận chứng một cách tương đối đầy đủ mối quan hệ biện chứng giữa con người và tự nhiên nói chung, từ đó có được cơ sở lý luận vững chắc cho việc khai thác, sử dụng nguồn lực tự nhiên một cách hợp lý, có hiệu quả để đảm bảo sự phát triển lâu bền trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay
* Về mặt thực tiễn
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và giảng dạy các chuyên đề có liên quan; đồng thời góp phần nâng cao ý thức trách nhiệm đối với vấn đề khai thác và sử dụng các nguồn lực tự nhiên một cách hợp lý, có hiệu quả
8 Kết cấu luận văn
Ngoài lời cảm ơn, lời cam đoan, phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, 7 tiết
Trang 11NỘI DUNG Chương 1 VAI TRÒ CỦA NGUỒN LỰC TỰ NHIÊN VÀ VẤN ĐỀ KHAI THÁC NÓ MỘT CÁCH HỢP LÝ TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA,
HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1 Khái niệm nguồn lực tự nhiên và vai trò của nó trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay
1.1.1 Khái niệm nguồn lực tự nhiên
Trước khi bàn về khái niệm “nguồn lực tự nhiên”, chúng ta cần phải tìm hiểu khái niệm “nguồn lực”
Có thể nói rằng, cho đến nay chưa có tài liệu nào chính thức định nghĩa khái niệm “nguồn lực” Qua tìm hiểu chúng tôi thấy, dưới dạng tổng quát,
“nguồn lực” được hiểu là toàn bộ các yếu tố cả vật chất lẫn tinh thần đã, đang
và sẽ tạo ra sức mạnh cho sự phát triển và trong những điều kiện thích hợp sẽ thúc đẩy quá trình cải biến xã hội của một quốc gia, dân tộc Nghĩa là, khái niệm “nguồn lực” có phạm vi bao quát rộng, hàm chứa không chỉ những yếu
tố đã và đang tạo ra sức mạnh trên thực tế, mà cả những yếu tố mới ở dạng tiềm năng; không chỉ nói lên sức mạnh mà còn chỉ ra nơi bắt đầu, nơi phát sinh hoặc nơi có thể cung cấp sức mạnh; phản ánh không chỉ số lượng mà còn
cả chất lượng các yếu tố, đồng thời nói lên sự biến đổi không ngừng của các yếu tố đó
Việc phân loại nguồn lực tùy thuộc vào cách xác định các tiêu chí và xem xét chúng trong các quan hệ xác định Chẳng hạn, theo tiêu chí khái quát nhất, nguồn lực được phân thành: nguồn lực vật chất và nguồn lực tinh thần; theo quan hệ bên trong – bên ngoài, và mỗi quốc gia được xem xét với tư cách là một sự vật, thì có nguồn lực bên trong (con người, vốn trong nước, cơ
sở vật chất – kỹ thuật, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý…) và nguồn lực bên ngoài (sự trợ giúp của nước ngoài, của các tổ chức quốc tế như vốn, công
Trang 12nghệ, thị trường, kinh nghiệm quản lý,…) Theo quan hệ chủ - khách thể thì
có nguồn lực chủ quan (con người) và nguồn lực khách quan (tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý, vốn trong nước và nước ngoài…) Theo quan hệ rộng – hẹp thì những yếu tố tạo nên một nguồn lực nào đó lại có thể trở thành nguồn lực của chính nguồn lực đó Theo quan hệ nhân – quả thì tất cả những yếu tố tạo nên sức mạnh thúc đẩy sự phát triển xã hội đều được coi là nguồn lực (nguồn lực tự nhiên, nguồn lực con người, nguồn vốn ) Như vậy, các tiêu chí để phân loại nguồn lực rất đa dạng, do đó nguồn lực cũng rất phong phú, trong đó có nguồn lực tự nhiên [25, 59-60]
Cũng như khái niệm về “nguồn lực”, cho đến nay, vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất về khái niệm “nguồn lực tự nhiên” Từ trước đến nay, người ta thường ít hoặc là không sử dụng khái niệm “nguồn lực tự nhiên”, mà thay vào đó là các khái niệm “điều kiện tự nhiên” hay “tài nguyên thiên nhiên” Để có được cách hiểu tường tận về khái niệm “nguồn lực tự nhiên”, trước hết cần phải hiểu thế nào là “tự nhiên” và mối quan hệ giữa các khái niệm “nguồn lực tự nhiên” với “điều kiện tự nhiên” và “tài nguyên thiên nhiên”
Mặc dù có nhiều cách luận giải khác nhau, nhưng về cơ bản, khái niệm
“tự nhiên” được hiểu là tất cả những gì đang tồn tại một cách khách quan, là toàn bộ thế giới vật chất với tất cả các hình thức biểu hiện muôn màu muôn
vẻ của nó, là tập hợp các điều kiện thiên nhiên vốn có sẵn, tồn tại ngoài ý thức của con người Như vậy, tự nhiên bao gồm các nhân tố tồn tại khách quan ngoài ý thức của con người như không khí, đất đai, khí hậu, nguồn nước, ánh sáng mặt trời, động, thực vật… Tự nhiên cung cấp các nguồn tài nguyên thiên nhiên cho con người như không khí để thở, đất đai để xây dựng nhà cửa, trồng cây, chăn nuôi, các loại khoáng sản cho sản xuất, là nơi chứa đựng, đồng hóa các chất thải, cung cấp cho con người cảnh đẹp giải trí tăng khả năng tồn tại và phát triển của mình
Trang 13Điều kiện tự nhiên, theo quan điểm của triết học Mác, là yếu tố không
thể thiếu đối với đời sống con người, là một bộ phận của giới tự nhiên tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến sản xuất và đời sống con người Ở đây, có thể hiểu, khi nói tới điều kiện tự nhiên thì không phải toàn bộ giới tự nhiên bao la, rộng lớn mà chỉ là một bộ phận của giới tự nhiên tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến sản xuất và đời sống của con người
Tài nguyên thiên nhiên là những yếu tố của tự nhiên mà con người có
thể khai thác, chế biến và sử dụng để tạo ra các sản phẩm vật chất Như vậy, tài nguyên thiên nhiên là một yếu tố quan trọng trong các hoạt động kinh tế,
nó cấu thành các nguồn lực vật chất nguyên thủy cho hoạt động kinh tế Với ý
nghĩa như đã trình bày ở trên thì điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên
là những khái niệm có phạm vi hẹp hơn so với khái niệm tự nhiên
Qua tìm hiểu một số công trình nghiên cứu, chúng tôi thấy khái niệm
nguồn lực tự nhiên được hiểu như là điều kiện tự nhiên Quan niệm này cũng
có phần hợp lý, vì khi nói đến cả điều kiện tự nhiên lẫn nguồn lực tự nhiên thì cũng đều nói đến các yếu tố tự nhiên tác động đến quá trình sản xuất của con người Tuy nhiên, theo chúng tôi, giữa hai khái niệm này có điểm khác nhau
là, khi nói đến khái niệm nguồn lực tự nhiên tức là nói tới các yếu tố tự nhiên
đã, đang và sẽ tham gia và thúc đẩy quá trình sản xuất; nói đến điều kiện tự nhiên ở dạng tiềm năng Nói cách khác, điều kiện tự nhiên chỉ được coi là nguồn lực một khi nó được con người đã, đang và sẽ đưa vào quá trình khai thác và sử dụng cho mục đích sản xuất vật chất của xã hội
Hiện nay, có nhiều ý kiến khác nhau về khái niệm nguồn lực tự nhiên; tuy nhiên, trong luận văn này, chúng tôi đồng ý với quan niệm cho rằng:
“Nguồn lực tự nhiên là khái niệm dùng để chỉ nguồn tài nguyên thiên nhiên như đất đai, nước, khoáng sản và những điều kiện tự nhiên khác có tác động trực tiếp và gián tiếp tới hoạt động của con người” [39, 76]
Đây là một khái niệm rộng, nó bao chứa cả nguồn tài nguyên thiên nhiên lẫn những điều kiện tự nhiên khác Nghĩa là, xét về mặt ngoại diên, khái
Trang 14niệm này rộng hơn so với khái niệm điều kiện tự nhiên hay tài nguyên thiên nhiên Nói một cách cụ thể hơn thì nguồn lực tự nhiên chính là sự kết hợp của tài nguyên thiên nhiên và các điều kiện tự nhiên nhưng được xem xét ở dạng tiềm năng Để hiểu cụ thể hơn, chúng tôi xin trình bày kết cấu của nguồn lực
tự nhiên
Nguồn lực tự nhiên của một quốc gia bao gồm vị trí địa lý và các nguồn tài nguyên thiên nhiên đã, đang và sẽ tham gia vào quá trình sản xuất xã hội Trong đó, các nguồn tài nguyên thiên nhiên lại được chia thành những tài nguyên được sử dụng trong hiện tại và tài nguyên sẽ được sử dụng trong tương lai Mục đích cách phân loại này là nhằm xác định phương hướng và kế hoạch sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên cho phát triển kinh tế hiện tại và cho các thế hệ tiếp theo; đồng thời đảm bảo sự cân đối giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường
Theo cách phân loại này, tài nguyên thiên nhiên được chia thành hai loại:
- Tài nguyên không có khả năng tái sinh: là những nguồn tài nguyên có
trữ lượng ở một mức độ giới hạn nhất định Chúng chỉ có thể được khai thác ở dạng nguyên khai một lần, bao gồm những tài nguyên có quy mô không thay đổi như đất đai và các tài nguyên mà khi sử dụng thì cạn dần, không có cách
gì hoàn trả lại, không có quy trình nào làm đầy lại được nguyên trạng của nó như các loại khoáng sản, dầu mỏ, khí đốt tự nhiên, các mạch nước ngầm có tốc độ làm đầy thấp đến mức được coi như là không phục hồi được…
Tuy nhiên, việc xếp tài nguyên nào đó vào loại tài nguyên không có khả năng tái sinh chỉ có tính chất tương đối, ví dụ như đất đai con người vẫn
có thể mở rộng diện tích bằng cách lấn biển, hay đối với khoáng sản, dầu khí, người ta có thể tìm thêm những mỏ mới Đối với loại tài nguyên này, chúng ta
có thể chia làm ba nhóm:
+ Nhóm thứ nhất: tài nguyên không có khă năng tái sinh nhưng tạo tiền
đề cho tái sinh (đất, nước tự nhiên…)
Trang 15+ Nhóm thứ hai: tài nguyên không có khả năng tái sinh nhưng có thể
tái tạo được (kim loại, thủy tinh, chất dẻo…)
+ Nhóm thứ ba: tài nguyên cạn kiệt (than đá, dầu khí…)
Tóm lại, những tài nguyên không có khả năng tái sinh, đặc biệt là dầu khí và các loại khoáng sản, khi sử dụng thì sẽ hết dần Để có những mỏ mới đòi hỏi phải có quá trình hình thành lâu dài của lịch sử Do vậy, cần có kế hoạch để khai thác trước mắt và lâu dài, vừa đảm bảo tính hiệu quả, vừa không làm ảnh hưởng đến các thế hệ tương lai trong việc khai thác các nguồn tài nguyên đó
- Tài nguyên có khả năng tái sinh: là những tài nguyên có thể tự duy trì
hoặc bổ sung một cách liên tục khi được sử dụng hợp lý Những tài nguyên sinh vật là những nguồn tài nguyên có thể tái sinh được, chúng lớn lên cùng với thời gian và theo các quá trình sinh học Tuy nhiên, nếu sử dụng không hợp lý thì nguồn tài nguyên này cũng có thể bị cạn kiệt và không thể tái sinh nữa Những tài nguyên này được chia thành hai loại:
+ Tài nguyên có khả năng tái sinh thông qua tác động của con người
Nguồn tài nguyên này bao gồm hai loại: nguồn tài nguyên rừng và các loài động thực vật trên cạn cũng như dưới nước Những nguồn tài nguyên này sau khi khai thác chúng ta có thể có những khu rừng mới hoặc các loài động thực vật tiếp tục sinh sôi nảy nở, nếu con người có biện pháp và chính sách thích hợp
+ Tài nguyên có khả năng tái sinh vô tận trong thiên nhiên: là những
tài nguyên khi sử dụng không bao giờ hết Nguồn tài nguyên này bao gồm các nguồn năng lượng như mặt trời, thủy triều, sức gió, thủy năng sông ngòi và các nguồn nước, không khí Vì đây là những nguồn tài nguyên khi sử dụng có khả năng tự tái tạo, đặc biệt chúng chính là các nguồn năng lượng chủ yếu của con người, do đó cần có phương án nghiên cứu tích cực để có thể sớm đưa vào sử dụng một cách phổ biến
Trang 16Có thể thấy rằng, tự nhiên đã tạo ra và cung cấp cho con người những nguồn tài nguyên đa dạng và phong phú Những nguồn tài nguyên này có một vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế nói riêng và đời sống con người nói chung Vậy vai trò ấy được thể hiện như thế nào?
1.1.2 Vai trò của nguồn lực tự nhiên đối với sự phát triển xã hội nói chung và trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam nói riêng
Ngày nay, khi đề cập đến các yếu tố của sự tăng trưởng kinh tế, người
ta thường nhắc tới 5 yếu tố, đó là: lưu lượng đầu vào của lao động (L), vốn (K), các tài nguyên thiên nhiên (N), khả năng kinh doanh (E) và công nghệ hiện hành (T) Như vậy, nói một cách khái quát thì các yếu tố của sự phát triển kinh tế nói riêng, của sự phát triển xã hội nói chung, ngoài nguồn vốn, bao gồm: nguồn lực tự nhiên và nguồn lực con người
Trong các nguồn lực nói trên thì nguồn lực con người được coi là quan trọng nhất, có vai trò quyết định đến sự vận động và phát triển của xã hội Đặt trong bối cảnh hiện nay khi cuộc cách mạng khoa học và công nghệ phát triển mạnh mẽ, lao động trí tuệ ngày càng gia tăng và đã trở thành yêu cầu khách quan, xu thế phổ biến của nhân loại, khi công nghiệp hóa gắn liền với hiện đại hóa mà cốt lõi là hiện đại hóa lực lượng sản xuất thì điều đó là hoàn toàn xác đáng; đặc biệt với các quốc gia đang phát triển như Việt Nam muốn rút ngắn quá trình phát triển để từng bước theo kịp trình độ của các nước trên thế giới thì nguồn lực con người càng có vai trò quan trọng, thực sự trở thành nguồn lực có tính chất quyết định đến thành công của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói riêng, của sự vận động và phát triển của xã hội nói chung Thực ra vai trò quyết định của nguồn lực con người đối với sự phát triển xã hội không phải đến ngày nay mới được khẳng định, mà trong lịch sử kinh tế học, một số nhà kinh tế học tư sản trước Mác, chẳng hạn như Adam Smith, đã cho rằng lao động là nguồn gốc của mọi của cải vật chất Trong tác phẩm
“Biện chứng của tự nhiên”, Ph.Ăng-ghen khẳng định rằng, lao động đúng là
Trang 17như vậy Tuy nhiên, Ph.Ăng-ghen cũng cho rằng, một mình lao động không thể sản sinh ra mọi của cải vật chất Lao động trong sự kết hợp với giới tự nhiên, cái cung cấp những vật liệu cho lao động, mới tạo ra mọi của cải vật chất Vì vậy, khi nói rằng nguồn lực con người có vai trò quyết định thì điều
đó hoàn toàn không có nghĩa là tách nguồn lực con người một cách biệt lập với nguồn lực tự nhiên và các nguồn lực khác Trái lại, khi khẳng định nguồn lực con người có vai trò quyết định thì điều đó có nghĩa là đã đặt nguồn lực con người trên tiền đề là các nguồn lực hiện có, trong đó có nguồn lực tự nhiên
Khi xem xét nguồn lực tự nhiên nói riêng, môi trường tự nhiên nói chung trong mối quan hệ mật thiết với hoạt động sống của con người và sự tồn tại, phát triển của xã hội loài người, trong đó nổi bật là hoạt động kinh tế, hoạt động sản xuất vật chất thì nguồn lực tự nhiên nói riêng và môi trường tự nhiên nói chung có các vai trò cơ bản sau đây:
1 Nguồn lực tự nhiên và môi trường tự nhiên là không gian sinh sống
và là không gian tổ chức các hoạt động của các cộng đồng dân cư, trong đó
có các hoạt động kinh tế, hoạt động sản xuất vật chất
Trong triết học Mác, tự nhiên theo nghĩa rộng được hiểu là toàn bộ thế giới vật chất tồn tại khách quan Sự sống là kết quả của quá trình tiến hóa lâu dài của tự nhiên theo những quy luật khách quan vốn có của nó; trong đó con người là một sản phẩm trực tiếp và cao nhất của sự tiến hóa của giới tự nhiên Như vậy, giữa con người và giới tự nhiên có mối quan hệ gắn bó hữu cơ; trong đó tự nhiên chính là cái nôi, là điều kiện tiên quyết cho sự tồn tại và phát triển của con người; bởi vì tự nhiên chính là “thân thể vô cơ của con người” Về điều này, C.Mác đã viết: “Giới tự nhiên, cụ thể là cái giới tự nhiên trong chừng mực mà bản thân nó không phải là thân thể của con người - là thân thể vô cơ của con người Con người sống bằng giới tự nhiên Như thế nghĩa là giới tự nhiên là thân thể của con người, thân thể mà với nó, con người phải ở lại trong quá trình thường xuyên giao tiếp để tồn tại Nói rằng
Trang 18đời sống thể xác và tinh thần của con người gắn liền với giới tự nhiên, nói như thế chẳng qua chỉ có nghĩa là giới tự nhiên gắn liền với bản thân giới tự nhiên, vì con người là một bộ phận của giới tự nhiên” [29, 135]
