Trên cơ sở các quan điểm nghiên cứu về thái độ của các tác giả nêu trên ta thấy rằng; trong tâm lý học Liên Xô, quan hệ xã hội được xem như là cơ sở của việc hình thành và phát triển thá
Trang 1ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-*** -
VŨ THỊ ANH
BẢNG TÓM TẮT ĐỀ TÀI:
GIÚP VIỆC GIA ĐÌNH TẠI ĐÀI LOAN CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG (NỮ) VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC TÂM LÝ
Chuyên ngành : TÂM LÝ HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS LÊ KHANH
Trang 2MỤC LỤC PHẦN I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
6 Giả thuyết nghiên cứu
7 Phương pháp nghiên cứu
PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI.
1.1 Sơ lược lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1 Sơ lược lịch sử nghiên cứu vấn đề thái độ
1.1.2 Điểm qua một vài nghiên cứu đầu tiên về nghề giúp việc gia đình (GVGĐ) 1.2 Một số khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1 Khái niệm thái độ
1.2.1.6 Thang đo thái độ
1.2.1.7 Sự thay đổi thái độ
1.2.1.8 Mối quan hệ giữa khái niệm thái độ và một số khái niệm có liên quan 1.2.1.9 Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển thái độ 1.2.2 Khái niệm nghề
1.2.2.1 Định nghĩa nghề
Trang 31.2.2.2 Đặc điểm của hoạt động nghề
1.2.3 Khái niệm nghề GVGĐ
1.2.3.1 Định nghĩa nghề GVGĐ
1.2.3.2 Nghề GVGĐ tại Đài Loan
1.2.3.3 Đặc điểm nghề GVGĐ
1.2.3.4 Các đặc điểm tâm lý cần có của người làm nghề GVGĐ
1.3 Động cơ chọn nghề GVGĐ tại Đài Loan của người lao động (NLĐ) (nữ) Việt Nam
1.4 Vấn đề đào tạo nghề GVGĐ tại Đài Loan
1.4.1 Thời gian đào tạo
1.4.2 Nội dung đào tạo
1.5 Những khó khăn mà NLĐ nữ Việt Nam phải đương đầu trong quá trình làm nghề giúp việc tại Đài Loan
CHƯƠNG 2 TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU
2.1 Xác định mẫu nghiên cứu
2.2 Tiến trình nghiên cứu
CHƯƠNG 3 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN.
3.1 Động cơ thúc đẩy NLĐ chọn nghề GVGĐ tại Đài Loan
3.2 Diễn biến thái độ của NLĐ Việt Nam đối với nghề GVGĐ
3.2.1 Thái độ của NLĐ Việt Nam đối với nghề GVGĐ trước khi sang Đài Loan làm việc
Trang 43.2.2 Thái độ của NLĐ Việt Nam đối với nghề GVGĐ trong quá trình làm việc tại Đài Loan
3.2.3 Thái độ của NLĐ Việt Nam đối với nghề GVGĐ sau khi sang Đài Loan làm việc và trở về nước
3.3 Sự thay đổi thái độ của NLĐ đối với nghề GVGĐ trong cả quá trình trước, trong và sau khi làm nghề GVGĐ tại Đài Loan
PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
Trang 5Ký hiệu viết tắt
NLĐ: Người lao động
Nghề GVGĐ: Nghề giúp việc gia đình
NT: Tiền Đài Loan
Trang 6PHẦN I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1 LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Giải quyết công ăn việc làm cho phụ nữ nói chung và phụ nữ nông thôn nói riêng là một vấn đề không đơn giản, nhất là trong giai đoạn hiện nay Khi mà sản xuất nông nghiệp manh mún lạc hậu, các nghành nghề dịch
vụ phi sản xuất phát triển rất chậm, quĩ đất giành cho nông nghiệp ngày một giảm, trong khi đó lại hạn chế về vốn đầu tư ở nông thôn, thời gian sản xuất chỉ kéo dài từ 3 đến 6 tháng (kể cả đã thâm canh tăng vụ) thời kỳ nông nhàn lại kéo dài từ 6 đến 9 tháng trong 1 năm Làm thế nào để giải quyết công ăn việc làm tạo thu nhập cho phụ nữ nông thôn?
Theo thống kê của cục niên giám thì trình độ học vấn của phụ nữ nông thôn rất thấp: chỉ có 40% tốt nghiệp PTCS và 8% tốt nghiệp PTTH, điều kiện để tiếp xúc và ứng dụng khoa học kỹ thuật rất hạn chế, cơ hội lựa chọn nghề nghiệp không có, kinh nghiệm làm việc chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi và chăm sóc con cái
Ngày 6-5-1999 văn phòng Kinh tế Văn hoá của Đài Loan tại Hà Nội
và văn phòng Kinh tế Văn hoá của Việt Nam tại Đài Bắc ký thoả thuận một
số nội dung và điều kiện cụ thể việc Đài Loan tiếp nhận lao động của Việt Nam sang làm việc có thời hạn tại Đài Loan, trong đó có lao động giúp việc gia đình, đây được coi là hướng mở cho chính sách xuất khẩu lao động của Việt Nam, và đây cũng được coi là một biện pháp xoá đói giảm nghèo ở nông thôn, vì sau 2 năm lao động tại Đài Loan theo hợp đồng lao động người phụ nữ giúp việc gia đình sẽ được thực lĩnh số tiền lương sấp xỉ 103 triệu VNĐ sau khi đã trừ tất cả các khoản chi phí và thuế
Từ khi thoả thuận được ký kết số lượng các doanh nghiệp được phép xuất khẩu lao động đến Đài Loan , ngày một tăng từ 15 doanh nghiệp năm
1999 lên 137 doanh nghiệp năm 2003 và số lượng lao động sang Đài Loan làm nghề giúp việc ngày một nhiều, tính đến tháng 12/2003 là 3000 lao động
Trang 7giải quyết rất nhiều khó khăn cho phụ nữ nông thôn Trong khi nhu cầu của thị trường lao động của Đài Loan về lao động giúp việc lên đến 90000, mặc
dù không chỉ tiếp nhận lao động Việt Nam làm nghề giúp việc nhưng do đặc tính cần cù, sáng tạo, tháo vát… lao động Việt Nam rất được các gia đình Đài Loan ưa chuộng do đó nhu cầu tiếp nhận lao động Việt Nam giúp việc gia đình ngày càng Nhưng do tỷ lệ lao động giúp việc vi phạm hợp đồng lao động (bỏ trốn khỏi gia đình gia chủ ra ngoài làm việc khác) ngày một gia tăng, cộng thêm một số lượng không nhỏ lao động chưa được đào tạo và định hướng nghề một cách chu đáo đã sang Đài Loan làm việc, nên hiệu quả công việc kém đã dẫn đến quyết định dừng tiếp nhận lao động Việt Nam sang làm nghề GVGĐ từ phía Đài Loan từ tháng 12/2004 Quyết định này
đã gây rất nhiều khó khăn cho không chỉ cho các doanh nghiệp xuất khẩu lao động mà còn gây khó khăn cho chính sách xoá đói giảm nghèo, giải quyết công ăn việc làm cho người phụ nữ nông thôn
Từ thực tế trên, chúng tôi chọn đề tài “Tìm hiểu thái độ đối với nghề GVGĐ tại Đài Loan của người lao động (nữ) Việt Nam” Nhằm thấy được
sự chuyển biến thái độ của NLĐ đối với nghề từ giai đoạn trước khi sang Đài Loan làm việc đến giai đoạn làm việc thực tế và kết thúc hợp đồng lao động, tìm những nguyên nhân khách quan cũng như chủ quan gây ra sự biến chuyển trên Từ đó, có những kiến nghị đến cơ quan thẩm quyền, để các cơ quan này có các định hướng, điều chỉnh nhằm phát huy tính tích cực của NLĐ trong quá trình hành nghề tại nước ngoài Từ đó mà khẳng định lợi thế xuất khẩu lao động của Việt Nam
2 ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU
Thái độ của NLĐ (nữ) Việt Nam đối với nghề GVGĐ tại Đài Loan
3 MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU.
Chỉ ra thực trạng thái độ của NLĐ(nữ) Việt Nam đối với nghề GVGĐ tại Đài Loan, phân tích các nguyên nhân dẫn đến thái độ, sự thay đổi thái độ
Trang 8của NLĐ đối với nghề GVGĐ tại Đài Loan qua các giai đoạn trước khi làm nghề: trong thực tế làm nghề và sau khi đã kết thúc hợp đồng lao động về nước, qua đó đề xuất một số kiến nghị để các cơ quan quản lý đặc biệt là cục quản lý lao động ngoài nước có những biện pháp quản lý phù hợp nhằm phát huy những đặc điểm tâm lý tích cực của NLĐ Việt Nam trong quá trình làm việc tại nước ngoài qua đó đẩy mạnh lợi thế xuất khẩu lao động nói chung
