Đếi với Quyết định số 20, đoạn nào cho thấy Tòa án theo hướng hợp đồng vô hiệu do đổi tượng không thể thực hiện được và hướng xác định hợp đồng vô hiệu do đối tượng không thể thực hiện đ
Thời hiệu yêu cầu Toà án tuyên bố vô hiệu hợp đồng trên được xác định như thế nào? / 3
Trong pháp luật Việt Nam, Toà án có thẩm quyền tuyên bố hợp đồng vô hiệu theo quy định tại Điều 411 Bộ luật Dân sự Thời hiệu yêu cầu Toà án tuyên bố hợp đồng vô hiệu cũng được quy định rõ ràng, đảm bảo quyền lợi hợp pháp của các bên liên quan Việc hiểu rõ thẩm quyền và thời hiệu này là rất quan trọng để thực hiện các quyền và nghĩa vụ trong giao dịch dân sự.
2005, Điều 408 BLDS 2015 được đặt ra
Các quy định hiện hành của Bộ luật Dân sự không nêu rõ thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu theo Điều 408 Một số ý kiến cho rằng bên cạnh những trường hợp đã được quy định, còn tồn tại các loại hợp đồng vô hiệu khác mà không có quy định về thời hiệu cụ thể, do đó cần áp dụng thời hiệu khởi kiện chung theo Bộ luật Tố tụng Dân sự Tuy nhiên, cần xem xét từng trường hợp cụ thể để xác định thời hiệu Trong tình huống này, việc cho rằng thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu là không bị giới hạn sẽ là một quan điểm thuyết phục.
Quyết định số 20 chỉ ra rằng Tòa án đã xem xét hợp đồng vô hiệu do đối tượng không thể thực hiện được Việc xác định tính vô hiệu của hợp đồng dựa trên khả năng thực hiện của đối tượng có thể được coi là thuyết phục, bởi vì nó đảm bảo tính hợp pháp và công bằng trong giao dịch Sự rõ ràng trong quy định này giúp các bên liên quan hiểu rõ quyền lợi và nghĩa vụ của mình, từ đó giảm thiểu tranh chấp pháp lý.
Hợp đồng giữa vợ chồng bà Hẹ và bà Néch về việc chuyển nhượng một phần đất trồng cây lâu năm thuộc thửa 829, 830 với diện tích 142,5m² không đủ điều kiện để tách thửa theo quy định của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh Do đó, đối tượng của giao dịch này không thể thực hiện được, dẫn đến việc hợp đồng bị vô hiệu theo quy định tại Điều 411 Bộ luật Dân sự năm 2005.
Theo quan điểm của tôi, việc xác định hợp đồng vô hiệu do đối tượng không thể thực hiện là hợp lý Căn cứ vào Văn bản số 675/TNMT ngày 05/11/2019 của Phòng Tài nguyên và Môi trường, quy định rằng đối với đất sản xuất nông nghiệp, diện tích tối thiểu để tách thửa là 500m2 Trong trường hợp này, phần đất mà vợ chồng bà Hẹ chuyển nhượng cho bà Nếch không đủ điều kiện tách thửa theo quy định của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, dẫn đến việc giao dịch giữa các bên không thể thực hiện Hơn nữa, bà Néch cũng không thông báo cho bà Hẹ về tình trạng của phần đất này khi ký hợp đồng.
411 BLDS 2005, hợp đồng này bị vô hiệu và bà Néch phải bồi thường thiệt hại cho ba He
Quyết định số 21 chỉ ra rằng Tòa án đã xác định hợp đồng vô hiệu do đối tượng không thể thực hiện được Việc xác định này có thuyết phục hay không cần xem xét đến các yếu tố pháp lý và thực tiễn liên quan Sự thuyết phục của quyết định này phụ thuộc vào việc Tòa án có đưa ra đủ căn cứ và lý do hợp lý để chứng minh rằng đối tượng hợp đồng không thể thực hiện được, từ đó đảm bảo tính hợp pháp và công bằng trong việc giải quyết tranh chấp.
Việc chuyển nhượng nhà đất giữa các bên trong bối cảnh có tranh chấp là không hợp pháp, như đã được xác định trong Bản án dân sự phúc thẩm số 14/2011/DSPT Do đó, hợp đồng chuyển nhượng giữa bà Sương và ông Ái, cũng như hợp đồng giữa vợ chồng ông Ái và ông Khang, đều vô hiệu vì vi phạm các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 91 Luật nhà ở năm 2005 và khoản I Điều 188 Luật đất đai năm 2013.
Theo ý kiến của tôi, việc xác định hợp đồng vô hiệu do đối tượng không thể thực hiện là hợp lý, vì giao dịch liên quan đến tài sản là thửa đất số 852, hiện đang trong quá trình tranh chấp.
8 quyên sở hữu), đối tượng đã vi phạm điều kiện của nhà ở tham gia giao dịch (Khoản
Theo Điều 91 Luật Nhà ở năm 2005 và các điều kiện thực hiện quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp quyền sử dụng đất, góp vốn bằng quyền sử dụng đất (Khoản 1 Điều 188 Luật Đất đai năm 2013), hợp đồng giữa bà Sương và ông Ải bị coi là vô hiệu theo quy định tại Điều 411 Bộ luật Dân sự 2005.
VAN DE 2: XAC LAP HOP DONG CO GIA TAO VA NHAM TAU TAN TAI SAN
- Dieu 124 BLDS 2015 (Điều 129 BLDS 2005) và các quy định liên quan
- Ban an s6 06/2017/DS-ST ngày 17/01/2017 của Toà án nhân dân TP Thủ Dầu Một tỉnh Bình Dương
- Quyết định số 259/2014/DS-GĐT ngày 16/06/2014 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao
* Tóm tắt bản án số 06/2017/DS-ST ngày 17/01/2017 của Toà án nhân dân TP Thủ
Dầu Một tỉnh Bình Dương
Nguyên đơn: Cty TNHH một thành viên Đông Phong Cần Thơ
Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Dệt, ông Trương Văn Liêm
Trong vụ án tranh chấp hợp đồng mua bán, ông Tơ đã kiện ông Liêm và bà Dệt vì không hoàn tất thanh toán và đơn phương chấm dứt hợp đồng mua bán xe ô tô Công ty TNHH Đông Phong Cần Thơ yêu cầu bà Dệt tiếp tục thực hiện hợp đồng, nhưng hợp đồng lại ghi nhận bà Dệt là đại diện bên mua, trong khi thực tế ông Liêm là người ký kết giao dịch Điều này vi phạm quy định pháp luật, vì người đại diện theo pháp luật thực sự là giám đốc Thành, không phải bà Dệt.
