Thực hiện BHXH cho mọi người lao động nói chung và BHXH tự nguyện cho người dân nói riêng là vừa là mục tiêu, vừa là giải pháp tích cực để góp phần thực hiện công bằng xã hội trong hệ th
Trang 1Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn/
NGUYỄN PHƯƠNG KHÁNH
PHÁT TRIỂN BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN VÕ NHAI
TỈNH THÁI NGUYÊN
Chuyên ngành: Quản lý Kinh tế
Mã số: 60.34.04.10
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS VŨ VĂN HÓA
THÁI NGUYÊN - 2014
Trang 2Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn/
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là hoàn toàn trung thực và chưa hề được sử dụng để bảo vệ một học vị nào Mọi sự giúp đỡ cho việc hoàn thành luận văn đã được ghi trong lời cảm ơn Các thông tin, tài liệu trình bày trong luận văn đã được ghi rõ nguồn gốc
Thái Nguyên, ngày 05 tháng 05 năm 2014
Tác giả Luận văn
Nguyễn Phương Khánh
Trang 3Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn/
LỜI CÁM ƠN
Trong quá trình thực hiện đề tài “Phát triển Bảo hiểm xã hội tự nguyện trên
địa bàn huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên” Tôi đã nhận được rất nhiều sự hướng
dẫn, giúp đỡ, tạo điều kiện của các cá nhân và tập thể Tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành về sự giúp đỡ đó
Tôi xin bày tỏ sự cám ơn đối với Ban giám hiệu nhà trường, Phòng QLĐT Sau đại học và các thầy, cô giáo Trường Đại học Kinh tế và Quản trị Kinh doanh Thái Nguyên đã tạo mọi điều kiện, giúp đỡ tôi hoàn thành chương trình học tập và nghiên cứu
Có được kết quả này tôi vô cùng biết ơn và bày tỏ lòng kính trọng sâu sắc đối với GS.TS Vũ Văn Hóa, người thầy giáo đã trực tiếp hướng dẫn và chỉ bảo cho Tôi hoàn thành luận văn này
Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Bảo hiểm xã hội tỉnh Thái Nguyên, Phòng lao động huyện Võ Nhai, Phòng Thống kê huyện Võ Nhai, UBND các xã thuộc huyện Võ Nhai, các cán bộ và đại lý, cộng tác viên đã giúp đỡ tôi trong quá trình điều tra và thu thập số liệu Tôi xin cảm ơn Ban giám đốc, cán bộ nhân viên Bảo hiểm xã hội huyện Võ Nhai đã hướng dẫn và giải đáp những vấn đề thuộc chuyên môn để Tôi có cái nhìn toàn diện, sâu sắc hơn về vấn đề cần nghiên cứu
Tôi xin cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp và những người thân trong gia đình đã động viên, khích lệ, tạo điều kiện và giúp đỡ Tôi trong suốt quá trình thực hiện và hoàn thành luận văn này
Thái Nguyên, ngày 05 tháng 05 năm 2014
Tác giả Luận văn
Nguyễn Phương Khánh
Trang 4Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn/
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN i
LỜI CÁM ƠN ii
MỤC LỤC iii
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT vii
DANH MỤC CÁC BẢNG viii
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ ix
MỞ ĐẦU 1
1 Tính cấp thiết của đề tài 1
2 Mục tiêu nghiên cứu 2
3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2
4 Ý nghĩa khoa học của luận văn 3
5 Bố cục luận văn 3
Chương 1 TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI VÀ BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN 5
1.1 Khái quát về BHXH và BHXH tự nguyện, đối tượng tham gia BHXH và BHXH tự nguyện 5
1.1.1 Sự hình thành và phát triển của BHXH và BHXH tự nguyện 5
1.1.2 Đối tượng tham gia BHXH và BHXH tự nguyện 7
1.1.3 Nguyên tắc, mục đích, vai trò của BHXH tự nguyện 11
1.1.4 Ý nghĩa kinh tế - xã hội của BHXH tự nguyện 13
1.2 Thu BHXH tự nguyện và sử dụng Quĩ BHXH tự nguyện 15
1.2.1 Nguồn thu BHXH tự nguyện 15
1.2.2 Sử dụng Quĩ BHXH tự nguyện 16
1.2.3 Quản lý quĩ BHXH tự nguyện 20
1.3 Các nhân tố ảnh hưởng tới việc tổ chức thực hiện bảo hiểm xã hội đối với người lao động 22
1.3.1 Trình độ, nhận thức của người dân 22
Trang 5Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn/
1.3.2 Hệ thống luật pháp và chính sách về bảo hiểm xã hội 24
1.3.3 Thu nhập của người lao động 25
1.3.4 Thể chế tổ chức bộ máy và cán bộ 26
1.3.5 Hệ thống thông tin truyền thông 27
1.4 Kinh nghiệm về mở rộng BHXH tự nguyện ở một số nước trên thế giới và của một số tỉnh ở Việt Nam 28
1.4.1 Ở một số quốc gia trên thế giới 28
1.4.2 Một số mô hình BHXH tự nguyện ở Việt Nam 35
Chương 2 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 42
2.1 Câu hỏi nghiên cứu 42
2.2 Phương pháp nghiên cứu 42
2.2.1 Phương pháp thu thập thông tin 42
2.2.2 Phương pháp tổng hợp và phân tích thông tin 46
2.3 Hệ thống chỉ tiêu nghiên cứu 48
2.3.1 Mục tiêu, yêu cầu của hệ thống chỉ tiêu nghiên cứu 48
2.3.2 Tổng hợp lao động và số thu BHXH các năm 48
2.3.3 Tổng hợp chi BHXH các năm 49
Chương 3 THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN BHXH TỰ NGUYỆN TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN VÕ NHAI, TỈNH THÁI NGUYÊN 50 3.1 Đặc điểm kinh tế - xã hội huyện Võ Nhai 50
3.1.1 Điều kiện tự nhiên 50
3.1.2 Thực trạng kinh tế - xã hội 50
3.2 Thực trạng về thu BHXH và BHXH tự nguyện trên địa bàn huyện Võ Nhai 52 3.2.1 Đối tượng tham gia BHXH và BHXH tự nguyện 54
3.2.2 Tổng nguồn thu BHXH và BHXH tự nguyện 56
3.2.3 Tình hình sử dụng quỹ BHXH và BHXH tự nguyện 57
3.2.4 Các yếu tố ảnh hưởng tới việc phát triển BHXH tự nguyện trên địa bàn huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên 58
Trang 6Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn/
3.3 Đánh giá khái quát tình hình tham gia BHXH tự nguyện trên địa bàn
huyện Võ Nhai 87
3.3.1 Kết quả đạt được 87
3.3.2 Những thuận lợi và khó khăn trong quá trình thực hiện BHXH tự nguyện 89 Chương 4 MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN BHXH TỰ NGUYỆN TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN VÕ NHAI, TỈNH THÁI NGUYÊN 93 4.1 Định hướng phát triển kinh tế - xã hội của huyện Võ Nhai trong thời gian 2014 - 2020 93
4.1.1 Quan điểm phát triển 93
4.1.2 Mục tiêu tổng quát 93
4.1.3 Mục tiêu cụ thể 94
4.1.4 Phương hướng phát triển một số ngành, lĩnh vực 95
4.2 Một số giải pháp phát triển BHXH tự nguyện trên địa bàn huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên 97
4.2.1 Hoàn thiện các chính sách BHXH và xã hội hóa BHXH 97
4.2.2 Tuyên truyền và xây dựng mạng lưới vận động BHXH tự nguyện đến các cơ sở dân cư 99
4.2.3 Đa dạng hóa mức đóng góp BHXH tự nguyện phù hợp với mức thu nhập của dân cư trên địa bàn 104
4.2.4 Nâng cao chất lượng phục vụ của cơ quan BHXH đối với các đối tượng tham gia BHXH tự nguyện 105
4.2.5 Hoàn thiện phương thức chi trả BHXH tự nguyện, tạo điều kiện cho người hưởng và đảm bảo quyền lợi cho người dân 106
4.2.6 Nâng cao năng lực quản lý của đội ngũ cán bộ cán bộ BHXH 107
4.3 Một số kiến nghị 108
4.3.1 Đối với Quốc hội và Chính Phủ 108
4.3.2 Đối với BHXH Việt Nam 108
4.3.3 Đối với tỉnh Thái Nguyên 109
KẾT LUẬN 110
Trang 7Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn/
TÀI LIỆU THAM KHẢO 111 PHỤ LỤC 113
Trang 8Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn/
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
ASXH : An sinh xã hội
BHXH : Bảo hiểm xã hội
BHXH TN : Bảo hiểm xã hội tự nguyện
BHYT : Bảo hiểm y tế
Trang 9Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn/
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1 Tỷ lệ đóng BHXH tự nguyện được quy định qua các thời kỳ 15
Bảng 1.2 Kết quả thực hiện BHXH tự nguyện tại Nghệ An 38
Bảng 2.1 Một số đặc điểm cơ bản của chủ hộ phỏng vấn 45
Bảng 3.1 Nhân khẩu và lao động của huyện Võ Nhai năm 2012 52
Bảng 3.2 Số thu BHXH trên địa bàn huyện Võ Nhai (2008-2013) 54
Bảng 3.3 Số thu BHXH tự nguyện, số chi BHXH tự nguyện (2008-2013) 55
Bảng 3.4 Mức thu nhập hàng tháng làm căn cứ đóng BHXH tự nguyện 57
Bảng 3.5 Sự ảnh hưởng của thủ tục tham gia, thủ tục hưởng và kết quả thực hiện BHXH tự nguyện 61
Bảng 3.6 Ảnh hưởng của mức đóng, mức hưởng và kết quả thực hiện BHXH tự nguyện 64
Bảng 3.7 Ảnh hưởng của mức độ hiểu biết về chính sách BHXH tự nguyện và kết quả thực hiện BHXH tự nguyện 70
Bảng 3.8 Ảnh hưởng của công tác phục vụvà kết quả thực hiện BHXH tự nguyện 74
Bảng 3.9 Ảnh hưởng của thu nhập bình quân hàng tháng và quyết định tham gia BHXH tự nguyện 77
Bảng 3.10 Ảnh hưởng của mức độ ổn định về thu nhập hàng tháng của nông dân và quyết định tham gia BHXH tự nguyện 78
Bảng 3.11 Ảnh hưởng của trình độ học vấnvà quyết định tham gia BHXH TN 79
Bảng 3.12 Sự ảnh hưởng của độ tuổi đến quyết định tham gia BHXH tự nguyện của người dân 81
Bảng 3.13 Ảnh hưởng của quy mô sản xuấtvà quyết định tham gia BHXH tự nguyện 83 Bảng 3.14 Ảnh hưởng của nguồn thu nhập chính từ các ngành nghề của hộ điều tra và quyết định tham gia BHXH tự nguyện 85
Bảng 3.15 Đối tượng tham gia phân theo ngành, lĩnh vực 88
Trang 10Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn/
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.1: Tỷ lệ % số người tham gia BHXH/Số ngườichưa tham gia BHXH 55
Biểu đồ 3.2: Biểu đồ so sánh số người tham gia BHXH tự nguyệnvà BHXH bắt buộc từ năm 2008-2013 56