4 NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU.
Để hoàn thành mục đích trên chúng tôi đề ra các nhiệm vụ cụ thể sau:
- Xây dựng cơ sở lý luận của đề tài
Sơ lược lịch sử nghiên cứu thái độ và nghề GVGĐ trên thế giới và ở Việt Nam Làm rõ các khái niệm cơ bản và các khái niệm có liên quan sau: khái niệm thái độ, khái niệm sự thay đổi thái độ, khái niệm nghề giúp việc
và lý luận về thái độ nói chung
- Điều tra thực tiễn
Tìm hiểu thái độ của NLĐ nữ Việt Nam đối với nghề GVGĐ qua các giai đoạn: giai đoạn trước khi làm nghề, trong thực tế làm việc tại Đài Loan, sau khi làm nghề giúp việc tại Đài Loan về Việt Nam
- Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến thái độ và sự thay đổi thái độ trên
5 KHÁCH THỂ VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
5.1 Khách thể
168 NLĐ nữ Việt Nam đã từng làm nghề GVGĐ tại Đài Loan ở một
số tỉnh phía bắc như: Hải Dương, Hà Tây, Ninh Bình, Nam Định, Bắc Ninh, Bắc Giang…
5.2 Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chỉ giới hạn ở việc tìm hiểu thái độ của NLĐ nữ đối với nghề GVGĐ tại Đài Loan như đã chỉ rõ ở phần nhiệm vụ nghiên cứu
Trang 96 GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU
Thái độ của NLĐ nữ đối với nghề GVGĐ thay đổi rõ rệt trước khi sang Đài Loan làm việc, trong quá trình thực tế và sau khi kết thúc hợp đồng
về nước theo chiều hướng tích cực do NLĐ đạt được động cơ kinh tế của
mình
7 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Xuất phát từ mục đích nghiên cứu trên, chúng tối đề ra các phương pháp cụ thể bao gồm: Phương pháp nghiên cứu tài liệu, phương pháp điều tra bằng bảng hỏi, phương pháp quan sát, phương pháp phỏng vấn sâu, phương pháp nghiên cứu trường hợp, phương pháp thống kê toán học
Trang 10PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1 SƠ LƯỢC LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
1.1.1 Sơ lược lịch sử nghiên cứu vấn đề thái độ
Người đầu tiên khởi xướng việc nghiên cứu thái độ chủ quan của nhân cách là A.Ph Lagiurxki (1874-1917) qua các nghiên cứu của mình ông chia đời sống thực của con người thành hai lĩnh vực:
Cái tâm lý bên trong: là cơ sở bẩm sinh của nhân cách bao gồm khí chất, tính cách và một loạt các đặc điểm tâm lý khác
Cái tâm lý bên ngoài: hệ thống thái độ của nhân cách với môi trường xung quanh
Như vậy, thái độ của cá nhân theo A.Ph Lagiurxki là sự biểu hiện ra bên ngoài của cái tâm lý bên trong, là phản ứng với sự tác động môi trường xung quanh
a Nghiên cứu thái độ ở Liên Xô
Trong tiếng Nga, thuật ngữ thái độ mang nội hàm kép: ngoài nghĩa là thái độ, còn có nghĩa là các mối quan hệ trong tự nhiên, xã hội và tư duy Do vậy, khi dùng từ này tương đương với attitude trong tiếng Anh, các tác giả còn sử dụng thuật ngữ tâm thế xã hội và sau này là thuật ngữ thái độ chủ quan của cá nhân
Dựa trên tư tưởng của A.Ph Lagiurxki và xuất phát từ lập trường xít, V.N Miaxisev đã đề ra học thuyết tâm lý về thái độ chủ quan hay “Học thuyết thái độ nhân cách” Ông coi nhân cách như một hệ thống thái độ và phân tích các dạng các hình thức của chúng Ông cho rằng: Thái độ là khía cạnh chủ quan bên trong, là hệ thống trọn vẹn của các mối liên hệ liên cá nhân có chọn lọc, có ý thức của nhân cách với các khía cạnh khác nhau của hiện thực khách quan” Hệ thống này xuất phát từ toàn bộ lịch sử phát triển
Trang 11mác-của con người, nó thể hiện kinh nghiệm cá nhân, qui định hoạt động và các trải nghiệm của cá nhân từ bên trong Mặt khác, thái độ là điều kiện bên trong qui định hệ thống các hành động của con người Tuy nhiên ông lại cho rằng: “Tất cả các hoạt động tâm lý, hiểu theo nghĩa rộng đều có thể xem như một dạng nào đó của thái độ” Như vậy khi nghiên cứu thái độ Miaxisev đã nghiên cứu nó dưới góc độ xã hội lịch sử, chú ý đến thái độ trong mối quan
hệ với hành vi Nhưng việc coi hàng loạt các thuộc tính, quá trình tâm lý là thái độ thì chưa có cơ sở khoa học
Một cách tiếp cận khác, phục vụ cho việc nghiên cứu tái độ của các nhà tâm lý học Xô Viết trước đây là các công trình của trường phái tâm thế D.N.Uznadze Trong học thuyết của D.N Uznadze, thái độ được hiểu như
“tâm thế” và ông định nghĩa: “Tâm thế là sự mô phỏng trọn vẹn của chủ thể,
sự sẵn sàng tự giác của sự kiện và sự xác định hoàn thiện về hướng của hành vi”
Tâm thế chỉ xuất hiện khi có sự hội ngộ của hai yếu tố chính (nhu cầu
và hoàn cảnh thoả mãn nhu cầu) Ông dùng khái niệm tâm thế với tư cách là khái niệm trung tâm của hoạt động, nhưng ông lại lấy cái vô thức để giải thích hành vi của con người Vì vậy, nhiều đồng nghiệp phê phán là trong quan niệm của ông về tâm thế chỉ đề cập đến các quá trình hiện thực hoá các nhu cầu sinh lý đơn giản mà không tính đến các hình thức phức tạp cao cấp của nhu cầu con người Ông đã loại bỏ tính qui định của các yếu tố xã hội đối với nhu cầu của con người trong quá trình lĩnh hội các kinh nghiệm sống…
Thuyết định vị của V.A Iadov nghiên cứu vai trò của tâm thế trong những hành vi xã hội của nhân cách Ông đã đưa ra thuyết nghiên cứu hệ thống định vị điều chỉnh hành vi hoạt động xã hội của cá nhân, khắc phục những khuyết điểm vốn tồn tại của các nghiên cứu trong phòng thí nghiệm
Trang 12và trong môi trường vi mô Thuyết định vị đã phát triển khái niệm tâm thế
và cho rằng hành vi xã hội của mỗi cá nhân được điều khiển bởi hệ thống định vị, bao gồm tâm thế, tâm thế xã hội, xu hướng cơ bản của hứng thú, cơ
sở hệ thống định hướng giá trị Như vậy tâm thế chỉ là một dạng định vị điều chỉnh hành vi, phản ứng cá nhân trong các tình huống đơn giản khi có sự gặp gỡ giữa nhu cầu sinh lý và đối tượng thoả mãn nhu cầu Hệ thống định
vị được xắp xếp theo 4 bậc từ thấp đến cao với các mức độ khác nhau để điều chỉnh hành vi xã hội của cá nhân
Bậc 1: Bao gồm các tâm thế bậc thấp như trong quan niệm của P.N Uznadze, hình thành trên cơ sở các nhu cầu và tình huống đơn giản nhất
Bậc 2: Bao gồm các định vị phức tạp hơn, được hình thành trên cơ sở các tình huống giao tiếp của con người trong nhóm nhỏ
Bậc 3: Bao gồm các định vị mà có định hướng chung của sở thích được hình thành trong những lĩnh vực hoạt động xã hội cụ thể
Bậc 4: Bậc cao nhất hình thành nên hệ thống định hướng giá trị của nhân cách, nó điều chỉnh hành vi và hoạt động của nhân cách trong những tình huống mà tính tích cực xã hội có giá trị nhất định đối với nhân cách
Trong đó định vị bậc cao có thể chi phối định vị bậc thấp
Như vậy thuyết định vị đã xem xét thái độ từ góc độ mới, nó cho phép thiết lập sợi dây liên hệ giữa cách tiếp cận vấn đề hành vi của nhân cách dưới góc độ tâm lý học đại cương, xã hội học và tâm lý học xã hội
Trong những năm cuối của thế kỷ XX, khi nghiên cứu nhân cách như một phạm trù cơ bản của tâm lý học, B.Ph Lomov đã đề cập đến khái niệm thái độ chủ quan của nhân cách Ông cho rằng khái niệm “tâm thế”, “ý cá nhân”, “attitude” là những khái niệm cùng loại, phản ánh những khía cạnh khác nhau của thái độ Cơ sở khoa học của thái độ chủ quan của cá nhân được xác định là các quan hệ xã hội, trong đó quan hệ kinh tế có vai trò
Trang 13quyết định Ngoài ra, trong quá trình phát triển các cá nhân hình thành thái
độ với các khía cạnh khác nhau do sống trong cộng đồng (nhóm) nên các cá nhân hình thành thái độ chủ quan với nhóm cộng đồng mà họ tham gia và cả những nhóm và cộng đồng khác Do vậy, xét cho cùng tính chất, động thái của thái độ chủ quan được hình thành ở mỗi cá nhân phụ thuộc vào vị trí lập trường mà nó chiếm chỗ trong hệ thống các quan hệ xã hội và sự phát triển của nó trong hệ thống đó Bên cạnh đó B.Ph Lomov cũng khẳng định thái
độ tuy là một thuộc tính tương đối ổn định, bền vững phản ánh lập trường của cá nhân với hiện thực khách quan nhưng nó cũng có thể thay đổi khi có
