LOI CAM ON
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Th.S - GVC Vũ Ngọc
Doanh Thầy đã trực tiếp hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học
tập, nghiên cứu, cũng như luôn động viên khuyến khích tôi thực hiện đề tải
này
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong tô Phương pháp dạy
Trang 2LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin khẳng định kết quả của đề tài “7i pháp thể loại với việc hướng
dẫn đọc — hiểu các tác phẩm tự sự trung đại trong trường THPT” không có sự trùng lặp với kết quả của các đề tài khác
Khóa luận này là kết quả sự nghiên cứu của bản thân tôi!
Hà Nội ngày 02/05/2010 Sinh viên
Trang 3MỤC LỤC Trang MO DAU L.Li do chon 48 tie eecseeeecseeeecssseteessseeesssnesesseeseesneeesssneeessnesesaees 1 2.Lịch sử vấn đề 2ccc 22H re 3
2.1 Những công trình nghiên cứu về thi pháp -zcs©<+¿ 3
2.2 Những công trình nghiên cứu về thể loại - s25: 4
2.3 Những công trình nghiên cứu về đọc — hiểu . -: - 5
3 Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu . - ++- + ++sx+e++exxexeeersee 7
4 Đối tượng, phạm vi nghiên cứu - 22+ ©s++z+£++rxcrresrxeereee 7 5 Phương pháp nghiên CỨU - - - 6 55 S4 9191 9111 1 91 91 1 gi re 7 69015840804: 0 0 8
7 Bố cục khóa luận ¿-2-++++2++e+22E t2 8
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1 NHỮNG VÁN ĐÈ CHUNG - 9
1 Thi pháp thé loai, thi phap tur su oo ceseeceecccceeseesesseeseeseseesesseesesseeseese 9 1.1 Thi phap thé lodie cecceccccecccscssessessessssssessessessessessessessessessessesseeseese 9
LLL Khai miém thi phap oe 9
1.1.2 Thé loai va thi phap thé lodi c.ccccccccessessessesssessessessesseeseesseess 12 6u) na 12
1.1.2.2 Thi pháp thể loại - - + ©2222 eSEEESEESEEEEEEEEEErrkrrkerree l6
1.2 Thi pháp tự sự và thi pháp tự sự trung đại . - 17
1.2.1 Loai hinh tur SU a4 17 1.2.2 Thi phap thé loai tt SU eee ceececesccsesececeescsececsesesececscsesecececereseceseee 22
1.2.3 Thi pháp tự sự trung đại 5 Sàn ni, 22
1.2.3.1 Khái niệm văn học trung đại ¿- +5 +55 sS<s++sx+ssseexsss 22
3
Trang 41.2.3.2 Thi pháp cỐt truyỆn ¿2+ +=+2xc2EE2E12211171211211 2122 cce 24 1.23.3 Thi pháp nhân vật .- - + k1 9 11 1 về, 25 1.2.3.4 Thi pháp ngôn ngữ 26 1.3 Thi pháp với tiếp nhận văn học 1.3.1 Tiếp nhận văn học 27
1.3.1.1 Cơ sở tiếp nhận văn học 2 22©2se+xevzxccEeExrrrerrkeree 28 1.3.1.2 Các bước tiếp nhận văn học ¿25+ ++2<s<++++szsx+sssx+ 29
1.3.1.2.1 Hoạt động đọc (văn bản) - c5 5c sscs + sseeseeerereee 29 1.3.1.2.2 Hoạt động phân tích (văn bản), -.-‹ - 55+ << s+sxsxs 29
1.3.1.2.3 Hoạt động cắt nghĩa (văn bản), 2-2 s+csecxccxerserxee 31
1.3.1.2.4 Hoạt động bình giá (văn bản) - 555cc seseieeses 31
1.3.1.3 Những khó khăn khi tiếp nhận văn học - 2-2-2 32
1.3.2 Tiếp nhận văn học từ hướng thi pháp - 2-2 s+s+s++ 32
2 Cơ sở thực tiỄn sec SE 1x1 151111 11151111111111111 11015 Exe key 33
CHƯƠNG 2 ĐỌC - HIẾU TÁC PHAM TU SU TRUNG DAI
THEO ĐẶC TRƯNG THỊ PHÁP 2 << s<ss2 35 1 Khái quát về đọc — hiều
1.1 Thế nảo là đọc — hiểu
1.2 Các bước đọc — hiỂu - ccccttt Hee
1.2.1 Doc thong, vài 36
1.2.2 Doc ki, GOC SAU .(+1 37
1.2.3 Doc hiéu, doc SANG CAO 38
1.2.4 Doc ứng dụng, đọc đánh giá .- - 5+5 ++e*++x£+eE+ekeeeeeees 39 2 Đọc - hiểu tác phẩm trung đại trong nhà trường THPT 39 2.1 Các tác phẩm văn học trung đại trong nhà trường THPT 39 2.2 Vị trí và tầm quan trỌng 2 2+s+2++x+EE+2k2EEtEE2EE2ExEEerxrrree 40
Trang 5
2.3 Vấn đề dạy học các tác phẩm tự sự trung đại trong trường THPT hiện nay
2.4 Dạy học tác phẩm tự sự trung đại theo thi pháp thể loại
2.5 Hướng dẫn học sinh đọc hiểu tác phẩm tự sự trung đại theo đặc trưng
thi pháp văn học trung đại 46
2.5.1 Đọc — hiểu cốt 0901 49 2.5.2 Đọc — hiểu nhân vật -¿- - sex tk SE EEEEEEEEESkEESkerkerecee 56
2.5.2 Đọc — hiểu ngôn ngữ 2-2-2 +sSEEE222EEEEE2EEEEeEErrrrree 64 CHƯƠNG 3 GIÁO ÁN THỰC NGHIỆM - 222 69
Trang 6MỞ ĐẦU
1 Lí do chọn đề tài
Văn chương là “một (hứ vũ khí vô song” có tác dụng bồi dưỡng tâm hồn và hoàn thiện nhân cách con người, M.Gorxki đã từng nói “Văn học là
nhân học” nên chúng ta phần nao thay được vai trò quan trọng của bộ môn
nghệ thuật được sáng tạo bằng ngôn từ này Trong nhà trường trung học phố thông bộ môn Ngữ văn là một trong những môn học chủ đạo Theo GS Trần Thanh Đạm trong cuốn “Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo loại thể” NXBGD: “Mục đích, ý nghĩa của môn giảng văn trong nhà trường là giúp
học sinh cảm thụ day đủ nhất, lĩnh hội được sâu sắc nhất mọi giá trị tư tưởng
và nghệ thuật trong hình tượng văn học của tác phẩm Từ đó mà giáo dục cho các em nhận thức, tự tưởng, tình cảm đạo đức và cả tư duy ngôn ngữ nữa ” Không những vậy, dạy văn là dạy cho học sinh phương pháp đọc, kĩ năng đọc, năng lực đọc để các em có thể hiểu bất cứ tác phâm nào cùng loại Điều này không phải là đơn giản với những người trực tiếp làm công tác giảng day
Với một tác phẩm văn học, để năm được những giá trị về tư tưởng nội dung, nghệ thuật có rất nhiều cách tiếp cận khác nhau và cách tiếp cận tác
phẩm theo thi pháp thể loại là một vấn đề khơng hồn toàn mới Nhưng từ những ngày đầu du nhập vào Việt Nam ngành thi pháp đã tạo ra bước đột phá cho bộ phận làm công tác văn học, có rất nhiều tác giả đã cho ra nhiều công
trình nghiên cứu về thi pháp giúp ích trong việc tiếp cận, nghiên cứu các tác
phẩm Độc giả han da quen thuộc với các đầu sách như: Từ kí hiệu học đến
thi pháp học, Thi pháp ca dao, Thi pháp truyện Kiều, Thi pháp thơ Tố Hữu,
Trang 7bên cạnh tên tuổi của những nhà nghiên cứu hàng đầu như: Hoàng Trinh, Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân Kính, Đỗ Bình Trị
Việc tiếp nhận các tác phâm văn học nói chung trong trường trung học
phố thông theo thi pháp thê loại là một van dé đòi hỏi người giáo viên phải có
những phương pháp thích hợp để giúp học sinh tiếp nhận một cách trọn vẹn và sâu sắc nhất Ngày nay, cùng với sự đối mới của chương trình Ngữ văn nên vấn đề phương pháp được đặt ra Việc phát huy tính tích cực, tự giác, chủ
động, sáng tạo của học sinh được đặt lên hàng đầu Hơn nữa, môn Ngữ văn
trong trường phô thông cũng đã có sự thay đổi đột phá Việc tiếp nhận tác phẩm văn chương bằng hoạt động “doc — hiểu” theo thể loại cũng là một trong các phương pháp mới Giáo viên hướng dẫn học sinh tiếp nhận các tác
phẩm Học sinh một mặt chịu sự tác động của giáo viên mặt khác phải phát
huy tư duy sáng tạo và khả năng tự học để nhận thức được cái “#ay” cái
“đẹp”, định hướng được sự tiếp nhận của mình để đón nhận những giá trị nội
dung, nghệ thuật nắm bắt được chiều sâu tác phẩm và thi pháp tac gia dé co những kĩ năng tạo lập một văn bản
Tác phẩm văn học trong chương trình phố thông thuộc rất nhiều loại
thể khác nhau trong đó thể loại tự sự chiếm tỉ lệ khá lớn Văn học Trung đại là một bộ phận quan trọng của nền văn học Việt Nam, nó được đánh dấu bằng
những tác phẩm có giá trị văn hóa cũng như lịch sử Rất nhiều tác phẩm tiêu biểu đã được lựa chọn và đưa vào giảng dạy trong trường phô thông là một tất
yếu để học sinh nắm được tiến trình của nền văn học cũng như những giá trị chỉ còn lưu giữ được qua các tác phẩm Vì vậy, có những phương pháp thích
hợp giúp học sinh nắm bắt được các tác phẩm là một điều cần thiết
Là người giáo viên Ngữ văn trong tương lai tôi chọn đề tài “Thi pháp
thế loại với việc hướng dẫn học sinh đọc — hiểu tác phẩm tự sự trung đại
Trang 8
trong trường THPT” Với mong muốn đóng góp một phần hiểu biết của mình vào việc đối mới phương pháp dạy học hiện nay Đề tài này rất có ý
nghĩa đối với tôi vì đây là những bước đầu tập làm khoa học, đồng thời giúp
cho bản thân tôi nắm vững, hiểu sâu hơn về phương pháp dạy học Ngữ văn, bố sung cho mình kiến thức đề tự tin đứng vững trên bục giảng