Biểu đồ 3.3: Tình hình tham gia BHXH tự nguyện của người được điều tra 58
Biểu đồ 3.4: Nhu cầu tham gia BHXH tự nguyện của người được điều tra 59
Biểu đồ 3.5: Ý kiến về thủ tục tham gia, thủ tục hưởng BHXH tự nguyện 61
Biểu đồ 3.6: Tổng hợp ý kiến về mức đóng BHXH tự nguyện 63
Biểu đồ 3.7: Tổng hợp ý kiến về mức hưởng 63
Biểu đồ 3.8: Tổng hợp về mức độ hiểu biết về chính sách BHXH tự nguyện 66
Biểu đồ 3.9: Nguồn thông tin về BHXH tự nguyện mà người dân có được 67
Biểu đồ 3.10: Ý kiến của người dân về các hình thức thông tin phù hợp 68
Biểu đồ 3.11: Tổng hợp ý kiến về công tác phục vụ 72
Biểu đồ 3.12: Tổng hợp thu nhập hàng tháng của người được điều tra 75
Biểu đồ 3.13: Tổng hợp mức độ ổn định về thu nhập hàng tháng 76
Biểu đồ 3.14: Trình độ học vấn của chủ hộ 79
Biểu đồ 3.15: Biểu đồ phân loại theo độ tuổi 81
Biểu đồ 3.16: Quy mô sản xuất của các hộ điều tra 83
Biểu đồ 3.17: Thống kê nguồn thu nhập chính của hộ điều tra 85
Trang 11Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn/
MỞ ĐẦU
1 Tính cấp thiết của đề tài
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước Việt Nam thời gian qua đã mang lại những thành tựu to lớn đối với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước Tuy nhiên, cuộc sống của người dân vẫn còn gặp nhiều khó khăn đặc biệt là dân cư khu vực nông thôn, miền núi: thu nhập thấp, việc làm không ổn định, hoạt động sản xuất phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên, chịu nhiều rủi ro do thiên tai Bảo hiểm xã hội (BHXH) là một trong những chính sách an sinh xã hội của Đảng và Nhà nước ta Tại kỳ họp thứ IX Quốc hội khoá XI đã thông qua luật Bảo hiểm xã hội có hiệu lực thi hành từ 01/01/2007 BHXH tự nguyện là một phần của luật BHXH có hiệu lực thi hành từ 01/01/2008 Sau hơn 5 năm thực hiện, đối tượng tham gia BHXH tự nguyện còn ít, mới có khoảng 150.000 lao động, chiếm 0,57% số lao động thuộc đối tượng tham gia BHXH tự nguyện, đặc biệt là đối với những vùng khó khăn, dân số chủ yếu làm nông nghiệp, mức sống thấp
Tỉnh Thái Nguyên, là trung tâm chính trị, kinh tế của khu Việt Bắc nói riêng, của vùng trung du miền núi đông bắc nói chung, là cửa ngõ giao lưu kinh tế xã hội giữa vùng trung du miền núi với vùng đồng bằng Bắc Bộ Địa hình Thái Nguyên có nhiều rừng núi cao với nhiều dân tộc sinh sống trên địa bàn Trong những năm qua, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, Thái Nguyên đã đạt được nhiều thành tựu, kinh tế phát triển nhưng còn chưa đồng đều, một số vùng núi cao còn gặp nhiều khó khăn, người dân có thu nhập còn thấp Việc thực hiện BHXH cho người lao động trên địa bàn còn nhiều khó khăn, đặc biệt là phát triển BHXH tự nguyện
Huyện Võ Nhai là một huyện miền núi phía đông bắc của tỉnh Thái Nguyên, có diện tích lớn nhất và mật độ dân số thấp nhất tỉnh Là một huyện miền núi còn gặp nhiều khó khăn, việc phát triển kinh tế, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân được Đảng, Nhà nước và chính quyền địa phương hết sức quan tâm Thực hiện BHXH cho mọi người lao động nói chung và BHXH tự nguyện cho người dân nói riêng là vừa
là mục tiêu, vừa là giải pháp tích cực để góp phần thực hiện công bằng xã hội trong hệ thống các chính sách an sinh xã hội, đảm bảo cho mọi người dân đều được tham gia và
Trang 12Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn/
hưởng các chế độ BHXH theo quy định của pháp luật
Số đối tượng tham gia BHXH trên địa bàn huyện Võ Nhai qua các năm có sự tăng lên đáng kể Tuy nhiên, số đối tượng này chủ yếu thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc Số đối tượng còn lại thuộc đối tượng tham gia BHXH tự nguyện còn rất ít Để có thể làm tốt hơn công tác BHXH tự nguyện, góp phần đảm bảo an sinh
xã hội trên địa bàn huyện, đồng thời làm tăng độ bao phủ BHXH, nghĩa là mọi người đều được tham gia và hưởng các chế độ BHXH Nhìn nhận lại, bên cạnh tính
ưu việt của việc thực hiện chính sách BHXH trên địa bàn huyện, cũng đã bộc lộ một
số hạn chế như tỉ lệ tham gia BHXH bắt buộc chiếm tỉ lệ cao, trong khi số đối tượng thuộc diện tham gia BHXH tự nguyện lại thấp Xuất phát từ thực tế đó, tôi lựa chọn
đề tài “Phát triển Bảo hiểm xã hội tự nguyện trên địa bàn huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên” nhằm đưa ra những giải pháp tích cực và phù hợp để tăng cường
BHXH tự nguyện cho người dân
2 Mục tiêu nghiên cứu
2.1 Mục tiêu chung
Đề tài nghiên cứu các giải pháp phát triển BHXH tự nguyện của người dân trên địa bàn huyện Võ Nhai, đáp ứng mục tiêu an sinh xã hội do Đảng và Nhà nước đặt ra
3 Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Tình hình triển khai thực hiện BHXH tự nguyện tại
huyện Võ Nhai; một số yếu tố liên quan đến việc đóng BHXH tự nguyện
* Phạm vi nghiên cứu:
Trang 13Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn/
- Phạm vi về thời gian: Số liệu phục vụ phân tích đánh giá thực trạng trong
thời kỳ 2008-2013 và số liệu điều tra thực tế năm 2014
- Phạm vi về không gian: Đề tài được thực hiện ở huyện Võ Nhai
4 Ý nghĩa khoa học của luận văn
Đề tài “Phát triển Bảo hiểm xã hội tự nguyện trên địa bàn huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên’’ là một đề tài còn mới, chưa có đề tài nghiên cứu về lĩnh vực
BHXH cụ thể trên địa bàn huyện Võ Nhai
Với đề tài này hướng nghiên cứu của tôi chủ yếu tập trung vào đối tượng tham gia BHXH tự nguyện nhân dân khu vực nông, lâm, ngư nghiệp và làm rõ việc tại sao tỷ lệ người tham gia BHXH tự nguyện nhân dân trên địa bàn huyện Võ Nhai lại thấp Căn cứ vào kết quả nghiên cứu đề tài để đề xuất một số giải pháp phát triển đối tượng, nâng cao tỷ lệ người tham gia với mục tiêu đảm bảo an sinh xã hội tốt hơn cho người dân, đây cũng là một trong những chính sách an sinh xã hội của Đảng và Nhà nước
Kết quả nghiên cứu của đề tài, là tài liệu tham khảo cho chương trình giảng dạy bậc Đại học và Cao học trong chuyên ngành Quản lý kinh tế Đồng thời, kết quả nghiên cứu còn là cơ sở để các nhà hoạch định chính sách tham khảo để đề ra các chính sách cho phù hợp với điều kiện thực tế
Chương 3: Thực trạng phát triển bảo hiểm xã hội tự nguyện trên địa bàn
huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên
Trang 14Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn/
Chương 4: Một số giải pháp phát triển bảo hiểm xã hội tự nguyện trên địa
bàn huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên
Trang 15Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn/
Chương 1 TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI
VÀ BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN
1.1 Khái quát về BHXH và BHXH tự nguyện, đối tượng tham gia BHXH và BHXH tự nguyện
1.1.1 Sự hình thành và phát triển của BHXH và BHXH tự nguyện
Bảo hiểm xã hội đã hình thành và phát triển từ rất lâu trên thế giới Ngay từ đầu nó đã xuất hiện dưới loại hình BHXH tự nguyện Tuy nhiên, để có một định nghĩa thống nhất về BHXH hay BHXH tự nguyện ở trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng là vẫn chưa có
Để có thể hiểu một cách khái quát cũng như đưa ra được khái niệm về
BHXH tự nguyện, ta sẽ bắt đầu đi từ khái niệm cơ bản về BHXH Theo đó, “BHXH
là sự tổ chức bảo đảm bù đắp hoặc thay thế một phần thu nhập cho người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập từ nghề nghiệp do bị giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc sức lao động không được sử dụng, thông qua việc hình thành và sử dụng một quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia BHXH và các nguồn thu hợp pháp khác, nhằm góp phần đảm bảo an toàn kinh tế cho người lao động và gia đình họ; đồng thời góp phần bảo đảm an toàn xã hội”
- Việc tiếp cận khái niệm trên từ các góc độ khác, cũng có thể đưa ra nhiều khái niệm khác nhau về BHXH như:
Ở góc độ pháp luật, BHXH là một chế độ pháp định bảo vệ người lao động,
sử dụng tiền đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động, người lao động
và được sự tài trợ, bảo hộ của Nhà nước, nhằm trợ cấp vật chất cho người được bảo hiểm và gia đình trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập bình thường do ốm đau, tai nạn lao động, thai sản, hết tuổi lao động theo quy định của pháp luật (hưu) hoặc chết
Ở góc độ tài chính, BHXH là việc chia sẻ rủi ro và tài chính giữa những người tham gia bảo hiểm theo quy định của pháp luật
Trang 16Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn/
Ở góc độ chính sách xã hội, BHXH là một chính sách xã hội nhằm đảm bảo đời sống vật chất cho người lao động khi họ không may gặp phải các “rủi ro xã hội”, nhằm góp phần đảm bảo an toàn xã hội…
- Bản chất BHXH là một phương thức phân phối lại thu nhập giữa những người lao động trong xã hội có tham gia BHXH, nhằm góp phần cân bằng thu nhập của họ khi bị mất hoặc giảm trong hoạt động nghề nghiệp (do gặp rủi ro xã hội) nhờ một khoản trợ cấp từ quỹ BHXH Nội dung của BHXH được thể hiện thông qua hệ thống các chế độ BHXH được pháp luật quy định