sự thay đổi vị trí khách quan của mỗi cá nhân trong xã hội thay đổi
Trên cơ sở các quan điểm nghiên cứu về thái độ của các tác giả nêu trên ta thấy rằng; trong tâm lý học Liên Xô, quan hệ xã hội được xem như là
cơ sở của việc hình thành và phát triển thái độ chủ quan của cá nhân, toàn bộ
hệ thống các quan hệ: kinh tế, dân sự, chính trị… với những quy luật của riêng nó qui định thái độ của cá nhân bằng cách này hay cách khác Đối với từng cá nhân cụ thể, thì những người khác là hiện thân của các quan hệ xã hội, vì vậy việc tham gia các nhóm, sự thay đổi vị thế xã hội của anh ta sẽ qui định hành động, thể nghiệm mong muốn, sự hiểu biết, cách đánh giá của chính anh ta
b Nghiên cứu thái độ ở các nước phương Tây
Khái niệm “Thái độ” được hai nhà nghiên cứu người Mỹ W.I Thomas và F Znaniecki đưa ra lần đầu vào năm 1918, như một đặc tính quan trọng của các vấn đề xã hội Theo hai ông, “thái độ là trạng thái tinh thần (State of mind) của cá nhân đối với một giá trị” (4–tr.318) Trong nghiên cứu của mình về người nông dân Ba Lan ở Mỹ, hai ông rất chú ý đến
sự thích ứng của con người đối với sự thay đổi của môi trường xã hội, sự
Trang 14thay đổi các giá trị cũ bằng các giá trị mới mà đặc điểm cốt lõi là vấn đề thái
66 khách sạn, nơi cắm trại cho người có ô tô và nhà nghỉ cho khách du lịch Hầu như ở khắp mọi nơi họ được đối sử lịch sự chu đáo như nhau, chỉ có 1 trường hợp duy nhất họ bị từ chối phục vụ Sáu tháng sau tất cả các cơ sở trên đều nhận được lá thư với câu hỏi: “Ông (bà) có chấp nhận đón tiếp người Trung Quốc như là khách của nhà hàng (khách sạn) không?”, có 128
cơ sở trả lời, kết quả là 91% số người được hỏi phủ định Kết luận đã gây ra kinh ngạc và chứng minh một điều: “Thái độ và hành vi đôi khi rất khác nhau” (4–tr.320), kết luận này sau này được mang tên là nghịch lý La piere” Kết quả thí nghiệm đặt ra câu hỏi hoài nghi vai trò của thái độ trong việc chi phối hành vi con người, cộng thêm sự bế tắc khi lý giải nghịch lý trên đã làm cho sự quan tâm của các nhà tâm lý học với vấn đề thái độ xã hội có phần giảm sút Tuy vậy kết quả thí nghiệm không phủ định toàn bộ các cố gắng
Trang 15nghiên cứu thái độ thông qua sự biểu hiện bằng lời nói của các đối tượng, nhưng nó góp phần khẳng định nghiên cứu tâm lý con người là vô cùng phức tạp và không tránh khỏi những lúc bế tắc khó khăn
Từ thập kỷ 60 trở lại đây, việc nghiên cứu thái độ dần dần lấy lại được
vị trí xứng đáng trong tâm lý học Đặc điểm mới của thời kỳ này là việc xuất hiện các thang đo thái độ; phương pháp “Đường ống giả vờ” của Edward Jones và Harold Sigall (1971) cho phép đo thái độ một cách khá chính xác
“Kỹ thuật lấn từng bước một” của Jonathan Freedman và Scott Fraser (1966) cho rằng: Nếu bạn muốn ai đó làm một việc gì cho mình thì một trong những kỹ thuật này là hãy đề nghị họ làm việc nhỏ trước đã khẳng định mối quan hệ hai chiều giữa thái độ và hành vi Thuyết tự tri giác của Daryl Bem
ra đời năm 1967 cũng nghiên cứu mối quan hệ giữa thái độ và hành vi Ông đưa ra kết luận khi thái độ của chúng ta không rõ ràng hay cường độ quá yếu, chúng ta sẽ chỉ đơn giản quan sát hành vi của mình và tình huống mà
nó diễn ra rồi suy luận về thái độ của bản thân Allan Wicher (1969) sau khi
đã tổng kết các nghiên cứu về mối quan hệ giữa thái độ và hành vi đã đưa ra một kết luận đáng kinh ngạc: “Thái độ của con người hầu như chẳng dự báo
gì hành vi của họ” (4–tr.327)
Như vậy, xu thế chung trong nghiên cứu thái độ ở phương Tây là nhằm giải quyết những vấn đề cơ bản trong thực tiễn như vận động tranh cử, tiếp thị, tuyên truyền quảng cáo, bảo vệ môi trường… cũng như việc nghiên cứu các dạng thái độ định sẵn nhằm dự báo hành vi của họ khi gặp khó khăn Vì vậy, Shikhirep đã nhận xét: đặc điểm của tình trạng nghiên cứu thái
độ ngày nay ở phương Tây dù có nhiều phương pháp nghiên cứu thái độ cụ thể, nhưng lại bế tắc về phương pháp luận trong việc lý giải các số liệu thực nghiệm (6–tr.9) Việc qui các số liệu thu được từ các nghiên cứu về các thái
độ nhất định đã làm cho việc nghiên cứu, tìm kiếm, kiến tạo nên các mẫu về
Trang 16thái độ trong tâm lý học phương Tây chỉ nhằm tạo ra những tình huống, điều kiện, môi trường khách quan cụ thể giúp cho các nhà nghiên cứu hệ thống hoá số liệu thu thập được của mình, và dựa vào các mẫu thái độ để dự báo hành vi có thể xảy Nhưng cơ sở khách quan của chúng không được làm rõ, người ta hay qui về các thuộc ính di truyền của cá nhân Nói cách khác, trong tâm lý học Phương Tây, thực thể sinh học của con người được đề cao, đơn vị hành vi bị chi phối nhiều bởi những bản năng, thói quen, các khuôn mẫu tình cảm… Điều này hoàn toàn xa lạ với quan điểm của tâm lý học mác xít, trong tâm lý học mác xít quan hệ xã hội được xem như là cơ sở của thái
độ chủ quan của cá nhân Toàn bộ hệ thống các quan hệ kinh tế, dân sự, chính trị… phát triển theo qui luật khách quan của lịch sử, qui định thái độ chủ quan bằng cách này hay cách khác, thể hiện trong các hành động, mong muốn, sự hiểu biết, đánh giá của các cá nhân Nói cách khác, sự hình thành và phát triển thái độ chủ quan của cá nhân đồng thời là sự hình thành và phát triển ý thức của họ
c Nghiên cứu thái độ ở Việt Nam
Những nghiên cứu thái độ ở Việt Nam chịu ảnh hưởng rất nhiều của
hệ thống lý luận tâm lý học Liên Xô Nhìn chung, những nghiên cứu lý luận
về thái độ ở Việt Nam chưa nhiều, chủ yếu là quan điểm của một số nhà nghiên cứu tâm lý đầu ngành như: Phạm Minh Hạc, Nguyễn Khắc Viện…
Khi bàn về thái độ Nguyễn Khắc Viện cho rằng: “Trước một đối tượng nhất định, nhiều người có phản ứng tức thì, tiếp nhận dễ dàng hay khó khăn, đồng tình hay chống đối như đã có sẵn những cơ cấu tâm lý tạo ra định hướng cho việc ứng phó.” (3–tr.56) Ta thấy quan điểm này gần với thuyết tâm thế của Uznadze, thái độ đối với một đối tượng nào đó sẽ chi phối hoạt động của họ với đối tượng ấy
Trang 17Những nghiên cứu thái độ vừa mang tính lý luận vừa mang tính thực tiễn, bên cạnh các nghiên cứu thuần về lý luận hay nghiên cứu thuần về thực tiễn, ở Việt Nam khá phong phú về cả đối tượng và khách thể Những nghiên cứu này chủ yếu là nhằm vào đối tượng thanh niên (học sinh, sinh viên) với các vấn đề học tập, môi trường học đường như nghiên cứu “Thái
độ học tập của sinh viên đại học An ninh nhân dân” của Nguyễn Đức Hướng (luận văn thạc sĩ tâm lý học), “Thái độ của sinh viên ĐHQGHN với nạn ma tuý học đường” (khoá luận tốt nghiệp cử nhân tâm lý học của Nguyễn Thanh Cường)… Bên cạnh đó, còn có một số nghiên cứu về thái độ có liên quan tới các vấn đề văn hoá nghệ thuật như nghiên cứu của Lê Ngọc Phương về
“Thái độ của sinh viên với nhạc trẻ”, “Thái độ của học sinh phổ thông trung học với nghệ thuật chèo” của Trần Thu Hương…, thậm chí có cả một số nghiên cứu về thái độ liên quan đến các vấn đề phức tạp như sức khoẻ sinh sản, sống thử trước hôn nhân, chẳng hạn nghiên cứu của Lê Linh Trang
“Thái độ đối với quan hệ tình dục trước hôn nhân của sinh viên Học Viện ngân hàng phân viện TP HCM” (Luận văn thạc sĩ tâm lý học),…
Tuy nhiên, nghiên cứu về thái độ của NLĐ (nữ) Việt Nam đối với công việc giúp việc gia đình tại Đài Loan thì nghiên cứu của chúng tôi là công trình nghiên cứu đầu tiên
Đúng như tổng kết trong cuốn “Sổ tay tâm lý học xã hội” của William
Mc Guice “Thái độ và sự thay đổi thái độ vẫn là một trong những đề tài nghiên cứu nhiều nhất trong tâm lý học xã hội Sự cố gắng của các nhà tâm
lý học trong các nghiên cứu về thái độ nhằm hiểu rõ, dự đoán, kiểm soát và thay đổi hành vi con người đã mang lại rất nhiều kết quả Tuy nhiên phải thừa nhận rằng, thái độ là một khái niệm tâm lý khó xác định một cách chính xác, chính vì vậy dù được nghiên cứu nhiều nhưng còn gây tranh cãi” (1–tr.317)