Với tư cách là một cơ thể sống, là một bộ phận của giới tự nhiên, để tồn tại và phát triển, con người và xã hội loài người phải tiến hành trao đổi chất với môi trường tự nhiên, vì trao đổi chất là một đặc trưng cơ bản nhất của sự sống Toàn bộ cấu trúc vật chất trong sinh quyển, từ đơn giản nhất đến phức tạp nhất, từ đơn bào đến đa bào, đến con người và xã hội loài người đã tác động với nhau và tác động qua lại với môi trường tự nhiên để tiến hành việc lưu thông, cải biến, tích lũy vật chất và biến hóa năng lượng, nhằm duy trì sự sống của bản thân, sự tồn tại và phát triển không ngừng của cả hệ thống Các quá trình đó đã được thực hiện trong chu trình sinh học, hay chính xác hơn là chu trình sinh - địa - hóa học Cơ chế hoạt động của chu trình sinh học, hay chu trình trao đổi vật chất, năng lượng, thông tin của sinh quyển, chính là cơ chế đảm bảo sự thống nhất về mặt chức năng hoạt động của hệ thống “con người - xã hội - tự nhiên”, phù hợp với cấu trúc của nó Tuy nhiên, con người khác các loài sinh vật khác là ở chỗ, con người có hai cách trao đổi chất với
môi trường tự nhiên: thứ nhất, với tư cách là một thực thể tự nhiên, con người
đã tham gia vào chu trình sinh học như bất kỳ một động vật cao cấp nào khác (trao đổi chất trực tiếp với tự nhiên) Ở đây, môi trường tự nhiên cung cấp những điều kiện sống cơ bản như nước, ánh sáng, không khí, động, thực vật, v.v để thỏa mãn những nhu cầu sinh lý, sinh thái cần thiết cho con người với
tư cách là một thực thể sinh vật (thực thể tự nhiên) Thứ hai, với tư cách là
một thực thể xã hội, con người trao đổi chất gián tiếp với giới tự nhiên thông qua quá trình lao động sản xuất xã hội Do vậy, nền sản xuất xã hội chính là phương thức trao đổi chất đặc thù giữa xã hội và tự nhiên Ở phương diện này, thông qua hoạt động thực tiễn, trước hết là quá trình lao động sản xuất, con người đã thu được những dòng vật chất, năng lượng và thông tin từ môi trường tự nhiên, biến đổi chúng cho phù hợp với môi trường sống và phát
Trang 19triển của con người Sản xuất chính là sự liên hệ, sự thống nhất đặc trưng giữa
xã hội và tự nhiên Về vấn đề này, C.Mác viết: “Lao động trước hết là một quá trình diễn ra giữa con người và tự nhiên, một quá trình trong đó bằng hoạt động của chính mình, con người làm trung gian điều tiết và kiểm tra sự trao đổi chất giữa họ và tự nhiên” [31, 206] Như vậy, trên phương diện xã hội, thông qua hoạt động sản xuất vật chất, ngay từ đầu con người đã mang những đặc điểm hoàn toàn khác với tất cả các mắt khâu khác của chu trình sinh học Đây là điểm căn bản, là ranh giới phân biệt về chất giữa con người và con vật; đồng thời chính nó cũng là cội nguồn của những vấn đề về khai thác, sử dụng nguồn lực tự nhiên cũng như những vấn đề sinh thái gay gắt ngày nay
2 Tự nhiên cung cấp nguồn vật chất (các loại tài nguyên thiên nhiên khác nhau, các loại nguyên, nhiên vật liệu), năng lượng, thông tin cần thiết cho sự tồn tại và hoạt động sống của con người, trước hết và quan trọng hơn
cả là hoạt động sản xuất ra của cải vật chất
Như đã phân tích ở trên, hoạt động sản xuất vật chất của loài người chính là phương thức trao đổi chất đặc thù giữa xã hội với tự nhiên Theo C.Mác, trong quá trình sản xuất vật chất, con người có mối “quan hệ song trùng”: một mặt là quan hệ giữa con người với tự nhiên được biểu hiện bằng lực lượng sản xuất, mặt khác là quan hệ giữa con người với con người được biểu hiện bằng quan hệ sản xuất Phương thức sản xuất hay cách thức mà loài người sử dụng để tiến hành sản xuất ra của cải vật chất trong một giai đoạn lịch sử nhất định, chính là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất ở một trình
độ nhất định với một quan hệ sản xuất phù hợp với nó Trong quá trình sản xuất vật chất, con người đã sử dụng công cụ lao động tác động vào giới tự nhiên nhằm cải biến các dạng vật chất sẵn có để tạo ra của cải vật chất, đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của con người và xã hội loài người Vì thế, để
quá trình sản xuất có thể diễn ra được thì cần phải có hai điều kiện: thứ nhất,
con người hay người lao động với sức lao động và trí tuệ của mình có vai trò
quan trọng, giữ vị trí trung tâm; và thứ hai, là giới tự nhiên vừa là khách thể,
Trang 20vừa là nơi con người khai thác các dạng vật chất sẵn có như đất đai, khí hậu, các nguồn tài nguyên thiên nhiên , cải biến chúng nhằm tạo ra của cải vật chất nuôi sống xã hội Điều đó có nghĩa, mặc dù trong sản xuất vật chất, người lao động là yếu tố quan trọng nhất, có tính chất quyết định, nhưng chỉ riêng người lao động thì cũng chưa thể tạo ra của cải vật chất cho xã hội, mà người lao động trong mối quan hệ với giới tự nhiên mới là điều kiện đầu tiên,
cơ bản của quá trình sản xuất vật chất
Như vậy, trong hoạt động sản xuất vật chất, mặc dù nguồn lực tự nhiên chỉ tồn tại ở dạng tiềm năng, là yếu tố mang tính chất thụ động, tự bản thân nó không thể tạo ra của cải vật chất cho xã hội, nhưng không có nguồn lực tự nhiên thì sẽ không có bất kỳ quá trình sản xuất xã hội nào để tạo ra của cải vật chất Ở đây, nguồn lực tự nhiên đóng vai trò là yếu tố, là nguyên liệu “đầu vào” không thể thiếu của quá trình sản xuất Có thể khẳng định rằng, quy mô
và tốc độ phát triển của sản xuất xã hội phụ thuộc rất nhiều vào nguồn lực tự nhiên
3 Môi trường tự nhiên là nơi chứa đựng tất cả các chất phế thải của quá trình trao đổi chất tự nhiên của con người - bằng quá trình đồng hóa, dị hóa và trao đổi chất đặc thù của xã hội với tự nhiên thông qua quá trình sản xuất xã hội
Tự nhiên không chỉ là môi trường trong đó diễn ra các hoạt động sản xuất vật chất, không chỉ là nơi cung cấp các nguồn nguyên liệu, nhiên liệu, năng lượng… mà còn là nơi chứa đựng tất cả các chất phế thải do con người tạo ra trong quá trình sản xuất và tiêu dùng Tại đây, nhờ hoạt động của vi sinh vật và các thành phần môi trường khác, các chất phế thải sẽ biến đổi trở thành các dạng ban đầu trong một chu trình sinh - địa – hóa phức tạp Khả năng tiếp nhận và phân hủy chất thải của môi trường tự nhiên (trong điều kiện
chất lượng môi trường khu vực tiếp nhận không thay đổi) được gọi là khả năng nền của môi trường Khi lượng chất thải lớn hơn khả năng nền, hoặc
thành phần của chất thải khó phân hủy và xa lạ với sinh vật, thì chất lượng
Trang 21môi trường sẽ bị suy giảm và môi trường có thể bị ô nhiễm Đây là một tiêu chí quan trọng để định hướng hoạt động của con người trong mối quan hệ với môi trường tự nhiên sao cho không làm ảnh hưởng đến vai trò, chức năng này của nó; tức là các chất thải do hoạt động sản xuất và tiêu dùng của con người thải vào môi trường tự nhiên phải đảm bảo ở một mức độ cho phép trong giới hạn chịu đựng của môi trường
Như vậy, nguồn lực tự nhiên nói riêng, môi trường tự nhiên nói chung với tư cách là môi trường sống, là những điều kiện đầu tiên, thường xuyên và tất yếu của quá trình hoạt động sống của con người, đặc biệt là quá trình sản xuất ra của cải vật chất; là một trong những yếu tố cơ bản của những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội Tự nhiên vừa là nhà ở, vừa là công xưởng
và phòng thí nghiệm, vừa là cái thùng chứa chất thải khổng lồ của xã hội Tuy nhiên, vai trò và chức năng đó của tự nhiên không phải là bất biến, mà có tính lịch sử cụ thể, theo nghĩa là vai trò và chức năng đó thay đổi cùng quá trình lịch sử - tự nhiên, tùy thuộc vào thái độ và cách thức tác động của con người lên nó Nói vậy để thấy rằng mối quan hệ giữa con người với tự nhiên không phải là quan hệ một chiều, mà là quan hệ hai chiều, mang tính biện chứng
Và, suy đến cùng thì việc tự nhiên có thể thực hiện được vai trò của mình đến đâu, điều đó lại phụ thuộc vào chính nhận thức, thái độ và cách thức ứng xử của con người với tự nhiên thông qua hoạt động thực tiễn của con người và xã hội loài người