Có thể hiểu theo nghĩa chung nhất, thì BHXH là quá trình tổ chức sử dụng, phân phối thu nhập cá nhân và tổng sản phẩm quốc nội để hình thành một quỹ tiền
tệ tập trung nhằm mục đích đảm bảo ổn định đời sống kinh tế cho người lao động
và gia đình họ khi bị mất hoặc giảm khả năng lao động dẫn đến mất hoặc giảm thu nhập cá nhân đó gặp phải rủi ro xã hội
Từ cách tiếp cận về khái niệm BHXH như trên, có thể hiểu BHXH tự nguyện
như sau: “BHXH tự nguyện là một loại hình BHXH do Nhà nước xây dựng mô hình
và quản lý, để vận động, khuyến khích người lao động và người sử dụng lao động tự nguyện tham gia; nhằm góp phần bù đắp một phần thu nhập cho người lao động và gia đình họ, khi họ bị giảm hoặc mất nguồn thu nhập, do gặp phải những rủi ro xã hội, như ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, tuổi già, tử tuất ; đồng thời góp phần đảm bảo công bằng và an sinh xã hội”
Thực chất, BHXH tự nguyện là hình thức BHXH mà người lao động và người sử dụng lao động hoàn toàn tự nguyện tham gia, không có tác động khách quan áp đặt, không bị pháp luật cưỡng chế phải tham gia Ở đó, họ được lựa chọn mức đóng và phương thức đóng phù hợp với thu nhập của mình để hưởng bảo hiểm
xã hội Có thể nói, BHXH tự nguyện là loại hình BHXH nhằm bao phủ hết các đối tượng còn chưa được tham gia loại hình BHXH bắt buộc của người lao động theo pháp luật, đồng thời là cầu nối trung gian, là bước quá độ tiến tới thực hiện BHXH cho mọi người lao động trong xã hội, đảm bảo an sinh xã hội
Với bản chất như trên, BHXH tự nguyện chỉ có thể được hình thành và thực hiện trên cơ sở: người lao động và có thể cả người sử dụng lao động tự nguyện tham gia với điều kiện:
Trang 17Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn/
- Có nhu cầu thực sự về BHXH
- Có khả năng tài chính để tham gia BHXH tự nguyện theo quy định
- Có sự thống nhất với những quy định cụ thể (mức đóng, mức hưởng, quy trình thực hiện, phương pháp quản lý, sử dụng quỹ BHXH tự nguyện )
- Có tổ chức, cơ quan đứng ra thực hiện BHXH tự nguyện: thu phí BHXH tự nguyện, quản lý quỹ BHXH tự nguyện, quản lý đối tượng tham gia BHXH tự nguyện, thực hiện chi trả trợ cấp BHXH tự nguyện cho các đối tượng được thụ hưởng
- Được Nhà nước bảo hộ và hỗ trợ khi cần thiết: bảo hộ quỹ BHXH tự nguyện, có chính sách ưu đãi cho hoạt động đầu tư quỹ
1.1.2 Đối tượng tham gia BHXH và BHXH tự nguyện
Đối tượng tham của BHXH là người lao động và người sử dụng lao động
Họ là những người trực tiếp tham gia đóng góp tạo nên quỹ BHXH với một khoản
% nhất định so với tiền lương của người lao động theo quy định của luật BHXH Tuỳ theo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nước mà đối tượng này có thể
là tất cả hoặc một bộ phận những người lao động nào đó trong xã hội
* Đặc điểm về đối tượng tham gia BHXH tự nguyện
Trong điều kiện phát triển kinh tế - xã hội hiện nay, vấn đề chăm sóc và bảo
vệ quyền lợi cho người lao động luôn được Đảng và Chính phủ quan tâm chú trọng Như chúng ta đã nói ở phần trên, vấn đề BHXH cho người lao động trong những năm vừa qua, đặc biệt là từ khi ngành BHXH được thành lập số lượng đối tượng được tham gia BHXH đã tăng lên rõ rệt Với mục tiêu đặt ra của ngành BHXH trong những năm tới là phải đảm bảo cho 100% đối tượng; lao động trong các thành phần, kinh tế kể cả trong và ngoài quốc doanh cũng như đối tượng lao động trong lĩnh vực nông nghiệp và lao động tự do được tham gia và hưởng BHXH Một số đặc điểm cơ bản của đối tượng thuộc diện tham gia BHXH tự nguyện đó là đặc điểm của đối tượng làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp (nhóm đối tượng chiếm tỷ trọng lớn nhất)
- Về thu nhập: Thu nhập của người lao động làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp trong những năm vừa qua ngày càng tăng, tốc độ tăng thu nhập tuy thấp hơn bình quân chung của cả nước Chi phí của hộ nông dân ngày càng tăng cao, nhưng
Trang 18Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn/
nhờ thu nhập tăng khá, ngoài phần chi tiêu dùng cho đời sống, phần lớn các gia đình
đã có đầu tư tích lũy
- Những vấn đề liên quan đến việc làm của người lao động: Do tính chất đặc trưng nghề nghiệp của đối tượng; tham gia BHXH tự nguyện có nhiều khác biệt so với nhóm đối tượng thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc Cụ thể như:
+ Đối với lao động làm công ăn lương thuộc các thành phần kinh tế quốc doanh, họ thường có công việc tương đối ổn định, được pháp luật bảo hộ, được hưởng các quyền lợi theo quy định trong Bộ Luật Lao động như quy đinh về tiền lương, tiền công, ngày nghỉ, thời gian lao động và các chế độ ưu đãi khác Tính ổn định trong công việc của người lao động còn được thể hiện thông qua các ràng buộc
vể mặt pháp lý như người lao động làm việc trong các doanh nghiệp đều có hợp đồng lao động ký kết với chủ sử dụng lao động, có thoả ước lao động tập thể đảm bảo cho người lao động được thực hiện quyền lợi và nghĩa vụ theo đúng pháp luật quy định và các công ước Quốc tế Chính vì vậy, việc tham gia BHXH cho người lao động cơ bản được giới chủ thực hiện một cách nghiêm túc Trong khi đó, nếu xét trên khía cạnh về việc làm của đối tượng lao động thuộc diện tham gia BHXH tự nguyện, ta thấy lao động trong lĩnh vực nông nghiệp thì hoạt động sản xuất kinh doanh của họ chủ yếu mang tính tự cung tự cấp, hưởng thu nhập trên giá trị sản phẩm do chính họ tạo ra Đối với những lao động có tư liệu sản xuất (ruộng đất) thì thu nhập của họ còn có thể được xác định thông qua sản lượng thu hoạch của các năm, nhưng đối với những lao động không có tư liệu sản xuất thì công ăn việc làm
và thu nhập của họ hoàn toàn mang tính thời vụ, tính chất công việc lại càng không mang tính ổn định Để đảm bảo quyền lợi về BHXH cho nhóm đối tượng này thực
sự là một vấn đề rất phức tạp vì quá trình làm việc của người lao động; có thể không mang tính liên tục Theo kinh nghiệm về BHXH của một số nước phát triển như: Pháp, Đức họ cũng đã xây dựng một số mô hình về BHXH tự nguyện cho đối tượng lao động tự tạo việc làm, nhưng cơ bản phương thức để thực hiện là đều xây dựng một mức tham gia BHXH bình quân trên cơ sở mức thu nhập tối thiểu của xã hội Trong điều kiện kinh tế nước ta hiện nay, vấn đề việc làm cho người lao động vẫn là một trong những vấn đề mang tính bức xúc, đặc biệt là việc chuyển đổi tỷ trọng cơ cấu nền kinh tế, chuyển dần từ nông nghiệp sang công nghiệp Như vậy,
Trang 19Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn/
không có nghĩa là việc tham gia BHXH cho đối tượng làm việc trong lĩnh vực này
là không thực hiện được Theo số liệu báo cáo tổng kết kinh nghiệm thực tiễn BHXH tự nguyện ở một số tỉnh thì đa phần người nông dân rất có ý thức trong việc xác định tham gia BHXH và hưởng chế độ hưu trí Như vậy, vấn đề việc làm của người lao động chỉ có thể được bảo đảm khi quy định về BHXH tự nguyện đề cập đến các vấn đề như cách xác định thời gian tham gia BHXH, mức tham gia ở từng thời điểm và phương thức quy đổi giữa các thời kỳ khác nhau Ngoài ra do đặc thù công việc không mang tính ổn định có thể cho phép người lao động được lựa chọn thời gian nộp BHXH phù hợp với mức nộp đã đăng ký với cơ quan BHXH và được bảo lưu thời gian nộp BHXH nếu vì lí do nào đó người lao động bị mất việc làm
+ Vấn đề quan hệ xã hội: do tính chất đặc thù công ăn việc làm, nghề nghiệp
và thu nhập của người lao động, đặc biệt là sự tiếp cận tìm kiếm các thông tin liên quan đến sự vận động kinh tế, xã hội của đất nước Họ thường thiếu hiểu biết về chính sách, pháp luật của Nhà nước, cũng như vấn đề về BHXH, vì vậy việc tuyên truyền nhằm thu hút đối tượng lao động tham gia BHXH gặp rất nhiều khó khăn Ngoài ra, do quan điểm mang tính chất chủ quan tức thời, nên việc ứng ra một khoản tiền để chuẩn bị cho tương lai là điều khó thuyết phục trong tư duy của người lao động Một trong những yếu tố làm ảnh hưởng đến việc tham gia BHXH của người lao động, đó là sự mặc cảm tự ti về nghề nghiệp, họ luôn không bằng lòng với công việc mà họ đang làm Chính vì vậy, về bản thân người lao động cũng khổng có sự chủ động về công việc của mình
Xét về khả năng tham gia BHXH tự nguyện của lao động làm việc ở khu vực nông nghiệp và nông thôn nhìn chung còn thấp do thu nhập ở khu vực nay hiện còn thấp Về mặt phương pháp luận, bất kỳ một chính sách BHXH nào, chính sách là điều kiện cần, thì điều kiện thực hiện là điều kiện đủ của nó Nói một cách cụ thể, nghiên cứu chính sách để mở rộng đối tượng tham gia BHXH tự nguyện cho người lao động là chúng ta nghiên cứu điều kiện đủ của nó để khi Nhà nước ban hành chính sách BHXH tự nguyện cho những đối tượng này thì nó có thể trở thành hiện thực và đi vào cuộc sống
Trang 20Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn/
Vậy, đối tượng tự nguyện tham gia BHXH tự nguyện: Người tham gia bảo hiểm