Trang 181.1.2 Điểm qua một vài nghiên cứu đầu tiên về nghề giúp việc gia đình
Hình thức lao động giúp việc gia đình đã tồn tại rất lâu đời trong lịch
sử, nhưng chỉ đến thời gian gần đây nghề này mới được chú ý nghiên cứu tìm hiểu Trước đây nghề này và người làm nghề này chỉ được các nhà văn tái hiện trong một vài tác phẩm của mình nhằm khắc hoạ sự phân biệt đẳng cấp, sự tha hoá của một lớp người trong một giai đoạn lịch sử
Ngày nay, do sự phân công lao động xã hội trong hoàn cảnh mới nghề GVGĐ dần có xu hướng phát triển mới và thời gian gần đây được xã hội rất quan tâm:
+ Báo Lao Động Xã Hội số 2 ngày 4 -1 -1998 với bài viết ÔSin thời nay + Báo Phụ Nữ Việt Nam số 27 tháng 2-1997 với bài Người giúp việc thời nay
+ Báo Tiền Phong số 64 ngày 8 -8- 1996 bài Có một nghề muôn năm cũ + Tạp chí Khoa Học về Phụ Nữ số 4 năm 1996 có bài viết của tác giả Trần thị Vân Anh về nghề giúp việc
+ Nghiên cứu của khoa Tâm Lý trường đại học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn về trẻ em làm thuê giúp việc trong các gia đình ở Hà Nội…
Các nghiên cứu và các bài báo đã đề cập đến rất nhiều khía cạnh khác nhau của nghề GVGĐ như đặc điểm công việc, tính chất mối quan hệ của người làm nghề này, nhưng chưa có nghiên cứu nào đề cập đến nghề GVGĐ
ở Đài loan do người phụ nữ Việt Nam thực hiện cũng như thái độ với nghề của người đã và đang làm nghề này
1.2 MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN CỦA ĐỀ TÀI
1.2.1 Khái niệm thái độ
1.2.1.1 Định nghĩa thái độ
Trong các nghiên cứu về thái độ ở phương Tây, trước hết phải nói đến
2 nhà nghiên cứu W.I Thomas và F Znaniecki, những người đầu tiên đưa ra
Trang 19khái niệm thái độ mà theo đó “Thái độ là sự định hướng chủ quan của cá nhân như một thành viên (cộng đồng) đối với giá trị này hay giá trị khác, làm cho cá nhân có phương pháp hành động này hay phương pháp hành động khác được xã hội chấp nhận” (1-tr.279) Nói cách khác thái độ theo 2 ông chính là sự định hướng giá trị của mỗi cá nhân trong cộng đồng xã hội Nhìn chung, trong các trường phái nghiên cứu khác nhau việc định nghĩa khái niệm này vẫn chưa có sự thống nhất kể cả các trường phái trong tâm lý học phương Tây cũng như các trường phái khác nhau trong tâm lý học Mác xít
Từ điển tâm lý học do Nguyễn Khắc Viện chủ biên cho rằng: “Thái độ
là những phản ứng tức thì, tiếp nhận dễ dàng hay khó khăn, đồng tình hay chống đối, như đã có sẵn những cơ cấu tâm lý tạo ra sự định hướng cho việc ứng phó”
Từ điển tiếng Việt lại định nghĩa: “Thái độ là cách nhìn nhận hay hành động của cá nhân theo một hướng nào đó trước một vấn đề, một tình huống cần phải giải quyết Đó là tổng thể những biểu hiện ra bên ngoài của
ý nghĩ, tình cảm của một cá nhân đối với một sự kiện nào đó”
Năm 1953 G.W Allport cho rằng: “Thái độ là một trạng thái sẵn sàng
về mặt tinh thần và thần kinh được tổ chức thông qua kinh nghiệm, điều chỉnh hoặc ảnh hưởng năng động đến các phản ứng của cá nhân với tất cả các khách thể và tình huống mà nó có mối liên hệ” và đưa ra 5 đặc điểm của thái độ như sau:
+ Thái độ là trạng thái của tinh thần và hệ thần kinh
+ Thái độ là sự sẵn sàng phản ứng
+ Thái độ là trạng thái có tổ chức
+ Thái độ được hình thành trên cơ sở kinh nghiệm quá khứ
+ Thái độ gây ảnh hưởng điều khiển hành vi
Trang 20Tuy định nghĩa về thái độ của G.W Allport được nhiều nhà tâm lý thừa nhận vì qua định nghĩa không những chỉ ra được thái độ là gì, tác giả còn nêu ra nguồn gốc, vai trò chức năng của thái độ Tuy nhiên, trong định nghĩa trên, một lần nữa ta lại thấy, thái độ chỉ bó gọn trong đầu của một cái tôi chủ quan, mà không thấy vai trò của yếu tố môi trường và của những người khác đối với việc hình thành thái độ chủ quan của mỗi người
Nhà tâm lý học Mỹ Newcom cho rằng:” Thái độ là khuynh hướng hành động, nhận thức, tư duy, cảm nhận của cá nhân với khách thể có liên quan” nói cách khác đó là sự sẵn sàng phản ứng Những gì mà chúng ta tin là đúng và khi
ta có thái độ nhất định về một khách thể nào đó, sẽ đóng vai trò hiển nhiên trong việc qui định sự sẵn sàng phản ứng của chúng ta trước khách thể đó
H.C Trianodis (1971) coi “Thái độ là tư tưởng được hình thành từ những xúc cảm gây tác động đến hành vi nhất định ở một giai cấp nhất định trong những tình huống xã hội Thái độ của con người bao gồm những điều người ta suy nghĩ và cảm thấy về đối tượng, cũng như thái độ xử sự của họ đối với nó”(1-tr.280)
R Marten khẳng định, thái độ là xu hướng thường xuyên đối với các tình huống xã hội Nó biểu thị sự thống nhất của ý nghĩ, tình cảm và hành động Thái độ của con người quan hệ chặt chẽ với hành vi, được khẳng định bằng tình huống thống nhất bên trong
H Fillmore nhận định, thái độ là sự sẵn sàng phản ứng tích cực hay tiêu cực đối với đối tượng hay các ký hiệu (biểu tượng) trong môi trường… thái độ là sự định hướng của cá nhân đến các khía cạnh khác nhau của môi trường và là cấu trúc có tính cơ động
J Traver và các cộng sự lại định nghĩa thái độ là cách cảm xúc tư duy
và hành động tương đối lâu dài với sự việc hay con người nào đó (1-tr.280)
Trang 21Như vậy qua các định nghĩa trên ta thấy: mặc dù được diễn đạt bằng các hình thức khác nhau, nội dung chi tiết cũng không hoàn toàn thống nhất nhưng các tác giả đều định nghĩa thái độ trên cơ sơ chức năng của nó Đó là chức năng định hướng hành vi, thúc đẩy tăng cường tính sẵn sàng phản ứng của con người trước đối tượng
V.N Miaxisev cho rằng, thái độ là khía cạnh chủ quan bên trong có tính chọn lọc các mối liên hệ đa dạng ở con người với các khía khác nhau của hiện thực Hệ thống này diễn ra trong toàn bộ lịch sử phát triển của con người, biểu thị kinh nghiệm cá nhân và qui định nội hàm hành động cũng như các trải nghiệm của họ Khái niệm thái độ là khía cạnh tiềm năng của các quá trình tâm
lý, liên quan đến tính tích cực chủ quan của nhân cách (1-tr.280) Nói cách khác thái độ là điều kiện khái quát bên trong của hệ thống hành vi con người
B.Ph Lomov định nghĩa thái độ (thái độ chủ quan của nhân cách) là
“tâm thế xã hội là một dạng tâm thế được xem như một yếu tố hình thành hành vi xã hội của nhân cách, xuất hiện dưới dạng các quan hệ của nhân cách với các điều kiện hoạt động của nó và của những người khác (1-tr.280)
K.K Platonov thì lại cho rằng “Thái độ là một cấu thành tích cực của
ý thức cá nhân và là mối liên hệ ngược của chủ thể với thế giới, được phản ánh và được khách thể hoá trong tâm vận động”, nói cách khác thái độ có ý thức
Có thể nói, thái độ được các nhà nghiên cứu định nghĩa rất khác nhau, nếu các nhà tâm lý học phương Tây đều có nhận định chung về nội hàm của khái niệm thái độ đó là: tính sẵn sàng phản ứng, tính gây tác động đến hành
vi, nhưng các nghiên cứu còn mang tính chất mô tả chưa vạch ra được bản chất của thái độ là gì Thì các nhà tâm lý học Xô Viết thì đều có chung khẳng định thái độ là sự phản ánh ý thức, là thuộc tính cốt lõi của nhân cách
và là một yếu tố định hướng cho hành vi xã hội của con người
Trang 22Từ việc tham khảo công trình nghiên cứu của nhiều tác giả khác nhau
chúng tôi hiểu: Thái độ là một thuộc tính cốt lõi của nhân cách biểu hiện phản ứng mang tính chủ thể trước những tác động của hiện thực khách quan, được hình thành trên cơ sở các mối quan hệ xã hội mà chủ thể tham gia vào thông qua hoạt động và giao lưu của mình
1.2.1.2 Đặc điểm thái độ
a.Tính đối tượng của thái độ
Thái độ bao giờ cũng là thái độ đối với một cái gì đó (đó có thể là hiện tượng tự nhiên nào đó hay hành vi của một con người cụ thể…) liên quan tới sự đánh giá của cá nhân đối với sự vật hiên tượng hay người khác