2 Lịch sử vấn đề
2.1 Những công trình nghiên cứu về thi pháp
Bộ môn Thi pháp học vốn ra đời từ thời cô đại ở Hy Lạp với tác phẩm
đầu tiên là “Nghệ thuật thỉ ca” của Aristote Thời trung đại ở châu Âu và
châu Á cũng ra đời nhiều tác phẩm bàn về phép tắc sáng tác văn chương
Người ta xếp những tác phẩm này vào loại Thi pháp học cỗ điển Còn Thi
pháp học hiện đại thì phải đến đầu thế kỷ XX mới hình thành Ban đầu phát
triển mạnh ở Nga với trường phái hình thức, sau đó dịch chuyên sang Âu — Mỹ Đến giữa thế kỷ XX thì trên thế giới, người ta không lạ gì phương pháp hình thức Tuy nhiên, bước đường phổ biến chủ nghĩa hình thức ở các nước
xã hội chủ nghĩa không may thuận lợi Thi pháp học là bộ môn khoa học cũ mà mới Cũ là bởi vì nó đã xuất hiện ở Hy Lạp từ thời cố đại với Nghệ thuật
thi ca của Aristote Nhưng Thi pháp học với tư cách là một bộ môn khoa học chỉ hình thành vào đầu thế kỷ XX ở Nga rồi dịch chuyển sang Âu - Mỹ và
phổ biến khắp thế giới Ở Việt Nam trước 1975, Thi pháp học đã thâm nhập
vào miền Nam nhưng chưa có điều kiện phô biến ở miền Bắc Mãi đến sau đổi mới, nó mới được chú ý và nhanh chóng trở thành “mốt” thời thượng
được nhiều người vận dụng Cho nên, mãi đến cuối thế kỷ XX, ở Việt Nam
mới bùng phát phong trào nghiên cứu Thi pháp học
Trang 9nghiên cứu văn học Ngay từ những năm 70, 80 của thế kỉ trước các ông đã có hàng loạt các bài nghiên cứu về các yếu tố riêng lẻ của thi pháp Nhưng để
ghi nhận sự hiện diện của thi pháp tại Việt Nam phải chờ đến công trinh "Thi
pháp thơ Tổ Hữu" (Trần Định Sử - NXB Tac pham méi 1987) Tac pham nay
đã khẳng định vị trí của thi pháp trong lĩnh vực nghiên cứu văn học Ngay sau đó hàng loạt công trình khác ra mắt bạn đọc như: 7i pháp ca dao (Nguyễn
Xuân Kính - NXB Khoa học xã hội 1992); Máy vấn đề thi pháp học hiện đại
(Trần Đình Sử , Hà Nội 1993); Máy vấn đề thi pháp học trung đại Việt Nam
(Trấn Đình Sử, Hà Nội 1999); Những đặc điểm thi pháp của các thể loại văn
học dân gian (Đỗ Bình Trị, Hà Nội 1999); Thị pháp hiện đại (Đỗ Đức Hiểu,
NXB Hội nhà văn, Hà Nội 2000); Văn học và thời gian (Trần Đình Sử, Hà
Nội 2001) Đặc biệt thi pháp còn thu hút được sự chú ý đông đảo các nhà
nghiên cứu trẻ tuổi là sinh viên, học viên các trường đại học
2.2 Những công trình nghiên cứu về thể loại
Trong cuốn “Nghệ (huật thi ca" của Arixtot đã đưa ra ba phương thức
"mô phỏng" hiện thực của ba loại chình là tự sự, trữ tình, kịch
“Lí luận văn học” của Gulalep cũng đã đề cập tới 3 thể loại văn học: Loại tự sự, loại trữ tình, loại kịch
Ở Việt Nam chúng ta có thể kể đến hai cuốn giáo trình lí luận văn học của trường Đại học Sư phạm do GS Phương Lựu chủ biên và cuốn giáo trình
của trường Đại học Tống hợp do GS Hà Minh Đức chủ biên đã dành một phần lớn nói về thể loại văn học Đây là cơ sở cho các hoạt động sáng tạo, nghiên cứu phê bình cũng như là cơ sở lí luận cho việc tiếp cận các tác phẩm văn chương từ góc độ thể loại
Trang 10
Ngoài ra còn có các tác phẩm nghiên cứu văn học theo thể loại như "Văn học Lí - Trần nhìn từ thể loại" (Nguyễn Thanh Hùng - NXB Giáo dục,
Hà Nôi 1996) "Đổi mới về nghệ thuật tiểu thuyết phương Tây hiện đại"
(GS.Đặng Anh Đảo)
Người đầu tiên đề cập đến việc đưa lí luận về đặc trưng thể loại vào
việc giảng dạy tác phẩm văn học trong nhà trường là GS Trần Thanh Đạm, trong cuốn chuyên luận “Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo loại thể" (NXB Giáo dục, Hà Nội 1971) Trong cuốn sách này tác giả đã giới thiệu một
số kiến thức về thể loại văn học của các thể loại phô biến trong chương trình
văn học trung đại phố thông Trên tỉnh thần đó GS Nguyễn Thanh Hùng đã
cho ra đời cuốn “Hiểu văn, đạy văn", NXB Giáo dục, Hà Nội 2000), Nguyễn
Viết Chữ cho ra cuốn "Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương theo thể
loại" (ÑNXB Giáo dục, Hà Nội 2000)
2.3 Những công trình nghiên cứu về đọc - hiểu
Đọc ra đời từ xa xưa, khi con người sáng tạo ra chữ viết thì bắt đầu có
hình thức đọc với mục đích là tiếp nhận thông tin, tìm hiểu tri thức Đọc —
hiểu để làm gì? Đọc — hiểu đề tích lũy vốn sống, tri thức tiến tới hoàn thiện về
tâm lí và nhân cách Đọc — hiểu còn hình thành cho học sinh những kĩ năng
chuyên biệt như: nghe, nói, đọc, viết
Trên thế giới, trong công trình “Phương pháp giảng dạy văn học ở
trường phổ thông" của A.NhiKônxki đã khẳng định "học sinh là độc giả tác
phẩm văn học" Đồng thời tác giả đã đưa ra phương pháp "doc dién cam" la.Rez chủ biên giáo trình “Phương pháp luận dạy văn học”
Trang 11GS TS Nguyễn Thanh Hùng trong cuốn “Văn học và nhân cách" (NXB Văn học, 1994) và công trình “ăn học tam nhìn biến đối" (NXB Văn học, 1996) "Đọc và tiếp nhận văn chương" (NXB Giáo dục, 2002) GS Phan Trọng Luận trong chuyên luận “Cảm thụ văn học, giảng dạy văn học ” đã phân tích rõ tầm
quan trong của hoạt động doc GS Trần Đình Sử “Đọc - hiếu là một khâu đột
phá trong nội dung và phương pháp dạy học hiện nay” (Tài liệu bồi đưỡng
giáo viên, NXB Giáo dục, 2006) “Đọc văn, học văn” (NXB Giáo dục —
2001) Ngoài ra Trần Đình Sử còn có rất nhiều bài viết nhấn mạnh vai trò của
đọc — hiểu như “Môn văn thực trạng và giải pháp” (Báo Văn nghệ số ra
14/02/1998) Tran Thanh Dam “Day van: day doc, day viết” (Báo văn nghệ,
2005) Nguyễn Trọng Hoàn “Phát triển năng lực đọc trong dạy học văn”
(Báo Văn học và Tuôi trẻ số 7, 2003)
Tất cả các bài viết của các nhà nghiên cứu đều cho rằng đọc là hoạt động đầu tiên của tiếp nhận văn chương và khẳng định vai trò của đọc hiểu không chỉ trong văn chương và mà cả trong đời sống
Việc tiếp cận tác phẩm theo thi pháp thể loại với việc hướng dẫn học
sinh đọc hiểu tác phẩm tự sự trung đại Việt Nam còn rất nhiều điều cần được nghiên cứu một cách kĩ lưỡng vì vậy, dựa trên các thành tựu nghiên cứu của các nhà khoa học về thi pháp học, về đặc trưng thể loại và vấn đề đọc — hiểu,
người viết khóa luận này chọn đề tài “Thi pháp thể loại với việc hướng dẫn
Trang 123 Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Trong khóa luận này tập chung tìm hiểu những vấn đề sau: - Tập hợp các vấn đề cơ sở lí luận có liên quan đến đề tài: + Thi pháp học + Thể loại + Lí thuyết tiếp nhận + Đọc - hiểu tác phẩm tự sự trung đại trong trường THPT theo thi pháp thể loại
- Trên cơ sở lí luận đó có thể xác lập cách thức tiếp cận các tác phẩm tự sự
trung đại theo thi pháp thể loại
4 Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 4.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của chúng tôi tập chung vào việc tìm hiểu về vấn
đề thi pháp và thi pháp tự sự trung đại Ngoài ra chúng tôi còn tìm hiểu về thể loại và đặc điểm của thể loại tự sự và vấn đề tiếp nhận văn học đề từ đó ứng dụng các kết quá vào việc hướng dẫn học sinh đọc — hiểu các tác phẩm tự sự
Trung đại trong trường THPT
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ đề tài tài “Thi pháp thể loại với việc hướng dẫn
học sinh đọc hiểu tác phẩm tự sự trung đại trong trường THPT” chúng tôi chỉ tập chung vào các tác phẩm tự sự trung đại được đưa vào trong chương trình trung học phô thông
5 Phương pháp nghiên cứu
1 Phương pháp hệ thông 2 Phương pháp phân tích
Trang 134 Pháp thực nghiệm
6 Đóng góp khóa luận
Nghiên cứu đề tài khoa học này chúng tôi hi vọng với mục tiêu ứng dụng thi pháp thể loại vào việc hướng dẫn đọc - hiểu các tác phẩm tự sự trung đại ở trường THPT, sẽ giúp học sinh tiếp cận được tác phẩm một cách trọn
vẹn nhất
Khang dinh vai trò quan trọng của thi pháp thể loại trong việc tiếp nhận
các tác pham văn học đặc biệt là các tác phâm văn học trung đại ở trường
THPT từ đó có những phương pháp dạy học thích hợp để nâng cao chất lượng