Nói một cách tổng quát, trong toàn bộ hoạt động của con người và xã hội loài người, trong đó có hoạt động lao động sản xuất vật chất, thì nguồn lực tự nhiên nói riêng và môi trường tự nhiên nói chung có một vai trò quan trọng Tự nhiên vừa là môi trường sống, môi trường cho hoạt động sản xuất vật chất, vừa là nơi cung cấp nguyên liệu, nhiên liệu, năng lượng cho hoạt động sản xuất, đồng thời là nơi chứa đựng tất cả các chất phế thải của quá trình sản xuất xã hội Những vai trò đó của tự nhiên là không gì có thể thay thế được Do vậy, việc yêu cầu, đòi hỏi phải khai thác, sử dụng một cách hợp
Trang 22lý nguồn lực tự nhiên thực chất là phải tạo ra môi trường, điều kiện và những
cơ sở thuận lợi cho hoạt động sống của con người, mà trước hết là hoạt động sản xuất vật chất, đảm bảo đáp ứng những nhu cầu ngày càng cao của con người
Xét trong phạm vi hẹp hơn, cụ thể là đối với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì nguồn lực tự nhiên có các vai trò sau đây:
1 Nguồn lực tự nhiên là một trong những yếu tố đầu vào không thể thiếu của quá trình sản xuất vật chất nói chung, của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nói riêng
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là một phương thức cơ bản và hữu hiệu nhằm chuyển biến một cách căn bản bộ mặt kinh tế - xã hội của các nước đang phát triển thành một quốc gia phát triển, tiên tiến, hiện đại Đối với nước
ta, hiện tại, nền kinh tế vẫn còn mang nặng tính chất nông nghiệp lạc hậu, công nghiệp nhỏ bé, GDP tính theo đầu người vào loại thấp nhất thế giới Vì thế, để ra khỏi tình trạng nước nghèo và chậm phát triển, tránh được nguy cơ tụt hậu xa hơn, nước ta không có con đường nào khác ngoài tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa Mục tiêu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sớm đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, lực lượng sản xuất phát triển, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng và an ninh vững chắc, nghĩa là chuyển
xã hội từ trình độ văn minh nông nghiệp lên văn minh công nghiệp
Muốn thực hiện được mục tiêu trên thì vấn đề đặt ra là chúng ta phải huy động tối đa mọi nguồn lực cho sự phát triển kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trong đó có nguồn lực tự nhiên Thực tế cho thấy, nhờ
ở vào một vị trí địa lý thuận lợi và có các nguồn tài nguyên thiên nhiên đa dạng và phong phú, nước ta đã xây dựng được một nền nông nghiệp với cơ cấu đa dạng; trong công nghiệp, chúng ta đã xây dựng được một số ngành công nghiệp nặng và một số ngành kinh tế mũi nhọn như khai thác dầu khí, luyện kim, sản xuất điện năng, công nghiệp vật liệu xây dựng… Đây thực sự
Trang 23là cơ sở, điều kiện thuận lợi để nước ta tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa
2 Nguồn lực tự nhiên góp phần quy định cơ cấu, quy mô và tốc độ của nền kinh tế; đồng thời là cơ sở để chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta là xây dựng một nền kinh tế theo hướng công nghiệp phát triển với quy mô rộng lớn, cơ cấu hợp lý và tốc độ phát triển nhanh, bền vững Tuy nhiên, những mục tiêu
đó chỉ có thể đạt được khi dựa trên cơ sở của những nguồn lực mà chúng ta hiện có, đặc biệt là nguồn lực nội sinh như nguồn nhân lực và nguồn vốn huy động được trong nước, nguồn lực tự nhiên… Như vậy, nguồn lực tự nhiên cũng góp phần không nhỏ quy định cơ cấu, quy mô và tốc độ của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa Do đó, yêu cầu đặt ra là cần phải có sự khảo sát và đánh giá đúng mức về các nguồn lực tự nhiên mà nước ta hiện có làm
cơ sở để khai thác một cách hợp lý, vừa đảm bảo đáp ứng nhu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vừa bảo vệ và nuôi dưỡng nguồn lực tự nhiên vì sự phát triển lâu bền
3 Nguồn lực tự nhiên góp phần tạo ra lợi thế so sánh giữa các quốc gia, đồng thời là yếu tố quan trọng cho quá trình tích lũy vốn và phát triển ổn định, nhất là đối với các quốc gia đang ở giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Trước đây, sự giàu có về các nguồn lực tự nhiên là một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá sự giàu có của một quốc gia, bởi
lẽ trong điều kiện khoa học và kỹ thuật còn lạc hậu, khi mà khoa học chưa trở thành một lực lượng sản xuất trực tiếp như hiện nay thì các nguồn lực tự nhiên là những nguồn lực cơ bản nhất để phát triển sản xuất Trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay, mặc dù nguồn lực tự nhiên không còn giữ vị trí là nguồn lực quan trọng nhất, nhưng trong điều kiện khan hiếm, thậm chí là khủng hoảng về các nguồn
Trang 24nguyên liệu, nhiên liệu và năng lượng trên thế giới như hiện nay thì sự
tương đối giàu có về nguồn lực tự nhiên một mặt giúp cho các quốc gia
không bị phụ thuộc nhiều vào các nguồn tài nguyên vốn là các yếu tố không ổn định trên thị trường thế giới hiện nay, tạo điều kiện thuận lợi
cho sự phát triển kinh tế một cách ổn định và bền vững, mặt khác còn
tạo ra lợi thế so sánh, góp phần thu hút mạnh mẽ sự đầu tư từ môi trường bên ngoài, tạo ra sự hấp dẫn trong việc mở rộng thị trường đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài Bên cạnh đó, với các quốc gia đang phát triển, mới ở giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa như Việt Nam hiện nay, thì việc khai thác nguồn lực tự nhiên được coi là một giải pháp quan trọng để tạo nguồn tích lũy ban đầu phục vụ nhu cầu phát triển đất nước, xây dựng hạ tầng cơ sở, góp phần cải thiện dân sinh
Như vậy, qua sự phân tích trên đây chúng ta thấy rằng nguồn lực
tự nhiên nói riêng và môi trường tự nhiên nói chung có một vai trò to lớn đối với hoạt động sống của con người, mà trước hết và quan trọng hơn
cả là hoạt động sản xuất ra của cải vật chất, hoạt động kinh tế Tuy nhiên, việc khai thác, sử dụng nguồn lực tự nhiên để đáp ứng sự phát triển kinh tế - xã hội là vấn đề rất phức tạp, bởi lẽ phải giải quyết được một vấn đề cơ bản là mối quan hệ tương tác giữa nguồn lực tự nhiên và sản xuất xã hội, có tính đối lập nhau: một phía là nguồn lực tự nhiên trong môi trường tự nhiên có hạn; còn một phía là nhu cầu khai thác và
sử dụng nguồn lực tự nhiên để phục vụ cho sản xuất xã hội và con người
là vô hạn Điều này có nghĩa là việc khai thác nguồn lực tự nhiên phục
vụ phát triển kinh tế - xã hội phải đảm bảo được hai yếu tố: một là, phải đảm bảo yếu tố đầu vào không thể thiếu của quá trình sản xuất, và hai là,
phải bảo vệ, cải tạo và nuôi dưỡng nguồn lực tự nhiên vì sự phát triển
lâu bền Nói cách khác, phải đảm bảo tính hợp lý trong quá trình khai
thác nguồn lực tự nhiên phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Trang 251.2 Sự cần thiết phải khai thác một cách hợp lý nguồn lực tự nhiên trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay
Trong triết học Mác, chúng ta có thể thấy giữa con người và tự nhiên
có mối quan hệ biện chứng, thống nhất với nhau Mối quan hệ biện chứng và thống nhất đó bắt nguồn từ tính thống nhất vật chất của thế giới Điều này đã được chứng minh bằng sự phát triển lâu dài và khó khăn của triết học và khoa học tự nhiên Theo đó, giới tự nhiên có quá trình phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, và trong quá trình đó, sự xuất hiện con người là một bước nhảy vọt về chất, là sản phẩm cao nhất của sự tiến hóa trong nhiều triệu năm của giới tự nhiên Chính vì nguồn gốc tự nhiên đó mà xét về mặt bản chất con người không thể đối lập với giới tự nhiên
Tuy con người là sản phẩm của giới tự nhiên, nhưng từ khi xuất hiện nó