có liên quan với mình Chính đối tượng này ảnh hưởng tới nội dung của thái
độ và qui định hình thức mức độ biểu hiện thái độ của con người với đối tượng đó
b.Tính xu hướng của thái độ
Trong giai đoạn đầu của sự hình thành và phát triển tâm lý người, thái
độ đang được hình thành bị chi phối và thể hiện rõ nhất ở mặt tình cảm Con người thể hiện thái độ đối với đối tượng theo xu hướng đối tượng đó gây ra cảm xúc âm tính hay dương tính đối với họ Nhưng ngay cả khi thái độ của con người mang đậm nét lý tính hơn thì tình cảm (xu hướng tình cảm) đối với đối tượng vẫn không mất đi Tuy nhiên, sự biểu hiện của tình cảm trong các tình huống cụ thể không phải lúc nào cũng nhất nhất như nhau mà có thể gia tăng hay giảm đột ngột phụ thuộc vào sự tham gia của lý trí
c.Tính phức tạp của thái độ
Thái độ chủ quan của cá nhân phản ứng lập trường của cá nhân với hiện thực khác quan; nhưng khi có sự thay đổi vị trí khách quan của mỗi cá nhân trong xã hội đòi hỏi phải có sự đổi mới thái độ chủ quan Sự khủng hoảng tâm lý lứa tuổi chính là minh chứng cho sự thay đổi thái độ chủ quan
Trang 23của cá nhân tương ứng với sự thay đổi vị thế của nó Trong trường hợp không có sự thay đổi thái độ chủ quan khi đã có sự thay đổi vị trí khách quan của cá nhân thì rất có thể nảy sinh trở ngại trong việc làm chủ các chức năng xã hội, xảy ra xung đột với những người xung quanh và xung đột nội tâm
Mặt khác thái độ chủ quan chính là mối quan hệ phụ thuộc đan xen gữa ba thành tố cấu thành (nhận thức, xúc cảm - tình cảm, hành vi), tại một thời điểm cụ thể các thành phần trên không nhất thiết phải hiện diện một cách đồng bộ mà có thể xảy ra sự không trùng khớp giữa chúng Nhưng, thái độ xã hội nói chung lại là sự thông nhất của ba yếu tố cấu thành gây tác động định hướng và điều chỉnh hành vi
d Tính chất hai cực của thái độ
Thái độ của con người với đối tượng không phải là nhất thành bất biến mà nó có thể biểu thể hiện ở tính chất hai cực Con người có thể có thái
độ âm tính và thái độ dương tính với cùng một đối tượng ở hai thời điểm khác nhau Ví dụ tại thời điểm mới biết về nghề GVGĐ tại Đài Loan do thiếu hiểu biết về nghề người lo động có thái độ rất tiêu cực với nghề (coi đó
là công việc hầu hạ người khác chứ chẳng phải là nghề) nhưng sau một thời gian làm việc, NLĐ không chỉ nhân thức về nghề của mình rõ ràng hơn mà tình cảm và hành động đối với nghề dần dần thay đổi theo chiều hướng ngày một tích cực
1.2.1.3 Cấu trúc của thái độ
Mặc dù có nhiều cách hiểu, cách định nghĩa khác nhau về thái độ, nhưng hầu hết các nhà tâm lý đều nhất trí với quan điểm cấu trúc 3 thành phần của thái độ do M Smith đưa ra năm 1942 “Về cấu trúc của thái độ bao gồm cả 3 mặt: nhận thức - xúc cảm, tình cảm - hành vi”
a.Nhận thức
Trang 24Muốn có thái độ với một sự vật, hiện tượng nào đó, trước tiên con người phải nhận thức được chúng (có tri thức về chúng) Tri thức này có thể được phân biệt theo khối lượng và mức độ trung thực đối với sự vật hiên tượng
Nhận thức là quá trình lĩnh hội kinh nghiệm xã hội loài người, tuy nhiên đó không chỉ là quá trình tiếp nhận mà còn là quá trình nhận biết, khám phá bản chất của vấn đề Nhận thức chính là sự hiểu biết của cá nhân
về đối tượng cho dù sự hiểu biết đó là đúng hay sai, có tương ứng hay không Điều đó có nghĩa là khi một sự vật, hịên tượng, hay một cá nhân tác động đến chúng ta, để có một thái độ nhất định về đối tượng thì chúng ta cần phải hiểu biết về đối tượng đó Chính quá trình tìm tòi khám phá đối tượng
là cơ sở để chúng ta xác định thái độ của mình về đối tượng Chính vì vậy, nhận thức là thành phần không thể thiếu, là cơ sở cho việc hình thành thái
độ
b.Xúc cảm- tình cảm
Các kiến thức về sự vật, hiện tượng không phải là yếu tố duy nhất quyết định đến sự hình thành thái độ yếu tố xúc cảm - tình cảm cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành thái độ của con người Thái độ biểu hiện qua mặt xúc cảm - tình cảm với đối tượng thể hiện sự đánh giá tốt xấu của chủ thể đối với đối tượng Khi chủ thể có xúc cảm - tình cảm dương tính đối với đối tượng thì sẽ hình thành nên thái độ ổn định bền vững đối với chúng Ngược lại, chủ thể có xúc cảm - tình cảm không tốt về sự vật, hiện tượng, con người thì sẽ tạo ra thái độ kém bền vững đối với chúng
Trang 25cạnh khác nhau của các quan hệ xã hội mà ở đó các cá nhân sống và phát triển Sự phản ánh những quan hệ này trong ý thức cá nhân là yếu tố quyết định sự hình thành thái độ Ngược lại khi thái độ đã trở thành động cơ của hoạt động thì thái độ sẽ qui định phương hướng hành động
Ba thành phần này có quan hệ chặt chẽ với nhau, sự thống nhất giữa chúng tạo nên một thái độ xác định của chủ thể Tuy vậy, tỉ lệ giữa các thành phần trong thái độ có sự khác nhau tuỳ từng tình huống cụ thể Thái độ được thể hiện dưới nhiều hình thức và mức độ khác nhau, ảnh hưởng đến tất cả các thuộc tính khác của nhân cách, nhưng việc các cá nhân tỏ thái độ với hiện thực chính là phản ứng trở lại hiện thực, tác động vào hiện thực khách quan để cải tạo nó theo mục đích, nhu cầu của cá nhân và xã hội
1.2.1.4 Chức năng của thái độ
Các nhà tâm lý đã nghiên cứu và thống nhất thái độ của những chức năng cơ bản sau:
a Chức năng thích nghi
Trong quá trình sống, chúng ta tham gia vào các nhóm nhất định, lúc nhỏ là lớp học, lớn lên là tổ xản suất… việc tham gia các nhóm làm cho chúng ta có sức mạnh của nhóm đó, nhưng ngược lại áp lực của các nhóm lên từng cá nhân là rất lớn Trong trường hợp cá nhân ý thức được rằng việc thực hiện hành động sẽ hình thành ở những người xung quanh và bản thân những đánh giá mới về bản thân mình như : một người con có hiếu, một người bạn tốt, một công dân gương mẫu, một nhân viên có trách nhiệm…
Nhận thức
Trang 26lúc đó họ hành động theo chuẩn mực “phải” hơn là theo “mong muốn” Việc các cá nhân ý thức được áp lực của nhóm lên hành động của mình và làm theo làm cho hành động của họ dễ được xã hội chấp nhận hơn
b Chức năng tiết kiệm trí lực
Trong những tình huống cụ thể mỗi người thường xây dựng cho mình một khuôn mẫu hành vi quen thuộc, nhờ các khuôn mẫu này được hình thành mà các cá nhân biết cách phải ứng xử như thế nào trong các tình huống khác nhau một cách đơn giản tiết kiệm sức lực và năng lực thần kinh cơ bắp Thái độ với đối tượng càng rõ ràng thì xu hướng hành động càng xác định, chính vì chức năng này mà các nhà tâm lý học Phương Tây thường qui thái độ của con người về các mẫu hành vi điển hình, nói một cách khác nhìn vào các mẫu hành vi người ta có thể dự báo hành động của con người theo các hướng nhất định
c Chức năng thể hiện giá trị
Thái độ chính là phương tiện giúp con người biểu hiện cảm xúc, giải toả các ức chế nội tâm và thể hiện giá trị nhân cách của mình
e Chức năng điều chỉnh hành vi
Đây là chức năng quan trọng được các nhà nghiên cứu quan tâm hơn
cả vì nó hướng tới mối quan hệ giữa thái độ và hành vi cá nhân Hình thành thái độ là tạo ra trạng thái sẵn sàng phản ứng theo một xu hướng xác định
Trang 27với đối tượng, thái độ bảo đảm sự tham gia của các cá nhân vào cuộc sống
xã hội, qui định phương thức hành động và mối quan hệ của cá nhân với người khác và do đó nó quyết định tính chất và mức độ tham gia của họ vào
xã hội Vì thế hành động của con người có thể được hiểu là kết quả của việc hình thành thái độ của họ
B.Ph Lomov cho rằng: có thể ở một mức độ nào đó thái độ thể hiện các chức năng trên Nhưng điều cơ bản theo Ông lại là vấn đề khác, thái độ đảm bảo sự tham gia của cá nhân vào cuộc sống xã hội, qui định phương pháp hành động và mối quan hệ giữa cá nhân và người khác và do đó qui định tính chất và mức độ tham gia của họ vào sự phát triển quan hệ xã hội mới là chức năng quan trọng nhất của thái độ
