KHỞI TỐ VỤ ÁN THEO QUY ĐỊNH CỦA
BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 2015
Trang 2Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam thông qua ngày 27/11/2015, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2018 cơ bản đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp, tăng cường tính pháp chế, bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân Trong đó, các quy định về khởi tố vụ án hình sự đã thể hiện được nhiều tư tưởng tiến bộ trong quá trình lập pháp, khắc phục được những bất cấp trong quá trình thi hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.
Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2015, khởi tố vụ án hình phạm, giải quyết nguồn tin về tội phạm
1 Khái niệm, nhiệm vụ, căn cứ khởi tố vụ án hình sự
Tố tụng hình sự là quá trình giải quyết vụ án hình sự với nhiều giai đoạn khác nhau, bao gồm: Khởi tố vụ án hình sự; điều tra vụ án hình sự; truy tố; xét xử vụ án hình sự và thi hành án hình sự; trong đó khởi tố là giai đoạn mở đầu của Tố tụng hình
sự Mỗi giai đoạn tố tụng đóng một vị trí, vai trò nhất định trong quá trình chứng minh sự thật khách quan cảu vụ án và đều có những chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật Tố tụng hình sự nhất định Để mở ra một cuộc điều tra công khai đối với một vụ
án cụ thể cần phải có quyết định của cơ quan có thẩm quyền là
Trang 3quyết định khởi tố vụ án hình sự Giai đoạn mở đầu luôn đóng vai trò quan trọng, quyết định có tiếp tục các giai đoạn tố tụng tiếp theo hay không
Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn mở đầu của Tố tụng hình
sự, trong đó cơ quan nhà nước có thẩm quyền thu thập, xử lí thông tin, xác định thực tế có hay không có dấu hiệu của tội phạm để quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án Đây là một giai đoạn độc lập và đầu tiên của quá trình Tố tụng hình sự, thời điểm của giai đoạn này được bắt đầu từ khi nhận được những thông tin đầu tiên về việc thực hiện hành vi phạm tội và kết thúc bằng quyết định về việc khởi tố hoặc không khởi tố vụ
án hình sự có liên quan đến hành vi đó
Khởi tố vụ án hình sự là một giai đoạn Tố tụng hình sự cơ bản và quan trọng để tăng cường pháp chế, bảo vệ các quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trước khi khởi tố
bị can và áp dụng các biện pháp của giai đoạn điều tra, cùng với các giai đoạn Tố tụng hình sự khác góp phần có hiệu quả vào cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm trong toàn xã hội
Nhiệm vụ cơ bản và quan trọng của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự là nhằm xác định dấu hiệu của tội phạm, tức là xác định xem sự việc xảy ra có dấu hiệu của một tội phạm cụ thể hay
Trang 4không, nói cách khác là có vụ án hình sự đã xảy ra hay không Nếu đủ cơ sở chứng minh có dấu hiệu tội phạm xảy ra, cơ quan tiến hành tố tụng sẽ ra quyết định khởi tố vụ án hình sự và vụ án
sẽ được tiến hành các bước tiếp theo của quá trình tố tụng Nếu
đủ cơ sở chứng minh không có dấu hiệu tội phạm xảy ra, cơ quan tiến hành tố tụng sẽ ra quyết định không khởi tố vụ án hình
sự và vụ án sẽ được khép lại
Để ra quyết định khởi tố vụ án hoặc quyết định không khởi
tố vụ án được chính xác thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải dựa vào các căn cứ do Bộ luật TTHS quy định Điều 143 Bộ
luật Tố tụng hình sự Việt Nam năm 2015 qui định: “Chỉ được
khởi tố vụ án hình sự khi đã xác định có dấu hiệu của tội phạm ” Căn cứ là dựa vào đó để làm cơ sở lập luận và hành
động Căn cứ khởi tố vụ án hình sự cũng là cơ sở để cơ quan nhà nước có thẩm quyền dựa vào đó mà ra quyết định khởi tố vụ án hình sự Như vậy, căn cứ khởi tố vụ án hình sự là dấu hiệu của tội phạm trong sự kiện thực tế đã xảy ra và việc xác định dấu hiệu của tội phạm phải dựa vào những cơ sở cụ thể do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định
Dấu hiệu của tội phạm : Tính nguy hiểm cho xã hội của hành
vi, tính có lỗi, tính trái pháp luật hình sự; tính phải chịu hình phạt
Trang 5Cơ quan có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự phải xác định được
sự việc sảy ra thỏa mãn các dấu hiệu tội phạm nêu trên mới có thể
ra quyết định khởi tố vụ án hình sự
Để xác định dấu hiệu của tội phạm trong một sự kiện thực
tế đã xảy ra, Cơ quan có thẩm quyền cần dựa vào những cơ sở nhất định Theo Điều 143 Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam năm
2015, những cơ sở đó bao gồm: Tố giác của cá nhân; Tin báo của cơ quan, tổ chức, cá nhân; Tin báo trên phương tiện thông tin đại chúng; Kiến nghị khởi tố của cơ quan nhà nước; Cơ quan