xã hội tự nguyện là công dân Việt Nam trong độ tuổi lao động, không thuộc diện áp dụng của pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc Bao gồm:
- Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn dưới 3 tháng
- Cán bộ không chuyên trách cấp xã
- Người tham gia các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, kể cả xã viên không hưởng tiền lương, tiền công trong các hợp tác xã, liên hợp hợp tác xã
- Người lao động tự tạo việc làm
- Người lao động làm việc có thời hạn ở nước ngoài mà trước đó chưa tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc hoặc đã nhận bảo hiểm xã hội một lần
- Người tham gia khác
- Trường hợp nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi, đã có 15 năm đóng BHXH trở lên nếu có nhu cầu tham gia BHXH tự nguyện, thì được đóng tiếp cho đến khi đóng
đủ 20 năm BHXH để hưởng chế độ hưu trí hằng tháng
Ngoài ra, đối tượng tham gia BHXH tự nguyện có thể chia thành 2 nhóm:
- Nhóm 1: Lao động thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc nay vì lý do nào đó nên không tiếp tục tham gia BHXH bắt buộc nữa, bao gồm:
+ Lao động dôi dư từ khu vực nhà nước do quá trình cải cách doanh nghiệp nhà nước và cải cách hành chính Những lao động thuộc diện "dôi dư" đó nhận trợ cấp bảo hiểm một lần hoặc về hưu trước tuổi còn khả năng lao động
+ Lao động do bầu cử được bổ nhiệm vào các tổ chức dân cử như Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp cơ sở, các đoàn thể và tổ chức quần chúng sau khi hết nhiệm kỳ không được bầu lại có nhu cầu tiếp tục tham gia BHXH
+ Lao động trong các doanh nghiệp thuộc đối tượng BHXH bắt buộc bị mất việc làm do doanh nghiệp phá sản, chuyển công tác hoặc bị thôi việc nhưng vẫn có nhu cầu tiếp tục tham gia BHXH
- Nhóm 2: Những đối tượng chưa tham gia BHXH bắt buộc Nhóm này bao gồm:
Trang 21Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn/
+ Lao động làm công ăn lương không có hợp đồng hoặc hợp đồng lao động dưới 3 tháng Thực tế cho thấy nhóm này bao gồm phần lớn là lao động trong các doanh nghiệp nhỏ khu vực phi chính thức Theo Luật BHXH thì nhóm này mặc dù
có quan hệ lao động nhưng không được tham gia BHXH vì người lao động phải làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ ba tháng trở lên Việc này chính là kẽ
hở giúp cho các chủ sử dụng lao động lẩn tránh nghĩa vụ đóng BHXH bắt buộc cho người lao động bằng cách không ký hoặc ký hợp đồng lao động dưới 3 tháng
+ Lao động là thành viên các hợp tác xã, tổ đội sản xuất trong một số lĩnh vực như tiểu thủ công nghiệp, thương nghiệp dịch vụ, giao thông vận tải… Các nhóm lao động này không có quan hệ lao động nhưng hoạt động theo cơ chế "chia
sẻ nghĩa vụ và quyền lợi"
+ Những người tự tạo việc làm và lao động tự do như người lái xe ôm, bán hàng rong, tự kinh doanh, sửa chữa xe đạp-xe máy… Nhóm này thường bị bỏ qua trong quá trình mở rộng BHXH do mối e ngại khả năng tài chính của họ để đóng bảo hiểm cũng như vấn đề mánh khóe che giấu thu nhập để nhận mức trợ cấp cao hơn người khác
+ Chủ doanh nghiệp tư nhân và lao động gia đình không hưởng lương Đây
là nhóm lao động gia đình cùng tham gia sản xuất và chia sẻ lợi nhuận nhưng không
có quan hệ lao động
+ Nông dân là nhóm lao động chiếm tỷ lệ cao nhất trong lực lượng lao động hiện nay nhưng chưa được tham gia BHXH, khó khăn lớn nhất cho họ khi tham gia BHXH là khả năng tài chính thấp và không ổn định do phụ thuộc vào mùa vụ thu hoạch
+ Người thất nghiệp, nhóm này chưa được BHXH quan tâm đến với lý do tài chính và khả năng quản lý
1.1.3 Nguyên tắc, mục đích, vai trò của BHXH tự nguyện
1.1.3.1 Nguyên tắc của BHXH tự nguyện
a) Người tham gia trên cơ sở tự nguyện và được lựa chọn mức đóng và phương thức đóng phù hợp với thu nhập của mình
BHXH tự nguyện được xây dựng trên cơ sở tự nguyện của người lao động với tư cách là người tham gia BHXH cũng là người hưởng BHXH Đối tượng này
vừa là chủ tư liệu sản xuất, vừa (chủ yếu là ruộng đất, công cụ lao động thủ công,
Trang 22Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn/
nhà xưởng gắn liền với nơi ở, vốn tự có là chính và một phần quan hệ tín dụng )là
chủ sức lao động (là người vừa tham gia quản lý, vừa tham gia lao động) Họ
không tham gia trực tiếp vào thị trường sức lao động, nhưng sản phẩm hàng hóa làm ra lại tham gia vào thị trường và chấp nhận cạnh tranh quyết liệt Họ tự hạch toán kết quả sản xuất kinh doanh, đồng thời tự quyết định phân phối, quyết định đầu
tư và chi tiêu ngân sách trong thu chi gia đình Bởi vậy họ tham gia BHXH mang tính "tự nguyện", trên cơ sở suy nghĩ về "tính lợi ích" khi tham gia BHXH Do đó, mọi chính sách BHXH có tính áp đặt, cưỡng chế và bất lợi (cả trước mắt và lâu dài) đều dẫn đến khả năng thực thi thấp hoặc thất bại
b) Đóng góp theo thu nhập tháng, mức hưởng được tính trên cơ sở mức đóng, thời gian đóng BHXH và có chia sẻ giữa những người tham gia BHXH tự nguyện
Mức thu nhập tháng làm căn cứ đóng BHXH thấp nhất bằng mức lương tối thiểu chung và cao nhất bằng 20 tháng lương tối thiểu chung
Là hình thức tự nguyện, không bao hàm chính thức trợ cấp ưu đãi nên BHXH tự nguyện phải được xây dựng trên nguyên tắc mức hưởng tiền lương hưu phải tỷ lệ thuận với mức đóng góp BHXH, đồng thời cũng là nguyên tắc đảm bảo quỹ BHXH an toàn, khuyến khích người lao động tham gia BHXH tự nguyện
Người vừa có thời gian đóng BHXH bắt buộc vừa có thời gian đóng BHXH
tự nguyện được hưởng chế độ hưu trí và chế độ tử tuất trên cơ sở tổng thời gian đã đóng BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện
c) Quỹ BHXH tự nguyện được quản lý thống nhất, dân chủ, công khai, minh bạch; được sử dụng đúng mục đích và hạch toán độc lập Việc thực hiện BHXH tự nguyện phải đơn giản, thuận tiện, bảo đảm kịp thời và đầy đủ
1.1.3.2 Mục đích, vai trò của BHXH tự nguyện
Mục đích lớn nhất của BHXH cũng như BHXH tự nguyện là ổn định cuộc sống cho người lao động và gia đình họ Người lao động tham gia BHXH sẽ được bù đắp một phần thu nhập mất đi khi họ bị suy giảm, mất khả năng lao động, mất việc làm hay khi họ hết tuổi lao động theo quy định Do đó, BHXH tự nguyện có tác dụng rất lớn đối với người lao động, tạo điều kiện để người lao động yên tâm công tác, tránh những rủi
Trang 23Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn/
ro Mặt khác, BHXH tự nguyện còn góp phần cải thiện, ổn định môi trường làm việc, nâng cao hiệu quả công tác, từ đó góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước Đây là vai trò cơ bản nhất của BHXH tự nguyện, quyết định nhiệm vụ, tính chất, phương thức hoạt động của BHXH tự nguyện
BHXH tự nguyện còn tạo điều kiện cho người lao động tích cực phát huy sáng tạo hơn trong quá trình lao động Đối với Nhà nước, thông qua chính sách BHXH tự nguyện, bảo đảm cho mọi người lao động, mọi tổ chức, đơn vị hoạt động sản xuất, kinh doanh bình đẳng, công bằng, thúc đẩy kinh tế, xã hội phát triển
1.1.4 Ý nghĩa kinh tế - xã hội của BHXH tự nguyện
1.1.4.1 Góp phần xã hội hóa các khoản thu - chi đối với dân cư
Có thể nói BHXH tự nguyện ra đời sẽ góp phần tạo điều kiện cho nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần phát triển thông qua việc phân bố lại lao động, tuyển dụng lao động giữa các ngành, giữa các thành phần kinh tế và giữa các vùng kinh tế dễ dàng hơn Sở dĩ như vậy là vì trước đây, trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp đã tạo ra tâm lý chung cho mọi người lao động là chỉ muốn tìm việc làm trong khu vực Nhà nước vì ở đó người lao động được Nhà nước bao cấp về tiền lương và đãi ngộ về quyền lợi BHXH Người lao động không phải trực tiếp đóng BHXH bằng tiền lương của mình mà vẫn được hưởng mọi quyền lợi BHXH khi tuổi già; lúc ốm đau; TNLĐ, BNN; thai sản; mất sức lao động; tử tuất và coi đây là đặc quyền, đặc lợi của họ Mặt khác, các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa còn bị hạn chế, chưa được khuyến khích phát triển, nên người lao động chỉ khi tìm được việc làm trong khu vực nhà nước thì mới an tâm và coi là có việc làm thực sự Ngày nay, trong thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định nhất quán lâu dài xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa Điều đó đòi hỏi sự phàn bố lại lao động giữa các thành phần kinh tế phải có những chuyển biến lớn Mặc dù đã có chính sách khuyến khích phát triển sản xuất, kinh doanh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế nhưng đối với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế không thuộc khu vực kinh tế Nhà nước việc tuyển dụng lao động vẫn còn khó khăn Người lao động do yêu cầu của thị
Trang 24Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn/
trường và sức ép về việc làm phải tham gia lao động trong khu vực này nhưng tâm lý vẫn chưa an tâm vì có rất nhiều người, ở nhiều nơi chưa được tham gia BHXH Do
đó, nếu chính sách BHXH tự nguyện ra đời và được thực hiện rộng rãi sẽ là một nhân
tố quan trọng góp phần điều chỉnh và phân phối lại lao động giữa các thành phần kinh
tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
Ngoài ra, khi thực hiện BHXH tự nguyện rộng rãi sẽ hình thành một quỹ, tiền tệ tập trung khá lớn có thể đầu tư xây dựng các công trình trọng điểm đem lại hiệu quả kinh tế thiết thực cho xã hội nói chung và cho người lao động nói riêng
1.1.4.2 Giảm nhẹ các khoản chi của NSNN đối với dân cư
Hiện nay, các khoản chi của NSNN đối với dân cư là rất lớn, thể hiện tính ưu việt của Nhà nước ta, đảm bảo an sinh xã hội Tuy nhiên, nguồn lực NSNN là có hạn, việc chi cho nhiều khoản sẽ khiến NSNN khó có thể tập trung vào các lĩnh vực then chốt, tạo điều kiện thúc đẩy đất nước phát triển Do đó, việc hình thành quỹ BHXH độc lập sẽ góp phần giảm bớt gánh nặng cho Ngân sách Nhà nước, đặc biệt là tham gia BHXH tự nguyện là một cách góp phần thực hiện xoá đói giảm nghèo có hiệu quả, giảm chi ngân sách Nhà nước trong lĩnh vực này nhờ có quỹ BHXH tự nguyện Nhìn lại các đối tượng nghèo đói, hầu hết là do không có việc làm hoặc khi có việc làm, có thu nhập, nhưng hầu hết là thu nhập thấp và thất thường, không có sự tích luỹ, không có điều kiện để dành một phần thu nhập của mình cho tuổi già hoặc đau yếu nên khi tuổi già hoặc đau yếu đến sẽ rơi vào cảnh đói nghèo Nếu có hệ thống BHXH tự nguyện để họ tham gia thì rõ ràng khi về già hoặc lúc đau yếu, người lao động sẽ không bị mất hoàn toàn nguồn thu nhập nhờ trợ cấp BHXH nên sẽ không rơi vào hoàn cảnh đói nghèo Do đó, BHXH tự nguyện thực chất còn là một biện pháp hữu hiệu để góp phần xoá đói giảm nghèo ở nước ta
1.1.4.3 Nâng cao trách nhiệm của công dân đối với cộng đồng
BHXH tự nguyện ra đời và được thực hiện sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các chính sách kinh tế xã hội khác, qua đó nâng cao trách nhiệm của từng người dân đối với cộng đồng
Trang 25Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn/
Trước đây, không có chính sách BHXH đại bộ phận lao động khi ốm đau, thai sản, mất sức lao động, tai nạn lao động hoặc tuổi già thu nhập bị giảm hoặc không có thu nhập để sống, nên tâm lý chung của mọi người là phải đẻ nhiều con để
nương nhờ "trẻ cậy cha, già cậy con" Do đó, nhiều người mặc dù đã có 3 - 4 con
nhưng vẫn còn đẻ thêm để mong được nhờ cậy con lúc tuổi già sức yếu, dẫn đến mức độ tâng dân số quá cao Khi có chính sách BHXH tự nguyện của Nhà nước ban hành và được thực hiện rộng rãi thì chắc chắn sẽ là chỗ dựa vững chắc cho người
lúc tuổi già, lúc đau yếu Ngày nay ''trẻ cậy cha, già cậy BHXH", góp phần xoá đi
tâm lý muốn đẻ nhiều con mà chính bản thân họ cũng không muốn và nhờ đó giảm được tỷ lệ tăng dân số, đảm bảo thực hiện tốt chính sách kế hoạch hoá gia đình
Chính sách BHXH tự nguyện được thực hiện sẽ tạo điều kiện nâng cao dân trí, nâng cao nghĩa vụ, trách nhiệm của bản thân con người đối với những, người thân yêu của mình (đóng BHXH cho cha, mẹ, con em, người thân., của mình), đối với cộng đồng, đối với xã hội không trở thành gánh nặng cho cộng đồng, cho xã hội khi gặp rủi ro xã hội; tạo điều kiện hoà đổng mỗi cá nhân con người với cộng đồng, với xã hội; chia xẻ rủi ro xã hội chung cho mọi người
1.2 Thu BHXH tự nguyện và sử dụng Quĩ BHXH tự nguyện
1.2.1 Nguồn thu BHXH tự nguyện
Quỹ bảo hiểm xã hội tự nguyện được hình thành từ các nguồn sau:
a) Người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện đóng bảo hiểm xã hội theo quy định Người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện đăng ký với tổ chức bảo hiểm xã
hội đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện theo một trong các phương thức: Hằng tháng, hằng quý, Sáu tháng một lần
Việc thu tiền đóng bảo hiểm xã hội được thực hiện vào nửa đầu của thời gian ứng với phương thức mà người tham gia bảo hiểm xã hội lựa chọn
Mức đóng hằng tháng vào quỹ bảo hiểm xã hội tự nguyện như sau:
Tỷ lệ phần trăm đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện được quy định theo từng thời kỳ
Bảng 1.1 Tỷ lệ đóng BHXH tự nguyện đƣợc quy định qua các thời kỳ
Trang 26Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn/
Mức thu nhập tháng = L min + m × 50.000 (đồng/tháng)
Lmin : là mức lương tối thiểu chung
m: là số nguyên lớn hơn hoặc bằng 0 (do người tham gia lựa chọn)
Người đang tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện được đăng ký lại phương thức đóng hoặc mức thu nhập tháng làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện với
tổ chức bảo hiểm xã hội Việc đăng ký lại phương thức đóng và mức thu nhập tháng làm căn cứ đóng được thực hiện ít nhất là sau 6 tháng kể từ lần đăng ký trước
b) Tiền từ Quỹ bảo hiểm xã hội bắt buộc chuyển sang chi trả theo chế độ cho các đối tượng đã có thời gian tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc;
c) Tiền sinh lời của hoạt động đầu tư từ Quỹ bảo hiểm xã hội tự nguyện;
d) Hỗ trợ của Nhà nước;
e) Các nguồn thu hợp pháp khác
1.2.2 Sử dụng Quĩ BHXH tự nguyện
1.2.2.1 Trả các chế độ bảo hiểm xã hội cho người lao động
Tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện được hưởng quyền lợi theo chế độ hưu trí và tử tuất khi có đủ điều kiện theo quy định Lương hưu và trợ cấp bảo hiểm xã hội được miễn thuế Các chế độ cụ thể:
a) Chế độ hưu trí
* Lương hưu hàng tháng
Mức lương hưu hàng tháng của người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện được tính bằng tỷ lệ % lương hưu được hưởng nhân với mức bình quân thu nhập tháng làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội Trong đó:
+ Tỷ lệ % để tính lương hưu được hưởng tính bằng 45% mức bình quân thu nhập tháng làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện cho 15 năm đóng bảo hiểm
Trang 27Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn/
xã hội đầu tiên, từ năm thứ 16 trở đi, cứ thêm mỗi năm đóng bảo hiểm xã hội thì tính thêm 2% đối với nam, 3% đối với nữ; mức tối đa bằng 75% Đối với người nghỉ hưu trước tuổi do bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên mà trước đó
đã có đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc trở lên thì tỷ lệ % hưởng lương hưu sau khi tính như trên sẽ bị giảm đi 1% cho mỗi năm nghỉ hưu trước tuổi
+ Mức bình quân thu nhập tháng làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện
là bình quân các mức thu nhập tháng của toàn bộ thời gian đóng bảo hiểm xã hội Đối với người vừa có thời gian đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, vừa có thời gian đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện thì mức bình quân tiền lương, tiền công và thu nhập tháng đóng bảo hiểm xã hội được tính bằng mức bình quân tiền lương, tiền công và thu nhập tháng đóng bảo hiểm xã hội chung của các thời gian
+ Người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện có đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc trở lên, nếu lương hưu hàng tháng thấp hơn mức lương tối thiểu chung, thì được quỹ bảo hiểm xã hội bù bằng mức lương tối thiểu chung
+ Lương hưu được điều chỉnh trên cơ sở mức tăng của chỉ số giá sinh hoạt và tăng trưởng kinh tế theo quy định của Chính phủ
+ Người hưởng lương hưu được cấp thẻ bảo hiểm y tế do quỹ bảo hiểm xã hội đảm bảo
* Trợ cấp một lần khi nghỉ hưu:
Mức trợ cấp được tính theo số năm đóng bảo hiểm xã hội kể từ năm thứ
31 trở đi đối với nam và năm thứ 26 trở đi đối với nữ Cứ mỗi năm đóng bảo hiểm xã hội thì được tính bằng 0,5 tháng mức bình quân thu nhập tháng đóng bảo hiểm xã hội
* Trợ cấp bảo hiểm xã hội một lần:
Mức bảo hiểm xã hội một lần được tính theo số năm đã đóng bảo hiểm xã hội, cứ mỗi năm được tính bằng 1,5 tháng mức bình quân thu nhập tháng đóng bảo hiểm xã hội Trường hợp chỉ đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện mà thời gian đóng bảo hiểm xã hội chưa đủ 1 năm thì mức trợ cấp bằng số tiền đã đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội, nhưng không quá 1,5 tháng mức bình quân thu nhập tháng đóng bảo hiểm xã hội
Trang 28Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn/
b) Chế độ tử tuất
* Trợ cấp mai táng: người lo mai táng được hưởng trợ cấp mai táng do quỹ
bảo hiểm xã hội chi trả bằng 10 tháng lương tối thiểu chung
* Trợ cấp tuất hàng tháng
- Mỗi thân nhân được hưởng trợ cấp tuất hàng tháng bằng 50% mức lương tối thiểu chung; trường hợp thân nhân không có người trực tiếp nuôi dưỡng thì mức trợ cấp tuất hàng tháng bằng 70% mức lương tối thiểu chung
- Trường hợp một người chết thì số thân nhân được hưởng trợ cấp tuất hàng tháng không quá 4 người; trường hợp có từ 2 người chết trở lên thì thân nhân của những người này được hưởng 2 lần mức trợ cấp theo quy định trên
- Thời điểm hưởng trợ cấp tuất hàng tháng của thân nhân được tính từ tháng liền kề sau tháng đối tượng chết
- Người đang hưởng lương hưu chết thì thân nhân được hưởng mức trợ cấp tuất một lần tính theo thời gian đã hưởng lương hưu: bằng 48 tháng lương hưu đang hưởng nếu chết trong 2 tháng đầu hưởng lương hưu; nếu chết vào những tháng sau