1.2.1.5 Cơ chế hình thành thái độ
M Vorwerg và H Hiebsch (hai nhà tâm lý học người Đức) cho rằng thái độ được hình thành qua 4 cơ chế tâm lý xã hội khác nhau, đó là: bắt chước, đồng nhất hoá, giảng dạy và chỉ dẫn
a Cơ chế bắt chước
Đó là sự hình thành thái độ bằng con đường tự phát Con người học các phương thức thực hiện hành vi hoặc phản ứng mà không cần sử dụng các kỹ thuật giáo dục đặc biệt nào mà chỉ cần làm theo người khác
b Cơ chế đồng nhất hoá
Đó là sự bất chước một cách tự giác có ý thức Đồng nhất hoá là quá trình chủ thể thống nhất bản thân mình với các cá nhân khác của nhóm này hay nhóm khác dựa trên mối liên hệ cảm xúc và đồng thời chuyển những chuẩn mực, giá trị vào thế giới nội tâm của mình Chúng ta có thể nhận thấy điều này trong sự bắt chước công khai các hình mẫu
c Cơ chế giảng dạy
Trang 28Là một hình thức hình thành thái độ trong đó cá nhân được người khác tác động đến một cách chủ động, có mục đích một cách trực tiếp thông báo, truyền thụ tất cả những gì cần thiết Giảng dạy là một cách đặc biệt của truyền đạt thông tin
1.2.1.6 Thang đo thái độ
Thông qua những nghiên cứu về thái độ những nhà tâm lý học đã đề xuất những thang đo thái độ để ứng dụng vào cuộc sống
Nhà tâm lý học người Đức H Benesch đã đề xuất một thang đo thái
độ gồm 4 yếu tố, ông gọi đây là sơ đồ đo thái độ:
Trang 29+ Mức độ: Cao hay thấp, nhiều hay ít, thường xuyên hay không thường xuyên
+ Cường độ: Mạnh hay yếu, tích cực hay không tích cực, chủ động hay bị động…
+ Ý nghĩa: Thái độ bộc lộ ra bên ngoài có giá trị như thế nào đối với đối tượng hay sự việc mà cá nhân đó thể hiện
Như vậy trong mỗi một thang đo thái độ thì phải bao hàm cả 4 yếu tố: hướng, mức độ, cường độ, ý nghĩa, các yếu tố này không chỉ có mối liên hệ biện chứng với nhau mà còn có vai trò tương đương nhau trong việc chỉ ra tính chất của thái độ
Theo V.N.Miaxisev để nghiên cứu thái độ chủ quan của nhân cách, người ta tính đến 11 thông số (hay còn gọi là chiều đo) bao gồm 2 cấp độ với các chỉ báo khác nhau
- Cấp độ thứ nhất bao gồm các chỉ báo sau: tính tình thái của thái độ;
cường độ;độ rộng; tính bền vững
- Cấp độ thứ 2 là cấp độ dẫn xuất thể hiện hàng loạt các đặc điểm về
chất của thái độ thể hiện, gồm các chỉ số sau: tính chi phối; tính hài hoà; tính cảm xúc; mức độ khái quát; tính nguyên tắc; mức độ tích cực; mức độ ý
thức; tính chi phối
1.2.1.7 Sự thay đổi thái độ
a Sự thay đổi thái độ
- “Là một trong số các hiện tượng tâm lý, phản ánh hiện thực khách quan, thái độ là một thuộc tính của nhân cách, một thành tố tích cực của ý thức cá nhân, là mối quan hệ chủ quan với thế giới được phản ánh và được khách quan hoá bởi tâm vận động của con người” (1-tr.254) Như các thuộc tính của nhân cách khác thái độ có tính ổn định, tuy nhiên cơ sở khoa học của thái độ chủ quan của cá nhân được xác định là các quan hệ xã hội, trong
Trang 30đó quan hệ kinh tế (quan hệ sở hữu các phương tiện sản xuất, các quan hệ được hình thành khách quan trong quá trình phát triển sản xuất và lưu thông, tiêu dùng) có vai trò quyết định Ngoài ra, trong quá trình phát triển và hoàn thiện nhân cách, ở cá nhân hình thành thái độ cụ thể với từng lĩnh vực khác nhau của đời sống Mặt khác, do sống trong cộng đồng (nhóm, gia đình, nhà trường…) nên các cá nhân sẽ có thái độ với nhóm mà mình tham gia, với người khác, với nhóm khác Do vậy tính chất động thái của thái độ chủ quan phụ thuộc vào vị trí (lập trường) mà nó chiếm chỗ trong hệ thống các quan
hệ xã hội và sự phát triển của nó trong hệ thống đó
Mặt khác do được hình thành thông qua hoạt động và giao tiếp của mỗi người cho nên khi tính chất của hoạt động và giao tiếp biến đổi sẽ kéo theo sự biến đổi thái độ Tuy nhiên, không phải bất cứ hành động, giao tiếp dưới bất cứ hình thức nào khi thay đổi thì cũng dẫn đến sự thay đổi thái độ của cá nhân mà chỉ những hành động đảm bảo sự phát triển của cuộc sống
cá nhân trong xã hội và được chính chủ thể phản ánh trong ý thức Còn giao tiếp thì có vai trò quan trọng hơn bất cứ hoạt động nào khác đối với sự hình thành và phát triển thái độ chủ quan của cá nhân, chính sự thay đổi của giao tiếp sẽ là yếu tố quan trọng trong việc thay đổi tính chất các chỉ báo về thái
độ Khi phân tích vai trò của hoạt động và giao tiếp trong quá trình hình thành thái độ của cá nhân B.Ph Lomov cho rằng có xảy ra mâu thuẫn giữa hoạt động và giao tiếp, nhưng chính việc giải quyết mâu thuẫn này đảm bảo
cá nhân chuyển từ pha này sang pha khác, thời kỳ này sang thời kỳ khác, phương pháp giải quyết có thể rất khác nhau và ảnh hưởng đến chiều hướng thay đổi của thái độ, nhưng thái độ chủ quan của cá nhân khi chuyển sang giai đoạn mới bao giờ cũng được hình thành dựa trên thái độ có sẵn
Thái độ của một cá nhân đối với một đối tượng cụ thể nào đó trong một khoảng thời gian nhất định thể hiện qua ba thành tố (nhận thức, xúc cảm
Trang 31- tình cảm và hành vi), tuy nhiên các thành tố trên không nhất thiết là phải hiện diện mọi lúc một cách đồng bộ, giữa chúng có thể có sự không trùng khớp dù nhận thức đúng về đối tượng nhưng không nhất thiết tình cảm với đối tượng phải ở mức độ tích cực, nhưng thái độ nói chung là sự thống nhất của ba yếu tố cấu thành, sự thay đổi của một thành tố nào đó sẽ tác động đến các thành tố còn lại và khi phát triển đến một mức độ nào đó sẽ làm thay đổi thái độ của cá nhân theo các chiều hướng khác nhau
Vì vậy, hoàn toàn có thể thay đổi thái độ của cá nhân đối với một vấn
đề nào đó thông qua việc lôi cuốn họ vào các mối quan hệ xã hội Qua hoạt động, giao tiếp của mình các cá nhân tự điều chỉnh thái độ, xúc cảm - tình cảm và hành vi một cách phù hợp
b Các điều kiện để thay đổi thái độ
Các nhà tâm lý học không những đã chỉ ra rằng thái độ có thể thay đổi
mà còn chỉ ra chúng ta có thể tác động đến sự thay đổi thái độ theo các mục đích khác nhau một cách có ý thức Thông qua việc tổ chức các điều kiện xã hội, môi trường một cách có chủ định để hoạt động và giao tiếp mà các cá nhân tham gia thể hiện như là phương pháp lôi cuốn cá nhân vào các mối quan hệ xã hội phát triển một cách khách quan Tuy nhiên, không phải cứ hoạt động và giao tiếp dưới bất cứ hình thức nào cũng dẫn tới hình thành thái độ chủ quan như mong muốn Vấn đề là phải tổ chức hoạt động và môi trường giao tiếp sao cho các cá nhân có thể tiến hành hoạt động bộc lộ khía cạnh này hay khía cạnh khác của các quan hệ xã hội, đảm bảo sự phát triển cuộc sống của cá nhân trong các mối quan hệ đó và sự phản ánh của chúng trong ý thức của các nhân Các điều kiện cơ bản để tổ chức các tác động làm thay đổi thái độ của con người là:
- Thứ nhất, để thay đổi thái độ của các cá nhân cần phải để cho họ ý thức được xu hướng và nội dung và ý nghĩa của sự thay đổi đó đối với bản
Trang 32thân Một thực nghiệm gần đây đã chứng minh cho quan điểm này, các nhà nghiên cứu đã so sánh phản ứng (thái độ) của ba nhóm công nhân đối với sự thay đổi chu trình sản xuất ở một công ty sản xuất Pyjama nhỏ Công nhân ở nhóm 1 chỉ được giới thiệu rất ít thông tin về quy trình sản xuất mới, và kết quả đã được dự đoán trước: họ phản ứng đầy choáng váng với sự thay đổi chu trình xản suất, năng xuất giảm đột ngột Công nhân ở nhóm thứ 2 được giới thiệu chu trình sản xuất mới và có người trực tiếp dạy họ kỹ thuật đó, nhóm này kết quả như sau: tinh thần sản suất ở mức cao, năng xuất thời gian đầu có giảm sau đó trở về mức ban đầu Công nhân ở nhóm thứ 3, mỗi người công nhân trở thành một người vận hành chu trình sản xuất mới, họ được tham gia và góp ý kiến vào quy trình thay đổi và chính họ quyết định phương thức thay đổi cho dây truyền sản xuất Và kết quả thu được hoàn toàn đáng ngạc nhiên tinh thần giữ ở mức cao, năng xuất chỉ giảm sút một ngày, sau đó tăng dần và đạt ở mức cao ổn định (cao hơn 15% so với trước khi thay đổi)
