Quốc gia nào giải quyết tốt mối quan hệ này thì có thể khai thác được tiềm năng thế mạnh của mình, đồng thời tranh thủ tối đa được nguồn lực bên ngoài như nguồn vốn, khoa học, công nghệ,
Trang 1ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGUYỄN THỊ SƠN
QUAN HỆ GIỮA NỘI LỰC VÀ NGOẠI LỰC
TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Luận văn thạc sĩ triết học
Hà Nội - 2009
Trang 2ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGUYỄN THỊ SƠN
QUAN HỆ GIỮA NỘI LỰC VÀ NGOẠI LỰC TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Luận văn thạc sĩ triết học
Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Mã số : 60 22 85
Người hướng dẫn khoa học: TS Dương Văn Duyên
Hà Nội - 2009
Trang 3MỤC LỤC
MỞ ĐẦU……… 1
NỘI DUNG……… 8
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUAN HỆ GIỮA NỘI LỰC VÀ NGOẠI LỰC TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM……… 8
1.1 Khái niệm và kết cấu của nội lực……… 8
1.2 Khái niệm và kết cấu của ngoại lực……… 27
1.3 Quan hệ giữa nội lực và ngoại lực……… 34
1.3.1 Nội lực là yếu tố quyết định tranh thủ ngoại lực………… 34
1.3.2 Tranh thủ ngoại lực tạo điều kiện phát huy nội lực……… 40
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY QUAN HỆ GIỮA NỘI LỰC VÀ NGOẠI LỰC TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY………… 48
2.1 Thực trạng phát huy quan hệ giữa nội lực và ngoại lực trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam những năm qua……… 48
2.1.1 Thành tựu của việc phát huy quan hệ giữa nội lực và ngoại lực ở Việt Nam những năm qua……… 49
2.1.2 Hạn chế của việc phát huy quan hệ giữa nội lực và ngoại lực ở Việt Nam những năm qua.……… 73
2.2 Một số giải pháp nhằm phát huy quan hệ giữa nội lực và ngoại lực trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay……… 85
KẾT LUẬN……… 96
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO……… 98
Trang 4MỞ ĐẦU
1 Tính cấp thiết của đề tài
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà ngày 02 - 09 - 1945 đã mở ra kỷ nguyên mới cho đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội Nhưng những năm 80 của thế kỷ XX, nước ta rơi vào khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng Trước thực trạng đó, tại Đại hội lần thứ VI (1986), Đảng Cộng sản Việt Nam đã khởi xướng và lãnh đạo
sự nghiệp đổi mới, đưa nước ta thoát khỏi khủng hoảng Cho đến nay, sự nghiệp đổi mới đã đi được chặng đường hơn 20 năm Đó là khoảng thời gian không dài nhưng những thành quả đạt được rất to lớn và có ý nghĩa lịch sử đưa nước ta vượt qua khủng hoảng, không những thế còn là cơ sở để nước ta bước vào giai đoạn đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh
Bước sang thế kỷ XXI, sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước đòi hỏi sự nỗ lực vượt bậc của cả dân tộc để đưa đất nước thoát khỏi cảnh nghèo nàn, lạc hậu Thời gian từ nay đến năm 2020 đã được Đảng ta xác định là thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm biến nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, khắc phục tình trạng tụt hậu so với các nước khác trong khu vực và trên thế giới Đây là yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn hiện nay
Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, giải quyết mối quan hệ giữa nội lực và ngoại lực đang là bài toán hóc búa cho mỗi quốc gia Quốc gia nào giải quyết tốt mối quan hệ này thì có thể khai thác được tiềm năng thế mạnh của mình, đồng thời tranh thủ tối đa được nguồn lực bên ngoài như nguồn vốn, khoa học, công nghệ, kinh nghiệm quản lý của các nước để phát triển Ngược lại, nếu quốc gia đó không có nhận thức và giải quyết đúng mối quan hệ này
Trang 5thì nguồn tài nguyên có nguy cơ bị khai thác cạn kiệt, nội lực bị suy giảm, bản sắc văn hóa dân tộc bị phai nhạt, nền kinh tế đất nước trở nên khó khăn
Việt Nam đã có những nhận thức đúng đắn về mối quan hệ này Điều
đó được thể hiện thông qua chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về quan hệ giữa nội lực và ngoại lực trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay
Đảng ta đã xác định đường lối phát triển kinh tế tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX là: “Phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững” [18; 89]
Tại Đại hội lần thứ X, Đảng ta đã đưa ra đường lối phát triển đất nước trong giai đoạn tới, để sớm đưa nước ta ra khỏi khu vực các nước đang phát triển thu nhập thấp và tới năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại Đó là một tiến trình phức tạp đòi hỏi những cố gắng to lớn, trong đó việc phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực có ý nghĩa rất quan trọng cho việc đạt được các mục tiêu như đã nêu ở trên Vì vậy, một trong những bài học kinh nghiệm mà Đảng và Nhà nước ta đã rút ra tại Đại
hội, đó là: “Phát huy cao độ nội lực, đồng thời ra sức tranh thủ ngoại lực, kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới” [22; 71]
Như vậy, có thể nói, vấn đề nội lực và ngoại lực có vai trò quan trọng trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta Qua các kỳ Đại hội Đảng, vấn đề này đều được nghiên cứu ở những góc độ và khía cạnh khác nhau Vì vậy, nghiên cứu quan hệ giữa nội lực và ngoại lực hiện nay ở nước
ta là yêu cầu khách quan của thực tiễn phát triển đất nước Tuy nhiên, việc nghiên cứu mối quan hệ này ở Việt Nam những năm qua thường được thể hiện trong những bài báo khoa học, bài viết trên các tạp chí chuyên ngành, đề cập tới những góc độ nghiên cứu khác nhau Với mong muốn xem xét một
cách tổng thể mối quan hệ này, tôi chọn vấn đề “Quan hệ giữa nội lực và
Trang 6ngoại lực trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu của luận văn
2 Tình hình nghiên cứu của đề tài
Trong những năm gần đây đã có nhiều công trình nghiên cứu về nội lực
và ngoại lực, chẳng hạn:
- Trần Văn Thọ (2004), Nội lực và ngoại lực trong quá trình phát triển
kinh tế ở Việt Nam, Tạp chí nghiên cứu và thảo luận, số 3, tháng 11 - 2004
Tác giả phân tích mối quan hệ giữa nội lực và ngoại lực trong phát triển kinh tế Ngoại lực như nguồn vốn, khoa học công nghệ, năng lực quản lý có vai trò quan trọng trong phát triển nội lực Nội lực vẫn là yếu tố quyết định đối với ngoại lực Có tranh thủ được ngoại lực hay không tùy thuộc vào chính sách của mỗi quốc gia Sử dụng ngoại lực có hiệu quả hay không phụ thuộc vào cơ chế chính sách, năng lực quản lý, hiệu quả sử dụng, hiệu quả tiếp nhận khoa học công nghệ của mỗi quốc gia
- Đào Đình Thưởng (2005), Kết hợp giữa nguồn lực nội sinh và ngoại
sinh của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay, Luận
văn Thạc sĩ Triết học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội
Tác giả nghiên cứu làm rõ một số vấn đề chung về nguồn lực nội sinh
và nguồn lực ngoại sinh của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay Nguồn lực nội sinh bao gồm nguồn lực tự nhiên, nguồn vốn tích lũy từ nội bộ nền kinh tế, nguồn lực con người, ổn định chính trị và văn hóa Nguồn lực ngoại sinh gồm nguồn lực con người, nguồn vốn nước ngoài
và khoa học công nghệ tiên tiến Tác giả không phân tích vai trò quyết định của nguồn lực nội sinh và vai trò quan trọng của nguồn lực ngoại sinh trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta, mà chỉ rõ nội dung và đặc
Trang 7điểm của sự kết hợp giữa nguồn lực nội sinh và nguồn lực ngoại sinh; từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm phát huy hiệu quả hơn các nguồn lực này
Cũng có nhiều công trình nghiên cứu về nội lực và các yếu tố cấu thành nội lực:
- Vũ Tuyên Hoàng (2007), Phát huy nội lực trong thời kỳ mới, Tạp chí
Tư tưởng - Văn hóa, số 4 - 2007
Tác giả đề cập tới vai trò quyết định của việc phát huy nội lực nhằm đáp ứng một cách toàn diện và sâu sắc sự phát triển kinh tế - xã hội trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước Theo tác giả, nội lực bao gồm nguồn lực con người, nguồn lực khoa học công nghệ và thể chế chính trị Phát huy nội lực trong giai đoạn hiện nay có ý nghĩa quyết định qua lao động sáng tạo, học hỏi tri thức và kinh nghiệm quốc tế, không ngừng tiến lên phía trước
để xây dựng Tổ quốc giàu đẹp, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh
- Nguyễn Hữu Thắng (2008), Phát huy năng lực nội sinh cho phát triển
bền vững ở Việt Nam, Tạp chí Cộng sản, tháng 1 - 2008
Bài viết khẳng định vai trò quyết định của việc phát huy năng lực nội sinh đối với năng lực ngoại sinh Năng lực nội sinh gồm nguồn lực tài nguyên thiên nhiên, nguồn lực con người, nguồn vốn và nguồn lực khoa học công nghệ Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, việc sử dụng ngoại lực là điều tất yếu khi điều kiện nguồn lực trong nước chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội Tuy nhiên, sử dụng năng lực nội sinh một cách hợp lý cũng là việc không thể xem nhẹ Năng lực nội sinh có thể được phát huy thông qua việc huy động, khai thác và sử dụng hợp lý, hiệu quả các nguồn lực, nâng cao năng lực kinh doanh, năng lực quản lý điều hành Phát huy năng lực nội sinh vì mục tiêu phát triển kinh tế nhanh, hiệu quả và bền vững có ý nghĩa bao quát và quyết định