giờ học Đồng thời định hướng cho học sinh những hướng tiếp nhận bài giảng một cách tỉ mỉ và đầy đủ nhất 7 Bố cục khóa luận Gồm 3 phần Phần mở đầu Phần nội dung: gồm 3 chương Chương 1 Những vấn đề chung
Trang 14NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
NHUNG VAN DE CHUNG
1 Thi pháp thế loại, thi pháp tự sự
1.1 Thi pháp thể loại
1.1.1 Khái niệm thi pháp
Thi pháp học là bộ môn cổ xưa nhất và cũng là bộ môn hiện đại nhất
của nghiên cứu văn học đem lại cho tình hình nghiên cứu văn học những sinh khí mới Khi nghiên cứu lịch sử văn học, nó hướng tới khám phá sự tiến hóa
của các phương tiện, phương thức và hình thức nghệ thuật
Trong các bộ môn của ngành nghiên cứu văn học hiện nay như lịch sử
văn học lí luận, phê bình văn học thì thi pháp học là bộ môn nghiên cứu có nhiệm vụ khá đặc thù Cũng như nhiều bộ môn nghiên cứu văn học khác hiện
đang được triển khai theo chiều hướng khác nhau, về thi pháp học hiện nay
cũng khó tìm được một định nghĩa nào được mọi nhà nghiên cứu chấp nhận
Nhà nghiên cứu Đỗ Đức Hiểu trong “7i pháp hiện đại ” đã trình bày như sau: “7i pháp là phương pháp tiếp cận, tức là nghiên cứu, phê bình tác phẩm văn học từ các hình thức biểu hiện bằng ngôn ngữ nghệ thuật để tìm hiểu các ý nghĩa biểu hiện hoặc chìm ẩn của các tác phẩm: ý nghĩa mĩ học,
triết học, đạo đức học, lịch sử, xã hội học Cấp độ nghiên cứu thi pháp học các hình thức nghệ thuật (kết cấu âm điệu, nhịp điệu, nhịp câu, đối thoại, thời
gian, không gian, cú pháp, yêu câu đọc tác phẩm như một chỉnh thể ở đó các yếu tô ngôn ngữ liên kết chặt chẽ với nhau, hợp thành một hệ thống để biểu
đạt ý tưởng, tình cảm tư duy, nhân sinh quan `
2
Trang 15GS Tran Dinh Sir da dinh nghia “Thi pháp là hệ thống các nguyên tắc nghệ thuật chỉ phối sự tạo thành của một hệ thống nghệ thuật với các đặc sắc của
nó Thi pháp không phải là nguyên tắc có trước, nằm bên ngoài mà là nguyên
tắc bên trong, vốn có của sáng tạo nghệ thuật Nó là mĩ học nội tại của sáng tác nghệ thuật gắn liền với sự sáng tạo và một trình độ văn hóa nghệ thuật nhất định, mang một quan niệm nhất định với cuộc đời, con người và bản thân nghệ thuật Thi pháp biểu hiện trên các cấp độ: tác phẩm, thể loại, ngôn
ngữ, tác giả và bao trùm lên là cả nền văn học
Theo GS Trần Đình Sử, thi pháp là cấp nghiên cứu hình thức nghệ
thuật trong tính chỉnh thể, tính quan niệm Chỉ trong hình thức như thế ta mới có thể hình dung được tầm vóc tư duy nghệ thuật của nghệ sĩ, chiều sâu, cách
thức phản ánh hiện thực và nội hàm thắm mĩ của tiếng thơ Và cũng chỉ ở cấp độ đó, ta mới nhận thức được những đóng góp về hình thức nghệ thuật cho sự phát triển của văn học, xác định được vài trò và số phận lịch sử, sự tiến hóa của các hình thức khái quát, biểu hiện nghệ thuật, cũng như khám phá đời
sống một cách hình tượng
Tác giả của cuốn “7#? pháp ca dao” Nguyễn Xuân Kính cho rằng: “Thi pháp là tổ hợp những đặc tính thẩm mĩ — nghệ thuật và phong cách của
một hiện tượng văn học, là cầu trúc bên trong của nó, là hệ thống đặc trưng
của các thành tô nghệ thuật và mối quan hệ giữa chúng” Theo tác giả thi pháp có thê hiểu theo hai hướng Thi pháp theo nghĩa hẹp “1à sự tổng hợp các
thành tổ (hoặc các cấp độ) của hình thức nghệ thuật của tác phẩm ngôn từ: cối truyện, kết cấu, các hiện tượng ngôn ngữ nghệ thuật nhịp và vần” Còn
hiểu theo nghĩa rộng, ngoài các thành tố nói trên thi phap con “bao gom cả những vấn đề loại hình, thể tài, những nguyên tắc và phương pháp phản ánh thực tại và các phạm trù: Không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật, quan niệm của tác giả về thể giới và con người ”
7 15
Trang 16“Thi pháp là hệ thống các phương thức, phương tiện biểu hiện đời sống bằng hình tượng nghệ thuật trong sáng tác văn học Hệ thống đó có thể chia tách thành các phương tiện (yếu tô), thể loại, kết cấu, phương pháp, không gian, thời gian, ngôn ngữ ” [Nguyễn Thị Bích Hải (2006) Thi pháp thơ Đường NXB Thuận Hóa — Huế 8 tr10]
Có thể thấy điểm xuất phát của thi pháp là coi tác phẩm văn học là văn
bán ngôn từ Từ văn bản ngôn từ ấy hiện lên một thế giới nghệ thuật — hình thức để phân tích tác phẩm Thế giới nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo cũng của nhà văn Người đọc có thể cảm nhận được thế giới nghệ thuật đó khi mở
trang đầu của tác phẩm văn học Mỗi tác phẩm có một thế giới không gian riêng nhưng là không gian, thời gian được sắp xếp, cấu tạo nên gọi là không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật Trong thế giới nghệ thuật, con người giữ vai trò trung tâm, là đối tượng miêu tả chủ yếu của văn học Con người trở thành nhân vật văn học thể hiện tư tưởng của tác giả Trong thế giới đó vang lên nhiều giọng nói, giọng kê Có thé đó là tiếng nói của bức tranh thiên
nhiên, của các nhân vật, đồ vật, hình ảnh
Từ khái niệm thi pháp dẫn theo khái niệm thi pháp học Theo từ điển “Thuật ngữ văn học ” thì “Thi pháp học là khoa học nghiên cứu thi pháp, tức là hệ thống các phương thức, phương tiện, thủ pháp biểu hiện đời sống bằng hình tượng nghệ thuật trong sáng tác văn học Mục đích của thi pháp học là
chỉ tách và hệ thông hóa các yếu tô của văn bản nghệ thuật tham gia vào sự
tạo thành thế giới nghệ thuật, ấn tượng thẩm mĩ và chiều sâu phản ánh của sáng tác nghệ thuật ”Ƒ12, tr 304]
Trong chuyên đề “7i pháp học hiện đại” GS Trần Đình Sử đã khẳng
định “Thi pháp học là một bộ môn nghiên cứu tắt cả mọi phương điện của
Trang 17Theo Đỗ Đức Hiểu thì “7i pháp học là một ngành khoa học chuyên nghiên cứu tác phẩm văn học đề hướng dẫn cho sáng tác và tiếp nhận văn học Thi pháp học đem đến cho diễn đàn nghiên cứu, phê bình văn học, giảng
day van học nhiều thuật ngữ mới, cách diễn đạt mới ”
Thi pháp học theo định nghĩa của Varga là trước hết nghiên cứu các
phương thức nghệ thuật, miêu tả đặc trưng của thể loại văn học, từ đó mới tìm
tòi các tầng lớp ý nghĩa ân giấu của tác phâm
Đứng từ những góc nhìn khác nhau các tác giả đưa ra những khái niệm khác nhau về thi pháp học nhưng tựu chung lại chúng ta có thể biết được phân tích tác phẩm theo thi pháp học là phải đi từ những yếu tố hình thức đến
nội dung Những điều thuộc văn bản thế giới nghệ thuật là phạm vi hình thức,
là cái phản ánh Nội dung là cái biểu hiện, là thông tin nghệ thuật chứa trong cái phản ánh và được rút ra từ các yếu tô hình thức
1.1.2 Thi pháp thể loại 1.1.2.1 Thể loại
Theo “Tir điển tiếng Việt” do Hoàng Phê (chủ biên) (NXB Đà Nẵng,
2007) thì thê loại là “hình thức phản ánh hiện thực, vận dụng ngôn ngữ” [10, trang 933]
Theo “7 điển văn học” thì thể loại là “hình thức biếu hiện của tác phẩm văn học dựa theo kết cấu (thơ ca, tiểu thuyết, tản văn, kịch) ”
Theo “7? điển thuật ngữ văn học” của Lê Bá Hãn, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi thi thé loại được hiệu là “đang /hức của tác phẩm được ton tại trơng đối ốn định trong quả trình phát triển của lịch sử văn học, thể hiện
ở sự giống nhau về cách thức tổ chức tác phẩm, về đặc điểm của các loại hình tượng đời sống được miêu tả về tính chất của mối quan hệ của nhà văn đối với các hiện tượng đời sống ấy” [9, tr.297]
- \ 17
Trang 18Thể loại văn học là một phạm trù của lí luận văn học, là một phương
diện ốn định bền vững trong cấu trúc của một tác phẩm văn học Đó là kết quả của sự trừu tượng hóa, khái quát hóa thực tế cụ thể, sinh động của sáng tác
văn học Khái niệm này được hình thành bởi hai khái niệm cấu thành là
“loại” và “thể”
“Loại” (loại hình): là phương thức mà người nghệ sĩ sử dụng để sáng
tạo nên hình tượng nghệ thuật của tác phẩm Loại hình mang tính qui luật nên
có tính bền vững và phố biến Tức là phải được sử dụng ở tất cả các nhà văn