- Thứ hai, Sự thay đổi thái độ cá nhân đối với đối tượng sẽ theo chiều hướng tích cực nếu như đối tượng mà con người có thái độ ngày càng phù hợp với nhu cầu động cơ của cá nhân
-Thứ ba, Sự thay đổi thái độ của cá nhân sẽ thuận lợi nếu như cá nhân
có nhiều thông tin hơn về đối tượng mà họ đang tỏ thái độ, đặc biệt nếu như các thông tin đó đáng tin cậy
- Thứ tư, Sự thay đổi thái độ sẽ ổn định hơn nếu các thông tin lĩnh hội
về đối tượng phù hợp và được thực tế khẳng định là đúng
Bên cạnh đó các nhà tâm lý còn chỉ ra rằng để thay đổi thái độ còn cần chú ý tới các yếu tố khác như quan hệ giữa các cá nhân trong nhóm, thái
độ đã hình thành với các thông tin cùng loại …
Trang 33c Cơ chế tâm lý của sự thay đổi thái độ
- Cơ chế tự cân bằng giữa các thành tố của thái độ
Các nhà tâm lý đã có rất nhiều nghiên cứu để tìm ra cơ chế của sự thay đổi thái độ và phần lớn họ đã dựa trên lý thuyết về sự tự cân bằng giữa các thành tố của thái độ Lý thuyết về sự tự cân bằng giữa các mặt của thái
độ được phát biểu như sau: động lực chính của sự thay đổi thái độ là những rung cảm tâm lý chủ quan không thoải mái xảy ra khi có sự mất cân bằng giữa các thành phần trong cấu trúc của thái độ Có nghĩa là một mặt nào đó của thái độ thay đổi hiển nhiên dẫn đến sự mất cân bằng vốn có giữa các mặt
đó, kết quả là làm mất đi sự ổn định của thái độ trước đó và một thái độ mới
sẽ xuất hiện Dựa trên cơ chế này có các lý thuyết sau:
+ Lý thuyết về sự cân bằng giữa các mặt cảm xúc - tình cảm và mặt nhận thức trong cấu trúc của thái độ Theo lý thuyết này sự mất cân bằng giữa hai mặt này có thể đưa đến trạng thái tâm lý âm tính Và bằng cách thay đổi trạng cảm xúc - tình cảm, hoặc là nhận thức hoặc là cả 2 sẽ thiết lập lại
sự thích ứng giữa chúng và loại bỏ được trạng thái này
+Lý thuyết về sự bất đồng nhận thức của Festinger Theo lý thuyết này thì nguyên nhân của sự thay đổi thái độ là sự không phù hợp giữa mặt nhân thức của thái độ và đối tượng Sự bất đồng nhận thức xuất hiện khi có những thông tin mới, tri thức mới mâu thuẫn với tri thức chúng ta vốn có về hiện thực khách quan Nói một cách khác sự bất đồng xuất hiện khi có sự phủ định lẫn nhau giữa các yếu tố trong nhận thức và tạo ra trạng thái không thoải mái, và con người ta có xu hướng loại trừ trạng thái này biểu hiện ở hành vi, niềm tin, quan điểm và trong quá trình lĩnh hội thông tin Sự bất đồng cũng có thể xuất hiện khi con người có một sức ép nào đó mà phải thực hiện hành động trái với quan điểm của mình Sự bất đồng càng lớn khi
mà các cá nhân ở trong bối cảnh số lượng người phủ định thông tin đó càng
Trang 34nhiều, đặc biệt nếu trong số người phủ định đó lại có những người có uy tín
và là thủ lĩnh Và để loại trừ trạng thái không thoải mái do các bất đồng thì các cá nhân hoặc là không thừa nhận thông tin trên vì nó mâu thuẫn với kinh nghiệm vốn có, hoặc là dần thay đổi nhận thức và thái độ vốn có với đối tượng hoặc là chấp nhận một phần nào đó của thông tin sao cho nó không quá mâu thuẫn với các kiến thức vốn có về đối tượng Từ các lý thuyết tự cân bằng trên chúng ta có thể hiểu rằng: thái độ không phải là một thuộc tính nhất thành bất biến của nhân cách Chính sự tương quan giữa các mặt của thái độ tạo ra sự cân bằng và chính chúng tạo ra sự mất cân bằng của thái độ
Do đó chúng ta hoàn toàn có thể tác động một cách có ý thức đến hệ thống thái độ có lợi cho các mục đích khác nhau: tạo ra sự bất đồng giữa các mặt của tâm thế bằng cách đưa ra các quan điểm mới, thông tin mới từ các nguồn
có uy tín, từ đó tạo ra sự bất đồng giữa cảm xúc và nhận thức và hậu quả của
sự bất đồng này là dẫn tới sự hình thành các quan điểm mới, mâu thuẫn mới làm yếu đi hệ thống thái độ đã tồn tại
- Sự phù hợp giữa nguồn thông tin và đối tượng của thái độ
+ Lý thuyết về sự phù hợp giữa nguồn thông tin và đối tượng của thái
độ do hai nhà tâm lý Mỹ là O.S.Good và Tanenbaum P.T đưa ra, theo hai Ông: “luôn có sự phù hợp giữa thái độ về nguồn thông tin và đối tượng Sự phù hợp này xuất hiện khi mà thái độ giữa nguồn thông tin và đối tượng có cùng dấu hiệu (+) hoặc (-) Sự bất đồng chỉ diễn ra khi thái độ về nguồn thông tin và đối tượng có dấu hiệu khác nhau” (2-tr.143) Khi sự bất đồng xuất hiện sẽ tạo ra các cảm xúc âm tính - trạng thái căng thẳng và khi đã đạt đến độ mạnh nhất định sẽ xuất hịên xu hướng thay đổi thái độ
-Sự tác động qua lại giữa các thuộc tính nhân cách
Trang 35Mặt khác, trên thực tế chúng ta thấy rằng các đặc điểm của nhân cách ảnh hưởng lớn đến sự thay đổi thái độ như: nhu cầu, đặc điểm hoạt động nhận thức, cá tính
+ Một số người ít có nhu cầu về nhận thức thế giới khách quan, không
có hứng thú lĩnh hội các tri thức mới thì mâu thuẫn trong hệ thống thái độ ít xuất hiện Một số khác nhu cầu về nhận thức rất lớn sự xuất hiện của các tri thức mới mâu thuẫn, đối lập hoặc không tương xứng với kiến thức đã tồn tại trong kinh nghiệm cá nhân là một trong những nguyên nhân dẫn tới sự thay đổi thái độ
+Những người có những phẩm chất sau dễ bị thuyết phục và thay đổi thái
độ
Có khả năng tưởng tượng phong phú, linh hoạt đối với các tác động mới Đánh giá thấp về bản thân, lo sợ sự đối xử không tốt từ người khác .Thích ứng nhanh dễ hoà đồng trong các nhóm xã hội, không thích xung đột đối đầu trong nhóm
.Những người ít giao tiếp, hoặc có quan niệm thù địch với các cái mới
ít thay đổi thái độ với đối tượng, bên cạnh đó những người có tính phê bình cao cũng là những người ít thay đổi thái độ
1.2.1.8 Mối quan hệ giữa khái niệm thái độ và một số khái niệm tâm lý khác
Như khẳng định ở trên, thái độ là một thuộc tính của nhân cách, do
đó, nó có mối quan hệ với các thành phần khác của nhân cách Trong khi đó, nhân cách là một hệ thống trọn vẹn, thống nhất của các thành phần thuộc tính… tham gia vào hệ thống đó, cho nên việc tách bạch rõ ràng khái niệm thái độ và các khái niệm khác trong nhân cách là không hề dễ dàng, song cần thiết phải làm dù là trên bình diện lý luận
a Mối quan hệ giữa khái niệm thái độ và khái niệm ý thức cá nhân
Trang 36Ý thức là hình thức phản ánh tâm lý cao nhất, đặc trưng nhất của loài người, là năng lực nhận thức cái phổ biến, cái bản chất trong hiện thực khách quan, do đó ý thức đồng thời là năng lực định hướng điều khiển hành
vi, thái độ và các mối quan hệ giữa con người với thế giới tự nhiên và xã hội một cách tự giác Trong khi đó, thái độ là một thành phần của ý thức, là một phương thức thể hiện tính tích cực của ý thức, và là mối liên hệ ngược trở lại của ý thức với hiện thực Do vậy, quan hệ giữa thái độ và ý thức là quan hệ giữa cái toàn bộ và cái cấu thành (bộ phận)
Mặc dù các nhà tâm lý đều khẳng định sự tồn tại của ý thức trong thái
độ chủ quan của nhân cách Tuy nhiên các nghiên cứu thực nghiệm để chứng minh cho vấn đề này còn chưa được triển khai, hoặc đã triển khai nhưng tính minh chứng còn chưa thuyết phục Do vậy mối quan hệ này cần được các nghiên cứu thực nghiệm tiếp tục khẳng định
b Mối quan hệ giữa khái niệm thái độ và khái niệm nhu cầu
Trước hết, chúng ta thấy ai cũng có nhu cầu về một đối tượng nhất định nào đó Bởi vì, nhu cầu là những đòi hỏi tất yếu mà con người thấy cần được thoả để tồn tại và phát triển trong những điều kiện lịch sử nhất định Hành động nào nếu không xuất phát từ cơ sở đầu tiên quan trọng là nhu cầu thì sẽ không thể có tính tích cực, nhu cầu chính là động lực thúc đẩy hành động Quá trình thoả mãn nhu cầu cũng chính là quá trình hình thành sự củng cố thái độ của cá nhân cũng như các thành phần của nó (như nhận thức, cảm xúc, cử chỉ, hành vi nhằm thoả mãn nhu cầu) Nhu cầu của con người