đó, cứ thêm 1 tháng hưởng lương hưu thì mức trợ cấp giảm đi 0,5 tháng lương hưu
- Đối với người vừa có thời gian đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, vừa có thời gian đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện thì mức trợ cấp tuất một lần cũng được tính tương tự như trên nhưng mức trợ cấp thấp nhất bằng 3 tháng bình quân tiền lương, tiền công và thu nhập tháng đóng bảo hiểm xã hội hoặc 3 tháng lương hưu trước khi chết
1.2.2.2 Đóng bảo hiểm y tế cho người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện đang hưởng lương hưu
1.2.2.3 Chi phí quản lý
Trang 29Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn/
Đây là khoản chi cho các hoạt động thường xuyên của tổ chức BHXH, bao gồm: Chi lương cho đội ngũ làm công tác BHXH trong toàn hệ thống; Chi phí nghiệp vụ BHXH; Chi nghiên cứu khoa học BHXH; Chi phí hành chính (điện, nước, văn phòng phẩm, …); Chi phí mua sắm, sửa chữa,…
1.2.2.4 Đầu tư để bảo toàn và tăng trưởng quỹ
Đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH tự nguyện là quá trình sử dụng bộ phần nhàn rỗi tương đối của quỹ BHXH tự nguyện vào các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế, nhằm bảo toàn giá trị gốc và tăng thêm giá trị so với giá trị gốc, góp phần đáp ứng nhu cầu chi trả các trợ cấp BHXH tự nguyện hiện tại, tương lai và các chi phí khác
có liên quan đến BHXH tự nguyện
Quỹ BHXH tự nguyện là quỹ tiền tệ độc lập, tập trung, nằm ngoài ngân sách Nhà nước Quỹ BHXH tự nguyện được hình thành chủ yếu từ sự đóng góp bằng tiền của các bên tham gia BHXH tự nguyện nhằm mục đích chi trả cho những người được BHXH tự nguyện và gia đình họ khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do gặp các rủi ro, mất khả năng lao động hoặc mất việc làm
Do đặc thù người tham gia BHXH tự nguyện đóng phí trong một thời gian dài và thường là rất lâu sau họ mới được hưởng các chế độ trợ cấp dài hạn (như hưu trí, tuất ), đồng thời số người tham gia đóng phí và hưởng tại một thời điểm thường
có chênh lệch dương (đôi khi khá lớn) nên quỹ BHXH tự nguyện tại một thời điểm nhất định có số tiền kết dư lớn
Mặt khác, quỹ BHXH tự nguyện cũng luôn phải đối mặt với những nguy cơ rủi ro, như việc tính toán mức đóng - mức hưởng của đối tượng không khoa học; những biến động xã hội đặc biệt dẫn đến việc bội chi quỹ; bị giảm giá trị do lạm phát thông thường, do lạm phát từ các cuộc khủng hoảng kinh tế, chính trị, xã hội trong nước và nước ngoài tác động
Những đặc thù đó đòi hỏi quỹ BHXH tự nguyện phải được chú trọng đến hoạt động đầu tư tăng trưởng để tránh bị bội chi Sự quay vòng bảo toàn và tăng trưởng quỹ BHXH tự nguyện là một đặc trưng cơ bản của hoạt động BHXH trong nền kinh tế thị trường Hoạt động đầu tư quay vòng vốn để bảo toàn và tăng trưởng giá trị quỹ BHXH tự nguyện là một yêu cầu nhất thiết khách quan, đảm bảo cho sự
Trang 30Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn/
tồn tại, phát triển và phát huy tác dụng của chính sách BHXH tự nguyện trong việc bảo đảm an sinh xã hội và hỗ trợ cho nền kinh tế phát triển bền vững
1.2.3 Quản lý quĩ BHXH tự nguyện
a) Quỹ BHXH tự nguyện phải được quản lý tập trung, thống nhất trên phạm
vi toàn quốc với quỹ BHXH nói chung; hạch toán độc lập theo từng chế độ, từng loại hình, từng loại nguồn để quản lý chặt chẽ, hiệu quả; đảm bảo dân chủ, công bằng và công khai theo quy định về chế độ kế toán - tài chính hiện hành của nhà
nước và có sự cân đối chung theo sự chỉ đạo của nhà nước
Quản lý tập trung, được hiểu là sự tác động của chủ thể quản lý vào đối tượng và khách thể quản lý trong các hoạt động của BHXH, nhằm đạt được mục tiêu đề ra với những nguyên tắc và phương pháp quản lý phù hợp với hệ thống quản
lý chung của nền kinh tế
Do điều kiện kinh tế - xã hội và chính trị của mỗi nước khác nhau nên hệ thống BHXH tự nguyện của các nước được xây dựng khác nhau và vì vậy không có mô hình
tổ chức BHXH tự nguyện chung cho tất cả các nước Có một số nước giao cho một bộ nào đó đảm nhận cả chức năng quản lý Nhà nước về BHXH và tổ chức thực hiện các nghiệp vụ BHXH Đa số các nước hoạt động sự nghiệp BHXH (quản lý quỹ, quản lý đối tượng, thực hiện thu - chi BHXH) được giao cho cơ quan BHXH độc lập đảm nhận dưới sự điều hành của Hội đồng quản trị hoặc Hội đồng quản lý
Quản lý Nhà nước về BHXH tự nguyện: BHXH tự nguyện là một chính
sách xã hội của mỗi nước, vì vậy phải có sự quản lý thống nhất các hoạt động BHXH tự nguyện Quản lý Nhà nước về BHXH tự nguyện xuất phát từ chức năng
xã hội của Nhà nước Quản lý Nhà nước về BHXH tự nguyện được thể hiện thông qua quản lý thống nhất các hoạt động BHXH tự nguyện trên phạm vi toàn quốc gia: dù hệ thống tổ chức và cách thức quản lý của các quốc gia có khác nhau, nhưng việc các quốc gia đều có sự quản lý thống nhất các hoạt động BHXH tự nguyện Việc quản lý thống nhất thể hiện qua việc chỉ có Nhà nước mới ban hành chính sách vĩ mô định hướng hoạt động của cả hệ thống BHXH tự nguyện Nhà nước định ra các chế độ BHXH, các nội dung cơ bản của BHXH; các chính sách
Trang 31Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn/
BHXH đối với các nhóm đối tượng cụ thể, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước trong từng giai đoạn phát triển
Xây dựng pháp luật BHXH: Một trong những chức năng cơ bản của quản
lý Nhà nước về BHXH là công tác xây dựng văn bản pháp luật BHXH Nhà nước, thông qua các cơ quan chức năng của mình (tùy theo mô hình quản lý Nhà nước của mỗi nước) xây dựng các văn bản pháp luật về BHXH bao gồm các đạo luật, các luật, các văn bản pháp quy (Nghị định, quyết định…) và các văn bản dưới luật để thực hiện pháp luật BHXH thống nhất trong phạm vi quốc gia Vì vậy, xây dựng pháp luật BHXH có thể coi là chức năng quan trọng nhất của quản
lý Nhà nước về BHXH
b) Quỹ cần được nhà nước hỗ trợ ban đầu (chi phí bộ máy, trang bị cơ sở vật
chất, kỹ thuật, trụ sở ) hoặc khi cần thiết; được nhà nước bảo hộ, đặc biệt trong trường hợp bất khả kháng và khi nhà nước có những biến động, thay đổi về chế độ lương bổng, chế độ thu nhập, về chính sách tài chính, tiền tệ, tín dụng
Khác với các loại hình bảo hiểm khác, BHXH dù mô hình hoạt động khác nhau nhưng đều nhằm đảm bảo an sinh xã hội Vì vậy, Nhà nước luôn luôn bảo hộ
và bảo trợ cho các hoạt động BHXH, nhằm đảm bảo cho BHXH không bị ảnh hưởng trước những biến động về kinh tế và xã hội, đặc biệt là những biến động về tài chính Sự bảo hộ và bảo trợ của Nhà nước đối với các hoạt động của BHXH thể hiện ở một số điểm sau:
+ Bảo đảm giá trị của quỹ BHXH trong các tài khoản tại ngân hàng để đảm bảo mức chi trả cho đối tượng hưởng BHXH
+ Bảo đảm các trợ cấp BHXH cho các đối tượng thụ hưởng BHXH trước những biến động kinh tế- xã hội và chính trị
+ Bảo hộ cho quỹ BHXH trong các hoạt động đầu tư, sinh lời Nhà nước ưu tiên cho quỹ BHXH được đầu tư phần quỹ nhàn rỗi vào những lĩnh vực an toàn, rủi
ro thấp nhất và thuận lợi khi thu hồi vốn để kịp thời chi trả các khoản chi BHXH khi
có nhu cầu lớn
+ Không đánh thuế hoặc đánh thuế thấp đối với các dự án đầu tư của quỹ BHXH
Trang 32Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn/
+ Hỗ trợ về tài chính cho quỹ BHXH trong những trường hợp quỹ BHXH bị thâm hụt vì những lý do bất khả kháng …
c) Quỹ được áp dụng các biện pháp để bảo tồn và tăng trưởng phần quỹ tạm thời
nhàn rỗi theo sự chỉ đạo của nhà nước, được kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ
Quản lý quỹ BHXH bao gồm quản lý công tác thu BHXH và quản lý công tác chi BHXH, nhằm đảm bảo cho quĩ được an toàn và đảm bảo thu đúng, thu đủ; chi đúng, chi
đủ cho đối tượng thụ hưởng BHXH; hạn chế tối đa sự thất thoát quỹ BHXH
Xây dựng chiến lược tăng trưởng quỹ BHXH thông qua các hoạt động đầu tư Tham gia vào thị trường tài chính của quốc gia Đây là một trong những chức năng quan trọng của cơ quan BHXH Bởi lẽ các quá trình thu và chi BHXH không diễn ra song trùng và thông thường sự tồn tích của quỹ BHXH rất lớn Nếu được Nhà nước điều tiết thông qua các chính sách và công cụ tài chính, quỹ BHXH sẽ góp phần rất lớn vào việc ổn định nền tài chính quốc gia
Thực hiện thanh tra, kiểm tra: tuỳ theo mô hình của từng nước mà nhiệm vụ thanh tra, kiểm tra về BHXH có khác nhau Với những nước trao quyền tự chủ cao cho Hội đồng quản trị BHXH thì trong hệ thống sự nghiệp BHXH chức năng thanh tra, kiểm tra rất quan trọng Đối với những nước có quản lý Nhà nước về BHXH riêng thì chức năng thanh tra, kiểm tra hoạt động BHXH của các cơ quan quản lý Nhà nước rất lớn Tuy nhiên, trong hệ thống BHXH vẫn có chức năng thanh tra kiểm tra của mình nhằm đảm bảo các hoạt động BHXH đúng với các quy định của pháp luật
1.3 Các nhân tố ảnh hưởng tới việc tổ chức thực hiện bảo hiểm xã hội đối với người lao động
1.3.1 Trình độ, nhận thức của người dân