và xuất hiện ở tất cả các trào lưu, xu hướng văn học, nền văn học Loại hình
bao gồm: trữ tình, tự sự và kịch
“Thế” (thể tài) là hình thức tổ chức ngôn ngữ, quy mô, dung lượng của
tác phẩm Nếu như “loại” là khái niệm có tính bền vững thì “thế” không có
tính bền vững, nó luôn biến đổi, bên cạnh những thể truyền thống còn có
những thể mới Về số lượng thì “thể” nhiều hơn “loại”, về phương diện nội dung thì khái niệm thể tài lại nằm trong loại hình, tức là một loại nhưng bao
gồm nhiều thê tài khác nhau Bắt kì một tác phâm văn học nào cũng thuộc
một loại nhất định và quan trọng hơn là có một hình thức thể nào đó Loại chỉ giới hạn nhất định trong 3 loại là trữ tình, tự sự, kịch thì ta có thé thay trong
loại có rất nhiều thể khác nhau như: Loại tự sự có các thể: truyện ngắn, truyện vừa, Loại hình kịch có: hài kịch, bi kịch, chính kịch
Thời Hi Lạp cổ đại Aristot trong công trình “Nghệ (huật thi ca” đã chia
tác phẩm văn học thành ba loại: Tự sự, Trữ tình, Kịch Về sau cá học giả
Boalô, Horatxơ, Bêlinxki cũng chia tác phẩm thành ba loại cơ bản Bêlinxki đã khẳng định “7hơ (ức văn học) chỉ có ba loại ngồi ra khơng có loại nào khác nữa và cũng không thể có hơn” Tiêu chuẩn và căn cử đề phân chia loại
Trang 19không phải hình thức bên ngoài Tức là mọi sự phân chia là từ sự cấu tạo bên
trong của tác phẩm văn học chứ không phải là đơn thuần dựa vào một số biểu
hiện về hình thức bên ngoài Kiến trúc tác phẩm, cấu tạo hình tượng như thế
nào là don phương thức phản ánh và biểu hiện đó qui định Nếu hình tượng thiên về mặt biểu hiện tư tưởng tình cảm của tác giá ta sẽ có tác phẩm trữ
tình, nếu hình tượng thiên về mặt biểu hiện con nười, sự việc trong cuộc sống ta sẽ có tác phẩm tự sự Tác phẩm tự sự tập chung, cô đọng đến mức độ bản thân nhân vật, sự việc, câu chuyện có thé tự mình bộc lộ trên trang sách
hoặc trên sân khấu, không cần sự “dẫn chuyên” của tác giả, như thế ta sẽ có
tác phẩm kịch Trữ tình, tự sự và kịch là ba phương thức cơ bản nhất của sự
phản ánh hiện thực cuộc sống và biểu hiện nội tâm của tác giả, ba phương thức cơ bản của sự cấu tạo hình tượng, khiến trúc tác phẩm văn học Đồng thời đó cũng là ba lọai cơ bản nhất trong lòng mỗi loại và trên biên giới của
mỗi lọai thể sẽ nảy sinh rất nhiều các thể khác nhau của sự sáng tác văn học
Nhưng trên thực tế chúng ta không nên đi xác định rõ ràng, dứt khoát ranh giới giữa các loại thể bởi trong quá trình phát trién văn học các loại thể luôn có sự tác động qua lại, b6 sung cho nhau Chăng hạn chúng ta có thé tìm thấy những yếu tố trữ tỉnh trong tác phẩm tự sự như: “?z„yện Kiểu” của Nguyễn Du
Trong lịch sử phân chia loại thể cũng tồn tại nhiều cách phân chia khác nhau như ở Trung Quốc thì sự phân chia thể loại sớm nhất chỉ chia thể loại văn học ra làm hai loại là: Thơ và Văn xuôi Ở Việt Nam, các giáo trình lí luận văn học chủ yếu dựa trên cơ sở lối chia ba loại nhưng chọn trình bày bốn
thể loại tiêu biểu: Thơ, trữ tình, kịch, tiểu thuyết Các tạp văn, chính luận được xếp vào thể kí, tiểu thuyết Các thể tạp văn, văn chính luận nghệ thuật
được xếp vào thê kí
7 19
Trang 20Trong giáo trình “Lí luận văn học ” cua Phuong Luu chủ biên lại chia văn học thành năm loại như: Trữ tình, tự sự, kí, kịch và chính luận
GS Đỗ Đức Hiểu trong cuốn “7 pháp hiện đại” đã chọn cách chia
văn học thành ba loại: Thơ, tiểu thuyết và kịch dựa trên hai trục là trục dọc và trục ngang Trục dọc hay còn gọi là chục lựa chọn, thay thế, tương đồng, quy
chiếu là trục của thơ Trục ngang hay còn gọi là chục phối hợp liền kể biến
có, xung đột với hệ biến hóa gọi là chục dọc của kịch và tiểu thuyết
Có thể thấy cách phân chia văn học thành ba loại:Tự sự, trữ tình và
kịch có nhiều ưu điểm và đây là cách phân loại thông dụng nhất của văn học
hiện nay Đó là ba loại phương thức cơ bản nhất của sự phản ánh hiện thực
cuộc sống và biểu hiện nội tâm của tác giả, ba phương thức cơ bản nhất của
sự cấu tạo hình tượng, kiến trúc tác phẩm văn học Đồng thời đó cũng là ba
loại cơ bản nhất trong lòng mỗi loại và trên biên giới của mỗi loại sẽ nảy sinh
rất nhiều các thể khác nhau của sự sáng tác văn học Từ ba loại thể trên có thể chia nhỏ như sau: - Tự sự: + Tự sự dân gian: Thần thoại, truyền thuyết, cô tích, ngụ ngôn, truyện CưỜi + Tự sự trung đại và hiện đại: Truyền kì, tiểu thuyết, truyện, kí - Trữ tình:
+ Trữ tình dân gian: Ca dao, câu đồ
+ Trữ tình trung đại và hiện đại: Thơ cỗ thể truyền thống, thơ tự do
- Kịch:
+ Kịch dân gian: Chèo, tuông, múa rối
Trang 211.1.2.2 Thi pháp thể loại
Thể loại là một trong những cấp độ nghiên cứu quan trọng của thi pháp học Cho đù có những ý kiến cực lực phê phán sự phân chia văn học thành các
loại thể nhưng một thực tế hiển nhiên là các thể loại ra đời không phải là do
các nhà sáng tác hay các nhà lí luận tự tiện bày đặt ra mà do nhu cầu của chính cuộc sống, của sự phân hóa các địa vực trong sáng tác và cuối cùng là sự khác biệt trong các phương thức và kiểu sáng tác Sự phân chia các tác phẩm vào giới hạn của thể loại tạo nên gương mặt riêng của mỗi thời kì văn
học, nói cách khác là đưa chúng vào một chỉnh thể lớn hơn, từ đó giúp người
đọc hiểu đầy đủ hơn, chính xác hơn khi tiếp cận tác phẩm Rõ ràng tác phẩm
nào cũng thuộc về một thể loại, người sáng tác chọn cho mình một loại
phương thức thể hiện nào đó là mặc nhiên kế thừa những sáng tạo của cộng đồng về thể loại đó Đồng thời, cũng làm giàu cho sự vận động tiếp nhận của
thể loại ay trong hành trình văn học Như vậy, văn bản không chỉ tồn tại tự thân mà còn hiện diện trong một “liên văn ban” nối đài giữa quá khứ - hiện tại
và tương lai của văn học Ngoài sự kế thừa những phương thức phản ánh và biểu hiện chung của một loại tác phẩm nhất định Mỗi tác phâm đều tự sáng tạo để vượt mình trong sự vận động không ngừng
Thi pháp thể loại không những chỉ ra cái chung trong cách thức phản ánh thế giới và tổ chức nghệ thuật mà còn là cơ sở để khám phá cái riêng, giá
trị của mỗi tác phẩm Có thể nói thi pháp thể loại không đơn thuần là sự phân loại mà còn tính đến nội dung có tính chất loại hình cùng với sự vận động của nó trong lịch sử sáng tạo nghệ thuật
7 21
Trang 221.2 Thi pháp tự sự và thi pháp tự sự trung đại 1.2.1 Loại hình tự sự
Theo “Từ điển tiếng Việt 2007” cho rằng: “Tự sự là thể loại văn học
phản ánh hiện thực bằng cách kể lại sự việc, miêu tả tính cách thông qua cốt
truyện tương đối hoàn chỉnh ”
“Từ điển thuật ngữ văn học” của Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn
Khắc Phi có ghi “7 sự là phương thức tải hiện đời sống bên cạnh hai
phương điện khác là trữ tình và kịch ”
GS Tran Thanh Dam trong “Máy vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học
theo loại thể” quan niệm: “7 sự là loại tác phẩm văn học tái hiện trực tiếp hiện thực khách quan “như một cải gì tách biệt”, “ở bên ngoài ” đối với tác giả thành một câu truyện có sự phát triển tâm trạng, tính cách, hành động
của con người ”
Từ góc độ lí luận văn học thì tự sự là “7ác phẩm phản ánh đời sống
trong tính khách quan của nó — qua con người, hành vì, sự kiện được kể lại
bởi một người kể truyện nào đó ”
Như vậy tự sự trước hết là tiêu chí đề phân loại tác phẩm văn học Mặt
khác văn học là nghệ thuật ngôn từ người nghệ sĩ sử dụng ngôn từ như một công cụ và phương tiện đề tái hiện đời sống Hay nói khác đi văn học phản ánh kết quả nhận thức của người nghệ sĩ về cuộc đời Hơn nữa phản ánh và biểu hiện trong văn học có nhiều phương thức khác nhau mà tự sự là phương
thức cơ bản: nhà văn dùng phương thức kể để tái hiện kết quả nhận thức, đời sống khách quan nhằm gửi vào đó tư tướng, tình cảm của mình
1.2.1.1 Sự phân chia thể loại tự sự
Căn cứ vào tiến trình lịch sử văn học có thé chia tự sự thành: Tự sự dân