đã làm thay đổi tự nhiên Khi mới thoát thai từ động vật để tạo thành xã hội, con người còn phụ thuộc gần như hoàn toàn vào tự nhiên Dần dần, trong quá trình sản xuất xã hội, thông qua lao động, con người học cách biến đổi tự nhiên, điều khiển những quá trình tự nhiên nhằm tạo ra những điều kiện tồn tại, những trạng thái môi trường phù hợp với mình Sản xuất vật chất chính là quá trình hoạt động có mục đích của con người, là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động vào giới tự nhiên, cải biến các dạng vật chất của tự nhiên để tạo ra của cải vật chất phục vụ cho đời sống của con người và
xã hội Không có sản xuất vật chất thì xã hội sẽ tiêu vong, vì thế, sản xuất ra của cải vật chất là điều kiện cơ bản của mọi xã hội, là một hành động lịch sử
mà hiện nay cũng như hàng ngàn năm trước đây người ta vẫn phải tiến hành từng ngày, từng giờ cốt để duy trì cuộc sống của con người Lao động sản xuất để tạo ra các vật phẩm vốn không có sẵn trong tự nhiên, đó cũng chính là điểm khác biệt căn bản giữa con người với tất cả các loài động vật khác, đồng thời sản xuất vật chất cũng chính là cơ sở tạo nên sự thống nhất giữa con người với tự nhiên
Trang 26Vì mối quan hệ giữa con người và tự nhiên là mối quan hệ biện chứng nên có sự tác động hai chiều: không chỉ con người tác động làm biến đổi tự nhiên (thông qua quá trình sản xuất vật chất), mà tự nhiên cũng tác động trở lại đối với cuộc sống của con người Tuy nhiên, sự tác động biện chứng hai chiều này không phải là vĩnh viễn không thay đổi, mà nó phát triển, phức tạp nên cùng với sự phát triển của xã hội loài người và của hoạt động thực tiễn của con người Xu hướng quyết định sự phát triển này gắn liền với sự tăng cường vai trò cải tạo của con người và của xã hội đối với tự nhiên, tức là phụ thuộc vào trình độ của lực lượng sản xuất, mà trước hết là vào sự phát triển của công cụ lao động
Ở những thời kỳ đầu trong sự phát triển của văn minh loài người hay giai đoạn cổ sơ, con người sống chủ yếu bằng săn bắn và hái lượm, sử dụng những sản phẩm có sẵn do tự nhiên cung cấp, nhờ những công cụ sản xuất còn quá thô sơ (chỉ là những cành cây, hòn đá, cung tên ) Lúc này, sự tác động của thiên nhiên đối với con người mạnh gấp nhiều lần so với sự tác động của con người lên tự nhiên Con người sống hoàn toàn phụ thuộc vào tự nhiên, “hòa tan” mình vào giới tự nhiên, “thờ cúng tự nhiên” Đây là giai đoạn “hài hòa tuyệt đối” hay sự phụ thuộc mù quáng, vô ý thức của con người đối với tự nhiên Xã hội loài người lúc bấy giờ và môi trường tự nhiên về cơ bản chưa có gì khác biệt, chúng tạo thành chỉnh thể thống nhất, trong đó chưa
có sự đối lập giữa con người với tự nhiên
Xã hội loài người ngày một tiến lên, sản xuất ngày một phát triển Vì thế, nguồn lực tự nhiên trong môi trường tự nhiên cũng được sử dụng ngày càng nhiều hơn, sự tác động của con người đối với tự nhiên cũng dần tăng lên Nhưng nhìn chung, vào giai đoạn trước công nghiệp, các nguồn lực tự nhiên vẫn còn chưa được khai thác nhiều và môi trường sống của con người và hệ sinh thái mới chỉ thay đổi ở một số mặt có tính chất cục bộ và còn chưa có biến động hoặc đảo lộn trên phạm vi lớn
Trang 27Khác hẳn với hai giai đoạn trước, bước sang giai đoạn công nghiệp và hậu công nghiệp (đặc biệt là giai đoạn công nghiệp hóa và hiện đại hóa), mối quan hệ giữa con người với tự nhiên có sự chuyển biến một cách căn bản Bằng cuộc cách mạng khoa học và kỹ thuật, con người và xã hội loài người đã tác động một cách mạnh mẽ lên giới tự nhiên, bắt tự nhiên phục vụ những nhu cầu và mục đích ngày càng cao của mình Trong giai đoạn này, con người đã khai thác một số lượng khổng lồ các nguồn lực tự nhiên cho hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động kinh tế Thực tế đã cho thấy, bằng cách này, con người đã tạo ra một khối lượng của cải khổng lồ, làm cho chất lượng cuộc sống của con người ngày càng được cải thiện
Có thể nói, con người hiện đại đã tạo ra cho mình một môi trường sống đầy đủ về vật chất, an toàn về sinh mệnh, phong phú về văn hóa so với các giai đoạn trước đó Tuy nhiên, các hoạt động khai thác nguồn lực tự nhiên phục vụ sự phát triển kinh tế, đặc biệt trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng đang tạo ra hàng loạt các vấn đề nghiêm trọng như nạn khan hiếm, cạn kiệt nguồn lực tự nhiên, ô nhiễm
và suy thoái chất lượng môi trường khắp mọi nơi trên thế giới Điều đó nhắc nhở chúng ta không được quên lời cảnh báo của Ph.Ăng-ghen rằng “chúng ta không nên quá tự hào về những thắng lợi của chúng ta đối với giới tự nhiên Bởi vì cứ mỗi lần
ta đạt được một thắng lợi, là mỗi lần giới tự nhiên trả thù lại chúng ta Thật thế, mỗi một thắng lợi, trước hết là đem lại cho chúng ta kết quả mà chúng ta hằng mong muốn, nhưng đến lượt thứ hai, lượt thứ ba, thì nó lại gây ra những tác dụng hoàn toàn khác hẳn, không lường trước được, những tác dụng thường hay phá hủy tất cả những kết quả đầu tiên của nó” [30, 654]
Nhân loại đã có quá nhiều bài học đau đớn về sự biến mất của một số nền văn minh cổ xưa đã từng một thời rất hưng thịnh như nền văn minh Crét, nền văn minh May-a, nền văn minh Lưỡng Hà… do những hoạt động có tính chất hủy diệt của con người đối với môi trường tự nhiên Những gì đã xảy ra trong quá khứ hoàn toàn có thể lặp lại ở hiện tại và tương lai, một khi con người vô tình hoặc cố ý không đảm bảo mối quan hệ hài hòa và sự đồng tiến hóa giữa xã hội và tự nhiên Ngày nay, càng có nhiều cơ sở để chúng ta thấy
Trang 28rằng, quyền hành và sự thống trị của con người đối với giới tự nhiên không phải là lớn như ta hình dung ở các thế kỷ trước, càng không phải tuyệt đối, nhất là khi con người với khoa học trong tay đã trở thành một lực lượng có sức mạnh biến đổi tự nhiên ngày càng lớn hơn gấp nhiều lần Không thể tiếp tục sai lầm, đã đến lúc chúng ta cần tìm cách sống hài hòa với thiên nhiên, điều khiển có ý thức mối quan hệ giữa con người và tự nhiên, con người không chỉ thực hiện một chiều là khai thác tự nhiên, mà còn có trách nhiệm bồi bổ, tái tạo và làm phong phú thêm cho tự nhiên Đó là cách giải quyết đúng đắn cho những vần đề sinh thái toàn cầu đang đặt ra hiện nay
Việt Nam hiện nay vẫn là quốc gia chậm phát triển, đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa với mục tiêu là sớm thoát ra khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu Để thực hiện được mục tiêu đó thì việc đẩy mạnh sản xuất nhằm tăng trưởng kinh tế là yêu cầu tất yếu; mà để tăng trưởng kinh
tế thì nhất định phải sử dụng các nguồn lực tự nhiên với tư cách là nguồn lực đầu vào không thể thiếu của sản xuất Tuy nhiên, giống như tình trạng chung của các nước đang phát triển, một vấn đề bức xúc đặt ra hiện nay là nguồn lực
tự nhiên của chúng ta ngày càng cạn kiệt tới mức trầm trọng do việc khai thác quá mức và sử dụng không hợp lý Đồng thời việc sản xuất lại chủ yếu dựa vào kỹ thuật và công nghệ lạc hậu dẫn tới sự tiêu tốn và lãng phí nhiều nguyên liệu, nhiên liệu, năng lượng Bên cạnh đó, thái độ không thân thiện của con người với môi trường, cách thức quản lý không phù hợp, cùng với mặt trái của cơ chế thị trường chưa được khắc phục một cách hiệu quả cũng là những nguyên nhân gây ra tình trạng trên
Để có thể giảm thiểu tới mức thấp nhất những hậu quả về mặt môi trường sinh thái do hoạt động tăng trưởng kinh tế và thực hiện mục tiêu phát triển bền vững, Việt Nam cần phải lựa chọn cho mình một chiến lược nhằm khai thác và sử dụng hợp lý các nguồn lực cho sự phát triển, trong đó có nguồn lực tự nhiên Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là thế nào là khai thác một cách hợp lý?