Ở Việt Nam, người nông dân sống phụ thuộc vào thiên nhiên rất nhiều Trong sản xuất, người nông dân phụ thuộc vào nhiều hiện tượng của tự nhiên như trời, đất, nắng, mưa Với tư duy manh mún, tản mạn (ít khả năng khái quát, tổng hợp) nên người nông dân “chỉ thấy lợi trước mắt, không thấy lợi lâu dài, chỉ thấy lợi
cá nhân, không thấy lợi ích tập thể.” Mặt khác phần lớn người nông dân ở nước ta
Trang 33Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn/
có trình độ dân trí thấp, do đó khả năng nhận thức các vấn đề về xã hội hay chính sách còn rất hạn chế Ngay khi chính sách ấy phục vụ lợi ích thiết thực cho chính bản thân họ, thế nhưng họ vẫn thờ ơ ít quan tâm tìm hiểu
Do đặc điểm về trình độ dân trí và mức độ nhận thức của nông dân là rất thấp, nên hầu hết người nông dân chưa hiểu đầy đủ mục đích, ý nghĩa, lợi ích đối với bản thân khi tham gia BHXH tự nguyện Vì vậy, công tác tuyên truyền cần được lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ hơn, vừa tập trung vừa có tính trọng điểm Từ đó, không ngừng nâng cao nhận thức cho các cấp, các ngành và mọi người dân trong xã hội thấy rõ phương hướng, chủ trương xã hội hoá về công tác BHXH của Đảng và Nhà nước, nhằm huy động tối đa mọi nguồn lực trong xã hội để đẩy mạnh công tác an sinh xã hội của đất nước Đồng thời nêu rõ nghĩa vụ, quyền lợi của người dân khi tham gia BHXH tự nguyện
Mỗi người dân do điều kiện sống và làm việc, trình độ học vấn khác nhau nên khả năng tiếp cận với các nguồn thông tin và nhu cầu đòi hỏi cũng khác nhau Vì vậy,
cơ quan BHXH cần phải áp dụng nhiều cách thức để truyền tải chính sách BHXH tự nguyện đến với người dân một cách phù hợp nhất, giúp họ dễ dàng nhận thức đúng và đầy đủ về ý nghĩa và tầm quan trọng của việc tham gia BHXH tự nguyện Có như vậy, người nông dân mới tự giác, tự nguyện tham gia BHXH tự nguyện, coi đó là quyền lợi và nghĩa vụ của bản thân
BHXH tự nguyện là một chính sách xã hội quan trọng, mang ý nghĩa nhân đạo và có tính chia sẻ cộng đồng sâu sắc, được Đảng và Nhà nước ta hết sức coi trọng và luôn luôn đề cao trong hệ thống chính sách an sinh xã hội BHXH tự nguyện đã tạo ra nguồn tài chính công đáng kể cho công tác bình ổn cuộc sống, góp phần thực hiện mục tiêu công bằng xã hội Việc nhận thức được tầm quan trọng cũng như vai trò của chính sách BHXH tự nguyện đối với nông dân là hết sức cần thiết Nông dân hiểu được vai trò, tác dụng của chính sách BHXH tự nguyện thì mới tham gia
Trình độ học vấn của nông dân tỷ lệ thuận với việc nhận thức của họ về chính sách BHXH tự nguyện, khi người nông dân hiểu biết, nhận thức đúng về
Trang 34Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn/
chính sách BHXH tự nguyện thì mới thấy được vai trò, tác dụng BHXH tự nguyện với bản thân và gia đình, hạn chế rủi ro, ổn định cuộc sống khi về già hoặc mất khả năng lao động Sự nhận thức, hiểu biết chính sách BHXH tự nguyện của nông dân tác động, ảnh hưởng rất lớn đến quyết định tham gia hay không tham gia BHXH tự nguyện của họ
1.3.2 Hệ thống luật pháp và chính sách về bảo hiểm xã hội
Chính sách của Nhà nước này có vai trò vô cùng quan trọng không những góp phần ổn định đời sống của người dân, đảm bảo an toàn xã hội mà còn góp phần thực hiện công bằng xã hội Đồng thời, góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế của đất nước Chính sách của Nhà nước là điều kiện liên quan trực tiếp đến việc bàn hành, thực hiện các chế độ chính sách và sự quản lý của Nhà nước đối với loại hình BHXH tự nguyện Đồng thời, nó cũng liên quan trực tiếp đến tâm lý và nguyện vọng của người lao động Mọi chính sách đề ra có căn cứ pháp lý, đảm bảo phù hợp với quyền lợi chính đáng và khả năng kinh tế của người dân một cách nhất quán, lâu dài thì họ sẽ tự nguyện tham gia với tinh thần phấn khởi, hồ hởi và ngược lại, sẽ không hoặc có tham gia BHXH tự nguyện nhưng trong tâm tư vẫn hoài nghi,
lo lắng và cầm chừng
Vai trò quản lý của Nhà nước về BHXH tự nguyện là rất quan trọng, thể hiện
ở chỗ Nhà nước tạo ra khung chính sách, pháp luật về BHXH tự nguyện Đồng thời, Nhà nước cũng là người bảo trợ, người tổ chức bộ máy, bố trí cán bộ và tạo điều kiện cho hệ thống sự nghiệp BHXH tự nguyện ra đời và hoạt động theo đúng chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn được giao nhằm thực hiện tốt các chế độ chính sách BHXH tự nguyện
Chính sách BHXH tự nguyện phải luôn đảm bảo yêu cầu tự nguyện cho đối tượng tham gia cả về mức đóng, phương thức đóng, mức hưởng và phương thức quản lý Nghĩa là phải có cơ chế đa dạng, phong phú và phù hợp với nhiều loại đối tượng tiềm năng của loại hình này Đồng thời phải dễ dàng chuyển đồi từ loại hình BHXH tự nguyện sang loại hình BHXH bắt buộc và ngược lại Bên cạnh đó đảm bảo quyền bình đẳng và sự công bằng cho mọi người thuộc độ tuổi lao động khi
Trang 35Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn/
tham gia loại hình BHXH tự nguyện trong việc đóng góp và hưởng thụ BHXH Chính sách cần quy định cụ thể đối với từng chế độ BHXH sẽ áp dụng cho loại hình BHXH tự nguyện và thống nhất một mức đóng với số đông người tham gia; mức hưởng BHXH phải luôn tương ứng với mức đóng và thời gian tham gia đóng BHXH tự nguyện
Hiện nay đối tượng tham gia BHXH tự nguyện trên cả nước còn rất thấp, nguyên nhân chủ yếu là do đời sống còn gặp nhiều khó khăn Trong khi Nhà nước chưa có chính sách hỗ trợ kinh phí đóng góp, mà mức đóng BHXH tự nguyện khá
cao (22% mức thu nhập) so với khả năng của người nông dân, nên họ không có điều
kiện để tham gia Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ mức đóng cho người lao động khi họ tham gia BHXH tự nguyện, đồng thời thực hiện đồng bộ các chính sách xã hội
có liên quan đến cơ chế chính sách BHXH tự nguyện, tránh tình trạng chồng chéo và giảm thủ tục hành chính đối với người dân khi làm thủ tục tham gia và thủ tục hưởng chế độ BHXH tự nguyện
Có thể nói, chính sách BHXH tự nguyện nước ta là chính sách mang tính nhân văn sâu sắc, do mới được ban hành nên còn nhiều vấn đề chưa phù hợp Vì vậy, cần phải sửa đổi và bổ sung trong thời gian tới để dần dần hoàn thiện chính sách, nhằm từng bước đưa chính sách vào trong cuộc sống của người dân
1.3.3 Thu nhập của người lao động
Để có thể tham gia BHXH tự nguyện, người lao động phải có đầy đủ điều kiện về kinh tế Lao động hoạt động trong các ngành sản xuất nông, lâm, ngư, diêm nghiệp; trong các ngành tiểu thủ công nghiệp; thương mại, buôn bán, dịch vụ và lao động khác Muốn có nhu cầu tham gia BHXH tự nguyện thì trước hết phải có khả năng đóng BHXH
Người lao động phải có điều kiện để tiến hành sản xuất, kinh doanh để có thu nhập Nguồn thu nhập trước hết phải bảo đảm bù đắp đủ các chi phí sản xuất, trang trải các tiêu dùng trong cuộc sống cho cá nhân và gia đình, sau đó sẽ để lại một phần dư ra
để tích luỹ Phần tích luỹ này sẽ được sử dụng để đầu tư thêm cho sản xuất, kinh doanh, thực hiện tái sản xuất mở rộng, phần còn lại của tích luỹ mới dùng để dự phòng
Trang 36Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn/
cho cuộc sống tương lai của bản thân và trang trải những khi gặp rủi ro xã hội khi bị giảm hoặc mất nguồn thu nhập thông qua việc tham gia đóng góp vào các quỹ tiết kiệm, trong đó có quỹ BHXH tự nguyện nhằm đảm bảo cuộc sống cho tương lai khi hết tuổi lao động, về già
Như vậy, điều kiện kinh tế cho việc ban hành và thực hiện loại hình BHXH
tự nguyện chính là việc giải bài toán về tổ chức sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và phân phối thu nhập trong nền kinh tế nói chung và trong từng gia đình người lao động nói riêng đặc biệt là người nông dân, sao có hiệu quả và thiết thực Người nông dân chỉ khi nào đảm bảo được mức sống của mình và gia đình mình từ trung bình và trở lên có tích luỹ mới có thể có phần dư ra để tham gia đóng góp vào quỹ BHXH tự nguyện
1.3.4 Thể chế tổ chức bộ máy và cán bộ
Để có thể đáp ứng được sự nghiệp an sinh xã hội của đất nước thì hệ thống BHXH phải: được tổ chức và quản lý thống nhất từ Trung ương đến địa phương, được sắp xếp một cách hợp lý và tinh gọn; Thủ tục tham gia và thanh toán bảo hiểm phải đơn giản, thuận tiện mà vẫn đảm bảo pháp lý Lấy người dân là mục tiêu và đối tượng phục vụ, tất cả đều hướng tới vì lợi ích của nhân dân; Làm tốt công tác Maketting về BHXH tự nguyện, không ngừng nâng cao thương hiệu và tăng khả năng cạnh tranh so với các hãng bảo hiểm thương mại khác
Bộ máy mạnh hay yếu, phát huy hiệu quả cao hay thấp là tuỳ thuộc vào vấn
đề cán bộ Do đó, đối với đội ngũ cán bộ thực hiện sự nghiệp BHXH tự nguyện phải đảm bảo các yêu cầu tối thiểu về chuyên môn nghiệp vụ và đặc biệt phải là người có đạo đức trong sáng Chỉ có như vậy, sự nghiệp BHXH tự nguyện mới có thể thực hiện và phát triển được ở Việt Nam Quá trình tổ chức thực hiện chính sách BHXH
tự nguyện là nhiệm vụ trọng yếu của cơ quan BHXH, do đó mỗi cán bộ làm công tác BHXH phải là người theo dõi, giám sát và chủ động tham mưu cho các cấp lãnh đạo để định hướng nội dung, xây dựng kế hoạch, các phương án triển khai tổ chức thực hiện Trong đó kể cả phương án phối hợp với các cấp, các ngành, các cơ quan, đơn vị để cùng nhau vận động và triển khai chính sách BHXH tự nguyện đến với