Trang 23Căn cứ vào phương pháp sáng tác có thể chia tự sự thành: Tự sự chủ
nghĩa cô điền, tự sự chủ nghĩa lãng mạn, tự sự chủ nghĩa hiện thực
Căn cứ vào dung lượng có thể chia tự sự thành: Truyện vừa, truyện ngắn, truyện dải
Trên đây là những căn cứ cơ bản để chia thể loại tự sự Hiện nay khi
phân chia thể loại tự sự chúng ta vẫn căn cứ vào những tiêu chí này 1.2.1.2 Đặc điểm cúa thể loại tự sự
Có nhiều quan niệm và cách xác định đặc điểm tự sự nhưng có một
quan niệm được nhiều người đồng tình và chấp nhận đó là loại hình tự sự gồm có ba đặc điểm là cốt truyện, nhân vật và ngôn ngữ
1.2.1.2.1 Cốt truyện
Cốt truyện là đặc điểm đầu tiên, là dấu hiệu của một tác phẩm tự sự Trong
“Từ điển tiếng Việt 2007” cho rằng: “Cốt truyện hệ thống sự kiện làm nòng cốt cho sự diễn biến các mới quan hệ và sự phát triển của tính cách nhân vật trong tác phẩm văn học loại tự sự ”
Theo “Ti điển thuật ngữ văn học” của Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi quan niệm: “Cốt truyện là hệ thống sự kiện cụ thể, được tổ chức theo yêu cau tu tưởng và nghệ thuật nhất định, tạo thành bộ phận cơ
bản, quan trọng nhất trong hình thức động của tác phẩm văn học ”
Trong “150 thuật ngữ văn học” thì: “Cốt truyện là sự phát triển hành
động, tiến trình các sự việc, các biến cố trong tác phẩm tự sự và kịch, đôi khi
cả các tác phẩm trữ tình”
Ta có thê đi đến một định nghĩa chung nhất cho cốt truyện: Cốt truyện
là một tập hợp các biến cố, các sự kiện, các tình tiết điễn ra trong tác phẩm, được sắp xếp theo một trật tự logic nhất định
Cốt truyện thường tô chức sắp xếp theo hai trường hợp:
7 23
Trang 24- Trường hợp 1: Sắp xếp các tình tiết theo chiều thời gian: Đây là cách
sắp xếp phố biến nhất Có hai kiểu thời gian là: thời gian tuyến tính và thời
gian đa chiều Việc sắp xếp theo thời gian tùy thuộc vào ý đồ nghệ thuật của tác giả
Trường hợp 2: Sắp xếp các tình tiết theo chiều không gian: Tùy theo quy mô của sự kiện, có nhiều hay ít sự kiện Mỗi sự kiện xảy ra trong không gian khác nhau và có hai không gian là: Không gian khách quan và không gian tâm lí nhưng khi vào nghệ thuật thì có chung tên gọi là không gian
Về phương diện kết cấu và qui mô nội dung cốt truyện có thể chia thành hai loại là cốt truyện đơn tuyến và cốt truyện đa tuyến Mọi cốt truyện đều trải qua một tiến trình vận động thông thường gồm: trình bày, thắt nút,
phát triển, đỉnh điểm, kết thúc Tuy nhiên không phải bat cứ cốt truyện nào
cũng đủ các thành phần đó vì thế không nên máy móc khi đi phân tích các thành phần của cốt truyện
Có thể thấy rằng, cốt truyện có vai trò quan trọng trong tác phẩm tự sự
Nhà văn khi làm ra tác phâm thì việc đầu tiên là xác lập được cốt truyện và
khi chúng ta đi tìm hiểu tác phẩm thì đầu tiên cũng phải đi tìm hiểu cốt truyện
để có cái nhìn bao quát tác phẩm và có thể giúp bạn đọc hình dung về sự vận
động của hình tượng, hoặc ý đồ của tác giả
1.2.1.2.2 Nhân vật
Đối tượng chủ yếu của văn học là những con người với cuộc sống bên
trong và cuộc đời bên ngoài của họ Tự sự không phải chỉ kể về các biến có, các sự việc, tự sự là văn học kể về con người, về vận mệnh của con người
Cốt truyện là yếu tố quan trọng nhất Cốt truyện là sự việc, là biến cố đang vận động, đang phát triển nhưng trung tâm của cốt truyện là nhân vật
Theo “Tir dién tiếng Việt 2007”: “Nhân vật là đối tượng (thường là
Trang 25Theo “7 điển thuật ngữ văn học” do Lê Bá Hán, Trần Đình Sử,
Nguyễn Khắc Phi (chủ biên) NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội 2002, tr 202:
“Nhân vật văn học là con người cụ thể được miêu tả trong tác phẩm ”
Thé nhưng theo một số nhà lí luận thì khái niệm “nhân vật” được quan
niệm với một phạm vi rộng hơn nhiều Đó không phải chỉ là những con người
cụ thể được miêu tả trong tác phẩm, có tên hoặc không có tên, được khắc sâu
hay chỉ xuất hiện thoáng qua trong tác phẩm mà còn có thể là những sự vật, loài vật hoặc ít nhiều mang bóng dáng, tính cách con người
Đặc điểm quan trọng nhất của tác phẩm là nhân vật Nhân vật là hình thức của tự sự, nó là phương tiện mà nhà văn sử dụng, phản ánh cuộc sống khách quan Mỗi nhân vật trong tác phẩm tự sự bao giờ cũng được đặt vào rất
nhiều mối quan hệ: quan hệ với hoàn cảnh, quan hệ với môi trường, quan hệ
với cộng đồng (với những nhân vật khác) Những quan hệ ấy là căn cứ và là
cơ sở đề nhà văn thể hiện tính cách nhân vật Ngoài ra tính cách nhân vật còn
được thông qua ngoại hình, hành động, ngôn ngữ Phân loại nhân vật:
Dựa vào vị trí của nhân vật trong tác phẩm có thê chia nhân vật thành:
Nhân vật chính, nhân vật phụ, nhân vật trung tâm
Dựa vào tính cách của nhân vật và lí tưởng thấm mĩ xã hội của nhà văn có thể chia nhân vật thành: nhân vật chính diên và nhân vật phản diện
Xét theo cấu trúc của tác phẩm nhân vật có thê chia thành: nhân vật
chức năng, nhân vật loại hình, nhân vật tính cách, nhân vật tư tưởng
Trong quá trình giáng dạy chúng ta không thê tiễn hành phân tích tất cả các nhân vật trong tác phẩm mà chúng ta phải tiến hành thống kê cho đủ các
nhân vật rồi từ đó tìm ra nhân vật chính Nếu một tác phẩm có nhiều nhân vật
chính thì phải chọn ra đâu là nhân vật trung tâm của tác phẩm
- \ 25
Trang 261.2.1.2.3 Ngôn ngữ
Đặc điểm thứ ba của loại tự sự là ngôn ngữ Ngôn ngữ vừa là công cụ,
vừa là phương tiện để nhà văn thê hiện tác phẩm Nếu như không có ngôn
ngữ thì không có tác phẩm văn học
M Gorki khẳng định: “Yếu /ó đâu tiên của văn học là ngôn ngữ, công
cụ chủ yếu của nó và cùng với các sự kiện, các hiện tượng của cuộc sống là chất liệu của văn học” (M Gorki — bàn về văn học, tập 2 NXB văn học —
H.1965, tr 206)
Ngôn ngữ trong tác phẩm tự sự được chia thành hai loại: Ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữ người kê chuyện
- Ngôn ngữ nhân vật: Ngôn ngữ nhân vật là “/ởi nói của nhân vật trong các
tác phẩm thuộc loại hình tự sự” (Theo “Từ điển thuật ngữ văn học ”)
- Ngôn ngữ nhân vật là một trong các phương tiện quan trọng được người nghệ sĩ đùng nhằm biểu hiện cuộc sống và cá tính của nhân vật Ngôn ngữ nhân vật gồm có: Ngôn ngữ độc thoại và ngôn ngữ đối thoại Thông qua ngôn
ngữ mà nhân vật hiện lên trước mắt bạn đọc về tính cách và con người thậm
chí tiêu biểu cho một lớp người trong xã hội
- Ngôn ngữ người kể chuyện có vai trò đặc biệt quan trọng “quyết định đói với toàn bộ cấu trúc ngôn ngữ của tác phẩm ” Ngôn ngữ người kê chuyện có thể là ngôn ngữ của nhân vật kế chuyện hoặc ngôn ngữ của tác giả ké chuyện
Tác giả kể chuyện là hình thức người kể đứng ở ngoài quan sát rồi kế
lại nên nó thường mang tính khách quan Đồng thời qua đó tác giả có thể bày
tỏ thái độ, cảm xúc của mình một cách khách quan hơn
Nhân vật kể chuyện là hình thức nhân vật tham gia trực tiếp vào các sự
kiện trong tác phẩm và kể lại câu chuyện, nên nó thường mang tính chủ quan
Trang 27Như vậy, tự sự là thể tài văn học dùng lối kế chuyện để phản ánh hiện thực và biểu hiện tâm tư con người Sự tồn tại của cốt truyện, nhân vật và
ngôn ngữ trong mối quan hệ tương quan, khăng khít với nhau là đặc trưng cơ
bản của tự sự
1.2.2 Thi pháp thể loại tự sự
Nói đến thi pháp tự sự là nói đến những thủ pháp nghệ thuật thường được các tác giả sử dụng và được các nhà nghiên cứu đúc kết, coi là qui luật của thể loại tự sự Trong thực tế sáng tác, mỗi nhà văn lại nhìn nhận những cách viết đó một cách khác nhau tùy vào quan điểm thâm mĩ của mình
Thi pháp bao hàm các phương thức, thủ pháp, kĩ thuật để viết một tác
phẩm Khi nghiên cứu thi pháp tự sự của một thể loại chính là khám phá, phát
hiện những đặc điểm hình thức của thể loại tự sự nhằm giúp cho việc tìm hiểu các tác phẩm tự sự đó trở nên đơn giản hơn