- Theo ông Nguyễn Trần Bạt - Tổng Giám đốc InvestConsult Group, nội lực của một dân tộc bao gồm sức mạnh tài chính (nguồn vốn và chính
Trang 8sách tài chính), sức mạnh của nguồn lực con người tức lực lượng lao động (số lượng và kỹ năng được đào tạo), sức mạnh trí tuệ (dân trí và năng lực sáng tạo của toàn dân) và cuối cùng là sức mạnh của nhân tố lãnh đạo Tác giả khẳng định, nội lực là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí này làm nên sức sống Việt Nam bất diệt truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác Nhiệm vụ của chúng
ta là làm cho nguyên khí ngày càng sinh sôi nảy nở, ngày càng dồi dào hơn, tạo tiền đề cho Việt Nam vươn lên chiếm lĩnh những đỉnh cao về nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội Chúng ta sẽ không để nội lực như những mỏ vàng nằm
im trong lòng đất hoặc bị khai thác bừa bãi và lãng phí, mà ngược lại nội lực
sẽ là những nguồn lực vô giá giúp chúng ta đi nhanh hơn tới tương lai
- Nguyễn Ngọc Long (2005), Vận dụng các bài học kinh nghiệm những
năm qua, đẩy mạnh công cuộc đổi mới, Tạp chí Lý luận Chính trị, số 4 -
2005
- Phạm Tất Dong (2006), Thành tựu bước đầu và những vấn đề cấp
thiết đặt ra trong đào tạo nhân lực ở nước ta, Tạp chí Cộng sản, tháng 5 -
2006
- Bùi Sĩ Tiếu (2007), Phát triển khoa học, công nghệ, thúc đẩy quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế, Tạp chí Cộng sản, tháng 4 - 2007
- Phạm Quang Nghị (1998), Vai trò của văn hóa trong sự nghiệp phát
triển kinh tế - xã hội ở nước ta, Tạp chí Cộng sản, tháng 7 - 1998
Các công trình trên chủ yếu đề cập tới các yếu tố cấu thành nội lực như nguồn lực con người, nguồn vốn, nguồn lực khoa học công nghệ, nguồn lực
tự nhiên và khẳng định vai trò quyết định của việc phát huy nội lực Đồng thời đề ra một số giải pháp nhằm phát huy hơn nữa vai trò của các nguồn lực
ấy đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước
Nhiều công trình nghiên cứu, làm rõ vai trò của ngoại lực theo những hướng khác nhau:
Trang 9- Hồ Quang Minh (2006), Nguồn lực đầu tư bên ngoài trong sự nghiệp
đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam, Tạp chí Cộng sản, tháng 2 -
2006
Theo tác giả, ngoại lực bao gồm các nguồn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), kiều hối và những nguồn khác như vay tín dụng ngắn hạn, trung hạn, chứng khoán, trái phiếu Bài viết tập trung phân tích những nguồn lực bên ngoài mang tính đầu tư vật chất gắn liền với việc chuyển giao, tiếp thu công nghệ, kỹ thuật và đã có vai trò quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
- Vũ Khoan (2005), Đổi mới về đối ngoại, Tạp chí Cộng sản, tháng 8 -
2005
- Nguyễn Văn Thanh (chủ biên) (2003), Những mảng tối của toàn cầu
hóa, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
- Đặng Hữu (2004), Những vấn đề mang tính toàn cầu gắn liền với sự
phát triển khoa học, công nghệ trong bối cảnh toàn cầu hoá và một số giải pháp mang tính định hướng cho việc giải quyết những vấn đề này ở nước ta hiện nay, Tạp chí Khoa học xã hội, số 10 - 2004
Điểm qua các công trình trên, chúng ta thấy vấn đề nguồn lực cho quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thực sự là đề tài thu hút sự chú ý của nhiều nhà khoa học, nó gợi ra không ít vấn đề phải nghiên cứu không chỉ trên phương diện lý luận mà cả tổng kết thực tiễn Những công trình nói trên
đã tạo điều kiện lớn cho chúng tôi trong quá trình thực hiện luận văn
3 Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
+ Mục đích:
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm rõ khái niệm và kết cấu của nội lực, ngoại lực và thực trạng giải quyết mối quan hệ này ở Việt Nam những năm
Trang 10qua, từ đó đưa ra những giải pháp nhằm phát huy tốt hơn nữa mối quan hệ này trong quá trình xây dựng đất nước ta những năm tới
+ Nhiệm vụ:
Để thực hiện mục đích trên, luận văn giải quyết những nhiệm vụ sau:
- Làm rõ khái niệm và kết cấu của nội lực, ngoại lực, mối quan hệ giữa nội lực và ngoại lực trong sự phát triển đất nước
- Đánh giá thực trạng phát huy quan hệ giữa nội lực và ngoại lực trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam những năm qua
- Đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy tốt hơn nữa mối quan hệ này trong quá trình xây dựng đất nước ta hiện nay
4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn tập trung nghiên cứu, làm rõ thực trạng việc giải quyết quan
hệ giữa nội lực và ngoại lực trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam từ ngày đổi mới đất nước đến nay, nhất là từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX
5 Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
+ Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên cơ sở những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam về nội lực, ngoại lực, phát huy quan hệ giữa nội lực và ngoại lực Luận văn cũng tiếp thu những kết quả của các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài trong những năm gần đây
+ Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; phương pháp logic và lịch sử, phân tích và tổng hợp, và một số phương pháp cụ thể của xã hội học như thống kê, so sánh
6 Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Trang 11+ Ý nghĩa lý luận: Góp một phần vào việc nghiên cứu quan hệ giữa nội lực và ngoại lực ở nước ta hiện nay nói chung
+ Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho nghiên cứu và giảng dạy những vấn đề có liên quan đến luận văn Đồng thời, kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng trong thực tiễn để khai thác có hiệu quả những tiềm năng thế mạnh của đất nước và tranh thủ có hiệu quả hơn nữa sự hợp tác quốc tế trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
7 Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
2 chương, 5 tiết
NỘI DUNG CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUAN HỆ GIỮA NỘI LỰC VÀ NGOẠI LỰC TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Ở VIỆT NAM 1.1 Khái niệm và kết cấu của nội lực
Nội lực trong các mối quan hệ khác nhau được hiểu khác nhau Ở đây, chúng ta xét khái niệm nội lực trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước
Có ý kiến cho rằng, nội lực của một dân tộc bao gồm sức mạnh tài chính, sức mạnh của nguồn lực con người, sức mạnh trí tuệ và sức mạnh của nhân tố lãnh đạo Có ý kiến khẳng định các yếu tố cấu thành nội lực gồm vốn, công nghệ và nguồn lực kinh doanh Ý kiến khác nhấn mạnh vai trò của nguồn lực tài nguyên thiên nhiên, nguồn lực con người, nguồn vốn và nguồn lực khoa học công nghệ là các yếu tố tạo nên nội lực của một quốc gia
Trang 12Tựu trung lại, có thể khẳng định nội lực là tổng thể các nguồn lực bên trong, quy định sự vận động và phát triển của quốc gia đó trong một giai đoạn lịch sử nhất định Nội lực bao gồm các yếu tố vật chất như điều kiện tự nhiên, tài nguyên khoáng sản, nguồn lực con người, các yếu tố tinh thần như tinh thần yêu nước, ý thức tự cường dân tộc, Nội lực bao gồm cả những yếu tố của quá khứ và hiện tại có thể huy động vào việc xây dựng và phát triển đất nước Về nội lực, ở đây xin nêu một số yếu tố cơ bản sau:
- Vị trí địa lý:
Việt Nam nằm ở vùng Đông Nam châu Á, giáp biển Đông với diện tích
331 nghìn km2 đất liền và gần 1 triệu km2 diện tích lãnh hải, được chia thành
63 tỉnh, thành phố theo 8 vùng kinh tế Phía Bắc giáp Trung Quốc, phía Tây giáp Lào và Campuchia, phía Nam và Đông giáp biển Đông với 3260 km đường bờ biển cùng hàng nghìn đảo lớn nhỏ với các quần đảo lớn như Hoàng
Sa, Trường Sa, Bạch Long Vĩ, Cát Bà, Lý Sơn, Côn Đảo, Phú Quốc
Vị trí địa lý của Việt Nam là một lợi thế địa - kinh tế, tạo điều kiện để phát triển đa dạng các ngành nghề từ nông, lâm, ngư nghiệp, công nghiệp, dịch vụ và du lịch Việt Nam có vùng lãnh hải rộng lớn chứa nguồn tài nguyên phong phú và đa dạng từ hải sản, dầu mỏ, muối, Đặc biệt, Việt Nam
có bờ biển kéo dài, có nhiều đảo và phong cảnh đẹp có lợi thế phát triển du lịch như Vịnh Hạ Long, Phú Quốc, Côn Đảo; ngoài ra còn có các cảng biển, các loại hình vận tải biển, các ngành công nghiệp đóng tàu, khai thác nguồn lợi từ đại dương như đánh bắt cá, tôm, khai thác dầu, muối,
Trang 13Việt Nam nằm trong khu vực có lợi thế về địa - chính trị chiến lược gần đường hàng hải quốc tế, giao lưu dễ dàng với các hải cảng lớn và các nước trên thế giới Nằm ở vị trí trung tâm vùng Đông Nam Á - khu vực đang có tốc
độ tăng trưởng cao, năng động nhất thế giới, thuận lợi giao lưu, hội nhập và tiếp thu nguồn lực từ bên ngoài như nguồn vốn, khoa học, công nghệ, kinh nghiệm quản lý và hàng hoá của Việt Nam xuất khẩu đi khắp nơi trên thế giới
Tuy nhiên, do nước ta có đường bờ biển dài nên trung bình hàng năm cũng phải hứng chịu nhiều cơn bão, có những cơn bão lớn gây thiệt hại không nhỏ cho ngành nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ và cả con người Nhưng nhìn chung, nước ta ở vào vị trí địa lý thuận lợi cho phát triển kinh tế trong nước và tiếp thu văn hoá, quan hệ kinh tế với bên ngoài Vấn đề còn lại là chúng ta phải có kế hoạch khai thác hợp lý nguồn lực này, tránh khai thác lãng phí gây ô nhiễm môi trường làm cản trở sự phát triển đất nước