do xã hội qui định, do đó nó có tác dụng xác định xu hướng thái độ của cá nhân đối với hiện thực khách quan và với bản thân mình
Như vậy, thái độ xuất hiện trên cơ sở kinh nghiệm của cá nhân trong trường hợp có sự gặp gỡ giữa nhu cầu với đối tượng và điều kiện có thể thoả mãn nhu cầu Có thể nói rằng nhu cầu là nguồn gốc, cơ sở bên trong của thái
Trang 37độ, quá trình hiện thực hoá nhu cầu là quá trình hình thành nên thái độ Ngược lại, thái độ phản ánh tính chất, cường độ, mức độ thoả mãn và động thái của nhu cầu Do đó, có thể căn cứ vào biểu hiện của nhu cầu để dự báo thái độ của cá nhân và ngược lại
c Mối quan hệ giữa khái niệm thái độ và khái niệm hứng thú
“Hứng thú là thái độ đặc thù của cá nhân đối với đối tượng nào đó vì ý nghĩa của nó trong cuộc sống và sự hấp dẫn tình cảm của nó.” Như vậy, qua quá trình xác định đối tượng và nhận thức đối tượng, có thể phán xét thái độ của cá nhân với đối tượng Hứng thú càng ổn định mạnh mẽ thì thái độ càng được củng cố, sự ham muốn tác động đến đối tượng càng được tăng cường hơn
Đối tượng của hứng thú cuốn hút ý nghĩ, tình cảm và hoạt động của cá nhân, vì vậy khi biết cá nhân có hứng thú với đối tượng nào đó, ta cũng có thể biết thái độ của họ với đối tượng Nét cơ bản của hứng thú là làm nảy sinh khát vọng hoạt động, tạo nên sự say mê tích cực, tự giác trong quá trình hoạt động tăng hiệu quả của hoạt động nhận thức, tăng sự làm việc của cá nhân
Qua hứng thú, thái độ chủ quan của cá nhân được thể hiện, hứng thú của
cá nhân biểu hiện qua sự tập trung chú ý, quan tâm khi đối tượng xuất hiện Đối tượng thu hút toàn bộ sự chú ý của cá nhân Chính vì những đặc điểm đó hứng thú trở thành một chỉ báo quan trọng để đánh giá thái độ của cá nhân
d Mối quan hệ giữa khái niệm thái độ và khái niệm xúc cảm - tình cảm
“Xúc cảm - tình cảm là những rung cảm của cá nhân đối với các hiện tượng xảy ra trong thế giới khách quan hay trong cơ thể mỗi người, xúc cảm
- tình cảm có quan hệ mật thiết với việc thoả mãn hay không thoả mãn nhu cầu vật chất, tinh thần của mỗi người” (3-tr.23) Như vậy trong quá trình con
Trang 38người tiếp xúc với những đối tượng thoả mãn nhu cầu thì thái độ xúc cảm xuất hiện Thái độ biểu hiện qua mặt xúc cảm - tình cảm với đối tượng là sự thể hiện
sự đánh giá (tốt hay xấu) của chủ thể với đối tượng Khi chủ thể có xúc cảm - tình cảm dương tính đối với đối tượng thì sẽ hình thành nên thái độ bền vững với chúng Ngược lại, nếu chủ thể có xúc cảm - tình cảm không tốt với sự vật, hiện tượng, con người thì sẽ tạo ra thái độ không bền vững với chúng Do đó, qua biểu hiện của xúc cảm - tình cảm, có thể thu được những dữ liệu về tính chất và đặc điểm của thái độ chủ quan của cá nhân với hiện thực khách quan
e Mối quan hệ giữa khái niệm thái độ và khái niệm ý chí
Ý chí là mặt năng động của ý thức, biểu hiện ở năng lực thực hiện những hành động có mục đích, đòi hỏi phải có sự nỗ lực khắc phục trở ngại nhằm đạt được mục đích đã định, ý chí là hình thức tâm lý điều chỉnh hành vi tích cực nhất
Như vậy ý chí và thái độ cũng là thành phần của ý thức, cùng được biểu hiện qua hành động, nếu trong quá trình thực hiện hành động xuất hiện các khó khăn trở ngại, thái độ của mỗi cá nhân được thể hiện thì cũng trong quá trình đó các phẩm chất của ý chí như: tính mục đích, tính quyết đoán, tính độc lập được biểu hiện và phát triển Do đó, có thể coi ý chí là một chỉ báo quan trọng thể hiện thái độ
f Mối quan hệ giữa khái niệm thái độ và khái niệm định hướng giá trị
Trong các nghiên cứu về thái độ, có hai quan điểm xem xét về quan hệ giữa thái độ và định hướng giá trị W.I Thomas và F Znaniecki có quan điểm đồng nhất thái độ và định hướng giá trị, ví dụ: Môi trường sống xung quanh chúng ta luôn có những chỉ báo về những định hướng giá trị đang thịnh hành, và các chỉ báo đó càng nổi bật bao nhiêu thì ảnh hưởng của nó đến thái độ của mỗi cá nhân
Trang 39càng lớn bấy nhiêu Người ta dễ xả rác và đồng tình với việc xả rác bừa bãi nếu như họ sống trong môi trường bẩn thỉu, hay sự im lặng của mọi người trong thư viện khiến ta kiềm chế giọng nói của mình khi đang ngồi trong thư viện…
Tuy nhiên các nhà nghiên cứu cũng chỉ ra không phải thái độ của từng
cá nhân đều phản ánh định hướng giá trị xã hội
Trong cấu trúc hoạt động của cá nhân, định hướng giá trị tạo thành nội dung của xu hướng nhân cách, nó được hình thành thông qua quá trình xã hội hoá của mỗi cá nhân và được thể hiện qua mục đích lý tưởng niềm tin
Vì vậy, định hướng giá trị điều chỉnh hoạt động của con người ở mức độ rộng hơn thái độ, do đó, định hướng giá trị có thể được coi là cơ sở bên trong của thái độ cá nhân đối với hiện thực
g Mối quan hệ giữa khái niệm thái độ và khái niệm hành động
Tâm lý học hoạt động khẳng định hoạt động là yếu tố trực tiếp, quyết định sự hình thành nhân cách, qui định thái độ chủ quan của cá nhân với hiện thực khách quan Hoạt động có mục đích của con người bộc lộ các khía cạnh khác nhau của các quan hệ xã hội mà ở đó cá nhân sống và phát triển
Sự phản ánh này của những quan hệ trong ý thức cá nhân là yếu tố quyết định sự hình thành thái độ Mặt khác, hình thành thái độ là tạo ra trạng thái sẵn sàng phản ứng và hành động theo một hướng xác định với đối tượng, vì thế có thể hiểu hành động của con người cũng chính là kết quả của việc hình thành tâm thế của họ Hành vi là thước đo cơ bản của thái độ được biểu hiện
ở tần số và cường độ của chúng
- Phần đông mọi người đều cho rằng hành vi thể hiện thái độ, hay nói cách khác nhìn hành vi là biết thái độ Nhưng trong thực tế có rất nhiều tình huống không thể hiện điều đó thậm trí còn trái ngược, ví dụ: Có những sinh viên lên án việc thiếu trung thực trong thi cử, nhưng khi làm bài thì lại sẵn sàng quay cóp khi điều kiện cho phép, hoặc là việc người ta lên án phim bạo
Trang 40lực hay phim Sex, nhưng người ta vẫn xem các loại phim đó Vậy phải chăng Allan Wicher đã đúng khi kết luận rằng: thái độ của con người không
dự báo gì về hành vi của họ, vậy tại sao con người ta lại có những hành động ngược lại với thái độ của mình?
+ Khi các cá nhân ý thức được rằng hành động của mình có thể làm phương hại đến lợi ích của chính mình: ví dụ như họ không thích một vị lãnh đạo nào đó, nhưng lại không dám thể hiện bằng hành động vì sợ bị trù
úm Hoặc là khi cá nhân chịu sự áp lực của số đông, người ta sợ nếu thể hiện thái độ của riêng mình người ta sẽ bị lên án ví dụ người đó không thích người
da đen nhưng sợ bị coi là người phân biệt chủng tộc nên người đó không thể hiện một cách công khai thái độ của mình với người da đen
+ Khi con người ta có thái độ cụ thể cho một hành vi cụ thể nào đó, hoặc là khi hành động chúng ta ý thức được thái độ của mình lúc đó thái độ
và hành vi của chúng ta thống nhất với nhau Đặc biệt là thái độ của chúng
ta về vấn đề nào đó càng mạnh và cụ thể thì hành động của chúng ta sẽ theo hướng mà chúng ta xác định Tuy nhiên, trong thực tế cuộc sống chúng ta thấy rằng hành vi không phải là không có tác động lại thái độ ví dụ có không
ít những cặp vợ chống lấy nhau mà không có tình yêu, nhưng họ vẫn chung sống được bên nhau thậm chí còn hạnh phúc Tại sao việc hát Quốc ca, đọc lời thề hay truy điệu sống cho người chiến sĩ trước khi ra trận lại làm cho họ
có thể cảm tử, như vậy có nghĩa là hành vi có tác động lại thái độ, khi nào hành vi tác động lại thái độ?
+ Khi ở vị trí mới, xã hội đòi hỏi ở mỗi cá nhân thực hiện vai trò mới
và sự sắm vai này qui định nhiều đến thái độ của họ trong hoàn cảnh mới
+ Jonathan Freedman và Scott Fraster chỉ ra trong kỹ thuật lấy từng bước của mình là hãy đề nghị các cá nhân làm các việc nhỏ trước liên quan đến điều mà chúng ta muốn thay đổi