Thi pháp tự sự không quan tâm đến nội dung của tác phẩm mà chỉ quan tâm hình thức nghệ thuật để đựng tác phẩm ở ba yếu tố chính là cốt truyện, nhân vật và ngôn ngữ Ở đây chúng tôi chỉ đưa ra những khái niệm cơ bản nhất, trong chương hai chúng tôi sẽ đi vào tìm hiểu sâu hơn ở thi pháp tự sự trung đại
1.2.3 Thi pháp tự sự trung đại
Việc tìm hiểu thi pháp văn học trung đại không thể không bắt đầu từ
việc xác định nội hàm khái niệm văn học trung đại
1.2.3.1 Khái niệm văn học trung đại
Từ xưa đến nay các nhà nghiên cứu văn học có nhiều ý kiến khác nhau
về phân kì văn học Việt Nam
Cách phân kì văn học Việt Nam đầu tiên tìm thấy trong “Việt âm thi
tập” của Phan Phu Tiên (thế kỉ XV) phân loại văn học theo triều đại Trần —
Lê Tiếp đó là các nhà nghiên cứu khác C.Cordier (1993) hay các tác giả SGK
7 27
Trang 28về lịch sử văn học những năm 40 — 50 của thế ki XX đều phân kì theo triều
đại
Gần đây một số nhà nghiên cứu phân kì văn học dựa vào bản chất của
văn học lịch sử, chính trị, xã hội thành văn học trung đại và văn học hiện dai
(người gọi thuật ngữ “văn học trưng đại” đầu tiên là N.I Niculin — Người Nga) Cu thé:
Cuốn “Điển có tính qui luật của lịch sử vă học Việt Nam ” xuất bản nội
bộ ở ĐHSP thành phố Hồ Chí Minh năm 1994, người viết đã dùng thuật ngữ
“văn học trung đại”
Cuốn “Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam” GS Lê Trí Viễn cũng
đồng tình với ý kiến dùng thuật ngữ “văn học trung đại” để chỉ văn học Việt Nam từ thế ki X dén thé ki XIX
Cuốn “Máy vấn để thi pháp văn học trung đại” GS Trần Đình Sử cũng
cho rằng: Từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX văn học thuộc phạm trù trung đại và từ đầu thế ki XX đến nay văn học thuộc phạm trù hiện đại căn cứ dé phan chia
văn học trung đại theo hướng thi pháp chính là dựa vào loại hình, không gian,
quan niệm về con người, thể loại ngôn ngữ
Như vậy, các nhà nghiên cứu hiện nay đều lấy mốc là thé ki XX dé
phân chia các thời kì văn học: thời kì văn học trung đại và thời kì văn học hiện đại
Thời kì văn học trung đại Việt Nam kéo dài từ thế ki X đến hết thế ki
XIX Thời kì này có một hệ thống thi pháp riêng gọi là thi pháp văn học trung đại Thông quan việc tìm hiểu, nghiên cứu thi pháp văn học trung đại chính là
một cách tiếp cận mới, khoa học đối với văn học và là một phương pháp hướng dẫn học sinh đọc — hiểu tác phẩm tự sự trung đại
Trang 2933c
học”, “văn chương”, Đều dùng để chỉ một phạm vi rất rộng mà được dùng
lẫn cho nhau, chưa từ nào trở thành chuyên dụng đề chỉ văn học theo hướng hiện đại Đã phản ánh ý thức văn học đương thời, một ý thức còn nặng tính nguyên hợp văn — sử học bất phân Sau này, tới đầu thế ki XX tên gọi “văn
học” mới được có định đề chi chung toàn bộ văn học nghệ thuật
Trong văn học trung đại thể loại tự sự luôn chiếm một vị trí quan trọng,
trong phạm vi giới hạn nên đề tại chỉ tập chung nghiên cứu về thi pháp thé
loại trong các tác phẩm tự sự trung đại ở trường THTP
1.2.3.2 Thi pháp cốt truyện
Trong “7 điển thuật ngữ văn học” của Lê Bá Hán; Trần Đình Sử;
Nguyễn Khắc Phi định nghĩa khái niệm cốt truyện như sau: “Có #uyện là hệ
thong sự kiện cụ thể được tổ chức theo yêu cầu tu tưởng và nghệ thuật nhất định, tạo thành một bộ phận cơ bản, quan trọng nhất trong hình thức động của tác phẩm văn học thuộc thể loại tự sự và kịch ” [26 tr 99] Ngoài ra cốt truyện còn được hiểu là “toàn bộ các biến có, các sự kiện được nhà văn kể ra,
là cái mà người đọc có thể đem kế lại” [25, tr 101]
Như vậy cốt truyện là yếu tố quan trọng trong tác phẩm tự sự là tất cả
những hoạt động, biến cỗ được phát triển trong cả tiến trình kể chuyện và khi
thuật lại một chuyện, người ta đễ đàng kể lại biến cố ay theo mot trinh tu kién
người nghe có thể hiểu được Một cốt truyện thường có các thành phần cơ bản như: mở đầu, thắt nút, phát triển, cao trào, mở nút Dựa vào đây người ta có
thể phân tích “Sự /qo thành của truyện, nhân vật ra mạch truyện và sự vận
hành của nó” [Đỗ Bình Trị (1991) — Văn học (Giáo trình đào tạo giáo viên hệ tiểu học, hệ CĐSP và SP 12 + 2)— NXB Giáp dục) Tuy nhiên “#uyện không
đơn giản chỉ là sự vận hành của hoạt động, biến cé (sự kiện) Sự vận hành
của truyện tạo thành ý nghĩa của truyện, biểu hiện một phương diện của quan niệm tác giả về thê giới và con người” (Giáo trình đào tạo giáo viên hệ tiêu
7 29
Trang 30học, hệ CĐSP và SP 12 + 2) - NXB Giáo dục) Tìm hiểu thi pháp cốt truyện
tức là phải tìm hiểu cá ý nghĩa của các sự kiện và cách thức xây dựng truyện
của tác phẩm đồng thời thấy được các nguyên tắc, quan niệm chỉ phối các ý nghĩa ấy
1.2.3.3 Thi pháp nhân vật
Ở đây nhân vật được hiểu là nhân vật văn học, là con người chủ thể cá
thể được miêu tả trong văn học bằng phương tiện văn học, nhằm làm khái quát về những tính cách và số phận con người
Thi pháp nhân vật /à “hệ thống các phương thức và phương diện nghệ
thuật mà các nhà nghiên nghệ sĩ chọn lựa, sử dụng để tái hiện, để xây dựng
những hiện tượng về con người, nhân vật trung tâm của bức tranh cuộc sống trong tác phẩm hoặc trong một thể loại” [Vũ Anh Tuấn (2004) Truyện thơ
Tày nguồn góc, quá trình phát triển và thi pháp thể loại NXB ĐHQG Hà Nội]
Vì lẽ đó, nghiên cứu thi pháp, nhân vật là đi vào khám phá chiều sâu thé giới tư tưởng, thâm mĩ của nhà văn, cách đánh giá nhìn nhận về con người của nhà văn
Con người là đối tượng miêu tả chủ yếu của văn học Dù là tác phẩm
trữ tình, tự sự, kịch dù trực tiếp hay gián tiếp thì văn học đều miêu tả con
người Nhân vật văn học là hình thức miêu tả con người một cách tập trung
Hay nói một cách khái quát, nhận vật văn học là con người được miêu tả ra bằng các phương tiện văn học (ngôn từ, tả, kể, nhận xét )
Cũng cần lưu ý rằng: Nhiệm vụ nghiên cứu thi pháp nhân vật khác với
nhiệm vụ phân tích nhân vật.việc phân tích nhân vật phải chỉ ra các nội dung phong phú được thể hiện trong nhân vật: tính cách, khí chất, bản chất xã hội,
tac gia lên án và khẳng định cái gì Còn việc phân tích thi pháp nhân vật là
khám phá cách cảm nhận con người qua miêu tả nhân vật Thi pháp ít quan
Trang 31thơ cũng vậy, điều quan trọng không phải là khẳng định tài năng của nhà thơ qua những chỉ tiết hay từ đắt Phương diện quan trọng cơ bản hơn của việc
bình thơ là tìm xem nhà văn đã lí giải, quan niệm đối tượng đó như thế nào,
sử dụng hệ thống các phương tiện để thể hiện phủ hợp ra sao, và cuối cùng, tất cả những điều đó cho phép tác giả thể hiện đối tượng với một chiều sâu
nào, phát hiện thêm ở đâu
1.2.3.4 Thi pháp ngôn ngữ
Ngôn ngữ là một phương diện đề phản ánh cuộc sống thành hình tượng
trong truyện, mặt khác cũng là phương diện để biểu hiện thái độ tư tưởng, tình
cảm, sự đánh giá của tác giá đối với cuộc sống
Ngôn ngữ tự sự phân thành ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữ người kế chuyện
Ngôn ngữ nhân vật là lời nói của nhân vật trong tác phẩm Ngôn ngữ nhân vật có ngôn ngữ độc thoại và ngôn ngữ đổi thoại
Ngôn ngữ nhân vật được nhà văn sử dụng như một phương tiện để
miêu tả đời sống tâm lí và khắc họa tính cách nhân vật Nhờ việc khảo sát
ngôn ngữ nhân vật có thể nhận diện nhân vật, nhận diện được tính cách nhân
vật Còn nhà văn thông qua đó mà thê hiện tư tưởng tác phẩm
Khi nói đến ngôn ngữ nhân vật cần quan tâm đến giọng điệu nhân vật Ngôn ngữ người kể chuyện đứng ngoài tác phẩm với tư cách là người trần thuật Ngôn ngữ người kể chuyện chẳng những có vai trò then chốt trong phương thức tự sự mà còn là yếu tố cơ bản để thể hiện phong cách nhà văn,
truyền đạt cái nhìn, giọng điệu, cá tính tác giả
Từ những đặc trưng trên, giảng đạy các tác phẩm tự sự trung đại chính
là thông qua việc phân tích ba yếu tố đó đề tìm ra và nắm vững cấu tạo hữu cơ