Trang 29Trong thập niên 70 của thế kỷ XX, khi nhận thức được rằng khai thác nguồn lực tự nhiên một cách bừa bãi sẽ gây ra những hậu quả khôn lường cho
sự sống của con người và toàn bộ sinh quyển, các nhà khoa học đã nêu ra một quan điểm về bảo vệ nguồn lực tự nhiên và môi trường được nhiều người ủng
hộ, là bảo vệ tức là phải giữ nguyên hiện trạng tự nhiên mà không khai thác gì cho sự phát triển kinh tế
Tuy nhiên, đến thập niên 80 của thế kỷ XX, quan điểm trên không còn đứng vững, vì trong thực tế không thể viện lý do bảo vệ nguồn lực tự nhiên và môi trường để hạn chế hoàn toàn việc khai thác nó cho sự phát triển kinh tế, nhất là đối với các nước đang phát triển, nơi đang có những nhu cầu phát triển sản xuất rất lớn Mặt khác, chính bản thân các nguồn lực tự nhiên cũng biến đổi không ngừng, cho nên việc cố gắng giữ nguyên hiện trạng lâu dài trở nên không tưởng Vì vậy, vấn đề hiện nay ở nước ta không phải là có khai thác hay không khai thác nguồn lực tự nhiên cho sự phát triển kinh tế, mà là khai thác sao cho hợp lý và có hiệu quả nhất Theo chúng tôi, tính hợp lý và hiệu quả của việc khai thác nguồn lực tự nhiên trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay phải được thể hiện trên cả hai phương diện: phương diện kinh tế và phương diện môi trường
- Về phương diện kinh tế: Việc khai thác hợp lý nguồn lực tự nhiên được thể hiện ở hai khía cạnh:
+ Thứ nhất, việc khai thác đó phải đảm bảo yêu cầu cho sự phát triển
kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và nó được bộc lộ thông qua
năng suất lao động, thông qua hiệu quả kinh tế mà hoạt động khai thác đó
đem lại Điều này có nghĩa việc khai thác và sử dụng nguồn lực tự nhiên được gọi là hợp lý khi mà nguồn đầu vào (các nguồn lực tự nhiên) là thấp nhất, nhưng năng suất và chất lượng sản phẩm phải cao nhất Tất nhiên, tùy thuộc vào từng ngành kinh tế, từng lĩnh vực thì các tiêu chí chung cần được cụ thể hóa thành một hệ thống các tiêu chí riêng phản ánh tính hiệu quả của việc khai thác và sử dụng nguồn lực tự nhiên
Trang 30+ Thứ hai, việc khai thác nguồn lực tự nhiên phải hướng đến sự phát
triển lâu bền, nghĩa là phải đảm bảo rằng việc khai thác nguồn lực tự nhiên để phục vụ cho nhu cầu tồn tại và phát triển của hiện tại nhưng vẫn không làm ảnh hưởng đến các thế hệ tương lai trong việc thỏa mãn những nhu cầu đó
- Về phương diện môi trường: Việc khai thác nguồn lực tự nhiên được coi là hợp lý khi nó không gây ra những tác động xấu đến môi trường, tức là phải đảm bảo việc hạn chế ô nhiễm môi trường sống do chính hoạt động khai thác đó gây ra, tiến đến không ngừng cải thiện và nâng cao chất lượng môi trường sống của con người Tức là phải đảm bảo mối quan hệ hài hòa giữa con người với tự nhiên trong sự phát triển xã hội nói chung và giữa sự tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sống nói riêng
Tóm lại, trong quá trình khai thác nguồn lực tự nhiên phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay phải đảm bảo tính hợp lý, hiệu quả và lâu bền Tuy nhiên, đó không phải là vấn đề đơn giản, bởi lẽ nó phải giải quyết được một mâu thuẫn giữa một bên là nguồn lực tự nhiên trong môi trường tự nhiên là có hạn với một bên là nhu cầu khai thác và sử dụng nó của con người là vô hạn, đặc biệt là trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường Mâu thuẫn này chỉ có thể được giải quyết một khi con người sử dụng sức mạnh của tư duy, của nhận thức để nắm bắt được các quy luật của tự nhiên và hành động thuận theo những quy luật đó nhằm mục đích xác lập lại mối quan hệ hài hòa, thống nhất và sự đồng tiến hóa giữa xã hội và tự nhiên
Như vậy, từ vị trí, vai trò của nguồn lực tự nhiên và yêu cầu của việc khai thác hợp lý nguồn lực tự nhiên trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa như đã trình bày ở trên, vấn đề đặt ra là phải xem xét, đánh giá một cách toàn diện thực trạng và đặc điểm của việc khai thác đó ở nước ta hiện nay để
từ đó có phương hướng khai thác và sử dụng hợp lý và có hiệu quả hơn, đảm bảo cho sự thành công của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Trang 31Chương 2 THỰC TRẠNG KHAI THÁC NGUỒN LỰC TỰ NHIÊN
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1 Một số nét khái quát về nguồn lực tự nhiên ở Việt Nam
2.1.1 Vị trí địa lý
Việt Nam nằm ở vùng Đông Nam châu Á, giáp biển Đông với diện tích
331 nghìn km2 đất liền và gần 1 triệu km2 diện tích lãnh hải, được chia thành
64 tỉnh, thành phố theo 8 vùng kinh tế Phía Bắc giáp Trung Quốc với đường biên giới khoảng 1.400km, phía Tây giáp Lào và Campuchia với đường biên giới là 3.147km, trong đó với Lào là 2.067km, với Campuchia là 1.080km, phía Nam và Đông Nam giáp biển Đông với 3.260km đường bờ biển cùng hàng nghìn đảo lớn nhỏ với các quần đảo lớn như Trường Sa, Hoàng Sa, Bạch Long Vĩ, Cát Bà, Lý Sơn, Phú Quý, Côn Đảo, Phú Quốc, v.v [49, 8]
Vị trí địa lý của Việt Nam là một lợi thế địa - kinh tế, tạo điều kiện để phát triển đa dạng các ngành nghề từ nông, lâm, ngư nghiệp, công nghiệp và dịch vụ Việt Nam có vùng lãnh hải rộng lớn chứa nguồn tài nguyên phong phú và đa dạng từ hải sản, dầu mỏ, muối Đặc biệt, Việt Nam có bờ biển kéo dài, có nhiều đảo và phong cảnh đẹp có lợi thế phát triển du lịch lớn như Vịnh
Hạ Long, Phú Quốc, Côn Đảo; ngoài ra còn có các cảng biển, các loại hình vận tải biển, các ngành công nghiệp đóng tàu, khai thác nguồn lợi từ đại dương như đánh bắt cá, tôm, khai thác dầu, muối, v.v
Việt Nam nằm trong khu vực có lợi thế về địa - chính trị chiến lược gần đường hàng hải quốc tế, dễ dàng giao lưu với các hải cảng lớn và các nước trên thế giới Nằm ở vị trí trung tâm vùng Đông Nam Á - khu vực đang có tốc
độ tăng trưởng năng động nhất thế giới, Việt Nam quan hệ trước hết với các nước gần gũi như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Phi-lip-pin, Ma-lay-si-a, Lào , tạo thuận lợi phát triển nền kinh tế; đồng thời đó cũng là cơ hội để giao lưu, hội nhập và tiếp thu những nguồn lực ngoại sinh như nguồn
Trang 32vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý từ nước ngoài vào Việt Nam và hàng hóa của Việt Nam xuất khẩu đi khắp nơi trên thế giới
Tuy nhiên, do nước ta có đường bờ biển dài nên trung bình hàng năm cũng phải hứng chịu từ 5 - 7 cơn bão, trong đó có những cơn bão lớn gây thiệt hại không nhỏ cho ngành nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ và cả con người Nhưng nhìn chung nước ta ở vào vị trí địa lý thuận lợi cho phát triển kinh tế trong nước và tiếp thu văn hóa, quan hệ kinh tế với bên ngoài Vấn đề còn lại
là chúng ta phải có kế hoạch khai thác hợp lý nguồn lực này, tránh khai thác lãng phí gây ô nhiễm môi trường, làm cản trở quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
2.1.2 Tài nguyên thiên nhiên
Tài nguyên thiên nhiên ở Việt Nam tương đối phong phú hơn so với một số nước trong khu vực, tạo lợi thế quan trọng để phát triển Tuy nhiên, tài nguyên thiên nhiên của Việt Nam hầu hết có quy mô không lớn và phân bố không đồng đều giữa các vùng, nhiều tài nguyên ở dạng tiềm năng, khả năng khai thác khó khăn, đòi hỏi vốn đầu tư lớn
- Tài nguyên đất:
Tài nguyên đất ở Việt Nam được xác định có 14 nhóm, 64 loại Nhóm đất đỏ - vàng chiếm 50% diện tích đất tự nhiên, phục vụ cho phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp, trồng cây lâu năm, trồng cỏ chăn nuôi Nhóm đất phù sa chiếm 9,3% để phát triển lương thực, thực phẩm, rau và cây công nghiệp ngắn ngày Các nhóm đất cát, đất biển, đất nhiễm mặn có thể khắc phục để phát triển nông nghiệp và lâm nghiệp
Theo số liệu của Tổng cục địa chính thì vốn đất của Việt Nam có khoảng 33,172 triệu ha, chưa kể các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, xếp thứ 55 trong tổng số 200 nước trên thế giới Việt Nam là nước có quy mô diện tích trung bình, nhưng vì dân số đông nên diện tích đất bình quân trên đầu người là khoảng 0,35 ha/người, thuộc loại thấp nhất trên thế giới, xếp thứ 120
và bằng 1/6 mức bình quân của thế giới Trong tổng vốn đất hiện có thì 55%
Trang 33đã được sử dụng vào các mục đích nông nghiệp, lâm nghiệp, chuyên dùng và khu dân cư Đất chưa sử dụng là 45%, trong đó đất đồng bằng chưa sử dụng
là 6,9%, đồi núi là 75,5%, đất mặn nước là 1%, sông suối, núi đá là 16,5% Riêng Trung du miền núi Bắc Bộ chiếm 42,3% đất chưa sử dụng của cả nước [49, 25]
Quỹ đất có thể mở thêm phần lớn là đất dốc, thiếu nguồn nước, một phần đã bị xói mòn, thoái hóa, diện tích có thể mở rộng trồng lúa là 30 vạn
ha Trong khi đó diện tích đất nông nghiệp bị sử dụng vào các mục đích khác ngày càng gia tăng Theo dự báo thì trong 15 năm tới, mỗi năm có thể mất đi 2,8 vạn ha đất nông nghiệp, trong đó có 1 vạn ha đất trồng lúa
Đất đai của Việt Nam nằm ở vùng nhiệt đới, mưa nhiều, nhiệt độ không khí cao, các quá trình khoáng hóa diễn ra trong đất mạnh, hơn nữa trong những năm qua do sử dụng nhiều loại phân bón hóa học, thuốc trừ sâu nên đất
dễ bị rửa trôi, xói mòn, dẫn đến thoái hóa Đất đã bị thoái hóa rất khó có thể khôi phục trở lại trạng thái màu mỡ ban đầu, vì vậy trong thời gian tới đòi hỏi phải nâng cao chất lượng sử dụng đất, cơ cấu cây trồng phải được chuyển đổi phù hợp với hệ sinh thái tránh xói mòn, rửa trôi
Ở nước ta, hai vùng đất phù sa trung tính thuộc lưu vực sông Hồng và sông Cửu Long có độ phì nhiêu cao, có tiềm năng năng suất sinh học lớn Còn lại các vùng đất khác, tuy rộng lớn và có vị trí chiến lược quan trọng nhưng là đất có tiềm năng năng suất sinh học thấp Loại đất này phân bố chủ yếu ở hai vùng: vùng đồi núi cao dễ bị xói mòn, rửa trôi và vùng đất cát ven biển ngập mặn hoặc sinh phèn
Ngoài ra, Việt Nam còn là một quốc gia giàu tiềm năng về diện tích đất ngập nước Các vùng đất ngập nước ở nước ta phân bố tập trung trong hai hệ thống châu thổ lớn là châu thổ sông Hồng và sông Cửu Long Vùng châu thổ sông Cửu Long là một trong những vùng đất ngập nước lớn nhất của thế giới Dọc theo bờ biển Việt Nam từ Bắc vào Nam là một hệ thống các hệ sinh thái rừng ngập mặn, trong đó hệ sinh thái rừng ngập mặn Cà Mau được đánh giá
Trang 34là có tiềm năng năng suất sinh học rất cao Ven biển Việt Nam còn nổi tiếng với các bãi cỏ biển, các rạn san hô và đặc biệt là hệ thống các đầm phá tập trung nhiều từ Thừa Thiên Huế đến Bình Thuận Các hệ sinh thái đất ngập nước có giá trị kinh tế rất lớn, đặc biệt là về nông nghiệp và lâm nghiệp Đất ngập nước ở đồng bằng châu thổ sông Hồng và sông Cửu Long là nơi canh tác lúa nước có năng suất cao Rừng ngập mặn cùng với các vùng ngập nước cửa sông, các thảm cỏ biển có tầm quan trọng đặc biệt về mặt sinh thái với tư cách là khu nuôi ương, sinh sản và cư trú của nhiều loài sinh vật biển Các rạn san hô là nơi điều hòa môi trường và cung cấp dinh dưỡng cho các sinh vật vùng biển bao quanh Nhìn chung, đất ngập nước ven biển, rừng ngập mặn và rạn san hô được xem như những vùng đệm tự nhiên chống lại sự đe dọa của lũ lụt, xói lở và gió bão Châu thổ sông Hồng và sông Cửu Long là nơi trú đông của khoảng một trăm loài chim nước di cư
- Tài nguyên rừng:
Việt Nam là quốc gia có diện tích rừng khá lớn với nhiều kiểu rừng
khác nhau như: rừng lá rộng thường xanh nhiệt đới (thường gặp trên các vùng đồi núi cao dưới 800m ở phía Bắc, trên 1000m ở phía Nam), rừng lá rộng thường xanh nhiệt đới trên núi đá vôi (phân bố rải rác trên các núi đá vôi từ Bắc vào Nam), rừng lá rộng thường xanh á nhiệt đới vùng núi cao (thường gặp tại các vùng núi cao trên 800m ở phía Bắc), rừng khộp (phân bố chủ yếu
ở vùng Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, duyên hải Nam Trung Bộ), rừng lá kim (phân bố nhiều ở phía Nam, những nơi cao trên 1000m), rừng tre nứa (phân
bố từ Bắc vào Nam)
Tùy theo mục đích sử dụng, rừng ở nước ta được chia thành 3 loại:
+ Rừng sản xuất: được sử dụng chủ yếu để kinh doanh gỗ, mây, tre và
các lâm sản khác như cây thuốc, nuôi các loài động vật, kết hợp với phòng hộ
và bảo vệ môi trường sinh thái
+ Rừng phòng hộ: được sử dụng chủ yếu để bảo vệ nguồn nước, bảo vệ
đất, chống xói mòn, hạn chế thiên tai, điều hòa khí hậu Có các loại rừng
Trang 35phòng hộ như rừng phòng hộ đầu nguồn, rừng phòng hộ chắn sóng ven biển, rừng phòng hộ chắn gió, chắn cát bay, rừng phòng hộ bảo vệ môi trường sinh thái của các khu công nghiệp, khu dân cư, khu du lịch
+ Rừng đặc chủng: được sử dụng chủ yếu để bảo tồn thiên nhiên, các
hệ sinh thái quan trọng của quốc gia, nguồn gen sinh vật rừng quý hiếm
Giống như các nước đang phát triển ở vùng nhiệt đới, Việt Nam trước đây sử dụng rừng chủ yếu là để khai thác gỗ, mà ít lưu ý đến chức năng môi trường Do đó, diện tích rừng bị giảm dần, tài nguyên rừng bị cạn kiệt Trong 50 năm qua, bình quân mỗi năm nước ta mất khoảng 100.000
ha rừng Rừng trước đây là rừng tự nhiên, mật độ dày và chất lượng cao, nhưng hiện nay có tới 50% diện tích rừng còn lại là rừng thưa, chất lượng thấp và rừng mới tái sinh
Đến nay, toàn quốc có 19 triệu ha rừng và đất rừng, chiếm khoảng 57,65% diện tích tự nhiên (phần đất liền) của cả nước; trong đó 9,3 triệu ha có rừng và 9,7 triệu ha chưa có rừng Diện tích rừng và đất rừng phân bố như sau: Tây Bắc: 2,748 triệu ha (đã có rừng 516.000 ha), Đông Bắc: 4,307 triệu
ha (đã có rừng 1,477 triệu ha), Bắc Trung Bộ: 3,284 triệu ha (đã có rừng 1,792 triệu ha), Duyên hải Nam Trung Bộ: 2,929 triệu ha (đã có rừng 1,597 triệu ha), Tây Nguyên: 4,433 triệu ha (đã có rừng 3,168 triệu ha), Đông Nam Bộ: 0,848 triệu ha (đã có rừng 0,486 triệu ha), Đồng bằng sông Cửu Long: 0,441 triệu ha (đã có rừng 0,212 triệu ha), Đồng bằng sông Hồng: 0,0911 triệu
ha (đã có rừng 0,053 triệu ha) [49, 33]
Về trữ lượng, tổng trữ lượng gỗ cây đứng của cả nước là 589,465 triệu
m3 và 145 triệu cây tre nứa Trong số này, Tây Nguyên là vùng giàu tài nguyên rừng gỗ nhất với 274,021 triệu m3
(chiếm 46,5% tổng trữ lượng gỗ của cả nước), tiếp đến là Bắc Trung Bộ với 117,363 triệu m3
(19,9%), Duyên hải Nam Trung Bộ với 106,168 triệu m3
(18%), Đông Bắc với 49,634 triệu m3(8,4%), Đông Nam Bộ với 20,768 triệu m3
(3,5%), Tây Bắc với 18,017 triệu
Trang 36m3 (3,1%), Đồng bằng sông Cửu Long với 3,106 triệu m3 (0,53%), Đồng bằng sông Hồng với 389.400 m3
(0,07%) Trữ lượng tre nứa tập trung chủ yếu ở vùng Bắc Trung Bộ [49, 33-34]
- Tài nguyên nước:
So với nhiều nước, Việt Nam có nguồn tài nguyên nước khá dồi dào Lượng nước bình quân đầu người đạt tới 17.000m3/năm Nếu hệ số bảo đảm nước trung bình trên thế giới là 20 (tức 700 lít/người/ngày) thì con số này ở Việt Nam là 68, cao gấp trên 3 lần Sở dĩ như vậy là do Việt Nam có lượng mưa trung bình hàng năm cao, hệ thống sông ngòi, kênh rạch dày đặc (mật độ 0,5 – 2km/km2) với chiều dài tổng cộng trên 52.000km Trong đó có các hệ thống sông lớn như sông Cửu Long, sông Hồng, sông Đồng Nai Ngoài ra còn có 213.549 ha mặt nước hồ chứa, có các công trình thủy lợi và thủy điện lớn như Hòa Bình, Thác Bà, Trị An, Núi Cốc, Kẻ Gỗ, Dầu Tiếng, Nậm Rốm,
Tà Keo [49, 27-28]
Chế độ nước ở Việt Nam có những nét riêng của vùng nhiệt đới, lượng mưa tương đối lớn (1800 – 2000mm) nhưng lại phân bố không đều, tập trung chủ yếu vào các tháng mùa mưa (từ tháng 4 – 5 đến tháng 11) Riêng vùng ven biển Trung Bộ mùa mưa bắt đầu và kết thúc muộn vài ba tháng