Trang 37Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn/
người dân Để mọi thành viên trong xã hội, đặc biệt là người nông dân thuộc diện tham gia BHXH tự nguyện nhận thức được đầy đủ mục đích, ý nghĩa, quyền lợi khi tham gia BHXH tự nguyện, trước hết phải nâng cao năng lực, tinh thần trách nhiệm của cán bộ làm công các BHXH, coi công việc của mình là một hoạt động dịch vụ nhằm phục vụ nhân dân Chất lượng và hiệu quả dịch vụ của cơ quan BHXH là nhân tố ảnh hưởng rất lớn đến việc mở rộng và phát triển BHXH tự nguyện
Cơ quan BHXH ở địa phương phải chủ động trong việc tuyên truyền, phổ biến mục tiêu, nội dung triển khai theo từng đề án cụ thể về thực hiện BHXH tự nguyện đối với người dân Các cấp, các ngành, các tổ chức hội, đoàn thể ở từng khu vực có trách nhiệm ban hành các văn bản chỉ đạo theo phạm vi quản lý của mình và phối hợp với cơ quan BHXH ban hành những văn bản liên tịch để hướng dẫn tổ chức thực hiện Đồng thời làm tốt khâu giải thích những vướng mắc và các vấn đề dư luận xã hội quan tâm liên quan đến nhận thức và yêu cầu tìm hiểu về chế độ, chính sách BHXH tự nguyện.Chính sách BHXH tự nguyện có thực sự trở thành chỗ dựa vững chắc cho người nông dân khi gặp rủi ro, khi về già hay không điều đó phụ thuộc rất nhiều vào hoạt động dịch vụ của cơ quan BHXH Bởi lẽ, cơ quan BHXH là nơi cung cấp dịch vụ BHXH tự nguyện cho người dân, nếu như dịch vụ đó tốt và phù hợp với tâm tư nguyện vọng của họ thì sẽ là nhu cầu thiết thực để họ tự nguyện tham gia
1.3.5 Hệ thống thông tin truyền thông
Có thể nói, công tác thông tin tuyên truyền về BHXH tự nguyện luôn được gắn liền với quá trình hình thành và phát triển chính sách BHXH Hiện nay, công tác thông tin tuyên truyền và phổ biến chế độ chính sách BHXH chưa được quan tâm đúng mức, chủ yếu thông qua hình thức in và phát hành các văn bản pháp quy Phạm vi đối tượng nắm và hiểu biết về các chế độ, chính sách BHXH chủ yếu chỉ dừng lại ở lãnh đạo các cấp, các ngành, những người làm công tác quản lý trong các
cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp thuộc khu vực Nhà nước
Sau khi hệ thống BHXH Việt Nam ra đời và đi vào hoạt động, nó đã trở thành cơ quan có chức năng tổ chức thực hiện các chế độ, chính sách BHXH -
Trang 38Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn/
BHYT và quản lý quỹ theo quy định của pháp luật Công tác thông tin tuyên truyền
đã được BHXH Việt Nam xác định là một nhiệm vụ và luôn được quan tâm tổ chức thực hiện Hệ thống thông tin tuyên truyền BHXH nói chung và BHXH tự nguyện cho nông dân nói riêng được coi là một công tác quan trọng của ngành BHXH
Do đặc điểm đối tượng tham gia BHXH tự nguyện là nông dân nên trình độ nhận thức và mức thu nhập thấp, hơn nữa lại không ổn định, thiếu điều kiện cơ sở vật chất để nắm bắt và cập nhật thông tin nên người nông dân luôn trong tình trạng thiếu thông tin trầm trọng Chính vì vậy, công tác thông tin tuyên truyền phải đa dạng hoá các hình thức và nội dung truyền thông, đơn giản hoá các vấn đề để người dân dễ hiểu Công tác thông tin tuyên truyền có vị trí rất quan trọng, nó có tác dụng chi phối, can thiệp, tác động đến kết quả tổ chức thực hiện chính sách an sinh xã hội Đồng thời, đưa chính sách BHXH tự nguyện đến các cấp, các ngành và mọi thành viên trong xã hội không chỉ nhằm nâng cao nhận thức và sự hiểu biết về mục đích, ý nghĩa chủ trương đường lối của Đảng và chế độ, chính sách của Nhà nước
Từ đó đem lại niềm tin và sự quan tâm hơn của mọi người dân
Với vai trò và sự ảnh hưởng đến quá trình phát triển BHXH tự nguyện như vậy, công tác thông tin tuyên truyền cần phải có những giải pháp linh hoạt phù hợp với tình hình thực tế của từng địa phương Làm sao cho người dân hiểu đúng hiểu
đủ, nắm bắt một cách dễ dàng nhất ý nghĩa và tính nhân văn của các chế độ, chính sách BHXH tự nguyện dẫn đến tự giác và nhận thức được tinh thần trách nhiệm với cộng đồng, kết quả là số nông dân tham gia BHXH tự nguyện ngày một đông hơn Điều đó cho thấy công tác thông tin tuyên truyền có nhiều ảnh hưởng đến sự phát triển BHXH tự nguyện cho người nông dân
1.4 Kinh nghiệm về mở rộng BHXH tự nguyện ở một số nước trên thế giới và của một số tỉnh ở Việt Nam
1.4.1 Ở một số quốc gia trên thế giới
Trên thế giới loại hình BHXH tự nguyện đã được thực hiện ở nhiều nước Nhưng do điều kiện về tài liệu có hạn nên đề tài chỉ nêu được tình hình thực hiện loại hình BHXH tự nguyện ở một vài nước trên thế giới để tham khảo thêm
Trang 39Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn/
1.4.1.1 Indonesia
Indonesia, một nước có tới 13.671 hòn đảo lớn nhỏ và cũng là một trong 5 nước đông dân cư nhất trên thế giới, năm 2011 có khoảng 241,6 triệu người, sống tập trung trên 300 hòn đảo, trong đó 2/3 dân số sống tại vùng đất màu mỡ của đảo Giava và đảo nhỏ Mađura nằm cạnh Trên 55% lực lượng lao động làm nông nghiệp Do đó, loại hình BHXH tự nguyện ở Indonesia chủ yếu thực hiện đối với lao động làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp đó là nông dân Tuy nhiên đa số nông dân đều sống với mức thu nhập tối thiểu, hầu như không đủ chu cấp cho các nhu cầu thiết yếu của cuộc sống chứ chưa nói đến việc phải trang trải cho các sự cố có thể xảy ra trong cuộc sống
Nói chung lao động nông nghiệp phải chịu những rủi ro xã hội lớn hơn so với rủi ro xã hội mà Người lao động thuộc các khu vực khác phải đối đầu Do đó, Chính phủ Indonesia xác định việc áp dụng những chương trình BHXH đối với dân số sống
ở nông thôn là một phần không thể thiếu được của chương trình kế hoạch phát triển nông nghiệp và nồng thôn trong khuôn khổ cung cấp các phúc lọi xã hội cho toàn dân Đặc điểm của sự phát triển nông thôn ở Indonesia là sử dụng mô hình chuyển đổi từ “một làng truyền thống” sang “một làng tiên tiến và tự cung tự cấp” thông qua
“một làng quá độ” Cho nên BHXH ở đây thường gắn kết chặt chẽ với các chính sách
xã hội khác như chính sách đảm bảo xã hội, cứu trợ xã hội, trợ cấp cho nông nghiệp ở nông thôn Indonesia lực lượng lao động chủ yếu bao gồm những người làm công ăn lương trong nông nghiệp và lao động tự do Lao động nông nghiệp thực hiện các công việc của họ thông qua các hợp đồng về việc làm bằng hợp đồng “miệng” hoặc bằng “văn bản”, hợp đồng "ngầm" hoặc hợp đồng “rõ ràng” hoặc thông qua trao đổi công việc Còn người lao động tự do là những nông dân độc lập hoặc lao động trong gia đình của mình Tuy nhiên hầu hết các vùng, lao động ở nông thôn và lao động tự
do là những người lao động thủ công: thủ công trong công việc thực tế của họ, trong cách sinh sống cũng như trong cung cách thu nhập của họ Do đó, họ càng cần được bảo vệ, che chắn của BHXH
Trang 40Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn/
Những chương trình BHXH được thực hiện đối với lao động trong khu vực nông thôn bao gồm: chăm sóc y tế, tuất, trợ cấp MSLĐ và trợ cấp hưu tuổi già
Hệ thống BHXH cần phải đủ quỹ để chi trả trợ cấp theo luật định cũng như trang trải cả quản lý phí Tuy nhiên, đối với dân số ở nông thôn vấn đề tài chính cho một hộ thống BHXH đang có nhiều khó khăn Do mức độ thu nhập của nông dân rất thấp, cần có các chế độ ưu tiên, hỗ trợ khác để giảm mức đóng góp cho họ và có nhiều phương thức đóng cho họ Chẳng hạn, có thể cho họ đóng nhiều lần hoặc một lần/năm Thậm chí, còn có thể cho phép họ đóng góp cố định theo năm nông nghiệp với cùng một mức đóng góp như nhau cho mọi người mà không gắn với thu nhập riêng của họ
Đối với những người làm công ăn lương đều phải tham gia BHXH bắt buộc
và được chủ sử dụng lao động đóng Riêng hưu trí người lao động phải đóng 2% tiền lương của mình Còn đối với lao động tự do khi tham gia BHXH tự nguyện, ấn định một mức đóng như nhau cho mọi thành viên
Phương pháp chi trả trực tiếp là dễ dàng nhất và việc chi trả được thực hiện ngay tại các quầy của các hợp tác xã trong làng hoặc thông qua thư ký của làng hoặc thôn xóm để họ trả cho người được hưởng
1.4.1.2 Hunggari
Hunggari có khoảng 10,1 triệu người (2011) Lịch sử hệ thống bảo hiểm hưu trí tuổi già của Hunggari được khởi đầu từ những hiệp hội mang tính tự nguyện liên quan đến những ngành nghề nhất định, bắt đầu từ ngành mỏ Sau đó, một hệ thống hưu trí đảm bảo cho đa số Người lao động trong cả nước có từ cuối thế kỷ XIX Đây chính là nền móng của hệ thống hưu trí sau này Từ 01/01/1929 hệ thống hưu trí của Hunggari được Nhà nước tổ chức và đảm bảo Đến 1975 thì nó đã trưởng thành và phát triển rộng khắp Tới thập niên 90 thu nhập của hệ thống này đã đạt tới 10% GDP
Song, để hệ thống hưu trí này hoạt động có hiệu quả hơn, Quốc hội Hunggari đã đưa ra điều luật cho phép mở ra các Quỹ hưu trí tư nhân tự nguyện và bắt buộc Trong các năm 1996-1997 Chính phủ đã xem xét và thay đổi cơ bản một số điều kiện nghỉ