của hình tượng tác phẩm tự sự trung đại từ đó mà tiếp thu và phát huy được hết ý nghĩa và tác dụng về mặt giáo dục, nhận thức và thâm mĩ của tác phâm
7 31
Trang 321.3 Thi pháp với tiếp nhận văn học 1.3.1 Tiếp nhận văn học
Cùng với hoạt động sáng tạo là hoạt động tiếp nhận, chiếm lĩnh tác phâm Hoạt động này cũng chịu sự chỉ phối của qui luật nhận thức của triết
học duy vật Phương pháp tiếp nhận đi từ hình thức đến nội dung Để khám
phá tác phẩm phải biết được tác phẩm làm ra bằng con đường nào, được soi sáng bằng quan điểm triết học nào việc tiếp nhận phải đi lại, đi tiếp con đường
mà nhà văn đã làm ra tác phẩm
Theo từ điển tiếng Việt của viện ngôn ngữ, tiếp nhận là “đón nhận cái
từ người khác, nơi khác chuyển giao cho”
Từ điển thuật ngữ văn học, định nghĩa: “Tiến nhận văn học là hoạt
động chiếm lĩnh các giá trị tư tưởng thẩm mĩ của tác phẩm văn học, bắt dau
từ sự cảm thụ văn bản ngôn từ, hình tượng nghệ thuật, tư tưởng, cảm hứng,
quan niệm nghệ thuật, tài nghệ tác giả cho đến sản phẩm sau khi đọc, cách hiểu, ấn tượng trong trí nhớ ảnh hướng trong hoạt động sáng tạo, bản dịch chuyến thé ”
Trong “Đọc và fiếp nhận tác phẩm văn chương” Nguyễn Thanh Hùng
cho rằng “tiếp nhận văn học là quá trình đem lại cho người đọc sự hưởng thụ
và hứng thú trí tuệ hướng vào hoạt động để củng cô và phát triển một cách phong phú những khả năng thuộc thế giới tỉnh thần và năng lực cảm xúc của
con người trước đời sống” [1.tr105]
Trong “Từ điển thuật ngữ văn học” Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi quan niệm, tiếp nhận văn học là “hoạt động chiếm lĩnh các giá trị tự tưởng thẩm mĩ của tác phẩm văn học, bắt đầu từ sự cảm thụ văn bản ngôn từ, hình tượng nghệ thuật, tư tưởng, cảm hứng, quan niệm nghệ thuật, tài nghệ tác giá cho đến sản phẩm sau khi đọc, cách hiểu, ấn tượng trong trí nhớ,
,
Trang 33Thực chất của việc tiếp nhận văn học là hoạt động nhận thức của con
người nhằm chuyền tái phần nội dung vốn tồn tại khách quan đối với người đọc vào trong tâm hồn và tư tưởng của người đọc tạo cho tác phẩm có đời sống, số phận riêng trong cảm nhận của mỗi người Khi chuyển vào thực tế thì vốn sống tri thức trong tác phẩm sẽ trở thành vốn sống của cá nhân và nó sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến việc hình thành và phát triển cũng như hoàn thiện nhân cách của mỗi người Vì vậy, tiếp nhận văn học chính là cuộc trao đổi
ngầm giữa bạn đọc và tác giả văn học
Tiếp nhận văn học thường đo tính tự phát bởi nhu cau thị hiểu của mỗi
cá nhân Trong trường THPT tiếp nhận văn học mang tính tự giác và có mục đích rõ ràng Đối với mỗi tác phẩm, người nghệ sĩ sáng tạo bằng một phương
thức nhất định, phương thức ấy qui định cách thức tiếp nhận tác phẩm Việc
giảng dạy các tác phâm văn học thực chất là tô chức cho người đọc cách đọc
tác phẩm, do vậy, mục đích cuối cùng của dạy học là giúp học sinh hiểu và cảm nhận tác phẩm, từ đó các em tự hoàn thiện nhân cách của mình
1.3.1.1 Cơ sở tiếp nhận văn học
Để tiếp nhận một tác phẩm văn học có rất nhiều cách khác nhau, nhưng dù có tiếp nhận cách nào đi chăng nữa thì đều nhằm đạt tới mục đích cảm
nhận và hiểu tác phẩm, tiếp nhận văn học là cả một quá trình Văn học là một
sản phẩm tinh thần, kết tinh những kinh nghiệm, tư tưởng, tình cảm của con
người trước một cuộc sống nhất định, chỉ khi nào sử dụng đến thế giới tinh thần đó mới được coi là tiếp nhận văn học trọn vẹn: Tố Hữu đã nói “Văn học
không chỉ là văn chương mà thực chất là cuộc đời, văn học sẽ không là gì cả
nếu không vì cuộc đời Cuộc đời sẽ là mơi xuất phát và đi với của văn học
Hay nói khác đi văn học chính là tắm gương phản ánh cuộc sống và gắn lién voi doi song.”
7 33
Trang 34Hiểu tiếp nhận văn học là một quá trình trước tiên ta phải hiểu được
quá trình sáng tác một tác phẩm Nếu “thực chất của quá trình sáng tác văn
học là quá trình truyền cảm xúc đến bạn đọc “cộng hưởng” được cảm xúc đó Và nếu đặc thù của quá trình sáng tác văn học là giai đoạn tồn tại của hình tượng nghệ thuật thì đặc thù của quá trình tiếp nhận văn học là quá trình đi
ngược lại quá trình sáng tác Ở đó “người đọc phải bắt đầu từ việc đọc tác phẩm từ những yếu tô nhỏ nhất trong văn bản tới việc tiếp nhận ý nghĩa của toàn bộ văn bản, chuyển nội dung văn bản thành thế giới tỉnh thần của mỗi con người thành tác phẩm riêng của họ” Trong quá trình này người đọc sẽ tìm ra những tỉnh cảm thầm mĩ quan trọng như tính chân thực và soi sáng của
ngôn từ nghệ thuật, sự thống nhất nội tại trong sự kết cấu, tính độc đáo của
những phát hiện, chân lí của những sự phản ánh, trọng lượng của những xung
đột, đặc trưng thi pháp thể loại, quan niệm về nghệ thuật, con người của tác
giả
Tiếp nhận văn học đòi hỏi người đọc trước hết phải tri giác, cảm thụ tác phẩm, phải hiểu ngôn ngữ, tình tiết, cốt truyện, loại thể để có thể cảm nhận
hình tượng trong sự ven toàn các chỉ tiết, các liên hệ Sau đó người đọc tiếp nhận với ý đồ sáng tạo của nghệ sĩ, thâm nhập vào hệ thông hình tượng như là sự kết tỉnh sâu sắc của tư tưởng, tình cảm của tác giả Ở cấp độ tiếp theo, người đọc phải đưa hình tượng vào văn cánh đời sống và kinh nghiệm đời
sống của mình để thé hiện đồng cảm Cuối cùng nâng cấp, lí giải tác phẩm
trong lịch sử, văn học, tư tưởng, đời sống và truyền thống nghệ thuật Quá trình tìm ra cách giải thích ý nghĩa của văn bản đến tìm ra ý nghĩa hình tượng, ý nghĩa tượng trưng của văn bản và ý định chủ quan của tác giả chính là quá
trình tiếp nhận văn học
Như vậy cơ sở của tiếp nhận văn học phải được bắt nguồn từ các sáng
Trang 35phẩm và tiếp nhận tác phẩm văn chương mặc dù tồn tại độc lập nhưng thống
nhất và có mối quan hệ biện chứng với nhau
1.3.1.2 Các bước tiếp nhận tác phẩm văn học
1.3.1.2.1 Hoạt động đọc (văn bản)
Đây là hoạt động khởi đầu quan trọng của việc tiếp nhận văn học và là hoạt động sáng tạo, mang tính trực cảm Văn bản tồn tại một cách khách
quan, sản phẩm tinh thần đó đo nhà văn sáng tạo nên Đó là một tập hợp các kí hiệu ngôn ngữ được tô chức theo một kiểu loại nào đó (liên quan đến cấu
trúc bên ngoài của văn bản ngôn từ) Người đọc chỉ có thê tiếp nhận tác phẩm
khi hệ thống kí hiệu ngôn từ được giải mã Hoạt động đọc không chỉ là hoạt động mở đầu cho việc tiếp nhận văn học mà còn để hiểu tác phẩm, tìm ra ý
nghĩa mới, con người mới xuất hiện trong tác phẩm (mới so với sự tồn tại
trong người đọc, mới trong sự sáng tạo của nhà văn và mới trong cuộc sống.) Như vậy, mỗi một kiểu, mỗi văn bản có cách đọc khác nhau: Đọc một vở kịch khác với đọc một truyện ngắn, đọc một tác phâm văn xuôi khác với đọc một tác phẩm trữ tình
1.3.1.2.2 Hoạt động phân tích (văn bản)
Hoạt động phân tích là bước kế tiếp của quá trình tiếp nhận tác phẩm
văn học “Phân tích là hoạt động chia nhỏ đói tượng để có cái nhìn cụ thể
những yếu tô làm nên chỉnh thể sâu hơn Đó là sự mổ xẻ chỉnh thể tác phẩm
để ghi chép, hợp lại những yếu tổ đã phân tích theo cách hoàn toàn khác
thường sẽ phát hiện ra những khía cạnh bắt ngờ của chỉnh thể tác phẩm” (“Đọc và tiếp nhận văn chương” của Nguyễn Thanh Hùng) Phân tích là hoạt động không thể tiễn hành với tất cả các yếu tố cấu thành tác phẩm mà chỉ có
thê tiến hành với một yếu tố nào đó Điều này buộc phải thực hiện một thao
tác lựa chọn, xây dựng một tiêu chí phù hợp Ngoài ra còn phải căn cứ vào
điều kiện khác nhau như phương pháp sáng tạo (Thi pháp) để những tiêu chí
7 35
Trang 36đó diễn ra một cách đúng hướng Vì vậy mà hoạt động phân tích sẽ đem lại sự
phong phú và sâu sắc hơn cho tác phẩm văn học
1.3.1.2.3 Hoạt động cắt nghĩa (văn bản)
Hoạt động cắt nghĩa là hoạt động quan trọng trong việc tiếp nhận Cắt nghĩa là sự giảng giải ý nghĩa của chỉ tiết, hình ảnh dé tiến tới việc cắt nghĩa