Tòa án đã quyết định không chấp nhận kháng cáo từ cả hai bên liên quan đến bản án kinh doanh thương mại, đồng thời khẳng định kết luận về việc tuyên xử trong vụ án.
2.1 Thế nào là giả tạo trong xác lập giao dịch?
Khoản 1 Điều 124 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo, nêu rõ rằng khi các bên xác lập giao dịch một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch dân sự khác, thì giao dịch giả tạo sẽ vô hiệu, trong khi giao dịch thực sự bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ khi giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của pháp luật.
Bó ludt này hoặc luật khác có liên quan”
- Điều 347 BLDS 2015 quy định xác lập cảm giữ tải sản:
Cảm giữ tài sản phái sinh từ thời điểm đến hạn thực hiện nghĩa vụ, khi bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng cách.
2 Cam giữ tài sản phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba kể từ thời điểm bên cảm giữ chiếm giữ rài san.”
BLDS 2015 đã làm rõ hơn về thời điểm phát sinh quyền cảm giữ so với BLDS 2005, mặc dù định nghĩa cam giữ tài sản đã có trong Điều 416 của BLDS 2005 Khác với các biện pháp bảo đảm khác, cam giữ tài sản không dựa trên cam kết hay thỏa thuận mà được quy định bởi pháp luật Do đó, BLDS 2015 đã đưa cam giữ tài sản vào phần cuối cùng trong danh sách các biện pháp bảo đảm Một điểm mới trong BLDS 2015 là quy định về hiệu lực đối kháng với người thứ ba, và việc xác định thời điểm phát sinh quyền này là hợp lý.
Cần lưu ý rằng quyền cầm giữ tài sản chỉ áp dụng đối với các tài sản cụ thể, vì vậy nếu một bên chỉ giữ giấy tờ liên quan đến tài sản mà không có tài sản thực tế, thì quyền cầm giữ tài sản sẽ không được phát sinh.
Cho biết hệ quả của việc Tòa án xác định hợp đồng trên là giao dịch nhằm trốn tránh
Tòa án đã xác định rằng giao dịch giữa vợ chồng bà Anh và vợ chồng ông Vượng là hợp đồng giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ tài chính Hệ quả của quyết định này là buộc vợ chồng bà Anh phải trả nợ gốc và lãi cho bà Thu, tuyên bố giao dịch vô hiệu và phong tỏa tài sản của họ để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ Theo khoản 2 Điều 124 BLDS 2015, giao dịch dân sự giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba sẽ bị coi là vô hiệu.
VAN DE 3: HOP DONG VI PHAM QUY DINH VE HINH THUC
- Điều 117, Điều 119, Điều 129, Điều 132 và Điều 688 BLDS 2015 (Điều 122, Điều
136, Điều 401 BLDS 2005) và các quy định liên quan khác
- Bản án số 16/2019/DS-PT ngày 19/3/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi (trở thành Án lệ số 55/2022/AL)
- Quyết định số 93/2018/DS-GĐT ngày 29/11/2018 của Toà án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng
*Tóm tắt bản án số 16/2019/DS-PT ngày 19/3/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi (trở thành Án lệ số 55/2022/AL)
Nguyên Don: Ông Võ Sĩ M
Vào năm 2009, ông Đoàn C đã thỏa thuận và lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho gia đình bà N với diện tích đất là lô B, được Nhà nước cấp tái định cư với giá 90.000.000 đồng, và ông đã thanh toán đủ số tiền Đến năm 2011, Nhà nước đã đổi lô đất của bị đơn thành lô A ở mặt tiền, dẫn đến việc ông Đoàn C yêu cầu nguyên đơn thanh toán tổng số tiền là 120.000.000 đồng, trong đó nguyên đơn đã chấp nhận và trả trước 20.000.000 đồng, còn 10.000.000 đồng sẽ thanh toán khi hoàn tất thủ tục chuyển nhượng Đến tháng 02/2016, Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bị đơn, nhưng bị đơn chỉ cung cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa số 877 mà không thực hiện thủ tục chuyển nhượng cho nguyên đơn Hiện tại, nguyên đơn đã khởi kiện yêu cầu bị đơn thực hiện thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất thửa 877 cho mình.
Quyết định của tòa án :
1 Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, đồng thời nghĩa vụ của nguyên đơn là thanh toán nốt số tiền 10.000.000 đồng cho bị đơn
Tòa án không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn cùng những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, liên quan đến việc tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ký ngày 10/8/2009 là vô hiệu, cũng như giải quyết hậu quả phát sinh từ hợp đồng này.
Trong Bản án số 16, đoạn nào chỉ ra rằng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã được xác lập trước khi Bộ luật Dân sự 2015 có hiệu lực và chưa được công chứng, chứng thực?
-Doan trong Ban an sé 16 cho thay hop đồng chuyển nhượng quyên sử dụng đất được xác lập trước ngày BLDS 2015 có hiệu lực:
Vào năm 2009, bị đơn đã ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho nguyên đơn với diện tích đất lô B, được cấp bởi Nhà nước tại khu Làng Cá Sa Huỳnh, với giá 90.000.000 đồng Nguyên đơn đã thanh toán đủ số tiền này Đến năm 2011, Nhà nước chỉ định mốc giới cho bị đơn với 03 lô đất liền kề mặt tiền, dẫn đến yêu cầu từ bị đơn và anh Đoàn Tấn L1 về việc thanh toán thêm 30.000.000 đồng do giá đất mặt tiền cao hơn Nguyên đơn đã đồng ý trả thêm 20.000.000 đồng, còn 10.000.000 đồng sẽ thanh toán khi hoàn tất thủ tục chuyển nhượng Tại thời điểm này, bị đơn đã chỉ rõ vị trí và mốc giới đất để chuyển nhượng cho nguyên đơn.