- Tài nguyên thiên nhiên:
Tài nguyên thiên nhiên là các yếu tố của tự nhiên có thể tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất xã hội Tài nguyên thiên nhiên Việt Nam tương đối phong phú hơn một số nước trong khu vực, tạo lợi thế quan trọng để phát triển Tuy nhiên, tài nguyên thiên nhiên Việt Nam hầu hết có quy mô không lớn và phân bố không đều giữa các vùng, nhiều tài nguyên ở dạng tiềm năng, khả năng khai thác khó khăn, đòi hỏi vốn đầu tư lớn
+ Tài nguyên khoáng sản:
Về mặt nhiên liệu, ta có than và dầu lửa Đối với khu vực Đông Nam
Á, trữ lượng than của ta có thể coi như đứng hàng đầu, còn đối với các bể than lớn trên thế giới thì còn nhỏ Riêng khu vực Quảng Ninh, trữ lượng than thăm dò khoảng 3 tỷ tấn Ngoài ra còn một số mỏ than khác như mỏ than Thái Nguyên, mỏ than Nông Sơn thuộc Quảng Nam - Đà Nẵng Nhưng tài nguyên
Trang 14quý giá nhất về mặt nhiên liệu là dầu lửa và khí đốt đang đi vào quy trình khai thác hiện đại với nhiều triển vọng không nhỏ
Về kim loại, ta có nhiều mỏ khoáng sản với trữ lượng khá lớn như bôxit, crôm, thiếc, đồng, còn phần lớn là những mỏ nhỏ, rải rác khắp nơi Ngoài ra, ở Việt Nam còn có mănggan, titan, chì, kẽm, vonfram, molybden, thuỷ ngân, ăngtimoan, vàng, bạc Còn các mỏ phi kim loại ở nước ta phong phú và có nhiều giá trị sử dụng, quan trọng hơn cả các mỏ apatit, sét, vật liệu xây dựng Đặc biệt, ta có một số đá quý, vân đẹp, có thể mài mỏng để làm ốp lát có giá trị xuất khẩu cao
Như vậy, Việt Nam có nhiều mỏ khoáng sản có ích và được phân bố rộng khắp Nhưng đa số các mỏ được thăm dò và khai thác cho đến nay chỉ là các mỏ nhỏ so với ở nhiều nơi trên thế giới Trong tương lai, ta cần tích cực thăm dò trữ lượng chính xác và khai thác mạnh mẽ một số tài nguyên có giá trị lớn như dầu khí, bôxit, than, apatit, vật liệu xây dựng, để làm giàu cho Tổ quốc Trước mắt, chúng ta cần khai thác hợp lý và tiết kiệm các mỏ hiện tại tránh lãng phí các loại tài nguyên không thể tái tạo này và có quy hoạch sử dụng các diện tích đã khai thác hết khoáng sản vào các mặt kinh tế có ích khác
+ Tài nguyên khí hậu:
Khí hậu và thời tiết là những điều kiện thiết yếu cho sản xuất và sinh hoạt Nhưng coi khí hậu như một tài nguyên là một vấn đề mới mẻ Không phải mọi yếu tố khí hậu đều được sử dụng trực tiếp để sản xuất ra của cải vật chất Tương đối rõ có thể kể là bức xạ mặt trời, gió và lượng mưa
Bức xạ mặt trời là nguồn gốc sản sinh ra vật chất hữu cơ nuôi sống con người Vị trí nội chí tuyến của lãnh thổ nước ta đã tạo ra nguồn tài nguyên bức xạ dồi dào: “Tổng lượng bức xạ (tổng xạ) ở Việt Nam được từ 100 đến
130 kcal/cm2/năm” [28; 74] Bức xạ mặt trời không những cần thiết cho sinh vật, mà còn cần thiết cho nhiều quá trình tự nhiên khác, và do đó giá trị sử dụng cũng rất đa dạng, mà hiện nay ta mới ứng dụng được rất ít Trước mắt
Trang 15nên đẩy mạnh việc sử dụng nhiệt năng của mặt trời vào trong sinh hoạt, tạo ra nguồn điện, năng lượng rẻ tiền sẵn có và không bao giờ cạn ở mọi lúc, mọi nơi Tuy nhiên, bức xạ mặt trời lớn cũng có mặt tiêu cực của nó Vì quang hợp cần rất ít bức xạ, mà thực ra đến 90% bức xạ dùng để làm bốc hơi nước
Do đó, nếu thiếu nước thì mặt trời thiêu đốt tất cả và cảnh tượng hoang mạc
sẽ diễn ra Vì vậy, việc nghiên cứu bức xạ phải đi đôi với việc nghiên cứu lượng mưa và trong mối tương quan với lượng mưa
Ở Việt Nam, lượng mưa khá lớn, trung bình vào khoảng 1500 - 2000
mm Ở các vùng núi cao chắn gió, lượng mưa còn có thể vượt quá 3000 mm, thậm chí 4000 mm Nước mưa là nguồn nước chính của sông ngòi và có thể được giữ lại để trồng trọt và dùng trong sinh hoạt Chế độ mưa ở Việt Nam là mưa theo mùa, cho nên thực ra vẫn có lúc thiếu nước, nhưng lại có lúc quá dư thừa Mưa nhiều và mưa tập trung dễ xói mòn đất đai và gây úng lụt Nhưng nếu chế ngự được trước hoặc rải đều ra trong năm, thì lượng nước dồi dào là nguồn tài nguyên quý giá, cần cho cả công nghiệp, nông nghiệp và nhu cầu sinh hoạt của nhân dân Biện pháp chính vẫn là xây dựng các hồ chứa, bố trí hợp lý ở khắp các vùng đồi núi Việc thiết kế, xây dựng đô thị và nhà cửa của nhân dân cũng phải chú ý đến đặc điểm của lượng mưa và chế độ mưa để vừa tận dụng được lượng mưa, vừa tránh được thiệt hại
Khác với mưa, gió là tài nguyên ít được sử dụng, trừ việc để đẩy các thuyền buồm Gió bắt đầu có ý nghĩa kinh tế khi vận tốc vượt quá 2m/giây Tuy nhiên, gió từ 6m/giây (cấp 4) trở lên lại có hại, làm đổ cây cối, nhà cửa, hoa màu
+ Tài nguyên nước:
Tài nguyên nước bao gồm tài nguyên nước trên mặt và nước ngầm Do các sông ngòi chảy qua lãnh thổ Việt Nam nhiều khi có phần thượng - trung lưu trên lãnh thổ các nước láng giềng mà lượng nước trên đất nước ta rất phong phú so với diện tích: “Tổng lượng nước mặt được tạo ra trung bình hàng năm
Trang 16hơn 880 tỷ m3” [38; 6] nhưng phân bố không đều trong không gian và thời gian
Do nằm ở vùng cuối hạ lưu sông Mê Công, sông Hồng, sông Mã, sông Cả nên
có tới “62,5% (xấp xỉ 570 tỷ m3) từ lãnh thổ các quốc gia thượng lưu đổ vào nước ta; lượng nước được tạo ra từ trong lãnh thổ Việt Nam chỉ khoảng 313 tỷ
m3/năm (chiếm 37,5%) Do vậy, khả năng đảm bảo có nước đầy đủ gặp khó khăn, đặc biệt là trong mùa khô lượng nước chỉ còn khoảng 15% - 30% mà thôi” [38; 6]
Vì thế, chúng ta cần có kế hoạch giữ nước, tránh tình trạng cạn kiệt nước trong mùa khô
Lượng nước ngầm ở Việt Nam cũng khá phong phú, đủ để nuôi dưỡng các dòng sông trong mùa khô và giữ cho cây cối xanh quanh năm, nếu chúng
ta khai thác tốt lượng nước ngầm còn đáp ứng nhu cầu sinh hoạt và sản xuất:
“Về tài nguyên nước ngầm, trữ lượng khoảng 50 - 60 tỷ m3 và trữ lượng khai thác khoảng 10 - 12 tỷ m3 Hàng năm có thể khai thác trên 1 tỷ m3
5 - 6 triệu ha” [28; 79] Vì vậy, trong thời gian tới, cần nâng cao chất lượng sử dụng đất, tận dụng tối đa mọi loại đất phục vụ cho sự phát triển công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
+ Tài nguyên thực vật:
Tài nguyên thực vật bao gồm thực vật hoang dại và thực vật trồng trọt Các sản phẩm chính lấy từ cây hoang dại là gỗ, sau đến tre nứa và một số lâm sản khác, còn khối lượng cơ bản các sản phẩm cần thiết đều nhận được từ cây trồng Tuy nhiên, nếu tích cực tìm tòi khai thác thì từ một hệ thực vật phong
Trang 17phú và đa dạng như hệ thực vật Việt Nam, chúng ta hy vọng có thể tìm thêm nhiều nguyên liệu thực vật có ích nữa
Hiện nay, ta đã thống kê được hơn 800 loài cây gỗ, trong đó có nhiều loại gỗ quý bền cứng, có vân hay màu sắc đẹp hoặc có những công dụng đặc biệt như chứa tinh dầu
Ngoài hai sản phẩm chính với sản lượng lớn và giá trị cao là gỗ và tre nứa, rừng còn cung cấp rất nhiều loại lâm sản có nhiều công dụng khác nhau, nhưng quy mô khai thác nhỏ như nấm hương, mộc nhĩ, cây dược liệu, đặc biệt một cây thuốc có nhiều tác dụng và rất thích hợp với khí hậu miền núi ở Việt Bắc nước ta là cây thuốc phiện Nhưng thuốc phiện nếu dùng bừa bãi thì
có hại cho sức khỏe nên việc trồng để chế dược liệu phải gắn liền với việc kiểm soát nghiêm ngặt
Tài nguyên thực vật có giá trị cao còn là cây trồng Sản phẩm chính của cây trồng là lương thực, thực phẩm và nguyên liệu cho công nghiệp nhẹ: lúa, ngô, khoai, sắn, rau, đậu, đay, gai,
Có thể nói, tài nguyên thực vật ở nước ta vô cùng phong phú, nhưng còn nhiều loài có những tính chất quý mà ta vẫn chưa hiểu hết, nhiều loài chúng ta còn sử dụng lãng phí, chưa nghiên cứu tận dụng tổng hợp và với hiệu quả kinh tế cao Chúng ta cũng chưa chú ý đến vấn đề nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm bằng cách chọn giống, chuyên canh và tìm ra các biện pháp kỹ thuật thích hợp nhất Vì vậy, việc nghiên cứu kỹ tài nguyên thực vật là một trong những nhiệm vụ cấp bách hiện nay
+ Tài nguyên động vật:
Cũng giống tài nguyên thực vật, ở đây ta chú trọng đến động vật hoang dại, tính chất tự nhiên hơn là đến vật nuôi Giữa thực vật và động vật có mối quan hệ chặt chẽ trong một hệ sinh thái thống nhất Động vật sống dựa vào thực vật, phụ thuộc vào các quần hợp thực vật, nhưng đồng thời cũng bảo vệ thực vật, giúp thực vật phát triển, giữ cho hệ sinh thái được cân bằng
Trang 18Giới thực vật Việt Nam đã phong phú, đa dạng, thì giới động vật cũng vậy, đồng thời do khả năng thích nghi cao với hoàn cảnh, giới động vật là thành phần phản ánh rõ nét nhất tính chất nội chí tuyến của tự nhiên Việt Nam, do đó mà cung cấp nhiều đặc sản có giá trị xuất khẩu cao: “Việt Nam có đến gần 200 loài thú, gần 800 loài chim, gần 100 loài lưỡng cư và trên 150 loài bò sát, 1000 loài cá biển, 200 loài cá nước ngọt Trong số đó có nhiều loài đặc hữu và quý hiếm” [28; 89]