có thẩm quyền tiến hành tố tụng trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm; Người phạm tội tự thú
Để tránh việc khởi tố vụ án hình sự một cách tùy tiện, thiếu căn cứ pháp luật, đồng thời để đạt được mục đích của việc truy cứu trách nhiệm hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam năm
2015 quy định những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự
Điều 157 Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam năm 2015 đã quy định không được khởi tố vụ án hình sự khi có một trong các căn cứ sau: Không có sự việc phạm tội; Hành vi không cấu thành tội phạm; Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự; Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực
Trang 6pháp luật; Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự; Tội phạm đã được đại xá; Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người khác; Tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139,
141, 143, 155, 156 và 226 của Bộ luật hình sự Việt Nam mà bị hại hoặc người đại diện của bị hại không yêu cầu khởi tố
2 Thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự
Việc ra quyết định khởi tố hoặc quyết định không khởi tố
vụ án hình sự thể hiện tính quyền lực của Nhà nước Do đó, chỉ những cơ quan do luật định mới có thẩm quyền ra quyết định khởi tố hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự Theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam năm 2015 và Luật tổ chức Cơ quan điều tras hình sự, những cơ quan sau có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự:
- Cơ quan điều tra quyết định khởi tố vụ án hình sự đối với tất cả vụ việc có dấu hiệu tội phạm, trừ những vụ việc do cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử đang thụ lý
- Viện kiểm sát ra quyết định khởi tố vụ án hình sự trong trường hợp: Viện kiểm sát hủy bỏ quyết định không khởi tố vụ
án hình sự của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ
Trang 7tiến hành một số hoạt động điều tra; Viện kiểm sát trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; Viện kiểm sát trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm hoặc theo yêu cầu khởi
tố của Hội đồng xét xử
- Hội đồng xét xử ra quyết định khởi tố hoặc yêu cầu Viện kiểm sát khởi tố vụ án hình sự nếu qua việc xét xử tại phiên tòa
mà phát hiện có việc bỏ lọt tội phạm
- Các cơ quan của Bộ đội biên phòng được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự trong trường hợp phát hiện tội phạm quy định tại Chương XIII và các điều 150, 151, 152, 153, 188, 189, 192, 193,
195, 207, 227, 235, 236, 242, 247, 248, 249, 250, 251, 252, 253,
254, 255, 256, 303, 304, 305, 306, 309, 330, 337, 338, 346, 347,
348, 349 và 350 của Bộ luật hình Việt Nam sự xảy ra trong khu
vực biên giới trên đất liền, bờ biển, hải đảo và các vùng biển do
Bộ đội biên phòng quản lý
- Các cơ quan của Hải quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự trong trường hợp phát hiện tội phạm quy định tại các điều 188,
189 và 190 của Bộ luật hình sự Việt Nam
Trang 8- Các cơ quan của Kiểm lâm được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự trong trường hợp phát hiện tội phạm quy định tại các điều 232,
243, 244, 245, 313 và 345 của Bộ luật hình sự Việt Nam
- Các cơ quan của lực lượng Cảnh sát biển được giao nhiệm
vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có thẩm quyền khởi tố vụ
án hình sự trong trường hợp phát hiện tội phạm quy định tại Chương XIII và các điều 188, 189, 227, 235, 236, 237, 242, 249,
250, 251, 252, 253, 254, 272, 273, 282, 284, 303, 304, 305, 309,
311, 346, 347 và 348 của Bộ luật hình sự Việt Nam xảy ra trên các vùng biển và thềm lục địa của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do lực lượng Cảnh sát biển quản lý
- Các cơ quan của Kiểm ngư được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự trong trường hợp phát hiện tội phạm quy định tại các điều 111,
242, 244, 245, 246, 305 và 311 của Bộ luật hình sự Việt Nam xảy ra trên các vùng biển và thềm lục địa của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Kiểm ngư quản lý
- Các cơ quan khác trong Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra
Trang 9trong khi làm nhiệm vụ của mình, nếu phát hiện sự việc có dấu hiệu tội phạm thì có quyền khởi tố vụ án hình sự
Trong một số trường hợp đặc biệt, cơ quan có thẩm quyền chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226 của
Bộ luật hình sự Việt Nam khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm
về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết
3 Trình tự tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố
Theo khoản 1 Điều 145 Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam năm 2015 quy định: “Mọi tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố phải được tiếp nhận đầy đủ, giải quyết kịp thời Cơ quan,
tổ chức có trách nhiệm tiếp nhận không được từ chối tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố” Cơ quan, tổ chức
có trách nhiệm tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố gồm: Cơ quan điều tra; Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; Viện kiểm sát các cấp; Công an
xã, phường, thị trấn, Đồn Công an, Trạm Công an; Tòa án các cấp; Cơ quan báo chí và các cơ quan, tổ chức khác
Trang 10Khi cơ quan, tổ chức, cá nhân trực tiếp tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát,
cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải lập biên bản tiếp nhận và ghi vào sổ tiếp nhận; có thể ghi
âm hoặc ghi hình có âm thanh việc tiếp nhận Trường hợp tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố gửi qua dịch vụ bưu chính, điện thoại hoặc qua phương tiện thông tin khác thì ghi vào
sổ tiếp nhận
Trường hợp phát hiện tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố không thuộc thẩm quyền giải quyết của mình thì Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có trách nhiệm chuyển ngay tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố kèm theo tài liệu có liên quan đã tiếp nhận cho
Cơ quan điều tra có thẩm quyền Viện kiểm sát có trách nhiệm chuyển ngay tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố kèm theo tài liệu có liên quan đã tiếp nhận cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền
Công an phường, thị trấn, Đồn Công an có trách nhiệm tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, lập biên bản tiếp nhận, tiến hành kiểm tra, xác minh sơ bộ và chuyển ngay tố giác, tin báo về tội phạm kèm theo tài liệu, đồ vật có liên quan cho Cơ quan điều
Trang 11tra có thẩm quyền Công an xã có trách nhiệm tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, lập biên bản tiếp nhận, lấy lời khai ban đầu
và chuyển ngay tố giác, tin báo về tội phạm kèm theo tài liệu, đồ vật có liên quan cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền
Các cơ quan, tổ chức khác sau khi nhận được tố giác, tin báo về tội phạm thì chuyển ngay cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền Trường hợp khẩn cấp thì có thể báo tin trực tiếp qua điện thoại hoặc hình thức khác cho Cơ quan điều tra nhưng sau đó phải thể hiện bằng văn bản
Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày tiếp nhận tố giác, tin báo
về tội phạm, kiến nghị khởi tố, Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có trách nhiệm thông báo bằng văn bản về việc tiếp nhận đó cho Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền
Khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi
tố, cơ quan có thẩm quyền có quyền tiến hành các hoạt động: Thu thập thông tin, tài liệu, đồ vật từ cơ quan, tổ chức, cá nhân
có liên quan để kiểm tra, xác minh nguồn tin; Khám nghiệm hiện trường; Khám nghiệm tử thi; Trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản
Trang 124 Thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố
Trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày nhận được tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải kiểm tra, xác minh và ra một trong các quyết định: Quyết định khởi tố vụ án hình sự; Quyết định không khởi tố vụ án hình sự; Quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố
Trường hợp vụ việc bị tố giác, tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố có nhiều tình tiết phức tạp hoặc phải kiểm tra, xác minh tại nhiều địa điểm thì thời hạn giải quyết tố giác, tin báo, kiến nghị khởi tố có thể kéo dài nhưng không quá 02 tháng Trường hợp chưa thể kết thúc việc kiểm tra, xác minh trong thời hạn quy định tại khoản này thì Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền có thể gia hạn một lần nhưng không quá 02 tháng
Chậm nhất là 05 ngày trước khi hết thời hạn kiểm tra, xác minh quy định tại khoản này, Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải có văn
Trang 13bản đề nghị Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền gia hạn thời hạn kiểm tra, xác minh
Như vậy, thời hạn giải quyết tối đa đối với mọi nguồn tin về tội phạm để ra quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự là không quá 4 tháng