-Ngoài ra, đoạn trong Bản án số l6 cho thấy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất chưa được công chứng, chứng thực là:
Mặc dù tại thời điểm thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất, bị đơn chưa được cấp đất và chỉ lập giấy viết tay, nhưng khi được cấp đất, các bên đã thay đổi thỏa thuận thành chuyển nhượng thửa 877 Họ tiếp tục thực hiện hợp đồng bằng cách giao thêm tiền, giao đất và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất Thời điểm giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên bị đơn đã đủ điều kiện để thực hiện chuyển nhượng.
Trong Bản án số 16, đoạn nào cho thấy Toà án đã áp dụng Điều 129 Bộ luật Dân sự 2015 cho hợp đồng chuyển nhượng, mặc dù hợp đồng này được ký kết trước khi Bộ luật Dân sự 2015 có hiệu lực?
-Đoạn cho thấy Toà án đã áp dụng Điều 129 BLDS 2015 cho hợp đồng chuyên nhượng dù hợp đồng được xác lập trước ngày BLDS 2015 có hiệu lực:
Thời hạn thực hiện giao dịch giữa hai bên được xác định từ lúc giao dịch được thiết lập cho đến khi bị đơn hoàn thành nghĩa vụ sang tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho nguyên đơn, do đó giao dịch này vẫn đang trong quá trình thực hiện Nội dung và hình thức của giao dịch phù hợp với quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015.
Bộ luật Dân sự năm 2015 là đúng với quy định tại điểm b khoản 1 Điều 688 Bộ luật Tân sự năm 2015
Theo Điều 116, khoản 2 và Điều 129 Bộ luật Dân sự năm 2015, mặc dù giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa các bên không tuân thủ hình thức quy định tại khoản 1 Điều 502, nhưng việc nguyên đơn đã chuyển cho bị đơn 110.000.000 đồng và bị đơn đã giao quyền sử dụng đất cho nguyên đơn cho thấy họ đã thực hiện hơn 2/3 nghĩa vụ trong giao dịch, do đó giao dịch này được công nhận là có hiệu lực.
3.3 Việc Toà án áp dụng Điều 129 BLDS 2015 trong trường hợp như trên có thuyết phục không? Vì sao?
CSPL: Điều 116, Điều 129, Điều 688 BLDS 2015
-Việc Tòa án áp dụng Điều 129 BLDS 2015 trong trường hợp trên là thuyết phục
Hợp đồng chuyên nhượng quyền sử dụng đất được ký kết vào ngày 10/08/2009, trước khi Bộ luật Dân sự 2015 có hiệu lực, và giao dịch này vẫn đang được thực hiện Theo điểm b khoản 1 Điều 688 BLDS 2015, đối với các giao dịch dân sự được xác lập trước ngày bộ luật này có hiệu lực, việc áp dụng pháp luật sẽ tuân theo quy định của Bộ luật nếu giao dịch đó có nội dung và hình thức phù hợp.
Hợp đồng chuyên nhượng quyền sử dụng đất không được công chứng và chứng thực, vi phạm quy định về hình thức Tuy nhiên, bên nguyên đơn đã tiến hành thực hiện hợp đồng này.
2/3 nghĩa vụ trong giao dịch nên căn cứ vào Điều 116, khoản 2 Điều 129 BLDS
2015 thi giao dịch được công nhận hiệu lực
3.4 Trong Bản án số 16,Tòa án áp dụng Điều 129 BLDS 2015 khi chỉ xác định nguyên đơn thực hiện 2/3 nghĩa vụ có thuyết phục không vì sao ?
Trong bản án số 16, Tòa án đã áp dụng Điều 129 Bộ luật Dân sự khi xác định nguyên đơn đã thực hiện 2/3 nghĩa vụ, điều này hoàn toàn thuyết phục Theo điểm a khoản 3 Điều
Theo Điều 167 Luật Đất Đai 2013, hợp đồng chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp quyền sử dụng đất phải được công chứng hoặc chứng thực, trừ trường hợp kinh doanh bất động sản Mặc dù các bên đã lập giấy viết tay, nhưng sau đó đã thay đổi thỏa thuận thành chuyển nhượng thửa đất 877 và thực hiện hợp đồng bằng việc giao tiền, giao đất, và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất Dù giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chưa được công chứng, bên nguyên đơn đã giao cho bị đơn 110.000.000 đồng, trong khi bị đơn đã giao quyền sử dụng đất cho nguyên đơn, hoàn thành hơn 2/3 nghĩa vụ Theo khoản 2 Điều 129 BLDS 2015, giao dịch dân sự vi phạm quy định về hình thức sẽ vô hiệu, trừ trường hợp đã thực hiện một phần nghĩa vụ Do đó, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vẫn có hiệu lực.
Trong Bản án số 16, có thể thấy rằng khi áp dụng Điều 129 BLDS, bên bán không cần thực hiện thủ tục chuyển nhượng, trong khi bên nhận chuyển nhượng có quyền liên hệ với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để được công nhận quyền sử dụng đất theo bản án đã có hiệu lực pháp luật.
Trong bản án số 16, tòa án đã áp dụng Điều 129 BLDS 2015 để công nhận hiệu lực của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng thửa đất số 877, tờ bản đồ số 24, xã Phô Thạnh giữa ông Võ Sĩ M, bà Phùng Thị N và ông Đoàn C, bà Trần Thị L Ông M và bà N có quyền sử dụng thửa đất này, khẳng định tính hợp pháp của giao dịch chuyển nhượng.
Hướng giải quyết như nêu trên của Tòa án có thuyết phục không? Vì sao?