Nhìn chung, nguồn lực tự nhiên Việt Nam phong phú và đa dạng về đất đai, khí hậu, thảm thực vật, động vật, nguồn nước, khoáng sản, là tiền đề để thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu công nghiệp, dịch vụ theo hướng đa dạng, phù hợp với điều kiện tự nhiên và sinh thái phát triển cây, con có giá trị cao để xuất khẩu và phát triển một số ngành công nghiệp chế biến, công nghiệp nặng như than đá và dầu khí
Tuy nhiên, nguồn tài nguyên thiên nhiên nước ta những năm gần đây
do nhiều điều kiện khách quan và chủ quan đã có những biến đổi theo hướng tiêu cực: Tài nguyên rừng hầu như cạn kiệt, tài nguyên nước và khí hậu có nguy cơ ô nhiễm, tài nguyên khoáng sản phân bố không đều và có trữ lượng không lớn trừ than đá và dầu khí nên rất bất lợi cho khai thác Đất nông nghiệp có thể được mở rộng nhưng rất khó khăn bởi muốn phát triển công nghiệp lại phải thu hẹp đất nông nghiệp Vì vậy, trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chúng ta phải khai thác một số tài nguyên có điều kiện thuận lợi, góp phần quan trọng tích lũy trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển Về cơ bản và lâu dài, chúng ta không thể tạo ra một cơ cấu kinh tế phát triển nhanh và bền vững chỉ dựa vào nguồn lực tự nhiên, mà phải đi theo hướng phát huy vai trò đặc biệt quan trọng của nguồn lực con người, tận dụng tối đa nguồn vốn và áp dụng thành tựu của khoa học, công nghệ vào sản xuất
Hai là, văn hóa và nguồn lực con người
Trang 19Văn hóa và nguồn lực con người là nguồn lực quan trọng trong sự phát triển của thời đại ngày nay - thời đại khoa học, công nghệ Thực tế đã chỉ ra rằng, quốc gia nào có chất lượng nguồn nhân lực cao sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển Chúng ta biết rằng, nguồn lực tự nhiên, nguồn lực khoa học, công nghệ và nguồn vốn có vai trò rất lớn trong sự phát triển của mỗi quốc gia Song, những nguồn lực đó ở dưới dạng tiềm năng, tự chúng là những khách thể bất động Chúng chỉ trở thành nhân tố “khởi động” và phát huy tác dụng khi kết hợp với nguồn lực con người
Cho đến nay, có nhiều định nghĩa về văn hóa và quan niệm khác nhau
về vai trò của văn hóa đối với sự phát triển xã hội Trên nền tảng văn hóa truyền thống Việt Nam, Đảng ta luôn đặc biệt quan tâm và đề cao vai trò của văn hóa trong phát triển đất nước, phát triển xã hội và phát triển con người Đảng ta khẳng định: Văn hóa - nghệ thuật là nơi đáp ứng tốt những nhu cầu cao của nhân dân và phát triển những phẩm chất cao quý của con người
Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Đảng ta đã khẳng định:
“Văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội” [15; 110] Đây là nhận thức mới của Đảng ta về văn hóa, nó thể hiện trí tuệ và tầm lý luận cao của Đảng Đảng ta coi văn hóa không chỉ là mục tiêu phấn đấu vươn tới những giá trị cao đẹp cho cuộc sống, là bản chất của nền chính trị Việt Nam, mà còn đặc biệt quan tâm vai trò và sức mạnh của văn hóa trong phát triển kinh tế - xã hội: Văn hóa là sức sống, là động lực thúc đẩy mọi hoạt động sống của con người, từ kinh tế, chính trị đến xã hội
Văn hóa được Đảng ta coi là mục tiêu của xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đồng thời, văn hóa cũng là nội lực mạnh mẽ của việc xây dựng nền kinh tế đó Truyền thống văn hóa, sức mạnh văn hóa trong lực lượng sản xuất (nguồn lực con người); trình độ tổ chức lao động sản xuất, quản lý kinh tế - xã hội là động lực bên trong sự phát triển của mỗi quốc gia
Trang 20Đảng ta chủ trương văn hóa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội Văn hóa nằm trong và hiện thân trong lực lượng sản xuất, trong từng cá nhân có tri thức, trí tuệ, kỹ năng lao động; văn hóa nằm trong và hiện thân cả trong trình độ và năng lực tổ chức nhà nước, tổ chức cơ quan, trong doanh nghiệp Chỉ có một tổ chức, một cơ quan, một xí nghiệp, doanh nghiệp có văn hóa mới đem lại hiệu quả trong hoạt động, quản lý và sản xuất
Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, vì thế, không chỉ là mục tiêu xây dựng và phát triển văn hóa Nói đầy đủ, đó là xây dựng năng lực, sức mạnh của văn hóa Việt Nam, từ đó xây dựng sức mạnh của dân tộc, phục vụ sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế, chính trị,
xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thúc đẩy đất nước tiến nhanh cùng các nước trong khu vực và thế giới Sự phát triển của dân tộc trong thế giới đương đại rõ ràng không thể thiếu yếu tố văn hóa Chúng ta có ưu thế của việc thực hiện mục tiêu đó, đó là bản sắc dân tộc Việt Nam Nhận diện về bản sắc dân tộc Việt Nam, Đảng ta đã chỉ rõ:
“Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng nghìn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân
- gia đình - làng xã - Tổ quốc; lòng nhân ái khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống” [17; 56]
Yêu nước, thương người là sự cao quý của tư tưởng và tâm hồn Việt Nam, là giá trị nhân cách của con người Việt Nam, đó là truyền thống dân tộc trải qua bao biến thiên của lịch sử vẫn tồn tại một cách bền bỉ và tỏa sáng trên gương mặt tinh thần của cả dân tộc Cốt cách Việt Nam định hình trong thử thách khắc nghiệt chống thiên tai và chống giặc ngoại xâm, đoàn kết và cố kết cộng đồng, nương tựa vào nhau để tồn tại và phát triển, bởi sức mạnh của hợp
Trang 21tác và đồng thuận Sức mạnh ấy chẳng những được quy định thành văn mà còn được tổng kết thành triết lý sống, thành phương châm ứng xử, chỉ dẫn hành động, sự khẳng định các giá trị đạo đức, tình thương yêu nhân ái, vị tha Biểu hiện cụ thể trong đời sống hàng ngày, con người Việt Nam và dân tộc Việt Nam, tỏ rõ một thái độ văn hóa trong lựa chọn giá trị, đề cao phẩm giá con người, trọng chân lý và đạo lý, biết giữ trọn khí tiết, biết đề cao giá trị làm người và tìm thấy được động lực sống, động lực phát triển không chỉ là lợi ích vật chất mà còn là các giá trị tinh thần, đạo đức, lương tâm, danh dự
Để văn hóa trở thành động lực phát triển kinh tế - xã hội, về nguyên tắc, phải thực hiện phát triển năng lực của văn hóa - sức mạnh bên trong của văn hóa Văn hóa không chỉ là các giá trị và nền tảng tinh thần, nó là sức mạnh bản chất người, là trình độ con người, khả năng hoạt động của các chủ thể xã hội trong hoạt động sống của mình Với tư cách là sức mạnh bản chất người, văn hóa biểu hiện sức mạnh của mình trong năng lực và trình độ lao động sáng tạo ra của cải xã hội và các giá trị văn hóa quý báu Sức mạnh văn hóa ấy được biểu hiện trong lao động Nguồn lực con người chính là năng lực của lực lượng sản xuất Phát triển năng lực lao động của nguồn lực con người chính là tạo ra sức mạnh của văn hóa trong mọi lĩnh vực kinh tế - chính trị -
xã hội
Vấn đề nguồn lực con người là một trong những vấn đề nổi bật nhất khi loài người bước vào thời đại mới - thời đại thông tin điện tử, toàn cầu hóa, kinh tế tri thức và ở nước ta - công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mở cửa và hội nhập quốc tế
Khái niệm nguồn lực con người được sử dụng từ những năm 60 ở nhiều nước phương Tây và một số nước châu Á Quan niệm về nguồn lực con người được đề cập phổ biến ở Việt Nam từ những năm 1990 Đặc biệt, đến Đại hội VIII, lần đầu tiên, thuật ngữ “nguồn lực con người” được sử dụng trong văn kiện của Đảng, đồng thời trở thành một trong những định hướng phát triển
Trang 22lớn của Việt Nam: “Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững” [15; 85]
Có nhiều cách tiếp cận khái niệm nguồn lực con người tuỳ theo từng góc độ nghiên cứu khác nhau, nhưng chung nhất nguồn lực con người là những yếu tố ở trong con người có thể huy động, sử dụng để thúc đẩy sự phát triển xã hội Nguồn lực con người không chỉ là lực lượng lao động hay nguồn lao động mà là tập hợp các yếu tố từ số lượng, chất lượng dân số về thể chất
và tinh thần, sức khoẻ, trí tuệ, năng lực và tổ chức kỷ luật lao động, Từ đó,
có thể định nghĩa:
“Nguồn lực con người là tổng thể những yếu tố thuộc về thể chất, tinh thần, đạo đức, phẩm chất, trình độ tri thức, vị thế xã hội, tạo nên năng lực của con người, của cộng đồng người có thể sử dụng, phát huy trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và trong những hoạt động xã hội” [4; 271-272]
Nghiên cứu về nguồn lực con người, thực chất là đề cập đến mặt số lượng và chất lượng của nguồn nhân lực
Số lượng nguồn lực con người của bất kỳ quốc gia nào cũng đều được hình thành dựa trên quy mô dân số, mà trước hết là từ lực lượng lao động của quốc gia đó, cụ thể là số lượng người đang trong độ tuổi lao động và có khả năng tham gia lao động sản xuất Từ cuộc Tổng điều tra dân số đầu tiên sau khi nước nhà thống nhất (1975) đến nay, “bức tranh dân số” nước ta đã thay đổi nhanh chóng Theo PGS.TS Nguyễn Đình Cử (Viện Dân số và các vấn đề
xã hội, Đại học Kinh tế quốc dân): Quy mô dân số đã tăng từ 52,742 triệu năm 1979 lên 85,155 triệu năm 2007; cơ cấu dân số cũng thay đổi mạnh, đặc biệt là cơ cấu dân số theo nhóm tuổi; tỷ lệ những người trong độ tuổi lao động tăng từ 51% lên 65%, tương ứng, tỷ lệ những người ngoài độ tuổi lao động giảm từ 49% xuống còn 35%
Trang 23Chất lượng nguồn lực con người là sự tổng hợp, kết tinh của nhiều yếu
tố và giá trị cùng tham gia tạo nên, trong đó, gồm ba yếu tố cơ bản là thể lực, trí lực và tâm lực
Thể lực là tình trạng sức khỏe của con người, biểu hiện ở sự phát triển bình thường, có khả năng lao động Đây là cơ sở quan trọng cho hoạt động thực tiễn của con người, có thể đáp ứng được những đòi hỏi về hao phí sức lao động trong quá trình sản xuất với những công việc cụ thể khác nhau và đảm bảo cho con người có khả năng học tập, lao động lâu dài
Trí lực là năng lực trí tuệ, khả năng nhận thức và tư duy mang tính sáng tạo thích ứng với xã hội của con người Nói đến trí lực là nói đến yếu tố tinh thần, trình độ văn hóa và học vấn của con người, biểu hiện ở khả năng vận dụng những điều kiện vật chất, tinh thần vào hoạt động thực tiễn nhằm đạt hiệu quả cao, đồng thời là khả năng định hướng giá trị hoạt động của bản thân
để đạt được mục tiêu Trí lực là yếu tố chiếm vị trí trung tâm chỉ đạo hành vi của con người trong mọi hoạt động, kể cả trong việc lựa chọn các giải pháp phù hợp nhằm phát huy tác dụng của các yếu tố khác trong cấu trúc chất lượng nguồn nhân lực Trí lực là yếu tố quyết định phần lớn khả năng sáng tạo của con người, là yếu tố ngày càng đóng vai trò quan trọng và quyết định trong chất lượng nguồn lực con người
Tâm lực là những giá trị chuẩn mực đạo đức, phẩm chất tốt đẹp và sự hoàn thiện nhân cách của con người, được biểu hiện trong thực tiễn lao động sản xuất và sáng tạo cá nhân Những giá trị đó gắn liền với năng lực tư duy và hành động cụ thể của con người, tạo nên chất lượng nguồn lực con người Tâm lực tạo ra động cơ bên trong của chủ thể, thúc đẩy và điều chỉnh hoạt động của con người Nói cách khác, tâm lực góp phần vào việc phát huy vai trò của các yếu tố thể lực và trí lực của con người với tư cách nguồn nhân lực của xã hội
Trang 24Số lượng và chất lượng nguồn lực con người có quan hệ với nhau một cách chặt chẽ Nếu số lượng nguồn lực con người quá ít sẽ gây khó khăn cho phân công lao động xã hội và do vậy, chất lượng lao động cũng bị hạn chế Chất lượng nguồn lực con người được nâng cao sẽ góp phần làm giảm số lượng người hoạt động trong một đơn vị sản xuất, kinh doanh hay giảm số người hoạt động trong một tổ chức xã hội, đồng thời cũng tạo điều kiện nâng cao hiệu quả hoạt động của tập thể trong lao động sản xuất, hoạt động xã hội
Tóm lại, nói đến văn hóa là nói đến con người, con người gieo trồng nên văn hóa, văn hóa biểu hiện qua con người Không có con người - không
có văn hóa, và không có văn hóa, con người mất tính người Chăm lo và sử dụng con người là nội dung cốt yếu của đường lối phát triển văn hóa Cho nên, khi nói đến vai trò của văn hóa thường gắn liền với vai trò của con người Trong thời đại ngày nay, vai trò của văn hóa và con người được coi trọng hơn bao giờ hết Đó là yêu cầu khách quan của thời đại - của xã hội công nghiệp, của kinh tế tri thức Ngày nay, văn hóa được coi là một chiều kích không thể thiếu của công cuộc phát triển đất nước, con người được đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển
Ba là, nguồn vốn trong nước
Vốn là yếu tố sản xuất cơ bản Với sự cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt, đòi hỏi các doanh nghiệp phải thường xuyên đổi mới công nghệ và mở rộng sản xuất Máy móc ngày càng hiện đại, do vậy, nguồn vốn cần thiết cho quá trình sản xuất càng có xu hướng gia tăng Quốc gia nào có nguồn vốn dồi dào sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho đổi mới công nghệ, cho hoạt động sản xuất kinh doanh, giành thắng lợi trong cạnh tranh Vì vậy, tích lũy vốn, tranh thủ mọi nguồn vốn đang là chiến lược của nhiều quốc gia hiện nay
Nguồn vốn nói chung bao gồm vốn vật chất và vốn tài chính:
“Vốn vật chất là toàn bộ tư liệu vật chất tích lũy được trong nền kinh tế như nhà máy, thiết bị, máy móc, nhà xưởng và các trang thiết bị được sử
Trang 25dụng như những yếu tố đầu vào của sản xuất Vốn tài chính là nguồn vốn tích lũy chủ yếu dưới dạng tiền từ các nguồn tích lũy cơ bản trong nền kinh tế như tích lũy từ ngân sách nhà nước, tích lũy của doanh nghiệp và các tầng lớp dân cư” [66; 66]
Nói về vai trò của nguồn vốn, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã chỉ rõ: “Trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước theo đường lối đổi mới, Đảng và Nhà nước ta chủ trương huy động mọi nguồn vốn trong và ngoài nước để đầu tư phát triển, trong đó vốn trong nước có ý nghĩa quyết định, vốn ngoài nước có ý nghĩa quan trọng” [15; 228]
Nguồn vốn tích lũy trong nước của Việt Nam những năm qua không ngừng tăng lên Trong những năm 1986 - 1990, nguồn vốn tích luỹ của nền kinh tế nước ta là con số âm, tức phải đi vay toàn bộ vốn để đầu tư Từ năm
1991 tăng lên 10,1% GDP, năm 1992 là 13,8, năm 1993 là 14,8, năm 1994 là 16,7 Từ năm 1995, chúng ta đã nâng tỷ lệ đầu tư là 22,8% GDP, nhờ vậy mà tăng trưởng kinh tế đã đạt tốc độ cao vào những năm gần đây
Theo dự báo từ năm 2001 - 2020, nền kinh tế nước ta vẫn tiếp tục phát triển với tốc độ bình quân khá cao, nhưng sẽ không đều trong từng thời kỳ Trong những năm 2001 - 2010, tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm vẫn ở mức cao khoảng 7 - 8%, do đó, nhu cầu tích lũy vốn từ nội bộ nền kinh tế cần phải cao hơn trong những năm trước
Vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước, trái phiếu chính phủ được bố trí ưu tiên cho các dự án xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, các chương trình mục tiêu quan trọng, đã góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển và chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, tạo thêm nhiều việc làm mới, xóa đói, giảm nghèo, cải thiện đời sống nhân dân: “Vốn trong nước (ngân sách nhà nước, trái phiếu chính phủ, tín dụng nhà nước, doanh nghiệp nhà nước, của doanh nghiệp tư nhân và dân cư) chiếm 73,3% tổng vốn đầu tư (vốn ngoài nước chiếm 26,7%)” [23; 17]
Bốn là, nguồn lực khoa học, công nghệ
Trang 26Nguồn lực khoa học, công nghệ của một quốc gia bao gồm hai lực lượng chủ yếu: “Nghiên cứu khoa học, tạo ra công nghệ mới; tổ chức chuyển giao các kết quả nghiên cứu vào sản xuất và đời sống” [66; 66] Nguồn lực khoa học, công nghệ được xác định là động lực của sự phát triển đất nước Nguồn lực khoa học, công nghệ có vai trò quyết định lợi thế cạnh tranh và tốc
độ phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia
Nhận thức được điều này, ngay sau thắng lợi của cách mạng tháng Mười năm 1917, V.I.Lênin đã quan tâm thu hút nguồn lực khoa học, công nghệ vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga Chiến tranh thế giới lần thứ nhất và nội chiến kéo dài 3 năm (1918 - 1921) đã làm cho nền kinh tế của nước Nga bị tàn phá nghiêm trọng: Công nghiệp thiếu nguyên liệu, sản xuất đình đốn; trình độ canh tác của nông dân lạc hậu, phân tán Trước thực trạng này, V.I.Lênin cho rằng, chỉ có phát triển nhanh khoa học,
kỹ thuật mới có thể khôi phục nền kinh tế nước Nga một cách nhanh chóng và
có hiệu quả nhất: “Chấn hưng kinh tế cả nước, phải đứng vững trên cơ sở khoa học, kỹ thuật hiện đại, tiến hành cải tạo và khôi phục công nghiệp và nông nghiệp” [46; 233], trên cơ sở đó nâng cao năng suất lao động Với tầm nhìn chiến lược, V.I.Lênin cho rằng: Năng suất lao động, suy cho cùng, là điều quan trọng nhất, chủ yếu nhất để chế độ xã hội mới giành thắng lợi Chủ nghĩa
tư bản cuối cùng có thể bị đánh bại và nhất định bị đánh bại, nếu chủ nghĩa xã hội có thể sáng tạo ra năng suất lao động cao hơn năng suất lao động trong chủ nghĩa tư bản
Kế thừa quan điểm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, chúng ta đã có nhận thức đúng đắn về vai trò của khoa học, công nghệ đối với
sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước Điều đó được thể hiện qua đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta
Ngay từ năm 1981, Trong Nghị quyết số 37-NQ/TW của Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã chỉ rõ: Phải gắn liền khoa học, công
Trang 27nghệ với sản xuất và đời sống xã hội, làm cho khoa học, công nghệ nhanh chóng trở thành một trong những nhân tố quan trọng hàng đầu thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế quốc dân Trong Nghị quyết số 26-NQ/TW của Bộ Chính trị (1991), Đảng ta khẳng định: Khoa học, công nghệ không chỉ là động lực phát triển kinh tế - xã hội, mà còn là động lực quan trọng của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước Tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ hai khóa VIII, Đảng Cộng sản Việt Nam nhấn mạnh: Khoa học và công nghệ
là nội dung then chốt trong mọi hoạt động của các ngành, các cấp, là nhân tố chủ yếu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và củng cố quốc phòng, an ninh Tiếp tục những chủ trương đó, tại Đại hội X, Đảng ta đã chỉ rõ:
“Phát triển khoa học và công nghệ ở nước ta phải phù hợp xu thế phát triển
nhảy vọt của cách mạng khoa học - công nghệ trên thế giới Cố gắng đi ngay vào công nghệ hiện đại đối với một số lĩnh vực then chốt và từng bước mở rộng ra toàn bộ nền kinh tế Chú trọng phát triển công nghệ cao
để tạo đột phá và công nghệ dùng nhiều lao động để giải quyết việc làm” [22; 31]
Thực tiễn cuộc sống cũng đang đòi hỏi đặt khoa học, công nghệ vào đúng vị trí của nó, không coi nó như là “thứ đồ trang sức” Do vậy, mới thực
sự có điều kiện nâng cao trình độ công nghệ quốc gia và khoa học, công nghệ sớm trở thành nền tảng, động lực thực sự của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Bên cạnh đó, cơ chế và chính sách kinh tế phải đảm bảo sự phát triển, cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế và qua đó mới tạo được môi trường cho việc đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ vào việc nâng cao năng suất, chất lượng và năng lực cạnh tranh Khi nhận thức được vai trò quan trọng của khoa học, công nghệ đối với phát triển kinh
tế - xã hội thì chúng ta sẽ có điều kiện, môi trường để phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật phát triển sản xuất kinh doanh, cải thiện đời sống xã hội Lúc đó,
Trang 28khoa học, công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội nhanh hơn, bền vững hơn
Năm là, thể chế chính trị
Thể chế chính trị là một trong những vấn đề rất quan trọng trong đời sống của mỗi quốc gia Nó can thiệp đến đời sống của mỗi công dân và của mọi người dân nằm trong lãnh thổ của một quốc gia Bởi lẽ, mọi người dân không kể có quốc tịch hay không có quốc tịch của nước họ đang sinh sống đều phải phụ thuộc vào thể chế chính trị của quốc gia đó Thể chế chính trị tác động đến sự lựa chọn cách hành xử của cá nhân và tổ chức, tạo dựng sự ổn định, trật tự và phát triển xã hội
Vậy, có thể định nghĩa: “Thể chế chính trị là các quy tắc được sắp xếp một cách logic hợp thành một chỉnh thể thống nhất điều chỉnh các hoạt động của con người liên quan đến công việc nhà nước Theo nghĩa khác cũng có thể hiểu thể chế chính trị là cái được tạo dựng nên từ các quy tắc đó” [10; 11]
Vị trí, vai trò của thể chế chính trị thể hiện trong mối tương quan, tác động giữa thể chế chính trị và cơ sở kinh tế Thể chế chính trị là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng Trong quan hệ với kinh tế, thể chế chính trị chịu sự chi phối của quy luật về sự phụ thuộc của kiến trúc thượng tầng vào cơ sở hạ tầng
Thứ nhất, cơ sở kinh tế quyết định sự hình thành và phát triển của thể chế chính trị Các thể chế chính trị như các đảng phái chính trị, nhà nước, các
tổ chức chính trị - xã hội, ra đời trên cơ sở các tiền đề kinh tế Và nội dung của các thể chế chính trị bao giờ cũng phản ánh những lợi ích kinh tế căn bản, trước tiên là thể hiện lợi ích của giai cấp chiếm ưu thế về kinh tế Chẳng hạn, đảng cộng sản, công đoàn là sự phản ánh lợi ích căn bản của giai cấp công nhân
Thứ hai, sự tác động trở lại của thể chế chính trị đối với kinh tế Thể chế chính trị là kiến trúc thượng tầng của cơ sở kinh tế nhưng nó không phản ánh các quan hệ kinh tế một cách thụ động Thể chế chính trị có tính tương
Trang 29đối, có ưu thế nhất định, tác động trở lại kinh tế Nếu các thể chế chính trị không phản ánh đúng quy luật khách quan của kinh tế thì chúng sẽ kìm hãm, cản trở sự phát triển kinh tế Sự tụt hậu, bảo thủ của các thể chế chính trị so với trình độ phát triển của kinh tế sẽ là lực cản đối với sự tiến bộ xã hội Ngược lại, các thể chế chính trị nếu phản ánh đúng sự phát triển khách quan của các quan hệ kinh tế, sẽ là lực lượng cải tạo xã hội Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đầu những năm 80 của thế kỷ XX chưa phản ánh đúng quy luật phát triển khách quan của các quan hệ kinh tế: tính chất tập trung, bao cấp trong các thể chế chính trị mâu thuẫn với nhu cầu giải phóng, chủ động trong sản xuất kinh doanh của người dân nên nền kinh tế - xã hội nước ta rơi vào tình trạng trì trệ, kém phát triển Từ đó đòi hỏi nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có những điều chỉnh về mặt tổ chức và hoạt động cho phù hợp với tình hình mới Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp năm 1992 đã không còn tính tập trung như nhà nước theo Hiến pháp năm 1980 Đó là một thể chế chính trị phù hợp với sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế từ nền kinh tế tập trung, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Do đó, nó giữ một vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước
Các thể chế chính trị tồn tại không có mục đích tự thân, mà là điều kiện
để đạt được các mục tiêu kinh tế, cho nên nó có vai trò lãnh đạo, định hướng cho sự phát triển kinh tế, quản lý nền kinh tế Nền kinh tế Việt Nam hiện nay
là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Để đảm bảo cho sự phát triển của nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế đó phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và sự quản lý của Nhà nước Việt Nam Đảng Cộng sản Việt Nam là một bộ phận trong thể chế chính trị mà giai cấp công nhân Việt Nam dựa vào để đạt được các mục tiêu kinh tế - xã hội Như vậy, Đảng Cộng sản là công cụ đạt được các mục tiêu kinh tế, lãnh đạo, định hướng cho sự phát triển kinh tế Để thực hiện được vai
Trang 30trò này, Đảng phải được tổ chức và hoạt động ngang tầm với sự đòi hỏi của phát triển kinh tế Nhiệm vụ hàng đầu của Nhà nước là thể chế hóa đúng đắn đường lối, chủ trương mà Đảng đã nêu ra thành hệ thống pháp luật, thành cơ chế chính sách và nâng cao năng lực tổ chức thực hiện chúng Để làm được điều đó, Nhà nước phải được kiện toàn về tổ chức và hoạt động
Các thể chế chính trị trong một quốc gia có nhiều thể loại, tạo nên sự đa dạng khác nhau Sự đa dạng này phụ thuộc vào tính phức tạp của lĩnh vực chính trị, cũng như mức độ phức tạp và tầm quan trọng của vấn đề chính trị đối với đời sống của mỗi quốc gia
Căn cứ vào mức độ tham gia của nhân dân vào công việc của nhà nước, người ta thường chia các thể chế chính trị của mỗi quốc gia thành hai loại là thể chế chính trị hành vi và thể chế chính trị tổ chức
Thể chế chính trị hành vi là tập hợp các quy tắc được hình thành trong quá trình phát triển của quốc gia, quy định sự tham gia của tất cả công dân, hay đại đa số công dân hợp thành một giai tầng, một giai cấp tham gia vào các công việc của nhà nước theo một thể thức nhất định, được nhà nước ban hành hoặc thừa nhận Những thể thức này trở thành những quy tắc xử sự của các công dân thông qua các hành vi ứng xử của họ trong lĩnh vực các công việc của quốc gia Ví dụ như bầu cử, ứng cử vào chức vụ trong các cơ quan nhà nước, như việc bỏ phiếu trưng cầu dân ý khi nhà nước tổ chức
Thể chế chính trị tổ chức có thể được hiểu ở hai nghĩa: “Một là các tổ chức, các cơ quan thực hiện các công việc nhà nước ở tầm vĩ mô, có nhiệm vụ phải đưa ra những quyết định ở tầm quốc gia cho toàn bộ nhân dân thực hiện; hai là bao gồm toàn bộ các quy tắc xử sự của các cơ quan, tổ chức khi thực thi nhiệm vụ quyền hạn của mình” [10; 28] Thực ra, sự phân biệt này có tính chất học thuật hơn là thực tế Khi nói đến các thể chế chính trị tổ chức bao giờ cũng gắn bó giữa cơ quan, tổ chức đó với những nhiệm vụ quyền hạn của họ Những cơ quan và tổ chức này được gọi là những tổ chức chính trị Giữa chúng
Trang 31có mối tương quan chặt chẽ với nhau và hợp thành một hệ thống chính trị của mỗi quốc gia Hệ thống chính trị này ở tầm vĩ mô bao gồm: đảng phái chính trị, nhà nước, các nhóm lợi ích chính trị, các đoàn thể chính trị khác, Những thể chế chính trị hành vi thường là cơ sở cho những thể chế chính trị tổ chức
Dưới các hình thức thể hiện, thể chế chính trị có thể chia làm hai loại là thể chế chính trị thành văn và thể chế chính trị bất thành văn
Thể chế chính trị thành văn là những thể chế được nhà nước ghi nhận
và thông qua bằng các văn bản quy phạm pháp luật Với tính chất quan trọng của chính trị nên thể chế của nó thường được quy định trong văn bản có hiệu lực pháp luật cao nhất của nhà nước Đó là hiến pháp của mỗi quốc gia Ngoài hiến pháp, các thể chế chính trị còn có thể được quy định ở các văn bản dưới hiến pháp bao gồm các đạo luật thường, thậm chí cả các văn bản dưới luật
Nhiều thể chế chính trị không được quy định thành văn, mà chứa đựng bằng các tập tục truyền thống của mỗi quốc gia, cũng như các tập quán địa phương Ví dụ như 44 đời tổng thống Mỹ, cho tới nay chưa có ai là phụ nữ
Những yếu tố cấu thành nội lực có quan hệ biện chứng, tác động qua lại nhau Nếu có sự kết hợp tốt những yếu tố đó sẽ tạo thành động lực to lớn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước
1.2 Khái niệm và kết cấu của ngoại lực
Cũng giống nội lực, ngoại lực có nhiều cách gọi khác nhau như nhân tố ngoại sinh, yếu tố ngoại sinh, nguồn lực bên ngoài, sức mạnh thời đại, Nhưng tựu trung lại, ngoại lực chính là nguồn lực bên ngoài thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia
Ngoại lực là những yếu tố ngoại nhập Cũng như nội lực, ngoại lực không là những yếu tố “bất động”, mà phát sinh ảnh hưởng của nó bằng cách tác động qua lại thông qua nội lực, từ đó tác động đến sự thay đổi trong cơ cấu, tốc độ phát triển kinh tế cũng như các phương diện khác của đời sống xã hội Trên thực tế, nhất là trong quá trình toàn cầu hoá có thể thấy một số yếu