Ở các tỉnh miền Bắc, lượng mưa trong mấy tháng mùa mưa chiếm 70 – 80% lượng mưa cả năm Ở Tây Nguyên và Nam Bộ con số này còn lớn hơn (90%) Lượng mưa lớn, lại mưa tập trung nên tạo ra dòng chảy lớn Lượng nước mưa hàng năm trên toàn lãnh thổ khoảng 640km3 Nếu tính cả lượng nước từ bên ngoài chảy vào lãnh thổ qua các con sông lớn như sông Cửu Long (550km3), sông Hồng (50km3) thì tổng lượng nước sẽ tăng gấp đôi, rất
dễ gây xói mòn và lũ lụt vào những tháng mùa mưa và hạn hán vào những tháng mùa khô
Về chất lượng, nước của sông ngòi nước ta thỏa mãn các nhu cầu kinh
tế xã hội do độ khoáng hóa thấp (200mg/lít), phản ứng trung tính hoặc kiềm yếu, thuộc loại nước mềm
Trang 37Do nguồn nước mặt dồi dào làm cho lượng nước ngầm lớn, với nhịp điệu khai thác khoảng 15 triệu m3
/ngày Nước ngầm đã được sử dụng rất lâu đời ở khắp các vùng nông thôn, phong trào đào giếng khơi lấy nước ngầm được phát triển rộng rãi Hiện nay tại các khu công nghiệp lớn, khu dân cư, nước ngầm được khai thác phục vụ sản xuất công nghiệp và sinh hoạt của người dân
Trên toàn lãnh thổ Việt Nam có trên 350 nguồn nước khoáng, nước nóng, trữ lượng mạch lộ thiên đạt đến 86,4 triệu lít/ngày Nước khoáng có nhiệt độ thay đổi từ 25 – 1050C Theo đặc tính chữa bệnh có thể chia nước khoáng, nước nóng ở Việt Nam thành 8 nhóm chủ yếu, bao gồm: nhóm nước khoáng cacbônic, silic, brôm và i-ôt, sun-phua hi-đrô, sắt, phóng xạ, nước nóng khoáng hóa thấp, và nước giàu khoáng Nguồn nước khoáng của nước ta
có thể khẳng định là tài nguyên giàu có, là nguồn dược liệu quý, là nguồn nước giải khát rất có ý nghĩa nâng cao sức khỏe của nhân dân
Sự giàu có về tài nguyên nước đã góp phần quan trọng phát triển nền nông nghiệp nước ta, đưa Việt Nam trở thành nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới Tuy nhiên, chúng ta cũng cần phải hết sức cảnh giác bảo vệ nguồn nước tránh bị ô nhiễm, tránh sử dụng lãng phí tài nguyên nước khi phát triển kinh tế của đất nước
- Tài nguyên khoáng sản:
Nước ta nằm trên bản lề của hai vành đai kiến tạo và sinh khoáng cỡ lớn của hành tinh là Thái Bình Dương và Địa Trung Hải, bởi vậy, khoáng sản nước ta rất phong phú về chủng loại, có một số loại khoáng sản có trữ lượng cao Công tác thăm dò địa chất trong nhiều năm qua đã phát hiện và đánh giá được trữ lượng của 5000 mỏ và điểm quặng, thuộc 80 loại khoáng sản
+ Khoáng sản nhiên liệu, năng lượng:
Việt Nam là quốc gia có tiềm năng lớn về các nguồn năng lượng: dầu thô, khí tự nhiên, than đá, thủy năng Trong tương lai không xa, nước ta sẽ đáp ứng đủ các yêu cầu trong nước và cung cấp một phần cho xuất khẩu
Trang 38 Than của nước ta có nhiều loại, trữ lượng lớn, phân bố ở nhiều nơi, nhưng tập trung chủ yếu ở Quảng Ninh Tổng trữ lượng các mỏ than ở Việt Nam theo ước tính là trên 6,6 tỷ tấn (đứng đầu ở Đông Nam Á); trong đó riêng vùng than Quảng Ninh đã chiếm tới 90% trữ lượng của cả nước
Than ở Quảng Ninh, nếu tính đến độ sâu 300m thì trữ lượng thăm dò được khoảng 3,5 tỷ tấn, nếu tính từ độ sâu từ 300m đến 900m thì trữ lượng dự báo là khoảng 2 tỷ tấn Phần lớn ở đây là than an-tra-xit, chất lượng tốt, có giá trị xuất khẩu
Các mỏ than ở các địa phương khác trữ lượng không lớn, nhưng bù lại
có thêm những loại than cần thiết cho công nghiệp luyện kim như than mỡ ở Thái Nguyên Than nâu trữ lượng khá lớn, có nhiều ở Đồng bằng Bắc Bộ (trữ lượng hàng chục tỷ tấn), ở vùng trũng đệ tam Na Dương (trữ lượng vào khoảng 120 triệu tấn), ở các bồn trũng dọc sông Hồng, sông Cả, sông Đà, sông Ba, Di Linh, Bảo Lộc… Than bùn được phát hiện ở nhiều nơi với trữ lượng tương đối lớn, có nhiều ở Đồng bằng Bắc Bộ và Đồng bằng Nam Bộ (các mỏ than bùn ở đây có trữ lượng ước tính là 400 – 500 triệu tấn) [49, 35]
Dầu mỏ và khí đốt là một nguồn năng lượng và nguyên liệu rất quan trọng của nước ta Trữ lượng dự báo về khí đốt trên toàn lãnh thổ nước
+ Các loại khoáng sản khác:
Trang 39Ngoài than, dầu khí, nước ta còn nhiều loại khoáng sản khác như các kim loại đen, kim loại màu, kim loại quý hiếm, khoáng sản phi kim loại Đây
là những tài nguyên thiên nhiên có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế -
xã hội của đất nước
Về kim loại đen, nước ta có sắt, man-gan và crôm Đã phát hiện
mỏ sắt lớn nhất với trữ lượng khoảng 550 triệu tấn ở Thạch Khê (Hà Tĩnh) Trữ lượng các mỏ sắt khác ở vùng Tây Bắc (Bắc Hà, Nga Mi, Hùng Khánh) khoảng 120 triệu tấn; ở Tùng Bá (Hà Giang) khoảng 140 triệu tấn; ở Thái Nguyên, Cao Bằng khoảng 20 – 50 triệu tấn Các mỏ man-gan trầm tích ở Chiêm Hóa có trữ lượng nhỏ hơn Crôm có nhiều ở Cổ Định (Thanh Hóa) với trữ lượng khoảng 20,8 triệu tấn [49, 36]
Về kim loại màu, nước ta có trữ lượng khá lớn về quặng bô-xít, thiếc, đồng; trữ lượng vừa và nhỏ đối với các loại quặng kim loại màu khác
Mỏ bô-xít tập trung ở một số tỉnh miền Bắc (Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn); ở Tây Nguyên (Lâm Đồng, Đắc Lắc) với trữ lượng khoảng trên 4
tỷ tấn Mỏ thiếc, vôn-fram có nhiều ở Tĩnh Túc, Sơn Dương, Quỳ Hợp, Nam Trung Bộ với tổng trữ lượng khoảng 160.000 tấn Đồng với trữ lượng khoảng 600.000 tấn có nhiều ở Lào Cai (Sinh Quyền), Sơn La, Bắc Giang, Nghệ Tĩnh, Quảng Ngãi
Ngoài các mỏ có trữ lượng khá lớn kể trên, ở Việt Nam còn có nhiều tan, chì, kẽm, ni-ken, thủy ngân, vàng, bạc Ti-tan có trữ lượng vào khoảng 11 triệu tấn, tập trung chủ yếu ở núi Chúa (5 triệu tấn); bãi biển Mũi Ngọc, Trà
ti-Cổ, Móng Cái… Chì và kẽm khá phổ biến, nhưng trữ lượng không lớn, đang được khai thác ở chợ Điền, Làng Hít Vàng và bạc với trữ lượng vài ngàn tấn
ở Bảo Lạc, Ngân Sơn, Thái Nguyên, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Kon-Tum Thủy ngân có ở Hà Giang Quặng phóng xạ đã phát hiện được ở Tây Bắc… [49, 37]
Các mỏ phi kim loại ở nước ta khá phong phú, quan trọng hơn cả
là các mỏ a-pa-tít, sét, vật liệu xây dựng Mỏ a-pa-tít Cam Đường (Lào Cai)
Trang 40có trữ lượng lớn (khoảng 500 triệu tấn), chất lượng cao và dễ khai thác Nước
ta có nhiều đá vôi (trữ lượng thăm dò là khoảng 356 triệu tấn), tập trung ở miền Bắc, diện phân bố rộng, thuận tiện cho việc khai thác Trữ lượng thăm
dò của sét dùng làm xi-măng của nước ta là 135 triệu tấn Sét dùng làm đồ gốm có trữ lượng tương đối lớn, phân bố chủ yếu ở Hải Dương, Móng Cái, Phú Thọ Nước ta cũng có nhiều loại đá xây dựng có giá trị như đá hoa, đá gra-nít và nhiều mỏ hồng ngọc, lam ngọc có giá trị ở Nghệ An, Yên Bái… [49, 37]
Việt Nam là nước có nhiều tài nguyên khoáng sản, là một nguồn lực và là lợi thế quan trọng cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước Tuy nhiên, nguồn tài nguyên quý giá này còn chưa được khảo sát kĩ và mới được khai thác ở mức thấp Trong tương lai cần tiếp tục thăm dò, đánh giá chính xác nguồn trữ lượng để có thể lập kế hoạch khai thác hợp lý và tiết kiệm
- Tài nguyên đa dạng sinh học:
Tài nguyên đa dạng sinh học của nước ta vào loại phong phú, đa dạng
và mang tính đặc thù của vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa
Sự khác biệt về khí hậu, về vùng xích đạo tiếp giáp vùng cận nhiệt đới cùng với sự kiến tạo đa dạng về mặt địa hình đã hình thành nên tính đa dạng
hệ sinh thái của nước ta Trên mỗi hệ, mỗi vùng sinh thái đó là sự phong phú,
đa dạng về chủng loại động và thực vật
Về thực vật, nước ta có khoảng 12.000 loài cây có mạch (trong đó mô
tả được 7000 loài) với 10% là đặc hữu; 800 loài rêu và 600 loài nấm lớn,
2300 loài dùng làm lương thực, thực phẩm cho gia súc, lấy gỗ, tinh dầu…, gần 1500 loài cây làm dược liệu, hơn 2000 loài tảo (cả nước ngọt và nước mặn) trong đó có nhiều loại có hàm lượng chất dinh dưỡng cao
Các loài động vật ở nước ta cũng rất phong phú với 273 loài thú (sẽ
đưa vào sổ đỏ 78 loài), 774 loài chim (sẽ đưa vào sách đỏ 83 loài), 1.650 loài
cá biển, 475 loài cá nước ngọt và hàng ngàn loài động vật không xương sống Đặc biệt, có một số ít loài chỉ có ở Việt Nam [39, 120]