Tòa án đã đưa ra quyết định thuyết phục nhằm bảo vệ quyền lợi cho cả hai bên trong giao dịch và đảm bảo việc thanh toán đầy đủ cho bị đơn Yêu cầu phản tố của bị đơn không được chấp nhận vì ông C và bà L đã không yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu trong vòng hai năm kể từ ngày giao dịch được xác lập, do đó giao dịch vẫn có hiệu lực theo quy định tại khoản 2 Điều 132 BLDS 2015 Theo khoản 2 Điều 129 BLDS 2015, nếu một hoặc các bên đã thực hiện 2/3 nghĩa vụ trong giao dịch dân sự bằng văn bản mà không có chứng thực công chứng, Tòa án có thể công nhận hiệu lực của giao dịch theo yêu cầu của bên liên quan Cuối cùng, Tòa án cũng đảm bảo quyền lợi cho bà Nguyễn Thị M với quán nước tạm có diện tích 25m2, được xây dựng bằng cây bạch đàn và mái lợp tôn sắt, tiếp tục tồn tại trên thửa đất số 877, tờ bản đồ số 24 xã Phỏ Thạnh.
*Tóm tắt quyết định 93/2018/DS-PT ngày 29/11/2018 của tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng
Nguyên đơn: Ông Võ Sĩ Mến và bà Phùng Thị Nhiễm
Bị đơn: Ông Đoàn Cưu và bà tran Thi Lam
Bản án xác nhận thỏa thuận chuyển nhượng đất giữa vợ chồng ông Cưu và ba Lam cùng con trai cho vợ chồng ông Mến về lô đất B khi nhà nước giao Hợp đồng chuyển nhượng sau đó phát sinh thêm khoản tiền 30.000.000 đồng cho mảnh đất A Mặc dù hợp đồng không có chứng thực hay công chứng, các bên vẫn thực hiện đúng các thỏa thuận đã quy định, do đó Tòa án bác bỏ yêu cầu phản tố về hợp đồng không có công chứng của vợ chồng ông Cưu.
Quyết định của tòa án :
1 Chấp nhận quyết định kháng nghị
2 Hủy toàn bộ kết quả phúc thâm
3 Giao hồ sơ vụ án lại cho tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi xét xử lại theo thủ tục phúc thâm
3.7 Đoạn nào trong Quyết định số 93 cho thấy hợp đồng chuyền nhượng quyền sử dụng đất ngày 10/8/2009 chưa được công chứng, chứng thực?
Theo đoạn 5 trong quyết định số 93, hình thức hợp đồng đối với các giao dịch dân sự được xác lập trước ngày 01/01/2017 sẽ áp dụng thời hiệu theo quy định hiện hành.
19 định của Bộ luật Dân sự năm 2015 (diém d khoản 7 Đ;ều 688 Bộ luật Dân sự năm
Giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng ông Cưu, bà Lắm và vợ chồng ông Miễn, bà Nhiễm vào ngày 10/8/2009 không được công chứng và chứng thực, do đó vi phạm quy định về hình thức.
3.8 Theo BLDS 2015, hệ quả pháp lý của việc hết thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu Về hình thức?
“1 uy định vẻ giao dịch dân sự vô hiệu từ Điều 123 đến Điều 133 của Bộ luật này cũng được áp dụng đổi với hợp đồng vô hiệu
Sự vô hiệu của hợp đồng chính sẽ dẫn đến việc chấm dứt hợp đồng phụ, trừ khi các bên đã thỏa thuận rằng hợp đồng phụ sẽ thay thế hợp đồng chính Tuy nhiên, quy định này không áp dụng cho các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.
Sự vô hiệu của hợp đồng phụ không dẫn đến việc chấm dứt hợp đồng chính, trừ khi các bên có thỏa thuận rằng hợp đồng phụ là một phần không thể tách rời của hợp đồng chính.
-Hệ quả của việc hét thời hiệu yêu cầu Toà án tuyên bó hợp đồng vô hiệu về hình thức được căn cứ theo Điều 131 BLDS năm 2015:
“7 Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay doi, cham dit quyén, nghia
Vụ dân sự Của các bên kế từ thời điểm giao dịch được xác láp
Khi giao dịch dân sự bị vô hiệu, các bên phải khôi phục lại tình trạng ban đầu và hoàn trả cho nhau những gì đã nhận Nếu không thể hoàn trả bằng hiện vật, thì giá trị tương ứng sẽ được hoàn trả bằng tiền.
3 Bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức đó
4 Bên có lỗi gây thiệt hại thì phái bồi thường
5 Việc giđi quyết hậu quá cửa giao dịch đân sự vô hiệu liên quan đến Quyên nhân thân do Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định ”
Trong Quyết định số 93, Toà án đã áp dụng quy định về thời hiệu tại Điều 132 Bộ luật Dân sự 2015 để công nhận hiệu lực của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 10/8/2009, mặc dù hợp đồng này chưa được công chứng hoặc chứng thực Điều này cho thấy Toà án đã xem xét các yếu tố pháp lý liên quan và khẳng định tính hợp pháp của giao dịch trong bối cảnh thời hiệu.
Quyết định số 93 của Toà án đã áp dụng quy định về thời hiệu theo Điều 132 Bộ luật Dân sự 2015, nhằm công nhận hiệu lực của hợp đồng chuyên nhượng quyền.
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 10/8/2009 giữa vợ chồng ông Cưu, bà Lắm và vợ chồng ông Mến, bà Nhiễm, mặc dù chưa được công chứng, chứng thực, nhưng vẫn có hiệu lực theo quy định tại khoản 2 Điều 132 BLDS 2015 Theo quy định của BLDS 2015, đối với các giao dịch dân sự được xác lập trước ngày 01/01/2017, thời hiệu áp dụng theo quy định hiện hành Mặc dù vi phạm về hình thức, nhưng do nguyên đơn đã khởi kiện sau thời hạn hai năm mà bị đơn không yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu, nên hợp đồng này vẫn được công nhận.
Trong quyết định số 93, Toà án đã công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 10/8/2009 mặc dù hợp đồng này chưa được công chứng, chứng thực Việc công nhận này có thể gây ra nhiều tranh cãi về tính hợp pháp và thuyết phục, bởi vì việc công chứng và chứng thực thường được coi là điều kiện cần thiết để đảm bảo tính xác thực và bảo vệ quyền lợi của các bên liên quan.
-Việc Tòa án Nhân dân cấp cao Đà Nẵng công nhận hợp đồng chuyền nhượng quyên
Việc sử dụng đất từ ngày 10/8/2009, mặc dù chưa được công chứng hay chứng thực, vẫn hoàn toàn hợp pháp theo khoản 2 điều 132 BLDS 2015, quy định rằng giao dịch dân sự có hiệu lực nếu không có yêu cầu tuyên bố vô hiệu Trong suốt thời gian từ 10/8/2009 đến khi nguyên đơn khởi kiện vào ngày 18/4/2017, ông Mến và bà Nhiễm đã không thực hiện quyền khởi kiện để vô hiệu hóa hợp đồng Do đó, tòa án công nhận hợp đồng chuyển nhượng đất trong trường hợp này là hoàn toàn có cơ sở và phù hợp với quy định pháp luật.
VAN DE 4: DON PHUONG CHAM DUT, HUY BO DO KHONG THUC HIEN DUNG HOP DONG
- Điều 423 và tiếp theo BLDS 2015 (Điêu 417, 425, 426 BLDS 2005) và các quy định liên quan (nếu có);
Ông Minh đã ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông Cường, hợp đồng này được xác lập hợp pháp và ông Minh đã giao đất cho ông Cường Tuy nhiên, ông Cường không thanh toán tiền như đã thỏa thuận, mặc dù ông Minh đã nhiều lần nhắc nhở Hiện tại, ông Minh yêu cầu Tòa án hủy bỏ hợp đồng chuyển nhượng để đòi lại quyền sử dụng đất.
- Bán án số 06/2017/KDTM-PT ngày 26/5/2017 của Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Long
*Tóm tắt bản án số 06/2017/KDTM-PT ngày 26/5/2017 của tỉnh Vĩnh Long
Nguyên đơn: Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Đông Phong Cần Thơ (Giải thê)
Người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn: Ông Nguyễn Thành Tơ ô Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Dệt, ụng Trương Văn Liờm
Tranh chấp vấn đề: Giao kết hợp đồng mua bán xe ô tô ngày 26/5/2012 nhưng hợp đồng đã bị vô hiệu
Trong vụ tranh chấp này, lý do chính là hợp đồng ghi nhận bên mua là "Trang trí nội thất Thanh Thảo", nhưng bà Dệt không phải là đại diện hợp pháp của bên này Thêm vào đó, mặc dù bên mua là bà Dệt, nhưng người ký kết hợp đồng lại là ông Trương Văn Liêm, gây ra sự không nhất quán trong giao dịch.
Hướng giải quyết của Tòa án: Tòa án tuyên chiếc ô tô vẫn thuộc quyền sở hữu của
Công ty Đông Phong đã kiến nghị Công an tỉnh Vĩnh Long thu hồi giấy đăng ký xe ô tô đứng tên bà Nguyễn Thị Dệt Tòa án cũng đã buộc ông Trương Văn Liêm và bà Dệt phải trả cho Công ty TNHH MTV Đông Phong Cần Thơ, do ông Nguyễn Thành Tơ kế thừa quyền và nghĩa vụ, số tiền 4.880.000 đồng Đồng thời, Công ty TNHH MTV Đông Phong Cần Thơ cũng phải thực hiện nghĩa vụ trả cho ông Tơ.
Trương Văn Liêm, bà Nguyễn Thị Dệt số tiền là 67.361.600 đồng
4.1 Điểm giống nhau và khác nhau giữa hợp đồng vô hiệu và hủy bỏ hợp đồng do có vi phạm
Giống nhau : hợp đồng vô hiệu hóa và huỷ bỏ hợp động do vi phạm đều dẫn đến kết quả là châm dứt sự thỏa thuận giữa các bên
Điểm giống nhau và khác nhau giữa hợp đồng vô hiệu và hủy bỏ hợp đồng do có vi 11012757 b
Giống nhau : hợp đồng vô hiệu hóa và huỷ bỏ hợp động do vi phạm đều dẫn đến kết quả là châm dứt sự thỏa thuận giữa các bên
Tiêu chí hủy bỏ hợp đồng theo Điều 423 Bộ luật Dân sự 2015 quy định rằng hợp đồng có thể bị vô hiệu khi có sự vi phạm Một bên có quyền hủy bỏ hợp đồng mà không phải bồi thường nếu xảy ra các trường hợp theo quy định của pháp luật Giao dịch sẽ bị vô hiệu nếu không đáp ứng đủ các điều kiện cần thiết.
Vi phạm hợp đồng được quy định tại Điều 117 Bộ luật Dân sự 2015, nêu rõ các điều kiện để hủy bỏ hợp đồng mà các bên đã thỏa thuận Việc vi phạm các điều khoản của luật có thể dẫn đến hậu quả pháp lý nghiêm trọng, bao gồm việc chấm dứt hiệu lực của hợp đồng.
-bên kia vi phạm nghĩa vụ hợp đức xã hội; đông - Do giả tạo;
Trong trường hợp khác theo quy định của pháp luật, những người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, và người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự có thể xác lập và thực hiện các giao dịch.
- Do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép;
- Do người xác lập không nhận thức và làm chủ hành vi của mình;
- Do không tuân thủ quy định về hình thúc;
- Do có đối tượng không thể thực hiện được
Hợp đồng này có hiệu lực tại Chưa bao giờ phát sinh quyền và nghĩa
Tình trạng hủy hợp đồng xảy ra khi các bên không thực hiện đúng các điều khoản đã thỏa thuận, dẫn đến việc không công nhận hiệu lực của hợp đồng Việc này thường xảy ra do những yếu tố như cha sinh yêu tố, ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa các bên liên quan.
Theo Điều 427 BLDS 2015 và Điều 314 Luật Thương Mại
Các bên không cần thực hiện nghĩa vụ đã thỏa thuận, ngoại trừ những điều khoản liên quan đến phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại và giải quyết tranh chấp.
Các bên cần hoàn trả cho nhau những tài sản đã nhận, sau khi đã trừ đi các chi phí hợp lý liên quan đến việc thực hiện hợp đồng cũng như chi phí bảo quản và phát triển tài sản.
- Bên bị thiệt hại do hành vi vĩ phạm nghĩa vụ Của bên kia được bồi thường
- Có quyền đòi lại phần lợi ích do việc đã thực hiện phần nghĩa vụ theo hợp đồng
- Các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đi nhận
- Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường
-Toa án hoặc trọng tải
-Một trong các bên - Tòa án hoặc Trọng tài
Theo Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Long, hợp đồng vô hiệu hay bị huỷ bỏ?
Tòa án nhận định rằng hợp đồng mua bán xe ngày 26/5/2012 là vô hiệu theo quy định tại Điều 122 của Bộ luật Dân sự 2015 Do đó, không có cơ sở để hủy hợp đồng và cũng không xem xét yêu cầu vi phạm hợp đồng từ cả nguyên đơn và bị đơn, vì hợp đồng vô hiệu không phát sinh nghĩa vụ từ thời điểm giao kết và không ràng buộc trách nhiệm của các bên Tòa quyết định vô hiệu hóa hợp đồng mua bán xe ô tô giữa Công ty TNHHMTV Đông Phong Cần Thơ và ông Trương Thanh Liêm.
Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Long (về 00/2 0 98v): 208/ 2353099) 1
Long (về huỷ bỏ hay vô hiệu hợp đồng)
Việc hủy bỏ hợp đồng là hợp lý do bên mua đã vi phạm trong việc đại diện khi xác lập giao dịch, dẫn đến vi phạm thỏa thuận mua bán giữa các bên Tòa án cũng muốn bảo vệ quyền lợi của cả hai bên trong giao dịch, nhằm tránh những hậu quả nghiêm trọng có thể xảy ra trong hợp đồng.
Nếu hợp đồng bị vô hiệu thì có áp dụng phạt vi phạm hợp đồng không? Vì sao?
Khi hợp đồng bị vô hiệu, pháp luật hướng đến việc khôi phục tình trạng ban đầu của các bên trước khi ký kết hợp đồng Các điều khoản liên quan đến phạt vi phạm hợp đồng chỉ có giá trị khi hợp đồng còn hiệu lực Do đó, nếu hợp đồng vô hiệu, việc áp dụng phạt vi phạm sẽ không được thực hiện, theo quy định tại Điều 131 của Bộ luật Dân sự.
Hướng giải quyết của Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Long đối với câu hỏi trên như thế nào và suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết này của Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Long
Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Long đã đưa ra hướng giải quyết hợp lý đối với vụ việc, khi không bên nào bị phạt do lỗi dẫn đến việc vô hiệu hợp đồng theo Điều 122 BLDS 2015 Việc vô hiệu hợp đồng đã làm phát sinh nghĩa vụ hoàn trả giữa các bên, cụ thể là ông Trương Văn Liêm và bà Nguyễn Thị Dệt phải trả cho Công Ty TNHH MTV Đông Phong Cần Thơ số tiền 4.480.000 đồng Đồng thời, Công ty TNHH MTV Đông Phong Cần Thơ cũng phải thực hiện nghĩa vụ trả lại cho ông Liêm và bà Dệt số tiền 67.361.600 đồng.
4.6 Điểm giống nhau và khác nhau giữa đơn phương cham dứt hợp đồng và hủy bỏ hợp đồng do có vi phạm
-Do một bên thực hiện
-Không phải bồi thường khi một trong hai bên vi phạm nghiêm trọng
-Phải thông báo trước cho bên kia biết, nếu không thông báo mà gây thiệt hại thì sẽ bồi thường
Tiêu chí Đơn phương chấm dứt hợp đồng | Hủy bỏ hợp đồng do vi phạm
CSPL Điều 428 BLDS 2015 Điều 423 và 427 BLDS 2015
Trong trường hợp một bên vi phạm nghiêm trọng hợp đồng, bên còn lại có quyền hủy bỏ hợp đồng nếu vi phạm đó làm ảnh hưởng lớn đến nghĩa vụ của các bên Điều kiện để hủy bỏ hợp đồng phải được các bên thỏa thuận rõ ràng.
- Thuộc vào trường hợp cham dut mà các bên có thỏa thuận trong hop đồng
- Các trường hợp khác do luật định thỏa thuận;
- Bên kia vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ hợp đồng;
- Trường hợp khác do luật quy định
Hợp đồng sẽ chấm dứt kể từ thời điểm bị hủy bỏ, và bên nhận thông báo sẽ biết rằng hợp đồng không còn hiệu lực từ thời điểm giao kết.
Khi hợp đồng bị hủy bỏ, các bên không còn phải thực hiện nghĩa vụ pháp lý, trừ những thỏa thuận liên quan đến hợp đồng không có hiệu lực, phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại và phương thức giải quyết tranh chấp.
Bên đã thực hiện nghĩa vụ có quyền yêu cầu bên kia thanh toán phần nghĩa vụ đã hoàn thành Tại thời điểm giao kết, các bên không cần thực hiện nghĩa vụ đã thỏa thuận, ngoại trừ các thỏa thuận liên quan đến phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại và giải quyết tranh chấp.
Các bên cần hoàn trả cho nhau những tài sản đã nhận, sau khi đã trừ đi các chi phí hợp lý liên quan đến việc thực hiện hợp đồng cũng như chi phí bảo quản và phát triển tài sản.
Việc hoàn trả được thực hiện bằng hiện vật Trường hợp không hoàn trả được bằng hiện
26 vật thì được trị giá thành tiên đề hoan tra
Trong trường hợp các bên đều có nghĩa vụ hoàn trả, việc hoàn trả phải được thực hiện đồng thời, trừ khi có thỏa thuận khác hoặc quy định pháp luật có điều khoản khác.
4.7 Ông Minh có được quyền huỷ bỏ hợp đông chuyên nhượng nêu trên hay không, vì sao ? Nếu có, nêu rõ văn bản cho phép huỷ bỏ
Ông Minh có quyền hủy bỏ hợp đồng chuyển nhượng đất với ông Cường do ông Cường đã chậm trễ trong việc thanh toán, mặc dù ông Minh đã nhiều lần nhắc nhở Điều này được căn cứ theo khoản 1 Điều 424 của Bộ luật Dân sự.
BLDS 2015 quy định rằng bên có nghĩa vụ không thực hiện đúng nghĩa vụ sẽ bị bên có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ trong một thời hạn hợp lý.
Ông Minh có quyền nộp đơn lên tòa án để yêu cầu hủy bỏ hợp đồng đã ký với ông Cường, vì bên có quyền có thể hủy hợp đồng nếu không thực hiện nghĩa vụ.
VAN DE 5: DUNG TEN GIUM MUA BAT DONG SAN
~ Các quy định về điêu kiện có hiệu lực của hợp đồng và hậu quả hợp đông vô hiệu trong BLDS
- Quyết định số 17/2015/DS-GĐT ngày 19/05/2015 của Hội đồng thâm phán Tòa án nhân dân tối cao; Án lệ số 02/2016/AL
*Tóm tắt Quyết định số 17/2015/DS-GĐT ngày 19/05/2015 của Hội đồng thâm phán
Tòa án nhân dan tối cao:
Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Tuệ
Bị đơn: Ông Nguyễn Văn Bình
Bà Tuệ, một Việt Kiều sống tại Nhật Bản từ năm 1977, đã nhờ ông Bình, chú ruột của bà, mua nhà tại số 16-B20 phường Nghĩa Tân, quận Cầu Giấy, Hà Nội vào năm 1992 với giá 356 chỉ vàng Sau khi yêu cầu ông Bình trả lại nhà đất nhưng không nhận được phản hồi, bà Tuệ đã khởi kiện ra tòa Tòa án đã buộc ông Bình phải trả lại nhà, nhưng không tính phí quản lý Tòa phúc thẩm sau đó xác định rằng bà Tuệ chỉ có quyền đòi lại số tiền mua nhà mà bà đã đưa cho ông Bình.
Quyết định của tòa án: Toàn án tối cao quyết định hủy hai bản án sơ thâm và phúc thâm và yêu cầu xét xử sơ thâm lại
Tòa án nhân dân tối cao đã xác định rằng ngôi nhà có tranh chấp thuộc sở hữu của bà Tuệ, người đã bỏ tiền mua, trong khi ông Bình và bà Vân chỉ đứng tên hộ Sự xác định này có thuyết phục hay không phụ thuộc vào các chứng cứ và quy định pháp luật liên quan đến quyền sở hữu tài sản Việc bà Tuệ thực hiện giao dịch mua bán và nhờ người khác đứng tên có thể được xem là hợp pháp nếu có sự đồng ý rõ ràng và hợp lý từ các bên liên quan.
- Tòa án nhân dân tối cao xác định như vậy là thuyết phục
Căn cứ vào “giấy cam đoan xác định tài sản nhà ở” lập ngày 7/6/2001, xác nhận rằng căn nhà số 16-B20 được bà Tuệ mua bằng tiền của mình và nhờ ông đứng tên.
Bình, bà Vân đứng tên hộ, đều có chữ kí của ông bình và bà Vân
2 Căn cứ vào “giấy khai nhận tài sản” ngày 9/8/2001 của bà Tuệ có nội dung năm 1993 bà Tuệ mua căn nhà số 16-B20 phường Nghĩa Tân, quận Cầu
Giấy, thành Phố Hà Nội, và đã được UBND thành phố Hà Nội cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và sỡ hữu nhà ở ngày 25/05/2001 do bà Tuệ
Ông Bình và bà Vân đã đứng tên mua nhà tại Việt Nam cho một người định cư nước ngoài, vì người này không thể trực tiếp sở hữu bất động sản tại đây Giấy tờ mua bán có chữ ký xác nhận của bà Tuệ, ông Bình và bà Vân.
Theo biên bản ngày 05/10/2010 và 14/10/2010, ông Bình đã thừa nhận rằng nhà số 16-B20 được bà Tuệ cho tiền mua, trong khi bà Vân đứng tên giùm Con trai ông Bình, anh Nguyễn Xuân Hải, cũng khẳng định rằng nhà số 16-B20 do bà Tuệ mua.
5,2 Ở thời điểm mua nhà trên, bà Tuệ có được đứng tên không? Vì sao?
Việc Tòa án nhân dân tối cao xác định nhà có tranh chấp do bà Tuệ bỏ tiền ra mua và nhờ ông Bình, bà Vân đứng tên hộ có thuyêt phục không? Vì sao?2 c cà 28 5.2 Ở thời điểm mua nhà trên, bà Tuệ có được đứng tên không? Vì sao?
- Tòa án nhân dân tối cao xác định như vậy là thuyết phục
Theo “giấy cam đoan xác định tài sản nhà ở” lập ngày 7/6/2001, căn nhà số 16-B20 được xác nhận là do bà Tuệ đứng ra mua và nhờ ông quản lý tài sản này.
Bình, bà Vân đứng tên hộ, đều có chữ kí của ông bình và bà Vân
2 Căn cứ vào “giấy khai nhận tài sản” ngày 9/8/2001 của bà Tuệ có nội dung năm 1993 bà Tuệ mua căn nhà số 16-B20 phường Nghĩa Tân, quận Cầu
Giấy, thành Phố Hà Nội, và đã được UBND thành phố Hà Nội cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và sỡ hữu nhà ở ngày 25/05/2001 do bà Tuệ
Ông Bình và bà Vân đã đứng tên mua nhà tại Việt Nam cho 28, một người định cư nước ngoài không thể trực tiếp sở hữu tài sản Giấy tờ mua bán có chữ ký xác nhận của bà Tuệ, ông Bình và bà Vân, đảm bảo tính hợp pháp cho giao dịch này.
Theo biên bản ngày 05/10/2010 và 14/10/2010, ông Bình đã thừa nhận rằng nhà số 16-B20 được bà Tuệ cho tiền mua, và bà Vân là người đứng tên giùm Con trai ông Bình, anh Nguyễn Xuân Hải, cũng xác nhận rằng nhà số 16-B20 là do bà Tuệ mua.
5,2 Ở thời điểm mua nhà trên, bà Tuệ có được đứng tên không? Vì sao?
Vào cuối năm 1992, bà Tuệ không thể đứng tên sở hữu nhà do Luật Đất đai năm 1987 không quy định quyền mua, bán hay chuyển nhượng quyền sử dụng đất của người Việt Nam định cư ở nước ngoài Hơn nữa, Điều 16 của Luật này cũng không bao gồm trường hợp của bà Tuệ, dẫn đến việc bà không có quyền thực hiện các giao dịch liên quan đến đất đai tại Việt Nam.
Ở thời điểm hiện nay, bà Tuệ có được đứng tên mua nhà ở Việt Nam không?
- Căn cứ vào khoản 6 Điều 4 Luật Đất đai năm 2024 và Điểm b, c khoản 2 Điều
8 Luật Nhà ở năm 2023, áp dụng năm 2024 thì bà Tuệ có thể đứng tên mua nhà ở
Bà Tuệ đã được cấp giấy "miễn thị thực" cho phép nhập cảnh nhiều lần vào Việt Nam Ngoài ra, bà đủ năng lực hành vi dân sự để thực hiện giao dịch nhà theo quy định tại Điểm b khoản 2 Điều 161 của Luật Nhà ở năm 2023, có hiệu lực từ năm 2024 Do đó, bà Tuệ có quyền sở hữu nhà theo quy định pháp luật.
Ngày nay, theo Tòa án nhân dân tối cao, bà Tuệ được công nhận quyền sở hữu nhà trên không? Hướng giải quyết này của Tòa án nhân dân tối cao đã có tiền lệ chưa2
- Ngày nay, theo TAND tối cao, bà Tuệ được công nhận quyén Sở hữu nhà trên
Trong bản ỏn cú ghi nhận: “Theo “ứiõy chứng nhận” ngày 12/06/2009 của Tổng lónh
Sự quán nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại Nhật Bản thi bà Tuệ có đủ điều kiện được sở hữu nhà ở tại Việt Nam”
- Hướng giải quyết trên của Tòa án đã có tiền lệ: Bản án sơ thâm 164/2015/DS-ST:
Nguyên đơn hồi hương từ Hoa Kỳ đã nhờ người cháu đứng tên mua mảnh đất và hoàn tất thủ tục Sau đó, người cháu chuyển nhượng lại cho mẹ mình, là em gái của nguyên đơn Khi nguyên đơn trở về và yêu cầu em gái chuyển nhượng lại mảnh đất, người em gái không đồng ý.
29 quyết của tòa Sơ thâm: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn, công nhận quyền sở hữu nhà đất của nguyên đơn
Theo Tòa án nhân dân tối cao, phần giá trị chênh lệch giữa số tiền bà Tuệ đã đầu tư và giá trị hiện tại của nhà đất có tranh chấp sẽ được xử lý dựa trên các quy định pháp luật hiện hành.
Theo quyết định của Tòa án nhân dân tối cao, giá trị chênh lệch giữa số tiền bà Tuệ đã đầu tư và giá trị hiện tại của nhà đất tranh chấp sẽ được chia đôi cho bà Tuệ và ông Bình Cụ thể, bản án ghi nhận rằng việc xem xét công sức quản lý và bảo trì nhà cho gia đình ông Bình sẽ dựa trên giá trị thị trường của nhà đất tại thời điểm xét xử sơ thẩm, sau khi trừ đi số tiền mà bà Tuệ đã chi để mua nhà đất Phần giá trị còn lại sẽ được chia đều giữa bà Tuệ và ông Bình.
5.6 Hướng giải quyết trên của Tòa án nhân dân tối cao đã có Án lệ chưa? Nếu có, nêu Án lệ đó
- Án lệ số 02/2016/AL người Việt Nam định cư ở nước ngoài nhờ người ở Việt Nam đứng tên mua bất động sản
Án lệ liên quan đến trường hợp người Việt Nam định cư ở nước ngoài đã đầu tư tiền để nhượng quyền sử dụng đất, nhờ người trong nước đứng tên trên giấy tờ và quản lý mảnh đất Khi xảy ra tranh chấp, Tòa án đã đưa ra quyết định giải quyết dựa trên các yếu tố pháp lý liên quan đến quyền sở hữu và quản lý đất đai.
1 Phải xem xét và tính công sức bảo quản, giữ gìn, tôn trọng làm tăng gia tri quyên sử dụng đất cho người đứng tên hộ
Nếu không xác định rõ ràng công sức của từng người, cần tìm hai người có công sức tương đương để chia sẻ giá trị chênh lệch tăng thêm so với giá trị ban đầu của mảnh đất.
Theo em, hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao là chưa hợp lý Tòa án cần xem xét lại công sức quản lý và giữ gìn nhà cửa của ông Bình, trong khi thực tế bà Tuệ đã mua cho ông Bình 2 căn nhà ở Yên Bái và Phú Thọ như một phần công trả cho ông Ông Bình đã tự ý tăng thêm 4 chỉ vàng vào giá mua nhà và nới 2 phòng nhỏ để cho thuê mà không thông báo cho bà Tuệ Gia đình ông Bình vẫn đang sống trong ngôi nhà tranh chấp, cho thấy ông đã hưởng lợi từ công sức quản lý của bà Tuệ Việc chia đôi giá trị còn lại sau khi trừ số tiền mua nhà đất cho ông Bình và bà Tuệ là chưa thật sự thỏa đáng.