Trang 32tố cấu thành ngoại lực có tính phổ quát, chẳng hạn muốn phát triển kinh tế dứt khoát phải tiến hành ứng dụng những thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến vào sản xuất
Có nhiều yếu tố cấu thành ngoại lực Luận văn sẽ tập trung làm rõ một
số yếu tố cơ bản sau:
Một là, nguồn lực con người
Thấy rõ được vai trò quan trọng của nguồn lực con người với tư cách là ngoại lực đối với sự phát triển của chủ nghĩa xã hội ở nước Nga, sau cách mạng tháng Mười, V.I.Lênin đặc biệt chú ý tới việc học tập kinh nghiệm của các chuyên gia tư sản, bởi “không có sự chỉ đạo của các chuyên gia am hiểu các lĩnh vực khoa học, kỹ thuật và có kinh nghiệm, thì không thể nào chuyển lên chủ nghĩa xã hội được” [46; 217] Đây là tư tưởng rất táo bạo và đúng đắn, thể hiện tầm nhìn chiến lược và thiên tài của V.I.Lênin Trong tác phẩm
“Những nhiệm vụ trước mắt của Chính quyền Xô-viết”, V.I.Lênin còn chủ trương mời và thuê các chuyên gia khoa học, kỹ thuật của các nước tư bản đến làm việc tại Nga và trả lương cao cho họ Việc trả lương cao này như là
“một bước lùi” so với nguyên tắc phân phối của chủ nghĩa xã hội, nhưng là bước lùi cần thiết, và “làm được như thế để giáo dục quần chúng và quần chúng học tập qua kinh nghiệm để xây dựng chủ nghĩa xã hội” [46; 129]
Tư tưởng của V.I.Lênin về vai trò của nguồn nhân lực từ bên ngoài đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội có ý nghĩa to lớn trong xây dựng nền kinh tế nước Nga sau cách mạng tháng Mười Tư tưởng của Người còn có
ý nghĩa thực tiễn rất lớn đối với các nước đang trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay, đặc biệt là các nước đang phát triển như Việt Nam
Nguồn lực con người với tư cách là ngoại lực là những chuyên gia nước ngoài đến Việt Nam theo các chương trình hợp tác song phương và đa phương giữa chính phủ Việt Nam với các tổ chức chính phủ và phi chính phủ của các nước Đội ngũ chuyên gia nước ngoài đã giúp chúng ta đào tạo nguồn nhân lực
Trang 33từ ngành nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ, nghiên cứu chính sách, cải cách
cơ cấu, chuyển giao ứng dụng khoa học, công nghệ đến việc giải quyết những vấn đề xã hội, chống dịch bệnh, chăm sóc sức khỏe, bảo vệ môi trường,
Với phương châm “Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác” [22; 112], đội ngũ chuyên gia nước ngoài đến làm việc ở Việt Nam trong những năm tới sẽ gia tăng Vấn đề đặt ra là chúng ta phải nhanh chóng hoàn thiện hệ thống pháp luật, đào tạo nguồn nhân lực để tiếp nhận và ứng dụng những kiến thức khoa học, công nghệ tiên tiến được chuyển giao khi chuyên gia nước ngoài về nước
Nguồn lực con người với tư cách là ngoại lực còn là người Việt Nam ở nước ngoài Theo Ủy ban Người Việt Nam ở nước ngoài, tính đến ngày 01 -
04 - 2008, có khoảng 2,7 triệu người Việt Nam đang làm ăn, sinh sống tại gần
90 quốc gia và vùng lãnh thổ (khoảng 80% đang sinh sống ở các nước phát triển), với hơn 300.000 người có trình độ đại học và trên đại học (trong đó có hơn 6.000 tiến sĩ và hàng trăm trí thức tên tuổi được thế giới đánh giá cao) Nhiều Việt kiều thành đạt trong các lĩnh vực khoa học, kinh tế chính trị Một
số người giữ vị trí quan trọng trong các viện nghiên cứu, trường đại học, bệnh viện, công ty kinh doanh và tổ chức quốc tế Đội ngũ các nhà khoa học trẻ gốc Việt đang trưởng thành và tập trung ở nhiều lĩnh vực khoa học chuyên ngành và kinh tế mũi nhọn của nước sở tại như tin học, viễn thông, điện tử, vật liệu mới, chế tạo máy, sinh học Trong những năm gần đây, nhiều trí thức người Việt Nam ở nước ngoài đã về nước trao đổi, giảng dạy, giới thiệu công nghệ mới, góp phần thúc đẩy mối quan hệ về học thuật, tiếp cận những thành tựu mới nhất về khoa học, công nghệ giữa nước ta với các nước tiên tiến trên thế giới
Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước ta
đã có nhiều chủ trương, chính sách cần thiết, bước đầu tạo điều kiện thuận lợi
Trang 34cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài trở lại làm ăn, công tác tại Việt Nam như Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội giải quyết giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 01 - 07 - 1991 có yếu tố người Việt Nam ở nước ngoài; cải cách các thủ tục xuất nhập cảnh, lưu trú, đi lại cho Việt kiều; cho phép kiều bào mua cổ phần của doanh nghiệp nhà nước; đẩy mạnh sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc kết nối các doanh nhân, trí thức kiều bào với các tổ chức, doanh nghiệp trong nước Đặc biệt, từ khi có Nghị quyết 36/NQ-TW ngày 26/03/2004 của Bộ Chính trị về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài với những nội dung nhất quán coi cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là bộ phận không tách rời và là một nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam, Nghị quyết đã góp phần tăng cường sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, khơi dậy trong cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài lòng yêu nước, tự hào dân tộc, cùng chung sức xây dựng một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Tiềm lực Việt kiều là rất lớn, là nguồn lực quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn hiện nay Để khai thác có hiệu quả nguồn lực này, chúng ta cần thực hiện các giải pháp đồng bộ từ vi mô đến vĩ mô, sự quyết tâm hơn nữa của các ngành, các cấp để tạo bước chuyển mạnh mẽ, tiếp thêm động lực cho người Việt Nam ở nước ngoài hướng về quê hương, góp phần xây dựng đất nước
Hai là, nguồn vốn nước ngoài
Nguồn vốn nước ngoài là yếu tố quan trọng, là một trong những nguồn lực vô cùng quan trọng trong tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước Trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước theo đường lối đổi mới, Đảng và Nhà nước ta chủ trương huy động mọi nguồn vốn trong và ngoài nước để đầu tư phát triển Trong đó, vốn trong nước có ý nghĩa quyết định, vốn ngoài nước có ý nghĩa quan trọng Thực hiện chủ trương trên,
Trang 35chúng ta đã mở cửa mạnh mẽ để thu hút vốn đầu tư nước ngoài từ hai nguồn
cơ bản: Vốn đầu tư trực tiếp (FDI) và vốn viện trợ phát triển chính thức (ODA)
Trong thời gian qua, nguồn vốn nước ngoài đã có vai trò quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
Thứ nhất, việc thu hút và sử dụng nguồn vốn nước ngoài góp phần quan trọng trong việc thực hiện thành công chính sách đối ngoại rộng mở, là cầu nối giữa kinh tế Việt Nam với kinh tế khu vực và thế giới, thúc đẩy quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế Quan hệ hỗ trợ phát triển ODA là cầu nối giữa Việt Nam với các nước và tổ chức quốc tế, góp phần củng cố và nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới Khi chính phủ các nước phát triển và các tổ chức quốc tế đã tin tưởng vào chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, cam kết mạnh mẽ ủng hộ công cuộc đổi mới thì
đó là một nhân tố tích cực tác động tới giới đầu tư nước ngoài, làm họ an tâm
và mạnh dạn đầu tư vào Việt Nam
Thứ hai, nguồn vốn nước ngoài đã góp phần tăng trưởng kinh tế, phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, cải thiện các dịch vụ xã hội Kể từ khi quan hệ hỗ trợ phát triển được tái thiết lập, một lượng vốn ODA lớn đã được đầu tư cho kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, nhất là về giao thông vận tải, cảng biển, điện nước , tạo tiền đề quan trọng trong việc thu hút đầu tư tư nhân, đầu tư FDI, thúc đẩy thương mại, góp phần đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế và thực hiện chính sách xã hội
Thứ ba, nguồn vốn nước ngoài tạo điều kiện cho các nước chậm phát triển tiếp nhận khoa học, công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến, phát triển nguồn nhân lực, nâng cao khả năng cạnh tranh Thông qua các dự
án đầu tư bằng vốn ODA, FDI, các công nghệ mới, kỹ năng và kinh nghiệm quản lý tiên tiến đã được chuyển giao Thông qua các dự án đầu tư bằng vốn
Trang 36nước ngoài, nguồn nhân lực ở các cấp từ lao động lành nghề đến các kỹ sư, các nhà quản lý cũng được nâng cao, đào tạo toàn diện hơn, thích nghi với môi trường làm việc quốc tế năng động và nhiều cạnh tranh Đồng thời, thông qua các dự án vốn nước ngoài, các nguồn lực trong nước như lao động, đất đai, tài nguyên có điều kiện phân bổ hợp lý hơn
Ba là, nguồn lực khoa học, công nghệ
Việc thu hút và ứng dụng những thành tựu khoa học, công nghệ, kinh nghiệm quản lý tiên tiến là những điều kiện kỹ thuật cực kỳ quan trọng cho sự phát triển nhanh của mọi nền kinh tế Điều đó càng quan trọng đối với những nước có điểm xuất phát thấp như nước ta trong khi trình độ công nghệ trong nước còn kém thì nguồn công nghệ nhập từ nước ngoài đã trở thành nguồn lực bên ngoài quan trọng cho sự phát triển đất nước
Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, công nghệ tạo điều kiện thúc đẩy các ngành sản xuất, các doanh nghiệp đổi mới thiết bị, nâng cao trình độ công nghệ nhằm tăng năng suất và chất lượng, giảm giá thành, tăng sức cạnh tranh đối với các hàng hóa cùng loại đang được sản xuất trong nước hoặc ở nước ngoài Bên cạnh đó, sự phát triển của khoa học, công nghệ cũng tạo ra những ngành nghề mới, việc làm mới nhưng lại đặt ra những yêu cầu rất cao đối với người lao động, đòi hỏi người lao động phải được đào tạo, phải có trình độ chuyên môn kỹ thuật, có khả năng tự học hỏi và thích ứng với nền sản xuất luôn biến động
Việc thu hút nguồn lực khoa học, công nghệ nước ngoài được thực hiện thông qua nhiều hình thức khác nhau như xuất khẩu lao động, đưa học sinh, sinh viên đi đào tạo ở nước ngoài, thông qua nhập khẩu công nghệ, hợp tác với đối tác bên ngoài hoặc thuê cố vấn và chuyên gia nước ngoài Đặc biệt, trong điều kiện hiện nay, nhập khẩu công nghệ tiên tiến ở nước ngoài là phương pháp vừa tiết kiệm thời gian, vừa tiết kiệm chi phí nếu lựa chọn hiệu quả được những công nghệ có mức độ tiên tiến thích hợp với giá thành hạ
Trang 37Nguồn lực khoa học, công nghệ nhập từ nước ngoài vào nước ta theo hai kênh
là đầu tư trực tiếp và thông qua hợp tác giáo dục, đào tạo
Nhập khẩu công nghệ từ đầu tư trực tiếp nước ngoài là nguồn chuyển giao công nghệ chính Quá trình chuyển giao công nghệ những năm qua đã mang lại những thành quả đáng khích lệ, cả về kinh tế và phúc lợi xã hội Tuỳ theo yêu cầu của từng ngành mà việc nhập khẩu công nghệ có thể thuộc loại tiên tiến hiện đại hoặc tương đối hiện đại, ở dạng thiết bị toàn bộ hoặc có lựa chọn từng phần, từng bộ phận cần thiết Ví dụ, nhập công nghệ tiên tiến hiện đại thích hợp như ngành bưu chính viễn thông, công nghệ chế biến thực phẩm sạch, công nghệ sản xuất vacxin Công nghệ tương đối hiện đại như các xí nghiệp công nghiệp bánh kẹo, công nghiệp hàng tiêu dùng Trường hợp nhập khẩu có lựa chọn có bộ phận tiên tiến hiện đại, có bộ phận tương đối hiện đại như trong ngành điện - điện tử, đóng tàu thủy, lắp ráp ô tô, xe máy, công nghiệp dệt - may
Nhập khẩu công nghệ qua nguồn giáo dục, đào tạo và quảng bá giáo dục,
hỗ trợ đắc lực cho việc chuyển giao công nghệ mới và tri thức quản lý hiện đại vào nước ta Chính sách mở cửa hội nhập đã giúp nước ta có khả năng tiếp cận các nền giáo dục và đào tạo tiên tiến của thế giới Hình thức liên kết đào tạo cũng đa dạng, có thể tạo cơ chế cho các trường nước ngoài đầu tư trong nước hay liên kết đào tạo giữa các trường trong nước với các trường nước ngoài
Nhận thức được tầm quan trọng của nguồn lực bên ngoài phục vụ cho giáo dục, đào tạo, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương mở cửa cho các trường đại học quốc tế đầu tư vào Việt Nam hoặc tạo điều kiện cho các trường mở rộng hợp tác đào tạo với các nước khác trên thế giới: “Tăng cường hợp tác quốc tế về giáo dục và đào tạo Tiếp cận chuẩn mực giáo dục tiên tiến của thế giới phù hợp với yêu cầu phát triển của Việt Nam; tham gia đào tạo nhân lực khu vực và thế giới Có cơ chế quản lý phù hợp đối với các trường do nước ngoài đầu tư hoặc liên kết đào tạo” [23; 98]
Bốn là, toàn cầu hoá
Trang 38Một trong những đặc trưng quan trọng của thế giới đương đại là quá trình toàn cầu hóa đang được đẩy mạnh và phát triển với tốc độ lớn, trở thành
xu thế phát triển của thế giới hiện nay Khi xem xét về sự phát triển của toàn cầu hóa, ta nhận thấy, đây là hệ quả tất yếu của sự phát triển lực lượng sản xuất hiện đại Toàn cầu hóa chính là biểu biện của sự xã hội hóa cao của lực lượng sản xuất
Toàn cầu hóa tạo ra những thuận lợi cho các nước đang phát triển: Một là, toàn cầu hóa thúc đẩy sự phát triển sâu rộng các quan hệ kinh tế quốc tế, tạo điều kiện cho các quốc gia tận dụng được thị trường thế giới
Hai là, xu thế toàn cầu hóa mở ra khả năng cho các quốc gia, nhất là các quốc gia đang phát triển tham gia nhanh chóng, có hiệu quả vào sự phân công lao động quốc tế và tận dụng mọi nguồn lực để phát triển
Ba là, xu thế toàn cầu hóa tạo điều kiện cho các quốc gia tham gia vào đời sống chính trị quốc tế, tạo điều kiện cho các quốc gia có sự trao đổi, hiểu biết lẫn nhau, từ đó có thể giải quyết những bất đồng bằng con đường hòa bình, hợp tác
Bên cạnh những mặt tích cực nói trên, toàn cầu hóa cũng gây ra nguy
cơ lệ thuộc về kinh tế, từ đó dẫn đến lệ thuộc về chính trị, đe dọa độc lập, chủ quyền, an ninh quốc gia Không chỉ vậy, toàn cầu hóa còn gây ra sự bất công, bất bình đẳng giữa các nước phát triển với các nước đang phát triển, làm gia tăng khoảng cách giàu nghèo giữa các quốc gia
Có thể nói, toàn cầu hoá đang diễn ra như một “dòng nước xoáy” mạnh
mẽ, cuốn hút tất cả các quốc gia trên thế giới Đây là một xu thế lớn trong sự vận động của lịch sử thế giới đương đại, nó đã và đang tác động đến nhiều mặt của cuộc sống con người trên hành tinh Và do đó, cùng với nền kinh tế thị trường, quá trình toàn cầu hoá cũng là một nhân tố có ảnh hưởng lớn đến quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta
1.3 Quan hệ giữa nội lực và ngoại lực
Trang 39Sự phân biệt nội lực và ngoại lực chỉ mang tính tương đối, nó tùy thuộc cái nội lực - ngoại lực được xem xét cụ thể Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là chúng ta không thể xác định được quan hệ giữa nội lực và ngoại lực
Quan điểm về quan hệ giữa nội lực và ngoại lực ở Việt Nam đã được đặt ra từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng: Nội lực là quyết định, ngoại lực là quan trọng Điều này có nghĩa là chúng ta nhấn mạnh tầm quan trọng của chính sách đối ngoại rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế, nhưng nội lực vẫn là yếu tố quyết định sự phát triển đất nước
Trong các kỳ đại hội sau, Đảng và Nhà nước ta vẫn có những quan điểm nhất quán về việc phát huy quan hệ giữa nội lực và ngoại lực trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội Đặc biệt, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X của Đảng (2006) tiếp tục khẳng định chủ trương này: “Phát huy cao độ nội
lực, đồng thời ra sức tranh thủ ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới” [22; 71]
Từ sự khái quát trên, chúng ta có thể làm rõ quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về quan hệ giữa nội lực và ngoại lực trên hai phương diện sau:
1.3.1 Nội lực là yếu tố quyết định tranh thủ ngoại lực
Có thể nói rằng, Đảng và Nhà nước ta luôn khẳng định vai trò quyết định của nội lực đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước: “Nội lực
có vai trò quyết định đối với sự phát triển Phát huy nội lực trước hết là phát huy nguồn lực con người, nguồn lực của toàn dân tộc, khai thác có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên và sử dụng tốt nhất các nguồn lực của Nhà nước” [22; 179] Chúng ta có thể làm rõ vai trò quyết định của nội lực đối với tranh thủ ngoại lực trên những phương diện sau:
Thứ nhất, nội lực có vai trò quyết định trong việc xác định vị trí của
ngoại lực đối với sự phát triển đất nước
Trang 40Điều này thể hiện ở tư duy của một quốc gia về ngoại lực, có đặt ra vấn
đề tranh thủ ngoại lực hay không? Có nhận thức đúng vấn đề này hay không? Nhiều quốc gia không thấy được vai trò tích cực của ngoại lực dẫn tới xu hướng khép kín, đóng cửa làm cho nền kinh tế khó khăn Đảng ta luôn có quan điểm đúng đắn trong vấn đề này, thể hiện qua đường lối, chủ trương và chính sách cho mỗi giai đoạn cách mạng Ngay trong cách mạng tháng Tám năm 1945, một mặt, chúng ta ra sức xây dựng lực lượng quân sự, lực lượng chính trị ở trong nước để tạo nên nội lực của dân tộc; song, chúng ta cũng tìm cách tranh thủ ngoại lực là sự đồng tình, ủng hộ của bạn bè quốc tế và tranh thủ thời cơ quốc tế thuận lợi nhất để tiến hành cách mạng, giành chính quyền
về tay nhân dân Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, chúng ta đã tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa về lương thực, thực phẩm, vũ khí, kinh nghiệm chiến đấu, đã góp phần nâng sức mạnh của dân tộc, giúp chúng ta chiến thắng kẻ thù xâm lược mạnh hơn chúng ta nhiều lần Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta cũng tìm mọi cách tranh thủ sự giúp đỡ về kinh nghiệm, về cơ sở vật chất của các nước xã hội chủ nghĩa, không ngừng mở rộng quan hệ hợp tác với các nước trên thế giới:
“Chúng ta phải đặc biệt coi trọng kết hợp các yếu tố dân tộc và quốc tế, các yếu tố truyền thống và thời đại, sử dụng tốt khả năng mở rộng quan
hệ thương mại, hợp tác kinh tế và khoa học kỹ thuật với bên ngoài để phục vụ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và luôn luôn làm tròn nghĩa vụ quốc tế của mình với các nước anh em và bầu bạn” [12; 31]
Thứ hai, nội lực quyết định phương thức tranh thủ ngoại lực
Trong thời đại ngày nay, hội nhập kinh tế quốc tế là xu hướng chung của các quốc gia trên thế giới Sự tác động của các yếu tố bên ngoài tới nội lực của một quốc gia do chính nội lực của quốc gia đó quy định Nếu một quốc gia ỷ lại vào sự giúp đỡ bên ngoài, trông chờ quá nhiều vào nguồn vốn