nội dung, hình tượng cao hơn cắt nghĩa một tác pham Cat nghĩa đem lại nhận
thức, có cơ sở cho những hiện tượng có giá tri
Hoạt động cắt nghĩa một tác phẩm văn chương đi từ việc lí giải những
chỉ tiết, hình ảnh trong tác phẩm để thấy được cái hay, cái đẹp tiến tới cắt
nghĩa hình tượng trong tác phẩm, cao hơn nữa là cắt nghĩa tác phẩm văn học với cùng một tác phẩm văn học, mỗi người sẽ lại cắt nghĩa tác phâm theo một
cách riêng dường như không có sự giống nhau, nó sẽ tạo ra cái nhìn đa chiều
đối với mỗi tác phẩm, đồng thời cũng là cơ sở để đánh giá mức độ hiểu của
mỗi người vì có hiểu thì mới cắt nghĩa được Tùy vào sự hiểu biết kinh nghiệm của mỗi con người và nó là một qui luật trong quá trình tiếp nhận văn chương Yếu tố cảm tính và chủ quan trong cắt nghĩa luôn luôn tồn tại thực và trong
quá trình tiếp nhận phải chấp nhận điều đó như một thực tế
1.3.1.2.4 Hoạt động bình giá (văn bản)
Đây là hoạt động cuối cùng trong việc tiếp nhận tác phẩm Bình là hoạt động mang tính chủ quan, người đọc đưa ra ý kiên bàn bạc, đánh giá nhận xét
của mình, bàn luận thêm về tác phẩm Hoạt động bình giá tác phẩm dựa trên cơ sở của việc đọc, phân tích, cắt nghĩa vì: Đọc là yếu tố bắt buộc để tiếp
nhận tác phẩm, tạo định hướng cho việc phân tích, còn việc cắt nghĩa là để
xác định rõ nội dung của việc phân tích Như vậy, hoạt động bình giá tác
phẩm là sự mở mang đi sâu vào nội dung tác phẩm ngoài sự hiểu biết còn thé
Trang 37được những ý kiến đóng góp về tác phẩm, đặc sắc, hạn chế và vị trí của tác
phẩm trong tiến trình văn học
1.3.1.3 Những khó khăn khi tiếp nhận văn học
Tác phẩm tồn tại dưới đạng văn bán, đó là tập hợp các kí hiệu ngôn ngữ Việc tiếp nhận các tác phẩm văn học trước hết là tiếp xúc với tập hợp ngôn ngữ đó Chính vì vậy việc tiếp nhận, cám thụ tác phẩm văn học gặp nhiều không ít khó khăn mà người ta gọi là “sự chuyên chế của khoảng cách” (Đặng Thanh Lê) Bao gồm các khoảng cách:
- Khoảng cách về ngôn ngữ: Trong tác phâm văn học dù là lời kế chuyện hay là của nhân vật thì đó đều là ngôn ngữ của tác giả Giữa ngôn ngữ tác giả và độc giả không bao giờ trùng khớp, đó là khoảng cách bạn đọc phải
phá bỏ dé đến với tác phẩm
- Khoảng cách tâm lí: phụ thuộc vào tâm lí của tác giả, tâm lí của người
tiếp nhận, và tâm lí thời đại đó, đồng thời còn phụ thuộc vào thời đại mà bạn
đọc đang sống
- Khoảng cách lịch sử: Đó là cuộc sống được phán ánh trong tác phẩm, lịch sử
ra đời tác phâm Đó là khoảng cách thời đại mà tác phâm ra đời
Việc tiếp nhận tác phẩm văn học đặt ra nhiều khó khăn và việc tiếp
nhận theo hướng thi pháp là một trong những biện pháp hữu hiệu khắc phục những khó khăn đó
1.3.2 Tiếp nhận văn học từ hướng thi pháp
Trang 38Tiếp nhận tác phẩm theo hướng thi pháp thực chất là dua trên những căn cứ lí thuyết của phương pháp dạy học, vấn đề thi pháp có ảnh hưởng trực
tiếp đến hoạt động tiếp nhận, đặc biệt là việc tiếp nhận các tác phẩm văn
chương trong nhà trường mà lí thuyết của thi pháp là một công cụ quan trọng Nó không chỉ giúp cho người đọc biết tác phâm nói cái gì mà còn biết được tác phẩm làm gì bằng cái gì và điều quan trọng là cái đó được làm ra như thế nào và bằng cách nào?
Người đọc tác phẩm phải đi con đường mà nhà văn làm ra tác phẩm đã đi, đi trên con đường ấy người đọc sẽ được hướng dẫn bởi những lí thuyết rút
ra từ việc phân tích cắt nghĩa, bình giá tác phẩm
Có thể nói rằng, vấn đề thi pháp đang được quan tâm và được coi là cách tiếp cận tác phẩm văn học có hiệu quả Nó là chìa khóa để hiểu tác phẩm và cũng là cách giảng dạy theo phương pháp mới
2 Cơ sở thực tiễn
Vấn đề giảng dạy theo thi pháp thể loại đã được đặt ra từ lâu Song việc áp dụng vào thực tiễn giảng dạy vẫn còn nhiều đè đặt và hạn chế Hầu hết các giáo viên đạy văn đều coi trọng phương pháp giảng dạy truyền thống — thuyết giảng mà còn ngại đối mới phương pháp Nhìn chung giáo viên THPT phan lớn chưa thoát khỏi phương pháp truyền thống, biến giờ văn thành giờ thuyết giảng, chưa lấy học sinh làm trung tâm, giáo viên, học sinh, nhà văn không phải đồng sáng tạo Trước kia sách giáo khoa chủ yếu yêu cầu học sinh tìm
hiểu các yếu tố của thể loại, chưa xuất hiện các kiến thức về thi pháp hoặc có
nhưng chưa hay
Đối mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn trong trường THPT hiện nay được xây dựng từ việc đôi mới nội dung đặc biệt là đổi mới phương pháp
giảng dạy, phải phát huy được tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của
Trang 39duy độc lập để hiểu tác phẩm sâu hơn, kĩ hơn, đồng thời giúp các em có thể tiếp tục đọc văn chương sau khi tốt nghiệp phổ thông và sẽ giúp các em tiếp xúc với nhiều tác phẩm mới hết sức đa dạng và phong phú trong thực tiễn
Hiện nay, các tác phẩm văn học trong trường THPT được sắp xếp và tô
chức theo loại thể văn học chứ không sắp xếp theo tiến trình lịch sử văn học
như trước nữa Việc sắp xếp này phù hợp với việc đọc hiểu văn bản theo đặc
điểm loại thể và việc đọc hiểu tác phẩm tự sự sẽ khác với việc đọc hiểu tác
phẩm trữ tình và kịch Việc tìm hiểu thi pháp của các tác phâm cũng được chú trọng hơn bởi đó là các yếu tô cơ bản để tạo nên khi phân tích tác phẩm không
thể không phân tích các yếu tố đó Điều quan trọng nhất (theo yêu cầu của thi
pháp) là phải lí giải được cách tô chức các tình tiết trong tác phẩm; cách lựa
chọn nhân vật; cách sử dụng các hình ảnh, đem lại hiệu quả nghệ thuật gì;
phục vụ cho ý đồ nghệ thuật nhà văn như thé nao Hay nói cach khác phải chỉ ra và giải thích được nghệ sĩ đã thực hiện việc lựa chọn, chia tách, ghép đôi, dồn nén, sắp xếp các hiện tượng thực tế nào để thực hiện cái nhìn vào nội
dung cuộc sống đã được nắm bắt Khi vận dụng thi pháp để giảng dạy tức là chúng ta tìm hiểu truyện từ các yếu tố hình thức đến nội dung tác phẩm, đập vỡ bề mặt ngôn ngữ để khai thác phần chìm sâu trong bề mặt ngôn ngữ ấy Hơn nữa chúng ta có thể đưa ra một số khái niệm của thi pháp để việc tìm hiểu tác phẩm sâu sắc hơn bên cạnh những khái niệm truyền thống của loại thé Trong phạm vi của đề tài tác giá chỉ tập trung vào loại thể tự sự với vấn đề đọc hiểu các tác phẩm tự sự trung đại theo đặc trưng thi pháp
7 39
Trang 40CHƯƠNG 2
ĐỌC - HIẾU TÁC PHÁM TỰ SỰ TRUNG ĐẠI THEO DAC TRUNG THI PHAP
1 Khai quat vé doc — hiéu 1.1 Thế nào là đọc — hiểu
Văn học cung cấp cho chúng ta những hiểu biết về đời sống tự nhiên những hiểu biết thông qua các văn bản, tìm hiểu những văn học làm cho vốn tri thức của chúng ta thêm phong phú và sâu rộng, hơn nữa văn học còn giúp hoàn thiện nhân cách của mỗi con người
Trong nhà trường phố thông đọc — hiểu là hoạt động diễn ra trên tắt cả
các lĩnh vực (sinh hoạt, giao tiếp, học tập ) và được sử dụng trong tất cả các môn học, đọc là hoạt động văn hóa, hoạt động tiếp nhận tri thức
Mỗi học sinh khi học văn là một bạn đọc, vì vậy phải biết đọc văn
Trong thực tế đối tượng bạn đọc vô cùng phong phú Mỗi đối tượng đọc với một mục đích khác nhau, khác với những người đọc văn chỉ để nắm đọc tác
phẩm một cách sơ lược về đại thể, hoặc chỉ để giải trí thì người học sinh phải đọc văn để hiểu văn “Phương thức đọc văn nhằm mục đích hiểu biết chính
xác và cặn kẽ tác phẩm văn chương, khám phá ở đó những giá trị văn chương
(văn hóa, xã hội) mới mẻ, lớn lao và hữu ích được gọi là đọc — hiểu
Đọc là một hoạt động văn hóa mà con người sử dụng để lĩnh hội tri thức và hoàn thiện nhân cách của mình
Đọc là một hoạt động văn hóa có tầm nhân loại và có ý nghĩa giáo dục sâu sắc Đọc gắn liền với hiểu
Hiểu là một khái niệm có nội hàm rất rong Theo “Tur dién tiéng Viét
2007” (Hoàng Phê chủ biên) hiểu có các nghĩa sau: