Bài Thu Hoạch Diễn án Hành chính Hồ sơ LS-HC16 PHẦN I. NGHIÊN CỨU HỒ SƠ I. TÓM TẮT NỘI DUNG VỤ ÁN Ngày 25/12/2020, vợ chồng Ông Duy Tuấn và Bà Hoàng Thị Thúy nhận chuyển nhượng QSDĐ từ Ông Lê Ngọc đối với thửa đất số 837, tờ bản đồ số 9 tại địa chỉ TDP số 09, phường Hòa Nghĩa, Quận D, thành phố H theo Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ số công chứng 1983, quyển số 02/TP/CC-SCC/HĐGD được công chứng viên Phòng công chứng số 4 thành phố H chứng nhận ngày 25/12/2020. Giấy chứng nhận QSDĐ và các giấy tờ liên quan đã được Ông Lê Ngọc bàn giao đầy đủ cho hai vợ chồng Ông Tuấn và Bà Thúy từ ngày ký hợp đồng chuyển nhượng. Ngày 8/2/2021, Ông Tuấn và Bà Thúy đã nộp thuế sử dụng đất tại UBND phường Hòa Nghĩa đối với toàn bộ 4538.8m2 đất ở đã được cấp GCN QSDĐ nêu trên. Sau khi nhận chuyển nhượng, hai vợ chồng Ông Tuấn và Bà Thúy đã rất nhiều lần đến văn phòng ĐKĐĐ chi nhánh Quận D để nộp hồ sơ đăng ký biến động nhưng đều bị từ chối. Đến ngày 12/11/2021 (tức là sau gần 01 năm), vợ chồng Ông Bà mới nộp được hồ sơ đăng ký biến động. Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả cấp Giấy tiếp nhận hồ sơ và hẹn trả kết quả mã số 0001124-211112-0413/BPTNTKQ, thời gian trả kết quả vào ngày 26 tháng 11 năm 2021. Tuy nhiên, đến ngày 20/11/2021, vợ chồng Ông Bà nhận được Thông báo số 85/VPĐKDĐ ngày 16/11/2021 của Văn phòng ĐKĐĐ Quận D về việc trả hồ sơ đăng ký biến động đất đai với nội dung “...Hồ sơ đăng ký biến động đất đai tài sản gắn liền với đất từ ông Lê Ngọc sang ông Duy Tuấn và vợ là bà Hoàng Thị Thúy không thực hiện được với lý do: Ngày 08/6/2021, UBND Quận D có Thông báo số 104/TB-UBND ngày 08/6/2021 về việc tạm dừng các hoạt động giao dịch liên quan đến thửa đất số 837, tờ bản đồ số 09 tại địa chỉ TDP số 09, Phường Hòa Nghĩa, Quận D, thành phố H”. Tại Thông báo số 104/TB-UBND ngày 08/6/2021 của UBND Quận D có nêu: UBND Quận D tiếp nhận đơn của ông Lê Ngọc đến trình báo về việc: Gia đình bị người khác xây nhà cấp 4 trên thửa đất của gia đình đã được nhận chuyển nhượng từ người khác tại TDP số 09, Phường Hòa Nghĩa. Vì vụ việc đang trong quá trình giải quyết nên UBND Quận thông báo: Tạm dừng toàn bộ các giao dịch để chờ các cơ quan giải quyết các vướng mắc liên quan đến thửa đất số 837, tờ bản đồ 09, tại địa chỉ TDP số 09, phường Hòa Nghĩa, Quận D thành phố H. Trên thực tế ngày 25/12/2020, vợ chồng Ông Bà đã nhận chuyển nhượng hợp pháp toàn bộ diện tích đất này từ Lê Ngọc, vậy thì căn cứ vào đâu UBND Quận D lại tiếp nhận đơn của Lê Ngọc để rồi ban hành Thông báo số 104/TB-UBND ngày 08/6/2021. Chính vì sự vô lý và nội dung trái pháp luật như trên nên đến ngày 07/1/2022, UBND Quận D đã có Thông báo số 04/TB-UBND về việc thu hồi thông báo số 104/TB-UBND ngày 08/6/2021 của UBND Quận D về việc tạm dừng các hoạt động giao dịch liên quan đến thửa đất số 837, tờ bản đồ 09 tại địa chỉ TDP số 09, Phường Hòa Nghĩa, Quận D thành phố H với nội dung: “Ngày 12/11/2021, Bộ phận Một cửa - UBND Quận D tiếp nhận hồ sơ đăng ký biến động QSDĐ thửa đất số 837, tờ bản đồ số 9 thuộc TDP số 09, Phường Hòa Nghĩa từ ông Lê Ngọc cho ông Duy Tuấn và vợ là bà Hoàng Thị Thúy theo Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ số 1983, quyển số 02 TP/CC-SCC/HĐGD được phòng công chứng số 4 công chứng ngày 25/12/2020. Như vậy, thực tế ông Lê Ngọc đã chuyển nhượng QSDĐ thửa đất số 837, tờ bản đồ số 9, thuộc tổ TDP số 09, phường Hòa Nghĩa cho Ông Duy Tuấn và vợ là bà Hoàng Thị Thúy từ ngay 25/12/2020. Ngày 20/9/2021, chủ tịch UBND Quận đã ban hành Kết luận số 01/KL-UBND kết luận thông tra việc xác lập hồ sơ chuyển nhượng và cấp giấy chứng nhận QSDĐ cho gia đình ông Mạnh Hà và bà Đỗ Thị Thu Trang tại thửa đất số 837 tờ bản đồ số 09 thuộc TDP số 09 Phường Hòa Nghĩa, Quận D. Để các cơ quan chức năng thực hiện các thủ tục liên quan đến thửa đất cũng như đảm bảo quyền lợi của công dân theo quy định, UBND Quận thông báo như sau: 1. …. Thu hồi Thông báo số 104/TB-UBND ngày 08/6/2021 của UBND Quận … Thông báo số 04 này đã được UBND Quận D thông báo rộng rãi đến các cơ quan ban ngành để giải quyết theo đúng quy định của Luật Đất đai. Việc UBND Quận D phải thu hồi Thông báo số 104 chính là căn cứ rõ ràng nhất chứng minh quyền với đất của vợ chồng Ông Tuấn, Bà Thúy là hoàn toàn hợp pháp và phải được pháp luật bảo vệ. Tuy nhiên, Văn phòng ĐKĐĐ chi nhánh Quận D vẫn tiếp tục gây khó khăn, không thực hiện việc đăng ký biến động cho vợ chồng Ông Tuấn, Bà Thúy, không thực hiện việc thu hồi Thông báo số 85/VPĐKDĐ ngày 16/11/2021 của Văn phòng ĐKĐĐ chi nhánh Quận D về việc trả hồ sơ đăng ký biến động đất đai. Điều đó cho thấy Văn phòng ĐKĐĐ chi nhánh Quận D cản trở vợ chồng Ông Bà thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với đất của mình. Do đó, vợ chồng Ông Tuấn, Bà Thúy đề nghị Tòa án nhân dân thành phố H: 1. Tuyên hủy Thông báo số 85/VPĐKDĐ ngày 16/11/2021 của Văn phòng ĐKĐĐ chi nhánh Quận D về việc trả hồ sơ đăng ký biến động đất đai. 2. Tuyên bố hành vi không thực hiện việc thu hồi Thông báo số 85/VPĐKDĐ ngày 16/11/2021 của Văn phòng ĐKĐĐ chi nhánh Quận D về việc trả hồ sơ đăng ký biến động đất đai là trái pháp luật. 3. Buộc Văn phòng ĐKĐĐ chi nhánh Quận D thực hiện việc đăng ký biến động cho vợ chồng Ông Tuấn và Bà Thúy theo đúng quy định của pháp luật. Ông Tuấn và Bà Thúy cam đoan không đồng thời khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại. II. VĂN BẢN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT 1 Luật Tố tụng Hành chính năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019); 2 Luật Đất đai năm 2013; 3 Luật Dân sự năm 2015; 4 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/05/2014 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai; 5 Thông tư số 33/2017/TT-BTNMT ngày 29/9/2017 Quy định chi tiết Nghị định số 01/2017/NĐ-CP ngày 06 tháng 01 năm 2017 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số nghị định quy định chi tiết thi hành Luật đất đai và sửa đổi, bổ sung một số điều của các thông tư hướng dẫn thi hành Luật đất đai. III, XÁC ĐỊNH TƯ CÁCH ĐƯƠNG SỰ 1. Người khởi kiện: Họ và tên: Ông Duy Tuấn. Sinh năm: 1981 Địa chỉ tại: Xã Gia Phố, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh. - Vợ là Hoàng Thị Thúy. Sinh năm: 1988 Địa chỉ tại: Số 1/116 Lương Khánh Thiện, p. Lương Khánh Thiện, Q. N, TP. H. Căn cứ theo quy định tại Khoản 8 Điều 3 Luật Tố tụng Hành chính năm 2015 thì “Người khởi kiện là cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện vụ án hành chính đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính ….”. Đối chiếu với hồ sơ vụ án, Ông Duy Tuấn và Bà Hoàng Thị Thúy là các cá nhân khởi kiện vụ án hành chính đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính. Do đó, Ông Tuấn và Bà Thúy được xác định là Người khởi kiện trong vụ án này. 2. Đại diện theo ủy quyền của Người khởi kiện: Họ và tên: Bà Nguyễn Thị Vân Anh. Sinh năm 1984. Địa chỉ: Số 21, Cao Thắng, Hạ Lý. Căn cứ theo quy định tại khoản 3 Điều 60 Luật tố tụng hành chính năm 2015 thì “Người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng hành chính phải là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, được đương sự hoặc người đại diện theo pháp luật của đương sự ủy quyền bằng văn bản”. Bà Nguyễn Thị Vân Anh được Ông Tuấn và Bà Thúy ủy quyền trong Tố tụng hành chính. Do đó, Bà Vân Anh được xác định là người đại diện theo Ủy quyền trong vụ án này. 3. Người bị kiện: Văn phòng ĐKĐĐ, Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố H. Căn cứ theo quy định tại Khoản 9 Điều 3 Luật Tố tụng Hành chính năm 2015 thì “Người bị kiện là cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyết định hành chính, hành vi hành chính, …… bị khởi kiện”. Đối chiếu với hồ sơ vụ án, Văn phòng ĐKĐĐ, Sở tài nguyên và Môi trường Thành phố H là cơ quan có quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khởi kiện. Do đó, Văn phòng ĐKĐĐ, Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố H được xác định là Người bị kiện trong vụ án này. 4. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Văn phòng ĐKĐĐ Chi nhánh Quận D. Căn cứ theo quy định tại Khoản 10 Điều 3 Luật Tố tụng Hành chính năm 2015 thì “Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là cơ quan, tổ chức, cá nhân tuy không khởi kiện, không bị kiện, nhưng việc giải quyết vụ án hành chính có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ nên họ tự mình hoặc đương sự khác đề nghị và được Tòa án nhân dân chấp nhận hoặc được Tòa án đưa vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan”. Đối chiếu với hồ sơ vụ án, Văn phòng ĐKĐĐ chi nhánh Quận D tuy không khởi kiện, không bị kiện, nhưng việc giải quyết vụ án hành chính có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của cơ quan này. Do đó, Văn phòng ĐKĐĐ chi nhánh Quận D được xác định là Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án này. IV. CÁC VẤN ĐỀ VỀ TỐ TỤNG 1. Quyền khởi kiện Căn cứ theo quy định tại Điều 5 Luật Tố tụng Hành chính năm 2015 về Quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp thì “Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền khởi kiện vụ án hành chính để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình theo quy định của Luật này”. Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 115 Luật Tố tụng Hành chính năm 2015 về Quyền khởi kiện vụ án thì “Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền khởi kiện vụ án đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc trong trường hợp không đồng ý với quyết định, hành vi đó hoặc đã khiếu nại với người có thẩm quyền giải quyết, nhưng hết thời hạn giải quyết theo quy định của pháp luật mà khiếu nại không được giải quyết hoặc đã được giải quyết nhưng không đồng ý với việc giải quyết khiếu nại về quyết định, hành vi đó”. Bên cạnh đó, căn cứ theo quy định tại Khoản 8 Điều 3 Luật Tố tụng Hành chính năm 2015 thì “Người khởi kiện là cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện vụ án hành chính đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính ….” Như vậy, đối chiếu với hồ sơ vụ án thì Ông Tuấn và Bà Thúy có quyền khởi kiện vụ án hành chính để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình theo quy định. 2. Đối tượng khởi kiện - Quyết định Hành chính bị kiện: Thông báo số 85/VPĐKDĐ ngày 16/11/2021 của Văn phòng ĐKĐĐ chi nhánh Quận D về việc trả hồ sơ đăng ký biến động đất đai. Căn cứ theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 3 Luật Tố tụng Hành chính năm 2015 thì: “1. Quyết định hành chính là văn bản do cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức được giao thực hiện quản lý hành chính nhà nước ban hành hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó ban hành quyết định về vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể. 2. Quyết định hành chính bị kiện là quyết định quy định tại khoản 1 Điều này mà quyết định đó làm phát sinh, thay đổi, hạn chế, chấm dứt quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân hoặc có nội dung làm phát sinh nghĩa vụ, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân”. Đối chiếu với hồ sơ vụ án, Thông báo số 85/VPĐKDĐ ngày 16/11/2021 do Văn phòng ĐKĐĐ chi nhánh Quận D ban hành, làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của vợ chồng Ông Duy Tuấn và Bà Hoàng Thị Thúy. Do đó, Thông báo số 85/VPĐKDĐ là Quyết định hành chính bị kiện. - Hành vi hành chính bị kiện: Hành vi cố tình kéo dài, không giải quyết hồ sơ đăng ký biến động đất đai cản trở, gây khó khăn cho công dân thực hiện quyền đối với đất theo quy định của pháp luật (Căn cứ theo quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 3 Luật Tố tụng Hành chính năm 2015). Đối chiếu với hồ sơ vụ án, Văn phòng ĐKĐĐ chi nhánh Quận D có hành vi cố tình kéo dài, không giải quyết hồ sơ đăng ký biến động đất đai làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của vợ chồng Ông Duy Tuấn và Bà Hoàng Thị Thúy. Do đó, hành vi cố tình kéo dài, không giải quyết hồ sơ đăng ký biến động đất đai cản trở, gây khó khăn cho công dân thực hiện quyền đối với đất theo quy định của pháp luật là hành vi hành chính bị kiện. 3. Thẩm quyền của Tòa án Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 30 Luật Tố tụng Hành chính năm 2015 thì: “Điều 30. Khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án 1. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính” Căn cứ theo quy định tại khoản 3 Điều 32 Luật Tố tụng Hành chính năm 2015 thì: “Điều 32. Thẩm quyền của Tòa án cấp tỉnh Tòa án cấp tỉnh giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những khiếu kiện sau đây: 3. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan nhà nước cấp tỉnh trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án và của người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước đó”. Trong vụ án này, chủ thể có quyết định hành chính, hành vi hành chính bị kiện là Văn phòng ĐKĐĐ, Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố H. Do đó, Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án trong trường hợp này là Tòa án nhân dân thành phố H. 4. Thời hiệu khởi kiện Căn cứ quy định tại khoản 1 và điểm a khoản 2 Điều 116 Luật Tố tụng Hành chính năm 2015 quy định về Thời hiệu khởi kiện như sau: “1. Thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà cơ quan, tổ chức, cá nhân được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án hành chính bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện. 2. Thời hiệu khởi kiện đối với từng trường hợp được quy định như sau: a) 01 năm kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc”. Ngày 20/11/2021, vợ chồng Ông Tuấn và Bà Thúy nhận được Thông báo số 85/VPĐKDĐ ngày 16/11/2021 của Văn phòng ĐKĐĐ Quận D. Ngày 25/01/2022, Ông Tuấn và Bà Thúy có đơn khởi kiện đến Tòa án nhân dân thành phố H. Như vậy, việc Ông Tuấn và Bà Thúy khởi kiện vụ án hành chính vẫn còn trong thời hiệu khởi kiện theo quy định của Luật. V. TÍNH PHÁP LÝ VÀ YÊU CẦU CỦA NGƯỜI KHỞI KIỆN 1. Xác định yêu cầu khởi kiện của Người khởi kiện Vợ chồng Ông Tuấn, Bà Thúy đề nghị Tòa án nhân dân thành phố H: - Tuyên hủy Thông báo số 85/VPĐKDĐ ngày 16/11/2021 của Văn phòng ĐKĐĐ chi nhánh Quận D về việc trả hồ sơ đăng ký biến động đất đai. - Tuyên bố hành vi không thực hiện việc thu hồi Thông báo số 85/VPĐKDĐ ngày 16/11/2021 của Văn phòng ĐKĐĐ chi nhánh Quận D về việc trả hồ sơ đăng ký biến động đất đai là trái pháp luật. - Buộc Văn phòng ĐKĐĐ chi nhánh Quận D thực hiện việc đăng ký biến động cho vợ chồng Ông Tuấn và Bà Thúy theo đúng quy định của pháp luật. - Ông Tuấn và Bà Thúy cam đoan không đồng thời khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại. 2. Tính hợp pháp của yêu cầu khởi kiện Thứ nhất, căn cứ để Văn phòng ĐKĐĐ Quận D từ chối hồ sơ ĐKĐĐ là không đúng theo quy định của pháp luật. Văn phòng ĐKĐĐ Quận D cho rằng thửa đất số 837 tờ bản đồ số 9 tại TDP số 9, Phường Nghĩa Hòa hiện đang có tranh chấp về quyền sử dụng đất, vụ việc đã được cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận, giải quyết. Căn cứ theo quy định tại khoản 11 Điều 7 Thông tư số 33/2017/TT-BTNMT ngày 29/9/2017 để từ chối hồ sơ đề nghị đăng ký, cấp giấy chứng nhận QSDĐ từ ông Lê Ngọc sang cho ông Duy Tuấn và vợ là bà Thúy là hoàn toàn không đúng quy định. Thứ hai, ông Duy Tuấn và bà Thúy là người thứ ba ngay tình trong giao dịch dân sự và quyền lợi của ông Duy Tuấn, bà Thúy phải được bảo đảm theo quy định tại Điều 133 Bộ Luật dân sự 2015, Điều 106 Luật Đất đai 2013. Căn cứ quy định tại điểm d khoản 2 Điều 106 Luật Đất đai 2013 quy định rằng: “2. Nhà nước thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp trong các trường hợp sau đây: ….. d) Giấy chứng nhận đã cấp không đúng thẩm quyền, không đúng đối tượng sử dụng đất, không đúng diện tích đất, không đủ điều kiện được cấp, không đúng mục đích sử dụng đất hoặc thời hạn sử dụng đất hoặc nguồn gốc sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai, trừ trường hợp người được cấp Giấy chứng nhận đó đã thực hiện chuyển quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất theo quy định của pháp luật đất đai”. Tại khoản 2 Điều 133 Bộ Luật dân sự năm 2015 quy định về Bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu như sau: “2. Trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sau đó được chuyển giao bằng một giao dịch dân sự khác cho người thứ ba ngay tình và người này căn cứ vào việc đăng ký đó mà xác lập, thực hiện giao dịch thì giao dịch đó không bị vô hiệu”. Như vậy, theo quy định trên thì kể cả trường hợp giao dịch trước đây của ông Mạnh Hà và bà Đỗ Thị Thu Trang với ông Lê Hữu có bị vô hiệu nhưng thửa đất đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sau đó được chuyển giao bằng một giao dịch khác cho người thứ ba ngay tình (ông Lê Ngọc) căn cứ vào việc đăng ký đó mà xác lập, thực hiện giao dịch với ông Duy Tuấn, bà Thúy thì giao dịch đó không bị vô hiệu theo quy định tại Điều 133 Bộ Luật dân sự 2015. Do đó, việc văn phòng ĐKĐĐ Quận D từ chối hồ sơ đăng ký biến động của người khởi kiện khi dựa vào văn bản của cơ quan cảnh sát điều tra (không phải là cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai, nội dung không hề liên quan đến giao dịch của ông Lê Ngọc và ông Duy Tuấn, bà Thúy) là hoàn toàn không có căn cứ. Chính vì lẽ trên, quyền lợi của những người thứ ba ngay tình - ông Duy Tuấn, bà Thúy - người nhận chuyển nhượng QSDĐ hợp pháp đã bị xâm phạm nghiêm trọng vì sự thiếu khách quan, vi phạm pháp luật của Văn phòng ĐKĐĐ Sở TNMT và Văn phòng ĐKĐĐ Quận D. 3. Vấn đề cần chứng minh trong vụ án Dựa trên các yêu cầu của người khởi kiện, các vấn đề cần chứng minh trong vụ án gồm: - Hành vi từ chối hồ sơ đăng ký biến động đất đai của Văn phòng ĐKĐĐ chi nhánh Quận D là trái pháp luật. - Hành vi không thực hiện việc thu hồi Thông báo số 85/VPĐKDĐ ngày 16/11/2021 về việc trả hồ sơ đăng ký biến động đất đai của Văn phòng ĐKĐĐ chi nhánh Quận D là trái pháp luật. 4. Chứng cứ chứng minh cho yêu cầu khởi kiện là hợp pháp - Thông báo về việc trả lại hồ sơ đăng ký biến động đất đai, tài sản gắn liền với đất; - Đơn khiếu nại đối với Thông báo yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện ngày 04/3/2022; - Giấy chứng nhận QSDĐ số BU 520848; - Hợp đồng ủy quyền; - Biên bản giao nhận tiền đất ngày 25/12/2020; - Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ ngày 25/10/2020; - Thông báo số 104/TB-UBND của UBND Quận D ngày 08/6/2021 về việc tạm dừng các hoạt động liên quan đến thửa đất; - Thông báo số 04/TB-UBND của UBND Quận D ngày 07/1/2022 về việc thu hồi Thông báo số 104/TB-UBND; - Công văn số 147/UBND-TNMT của UBND Quận D ngày 18/1/2022 về việc liên quan đến Đơn trình báo của ông Lê Hữu; - Biên bản về việc cung cấp thông tin và tài liệu có liên quan đến thửa đất ngày 22/6/2022; - Chứng minh thư, sổ hộ khẩu của người khởi kiện (bản sao công chứng); - Đơn đề nghị không hòa giải tại Tòa án theo Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án; - Thông báo số 85/VPĐKDĐ ngày 16/11/2021 của Văn phòng ĐKĐĐ chi nhánh Quận D. VI. XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HỎI 1. Định hướng hỏi Định hướng hỏi nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho Người khởi kiện là ông Duy Tuấn và bà Hoàng Thị Thúy. Chứng minh hành vi từ chối hồ sơ đăng ký biến động đất đai của Văn phòng ĐKĐĐ chi nhánh Quận D là trái pháp luật. Buộc văn phòng ĐKĐĐ chi nhánh Quận D thực hiện việc đăng ký biến động cho ông Duy Tuấn và Bà Hoàng Thị Thúy theo đúng quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, làm rõ hành vi không thực hiện việc thu hồi Thông báo số 85/VPĐKDĐ ngày 16/11/2021 về việc trả hồ sơ đăng ký biến động đất đai của Văn phòng ĐKĐĐ chi nhánh Quận D là trái pháp luật. 2. Câu hỏi cụ thể Đối tượng hỏi Câu hỏi Người khởi kiện: Ông Duy Tuấn và Bà Hoàng Thị Thúy Vợ chồng Ông Tuấn và Bà Thúy cho HĐXX biết, vợ chồng Ông Bà nhận chuyển nhượng QSDĐ đối với thửa đất số 837, tờ bản đồ số 9 tại địa chỉ TDP số 09, phường Hòa Nghĩa, Quận D, thành phố H từ Ông Lê Ngọc khi nào? ở đâu? Vợ chồng Ông Bà nhận chuyển nhượng QSDĐ trên thông qua hợp đồng hay không? Hợp đồng nhận chuyển nhượng QSDĐ trên của Ông Bà đã được công chứng hay chưa? Ông Bà đã nhận được đầy đủ giấy chứng nhận QSDĐ và các giấy tờ liên quan chưa? Ông Bà đã nộp thuế sử dụng đất chưa? Ông Bà đã tiến hành đăng ký biến động đất đai hay chưa? Ông Bà đã tiến hành đăng ký biến động đất đai bao nhiêu lần? Ông Bà được tiếp nhận hồ sơ biến động đất đai khi nào? Ông Bà nhận được thông báo trả hồ sơ đăng ký biến động đất đai khi nào? Lý do trả hồ sơ trên là gì? Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Văn phòng ĐKĐĐ Chi nhánh Quận D. Văn phòng ĐKĐĐ cho HĐXX biết, Văn phòng đã nhận được hồ sơ đăng ký biến động đất đai của Ông Tuấn và Bà Thúy khi nào? Cơ sở pháp lý nào để Văn phòng dựa vào đơn tố cáo hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của ông Lê Hữu đối với vợ chồng ông Mạnh Hà và Bà Đỗ Thị Thu Trang mà từ chối hồ sơ đăng ký biến động đất đai của Ông Tuấn và Bà Thúy. Văn phòng có biết ông Duy Tuấn và bà Thúy nhận chuyển nhượng QSDĐ đối với thửa đất số số 837, tờ bản đồ số 9, TDP số 9, phường Hòa Nghĩa, Quận D, thành phố H từ ông Lê Ngọc theo Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ số công chứng 1983, quyển số 02/TP/CC-SCC/HĐGD được công chứng viên Phòng công chứng số 4 thành phố H chứng nhận ngày 25/12/2020 hay không? Vậy căn cứ theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 106 Luật Đất đai năm 2013 thì vợ chồng ông Tuấn, Bà Thúy có thuộc diện bị thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp hay không? Căn cứ vào các tình tiết trong vụ án thì ông Duy Tuấn và bà Thúy có phải người thứ ba ngay tình trong giao dịch nhận chuyển nhượng QSDĐ giữa ông bà đối với thửa đất số số 837, tờ bản đồ số 9, TDP số 9, phường Hòa Nghĩa, Quận D, thành phố H từ ông Lê Ngọc không? Hỏi Người bị kiện: Văn phòng ĐKĐĐ, Sở Tài nguyên và Môi trường TP. H Văn phòng ĐKĐĐ cho HĐXX biết: Lý do từ chối hồ sơ đăng ký biến động đất đai của Ông Tuấn và Bà Thúy là gì? Cơ sở pháp lý nào để Văn phòng từ chối hồ sơ đăng ký biến động đất đai của vợ chồng Ông Tuấn, Bà Thúy? Cơ sở nào để Văn phòng kết luận thửa đất số 837 tờ bản đồ số 9 tại TDP số 9, Phường Nghĩa Hòa hiện đang có tranh chấp về quyền sử dụng đất? Văn phòng có nhận được văn bản nào của Tòa án về tranh chấp đất đai thửa đất số 837 tờ bản đồ số 9 tại TDP số 9 Phường Nghĩa Hòa hay không? VII. BẢNG LUẬN CỨ BẢO VỆ CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc Tp……….., ngày … tháng … năm …….. BẢN LUẬN CỨ (Bảo vệ cho Người khởi kiện là ông Duy Tuấn và vợ là bà Thúy….) - Kính thưa Hội đồng xét xử! - Thưa vị đại diện Viện kiểm sát, - Thưa các vị Luật sư đồng nghiệp, Cùng toàn thể quý vị có mặt tại phiên tòa hôm nay. Trước tiên, tôi xin phép được gửi lời cảm ơn chân thành đến Hội đồng xét xử đã tạo điều kiện cho tôi được tham gia phiên tòa ngày hôm nay. Tôi là Luật sư Nguyễn Thị Mỹ Ngân, đến từ Công ty Luật A, thuộc Đoàn luật sư Thành Phố Hà Nội. Nhận lời mời từ Người khởi kiện là ông Duy Tuấn và vợ là bà Hoàng Thị Thúy, cũng như nhận được sự chấp thuận của HĐXX, hôm nay tôi có mặt tại phiên tòa với tư cách là Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho Người khởi kiện là ông Duy Tuấn và vợ là bà Hoàng Thị Thúy về việc khởi kiện vụ án hành chính. Kính thưa Hội đồng xét xử! Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án và qua phần hỏi tại phiên tòa ngày hôm nay, sau đây, tôi xin được trình bày Bản luận cứ của mình bảo vệ cho Người khởi kiện là ông Duy Tuấn và vợ là bà Thúy như sau: Thứ nhất, Căn cứ để Văn phòng ĐKĐĐ Quận D từ chối hồ sơ ĐKĐĐ là không đúng theo quy định của pháp luật. Theo đó, Văn phòng ĐKĐĐ Quận D cho rằng thửa đất số 837, tờ bản đồ số 9, tại TDP số 9, Phường Nghĩa Hòa hiện đang có tranh chấp về quyền sử dụng đất, vụ việc đã được cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận, giải quyết. Do đó, căn cứ theo quy định tại khoản 11 Điều 7 Thông tư số 33/2017/TT-BTNMT ngày 29/9/2017 để từ chối hồ sơ đề nghị đăng ký, cấp giấy chứng nhận QSDĐ từ ông Lê Ngọc sang cho ông Duy Tuấn và vợ là Thúy là hoàn toàn không đúng quy định. Khoản 11 Điều 7 Thông tư 33/2017/TT-BTNMT ngày 29/9/2017 quy định về Từ chối hồ sơ đề nghị đăng ký, cấp Giấy chứng nhận QSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất như sau: “1. Việc từ chối hồ sơ đề nghị đăng ký, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất được thực hiện khi có một trong các căn cứ sau: ……. đ) Khi nhận được văn bản của cơ quan thi hành án dân sự hoặc Văn phòng Thừa phát lại yêu cầu tạm dừng hoặc dừng việc Cấp giấy chứng nhận đối với tài sản là quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất của người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất là đối tượng phải thi hành án theo quy định của pháp luật thi hành án dân sự hoặc văn bản thông báo về việc kê biên tài sản thi hành án; khi nhận được văn bản của cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai về việc đã tiếp nhận đơn đề nghị giải quyết tranh chấp đất đai, tài sản gắn liền với đất; Điều 203 Luật đất đai quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai như sau: “1. Tranh chấp đất đai mà đương sự có Giấy chứng nhận hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì do Tòa án nhân dân giải quyết,”. Đối chiếu với hồ sơ vụ án, thửa đất số 837, tờ bản đồ số 09, tại TDP số 09, Phường Hòa Nghĩa đã có Giấy chứng nhận QSDĐ nên theo quy định tại Điều 203 Luật Đất Đai nêu trên, thẩm quyền giải quyết tranh chấp là Tòa án nhân dân. Vì vậy, căn cứ quy định tại khoản 11 Điều 7 Thông tư 33/2017/TT-BTNMT ngày 29/9/2017 thì chỉ khi nhận được Văn bản của Tòa án nhân dân về việc đã nhận đơn đề nghị giải quyết tranh chấp đất đai, tài sản gắn liền với đất thì mới đáp ứng được điều kiện quy định tại điều luật này. Trong khi đó, Văn phòng ĐKĐĐ Quận D không nhận được bất kỳ văn bản nào của Tòa án (là cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp), chỉ nhận được đơn của ông Lê Hữu tố cáo ông Mạnh Hà và Đỗ Thị Thu Trang (không hề liên quan đến ông Lê Ngọc hay ông Duy Tuấn) cùng với văn bản số 145/CSHS(DD7) ngày 12/01/2022 của Cơ quan Cảnh sát điều tra công an thành phố H với nội dung: “Ngày 26/4/2021, Phòng Cảnh sát hình sự - Công an thành phố H tiếp nhận tin báo, tố giác về tội phạm của ông Lê Hữu - sinh năm 1963) tố giác ông Mạnh Hà và vợ là Đỗ Thị Thu Trang có hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản 2.000.000.000đ và QSDĐ số 837, tờ bản đồ số 09, thuộc TDP số 9, Hòa Nghĩa, … Ngày 25/9/2021, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an TP. H đã ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết nguồn tin về tội phạm đối với tin báo, tố giác về tội phạm của ông Lê Hữu, khi nào có căn cứ sẽ phục hồi giải quyết theo quy định. Hiện nay, thửa đất số 837, tờ bản đồ số 09, thuộc TDP số 09, phường Hòa Nghĩa, Quận D, thành phố H đang có tranh chấp do liên quan đến tin báo, tố giác tội phạm của ông Lê Hữu…” Như vậy, nội dung mà Cơ quan cảnh sát điều tra Công an TP. H đang điều tra, giải quyết là đơn tố cáo hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của ông Lê Hữu đối với vợ chồng ông Mạnh Hà và bà Đỗ Thị Thu Trang chứ không hề liên quan gì đến ông Lê Ngọc hay Duy Tuấn. Hồ sơ ĐKĐĐ mà vợ chồng ông Duy Tuấn, bà Hoàng Thị Thúy nộp là hồ sơ đăng ký biến động (từ ông Lê Ngọc sang cho Duy Tuấn và Bà Thúy) chứ không liên quan đến hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của ông Lê Hữu đã tố cáo. Trường hợp sau khi điều tra, cơ quan Cảnh sát điều tra xác định có hành vi lạm dụng tín nhiệm, chiếm đoạt tài sản thật hay không thì người có trách nhiệm trước pháp luật là người có hành vi vi phạm theo kết luận điều tra chứ không liên quan gì đến ông Lê Ngọc hay ông Tuấn, bà Thúy. Chính vì các lẽ trên, việc Cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố H đã khẳng định “Hiện nay, thửa đất số 837, tờ bản đồ số 09, thuộc TDP số 09, phường Hòa Nghĩa, Quận D, thành phố H đang có tranh chấp do liên quan đến tin báo, tố giác tội phạm của ông Lê Hữu…” là không có căn cứ. Thứ hai, ông Duy Tuấn và bà Thúy là người thứ ba ngay tình trong giao dịch dân sự và quyền lợi của ông Duy Tuấn, bà Thúy phải được bảo đảm theo quy định tại Điều 133 Bộ Luật dân sự 2015, Điều 106 Luật Đất đai 2013. Diện tích 4538,8m2 đất tại thửa đất số 837, tờ bản đồ số 9, TDP số 9, phường Hòa Nghĩa, Quận D đã được cấp giấy chứng nhận QSDĐ số BU 520848 vào sổ cấp Giấy chứng nhận CH 00171/Q2 ngày 01/10/0214 cho ông mạnh Hà và vợ là bà Đỗ Thị Thu Trang. Sau đó, Lê Ngọc nhận chuyển nhượng lại của ông Mạnh Hà, bà Đỗ Thị Thu Trang và ngày 4/12/2020, Văn phòng ĐKĐĐ Quận D đã đăng ký nội dung thay đổi và cơ sở pháp lý cho ông Lê Ngọc trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Như vậy, sau ngày 04/12/2020, ông Lê Ngọc là chủ sử dụng đất hợp pháp đối với diện tích đất trên. Ngày 25/12/2020, ông Duy Tuấn và bà Thúy nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đối với thửa đất số số 837, tờ bản đồ số 9, TDP số 9, phường Hòa Nghĩa, Quận D, thành phố H từ ông Lê Ngọc theo Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ số công chứng 1983, quyển số 02/TP/CC-SCC/HĐGD được công chứng viên Phòng công chứng số 4 thành phố H chứng nhận ngày 25/12/2020 là giao dịch hoàn toàn hợp pháp. Từ đó, đối chiếu theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 106 Luật Đất đai năm 2013 quy định rằng: “2. Nhà nước thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp trong các trường hợp sau đây: …. d) Giấy chứng nhận đã cấp không đúng thẩm quyền, không đúng đối tượng sử dụng đất, không đúng diện tích đất, không đủ điều kiện được cấp, không đúng mục đích sử dụng đất hoặc thời hạn sử dụng đất hoặc nguồn gốc sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai, trừ trường hợp người được cấp Giấy chứng nhận đó đã thực hiện chuyển quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất theo quy định của pháp luật đất đai”. Tại khoản 2 Điều 133 Bộ Luật dân sự năm 2015 quy định về Bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu như sau: “2. Trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sau đó được chuyển giao bằng một giao dịch dân sự khác cho người thứ ba ngay tình và người này căn cứ vào việc đăng ký đó mà xác lập, thực hiện giao dịch thì giao dịch đó không bị vô hiệu”. Như vậy, theo quy định trên thì kể cả trường hợp giao dịch trước đây của ông Mạnh Hà và bà Đỗ Thị Thu Trang với ông Lê Hữu có bị vô hiệu nhưng thửa đất đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sau đó được chuyển giao bằng một giao dịch khác cho người thứ ba ngay tình (ông Lê Ngọc) căn cứ vào việc đăng ký đó mà xác lập, thực hiện giao dịch với ông Duy Tuấn, bà Thúy thì giao dịch đó không bị vô hiệu theo quy định tại Điều 133 Bộ Luật dân sự 2015. Do đó, việc văn phòng ĐKĐĐ Quận D từ chối hồ sơ đăng ký biến động của người khởi kiện khi dựa vào văn bản của cơ quan cảnh sát điều tra (không phải là cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai, nội dung không hề liên quan đến giao dịch của ông Lê Ngọc và ông Duy Tuấn, bà Thúy) là hoàn toàn không có căn cứ. Chính vì lẽ trên, quyền lợi của những người thứ ba ngay tình - ông Duy Tuấn, bà Thúy - người nhận chuyển nhượng QSDĐ hợp pháp đã bị xâm phạm nghiêm trọng vì sự thiếu khách quan, vi phạm pháp luật của Văn phòng ĐKĐĐ, Sở TNMT và Văn phòng ĐKĐĐ Quận D. Trước đây, văn phòng ĐKĐĐ Quận D trả hồ sơ của Người khởi kiện với lý do căn cứ vào Thông báo số 104/TB-UBND ngày 08/6/2021 của UBND Quận D về việc tạm dừng các hoạt động giao dịch liên quan đến thửa đất số 837, tờ bản đồ số 09, địa chỉ TDP số 09, phường Hòa Nghĩa, Quận D. Đây chính là những chứng cứ rõ nét về việc Văn phòng ĐKĐĐ từ chối hồ sơ của phía Người khởi kiện là trái với quy định của pháp luật. Chính vì các lẽ trên, Tôi kính đề nghị HĐXX xem xét chấp nhận toàn bộ yêu cầu từ phía người khởi kiện, cụ thể như sau: 1. Tuyên bố hành vi từ chối hồ sơ đăng ký biến động đất đai của Văn phòng ĐKĐĐ chi nhánh Quận D là trái pháp luật. Buộc văn phòng ĐKĐĐ chi nhánh Quận D thực hiện việc đăng ký biến động cho ông Duy Tuấn và Bà Hoàng Thị Thúy theo đúng quy định của pháp luật. 2. Tuyên bố hành vi không thực hiện việc thu hồi Thông báo số 85/VPĐKĐĐ ngày 16/11/2021 về việc trả hồ sơ đăng ký biến động đất đai của Văn phòng ĐKĐĐ chi nhánh Quận D là trái pháp luật. 3. Tuyên hủy Thông báo số 85/VPĐKĐĐ ngày 16/11/2021 của Văn phòng ĐKĐĐ chi nhánh Quận D về việc trả hồ sơ đăng ký biến động đất đai. Trên đây là toàn bộ quan điểm của tôi nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho Người khởi kiện là ông Duy Tuấn và bà Hoàng Thị Thúy. Kính mong Hội đồng xét xử xem xét chấp thuận. Tôi xin chân thành cảm ơn. Trân trọng./. LUẬT SƯ BẢO VỆ (Đã ký)
Trang 1HỌC VIỆN TƯ PHÁP KHOA ĐÀO TẠO NGHỀ LUẬT SƯ
BÀI THU HOẠCH DIỄN ÁN HỌC PHẦN: KỸ NĂNG CƠ BẢN CỦA LUẬT SƯ KHI THAM GIA GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC HÀNH CHÍNH
Mã số hồ sơ : LS HC 16 Diễn Án : Hành Chính Lần 1 Ngày diễn : 12/10/2024
Giáo viên hướng dẫn:
Giáo viên hướng dẫn:
Họ và tên học viên : Nguyễn Thị Mỹ Ngân Sinh ngày : 08/12/1989.
SBD : 235 Lớp LS26.1HN.CN.
Trang 2C6-Hà Nội, ngày 12 tháng 10 năm 2024
MỤC LỤC
PHẦN I NGHIÊN CỨU HỒ SƠ 2
I TÓM TẮT NỘI DUNG VỤ ÁN 2
II. XÁC ĐỊNH TƯ CÁCH ĐƯƠNG SỰ 4
1 Người khởi kiện 5
2 Đối tượng khởi kiện 6
3 Quan hệ pháp luật tranh chấp 7
4 Thẩm quyền của Tòa án 7
5 Thời hiệu 7
III VĂN BẢN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT 5
IV CÁC VẤN ĐỀ VỀ TỐ TỤNG 5
1 Quyền khởi kiện 5
2 Đối tượng khởi kiện 6
3 Quan hệ pháp luật tranh chấp 7
4 Thẩm quyền của Tòa án 7
5 Thời hiệu 7
V CÁC VẤN ĐỀ VỀ NỘI DUNG 7
1 Xác định yêu cầu khởi kiện của Người khởi kiện 7
2 Tính hợp pháp của yêu cầu khởi kiện 8
3 Vấn đề cần chứng minh trong vụ án 9
4 Chứng cứ chứng minh cho yêu cầu khởi kiện là hợp pháp 9
VI XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HỎI 10
1 Định hướng hỏi 10
2 Mục đích hỏi 10
3 Đối tượng hỏi 10
4 Câu hỏi cụ thể 10
VII BẢNG LUẬN CỨ BẢO VỆ 12
PHẦN II NHẬN XÉT DIỄN ÁN 18
Trang 3PHẦN I NGHIÊN CỨU HỒ SƠ
I TÓM TẮT NỘI DUNG VỤ ÁN
Ngày 25/12/2020, vợ chồng Ông Duy Tuấn và Bà Hoàng Thị Thúy nhậnchuyển nhượng QSDĐ từ Ông Lê Ngọc đối với thửa đất số 837, tờ bản đồ số 9 tạiđịa chỉ TDP số 09, phường Hòa Nghĩa, Quận D, thành phố H theo Hợp đồngchuyển nhượng QSDĐ số công chứng 1983, quyển số 02/TP/CC-SCC/HĐGDđược công chứng viên Phòng công chứng số 4 thành phố H chứng nhận ngày25/12/2020 Giấy chứng nhận QSDĐ và các giấy tờ liên quan đã được Ông LêNgọc bàn giao đầy đủ cho hai vợ chồng Ông Tuấn và Bà Thúy từ ngày ký hợpđồng chuyển nhượng
Ngày 8/2/2021, Ông Tuấn và Bà Thúy đã nộp thuế sử dụng đất tại UBNDphường Hòa Nghĩa đối với toàn bộ 4538.8m2 đất ở đã được cấp GCN QSDĐ nêutrên
Sau khi nhận chuyển nhượng, hai vợ chồng Ông Tuấn và Bà Thúy đã rấtnhiều lần đến văn phòng ĐKĐĐ chi nhánh Quận D để nộp hồ sơ đăng ký biếnđộng nhưng đều bị từ chối Đến ngày 12/11/2021 (tức là sau gần 01 năm), vợchồng Ông Bà mới nộp được hồ sơ đăng ký biến động Bộ phận tiếp nhận và trảkết quả cấp Giấy tiếp nhận hồ sơ và hẹn trả kết quả mã số 0001124-211112-0413/BPTNTKQ, thời gian trả kết quả vào ngày 26 tháng 11 năm 2021
Tuy nhiên, đến ngày 20/11/2021, vợ chồng Ông Bà nhận được Thông báo số85/VPĐKDĐ ngày 16/11/2021 của Văn phòng ĐKĐĐ Quận D về việc trả hồ sơ
đăng ký biến động đất đai với nội dung “ Hồ sơ đăng ký biến động đất đai tài sản
gắn liền với đất từ ông Lê Ngọc sang ông Duy Tuấn và vợ là bà Hoàng Thị Thúy không thực hiện được với lý do: Ngày 08/6/2021, UBND Quận D có Thông báo số 104/TB-UBND ngày 08/6/2021 về việc tạm dừng các hoạt động giao dịch liên quan đến thửa đất số 837, tờ bản đồ số 09 tại địa chỉ TDP số 09, Phường Hòa Nghĩa, Quận D, thành phố H”.
Tại Thông báo số 104/TB-UBND ngày 08/6/2021 của UBND Quận D cónêu: UBND Quận D tiếp nhận đơn của ông Lê Ngọc đến trình báo về việc: Giađình bị người khác xây nhà cấp 4 trên thửa đất của gia đình đã được nhận chuyểnnhượng từ người khác tại TDP số 09, Phường Hòa Nghĩa Vì vụ việc đang trongquá trình giải quyết nên UBND Quận thông báo: Tạm dừng toàn bộ các giao dịch
để chờ các cơ quan giải quyết các vướng mắc liên quan đến thửa đất số 837, tờ bản
đồ 09, tại địa chỉ TDP số 09, phường Hòa Nghĩa, Quận D thành phố H
Trên thực tế ngày 25/12/2020, vợ chồng Ông Bà đã nhận chuyển nhượnghợp pháp toàn bộ diện tích đất này từ Lê Ngọc, vậy thì căn cứ vào đâu UBNDQuận D lại tiếp nhận đơn của Lê Ngọc để rồi ban hành Thông báo số 104/TB-UBND ngày 08/6/2021
Trang 4Chính vì sự vô lý và nội dung trái pháp luật như trên nên đến ngày07/1/2022, UBND Quận D đã có Thông báo số 04/TB-UBND về việc thu hồithông báo số 104/TB-UBND ngày 08/6/2021 của UBND Quận D về việc tạm dừngcác hoạt động giao dịch liên quan đến thửa đất số 837, tờ bản đồ 09 tại địa chỉ TDP
số 09, Phường Hòa Nghĩa, Quận D thành phố H với nội dung:
“Ngày 12/11/2021, Bộ phận Một cửa - UBND Quận D tiếp nhận hồ sơ đăng
ký biến động QSDĐ thửa đất số 837, tờ bản đồ số 9 thuộc TDP số 09, Phường HòaNghĩa từ ông Lê Ngọc cho ông Duy Tuấn và vợ là bà Hoàng Thị Thúy theo Hợpđồng chuyển nhượng QSDĐ số 1983, quyển số 02 TP/CC-SCC/HĐGD đượcphòng công chứng số 4 công chứng ngày 25/12/2020 Như vậy, thực tế ông LêNgọc đã chuyển nhượng QSDĐ thửa đất số 837, tờ bản đồ số 9, thuộc tổ TDP số
09, phường Hòa Nghĩa cho Ông Duy Tuấn và vợ là bà Hoàng Thị Thúy từ ngay25/12/2020
Ngày 20/9/2021, chủ tịch UBND Quận đã ban hành Kết luận số UBND kết luận thông tra việc xác lập hồ sơ chuyển nhượng và cấp giấy chứngnhận QSDĐ cho gia đình ông Mạnh Hà và bà Đỗ Thị Thu Trang tại thửa đất số
01/KL-837 tờ bản đồ số 09 thuộc TDP số 09 Phường Hòa Nghĩa, Quận D
Để các cơ quan chức năng thực hiện các thủ tục liên quan đến thửa đất cũngnhư đảm bảo quyền lợi của công dân theo quy định, UBND Quận thông báo nhưsau:
1 … Thu hồi Thông báo số 104/TB-UBND ngày 08/6/2021 của UBND Quận
…
Thông báo số 04 này đã được UBND Quận D thông báo rộng rãi đến các cơquan ban ngành để giải quyết theo đúng quy định của Luật Đất đai Việc UBNDQuận D phải thu hồi Thông báo số 104 chính là căn cứ rõ ràng nhất chứng minhquyền với đất của vợ chồng Ông Tuấn, Bà Thúy là hoàn toàn hợp pháp và phảiđược pháp luật bảo vệ
Tuy nhiên, Văn phòng ĐKĐĐ chi nhánh Quận D vẫn tiếp tục gây khó khăn,không thực hiện việc đăng ký biến động cho vợ chồng Ông Tuấn, Bà Thúy, khôngthực hiện việc thu hồi Thông báo số 85/VPĐKDĐ ngày 16/11/2021 của Văn phòngĐKĐĐ chi nhánh Quận D về việc trả hồ sơ đăng ký biến động đất đai Điều đó chothấy Văn phòng ĐKĐĐ chi nhánh Quận D cản trở vợ chồng Ông Bà thực hiệnnghĩa vụ tài chính đối với đất của mình
Do đó, vợ chồng Ông Tuấn, Bà Thúy đề nghị Tòa án nhân dân thành phố H:
1 Tuyên hủy Thông báo số 85/VPĐKDĐ ngày 16/11/2021 của Văn phòng ĐKĐĐ chi nhánh Quận D về việc trả hồ sơ đăng ký biến động đất đai.
Trang 52 Tuyên bố hành vi không thực hiện việc thu hồi Thông báo số 85/VPĐKDĐ ngày 16/11/2021 của Văn phòng ĐKĐĐ chi nhánh Quận D về việc trả hồ sơ đăng ký biến động đất đai là trái pháp luật.
3 Buộc Văn phòng ĐKĐĐ chi nhánh Quận D thực hiện việc đăng ký biến động cho vợ chồng Ông Tuấn và Bà Thúy theo đúng quy định của pháp luật.
Ông Tuấn và Bà Thúy cam đoan không đồng thời khiếu nại đến người cóthẩm quyền giải quyết khiếu nại
II VĂN BẢN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT
1 Luật Tố tụng Hành chính năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019);
2 Luật Đất đai năm 2013;
3 Luật Dân sự năm 2015;
4 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/05/2014 quy định chi tiết thi hànhmột số điều của Luật Đất đai;
5 Thông tư số 33/2017/TT-BTNMT ngày 29/9/2017 Quy định chi tiết Nghịđịnh số 01/2017/NĐ-CP ngày 06 tháng 01 năm 2017 của Chính phủ sửađổi, bổ sung một số nghị định quy định chi tiết thi hành Luật đất đai vàsửa đổi, bổ sung một số điều của các thông tư hướng dẫn thi hành Luậtđất đai
III, XÁC ĐỊNH TƯ CÁCH ĐƯƠNG SỰ
1 Người khởi kiện:
Họ và tên: Ông Duy Tuấn Sinh năm: 1981
Địa chỉ tại: Xã Gia Phố, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh
- Vợ là Hoàng Thị Thúy Sinh năm: 1988
Địa chỉ tại: Số 1/116 Lương Khánh Thiện, p Lương Khánh Thiện, Q N, TP H
Căn cứ theo quy định tại Khoản 8 Điều 3 Luật Tố tụng Hành chính năm
2015 thì “Người khởi kiện là cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện vụ án hành chính
đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính ….” Đối chiếu với hồ sơ vụ án,
Ông Duy Tuấn và Bà Hoàng Thị Thúy là các cá nhân khởi kiện vụ án hành chínhđối với quyết định hành chính, hành vi hành chính Do đó, Ông Tuấn và Bà Thúy
được xác định là Người khởi kiện trong vụ án này
2 Đại diện theo ủy quyền của Người khởi kiện:
Họ và tên: Bà Nguyễn Thị Vân Anh Sinh năm 1984
Địa chỉ: Số 21, Cao Thắng, Hạ Lý
Căn cứ theo quy định tại khoản 3 Điều 60 Luật tố tụng hành chính năm
2015 thì “Người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng hành chính phải là người có
năng lực hành vi dân sự đầy đủ, được đương sự hoặc người đại diện theo pháp luật của đương sự ủy quyền bằng văn bản” Bà Nguyễn Thị Vân Anh được Ông
Trang 6Tuấn và Bà Thúy ủy quyền trong Tố tụng hành chính Do đó, Bà Vân Anh đượcxác định là người đại diện theo Ủy quyền trong vụ án này
3 Người bị kiện:
Văn phòng ĐKĐĐ, Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố H
Căn cứ theo quy định tại Khoản 9 Điều 3 Luật Tố tụng Hành chính năm
2015 thì “Người bị kiện là cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyết định hành chính,
hành vi hành chính, …… bị khởi kiện” Đối chiếu với hồ sơ vụ án, Văn phòng
ĐKĐĐ, Sở tài nguyên và Môi trường Thành phố H là cơ quan có quyết định hànhchính, hành vi hành chính bị khởi kiện Do đó, Văn phòng ĐKĐĐ, Sở Tài nguyên
và Môi trường Thành phố H được xác định là Người bị kiện trong vụ án này
4 Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Văn phòng ĐKĐĐ Chi nhánh Quận D
Căn cứ theo quy định tại Khoản 10 Điều 3 Luật Tố tụng Hành chính năm
2015 thì “Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là cơ quan, tổ chức, cá nhân tuy
không khởi kiện, không bị kiện, nhưng việc giải quyết vụ án hành chính có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ nên họ tự mình hoặc đương sự khác đề nghị
và được Tòa án nhân dân chấp nhận hoặc được Tòa án đưa vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan” Đối chiếu với hồ sơ vụ án,
Văn phòng ĐKĐĐ chi nhánh Quận D tuy không khởi kiện, không bị kiện, nhưngviệc giải quyết vụ án hành chính có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của cơ quannày Do đó, Văn phòng ĐKĐĐ chi nhánh Quận D được xác định là Người cóquyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án này
IV CÁC VẤN ĐỀ VỀ TỐ TỤNG
1 Quyền khởi kiện
Căn cứ theo quy định tại Điều 5 Luật Tố tụng Hành chính năm 2015 về
Quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp thì “Cơ quan, tổ chức, cá
nhân có quyền khởi kiện vụ án hành chính để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình theo quy định của Luật này”.
Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 115 Luật Tố tụng Hành chính năm
2015 về Quyền khởi kiện vụ án thì “Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền khởi kiện
vụ án đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc trong trường hợp không đồng ý với quyết định, hành vi đó hoặc đã khiếu nại với người có thẩm quyền giải quyết, nhưng hết thời hạn giải quyết theo quy định của pháp luật mà khiếu nại không được giải quyết hoặc đã được giải quyết nhưng không đồng ý với việc giải quyết khiếu nại về quyết định, hành vi đó”.
Bên cạnh đó, căn cứ theo quy định tại Khoản 8 Điều 3 Luật Tố tụng Hành
chính năm 2015 thì “Người khởi kiện là cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện vụ án
hành chính đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính ….”
Trang 7Như vậy, đối chiếu với hồ sơ vụ án thì Ông Tuấn và Bà Thúy có quyền khởikiện vụ án hành chính để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp củamình theo quy định
2 Đối tượng khởi kiện
- Quyết định Hành chính bị kiện: Thông báo số 85/VPĐKDĐ ngày
16/11/2021 của Văn phòng ĐKĐĐ chi nhánh Quận D về việc trả hồ sơ đăng kýbiến động đất đai
Căn cứ theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 3 Luật Tố tụng Hành
chính năm 2015 thì:
“1 Quyết định hành chính là văn bản do cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức được giao thực hiện quản lý hành chính nhà nước ban hành hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó ban hành quyết định về vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể.
2 Quyết định hành chính bị kiện là quyết định quy định tại khoản 1 Điều này mà quyết định đó làm phát sinh, thay đổi, hạn chế, chấm dứt quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân hoặc có nội dung làm phát sinh nghĩa vụ, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân”.
Đối chiếu với hồ sơ vụ án, Thông báo số 85/VPĐKDĐ ngày 16/11/2021 doVăn phòng ĐKĐĐ chi nhánh Quận D ban hành, làm ảnh hưởng đến quyền, lợi íchhợp pháp của vợ chồng Ông Duy Tuấn và Bà Hoàng Thị Thúy Do đó, Thông báo
số 85/VPĐKDĐ là Quyết định hành chính bị kiện
- Hành vi hành chính bị kiện: Hành vi cố tình kéo dài, không giải quyết hồ
sơ đăng ký biến động đất đai cản trở, gây khó khăn cho công dân thực hiện quyền
đối với đất theo quy định của pháp luật (Căn cứ theo quy định tại khoản 3 và
khoản 4 Điều 3 Luật Tố tụng Hành chính năm 2015)
Đối chiếu với hồ sơ vụ án, Văn phòng ĐKĐĐ chi nhánh Quận D có hành vi
cố tình kéo dài, không giải quyết hồ sơ đăng ký biến động đất đai làm ảnh hưởngđến quyền, lợi ích hợp pháp của vợ chồng Ông Duy Tuấn và Bà Hoàng Thị Thúy
Do đó, hành vi cố tình kéo dài, không giải quyết hồ sơ đăng ký biến động đất đaicản trở, gây khó khăn cho công dân thực hiện quyền đối với đất theo quy định củapháp luật là hành vi hành chính bị kiện
3 Thẩm quyền của Tòa án
Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 30 Luật Tố tụng Hành chính năm
2015 thì: “Điều 30 Khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án
1 Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính”
Căn cứ theo quy định tại khoản 3 Điều 32 Luật Tố tụng Hành chính năm
2015 thì: “Điều 32 Thẩm quyền của Tòa án cấp tỉnh
Tòa án cấp tỉnh giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những khiếu kiện sau đây:
Trang 83 Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan nhà nước cấp tỉnh trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án và của người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước đó”.
Trong vụ án này, chủ thể có quyết định hành chính, hành vi hành chính bịkiện là Văn phòng ĐKĐĐ, Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố H Do đó,Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án trong trường hợp này là Tòa án nhân dânthành phố H
4 Thời hiệu khởi kiện
Căn cứ quy định tại khoản 1 và điểm a khoản 2 Điều 116 Luật Tố tụng
Hành chính năm 2015 quy định về Thời hiệu khởi kiện như sau:
“1 Thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà cơ quan, tổ chức, cá nhân được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án hành chính bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện.
2 Thời hiệu khởi kiện đối với từng trường hợp được quy định như sau:
a) 01 năm kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định hành chính,
hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc”.
Ngày 20/11/2021, vợ chồng Ông Tuấn và Bà Thúy nhận được Thông báo số85/VPĐKDĐ ngày 16/11/2021 của Văn phòng ĐKĐĐ Quận D
Ngày 25/01/2022, Ông Tuấn và Bà Thúy có đơn khởi kiện đến Tòa án nhândân thành phố H Như vậy, việc Ông Tuấn và Bà Thúy khởi kiện vụ án hành chính
vẫn còn trong thời hiệu khởi kiện theo quy định của Luật
V TÍNH PHÁP LÝ VÀ YÊU CẦU CỦA NGƯỜI KHỞI KIỆN
1 Xác định yêu cầu khởi kiện của Người khởi kiện
Vợ chồng Ông Tuấn, Bà Thúy đề nghị Tòa án nhân dân thành phố H:
- Tuyên hủy Thông báo số 85/VPĐKDĐ ngày 16/11/2021 của Văn phòng ĐKĐĐ chi nhánh Quận D về việc trả hồ sơ đăng ký biến động đất đai.
- Tuyên bố hành vi không thực hiện việc thu hồi Thông báo số 85/VPĐKDĐ ngày 16/11/2021 của Văn phòng ĐKĐĐ chi nhánh Quận D về việc trả hồ sơ đăng
ký biến động đất đai là trái pháp luật.
- Buộc Văn phòng ĐKĐĐ chi nhánh Quận D thực hiện việc đăng ký biến động cho vợ chồng Ông Tuấn và Bà Thúy theo đúng quy định của pháp luật.
- Ông Tuấn và Bà Thúy cam đoan không đồng thời khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại.
2 Tính hợp pháp của yêu cầu khởi kiện
Thứ nhất, căn cứ để Văn phòng ĐKĐĐ Quận D từ chối hồ sơ ĐKĐĐ là không đúng theo quy định của pháp luật.
Trang 9Văn phòng ĐKĐĐ Quận D cho rằng thửa đất số 837 tờ bản đồ số 9 tại TDP số
9, Phường Nghĩa Hòa hiện đang có tranh chấp về quyền sử dụng đất, vụ việc đãđược cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận, giải quyết
Căn cứ theo quy định tại khoản 11 Điều 7 Thông tư số 33/2017/TT-BTNMT
ngày 29/9/2017 để từ chối hồ sơ đề nghị đăng ký, cấp giấy chứng nhận QSDĐ từ
ông Lê Ngọc sang cho ông Duy Tuấn và vợ là bà Thúy là hoàn toàn không đúng quyđịnh
Thứ hai, ông Duy Tuấn và bà Thúy là người thứ ba ngay tình trong giao dịch dân sự và quyền lợi của ông Duy Tuấn, bà Thúy phải được bảo đảm theo quy định tại Điều 133 Bộ Luật dân sự 2015, Điều 106 Luật Đất đai 2013.
Căn cứ quy định tại điểm d khoản 2 Điều 106 Luật Đất đai 2013 quy định
rằng:
“2 Nhà nước thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp trong các trường hợp sau đây: …
d) Giấy chứng nhận đã cấp không đúng thẩm quyền, không đúng đối tượng sử dụng đất, không đúng diện tích đất, không đủ điều kiện được cấp, không đúng mục đích sử dụng đất hoặc thời hạn sử dụng đất hoặc nguồn gốc sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai, trừ trường hợp người được cấp Giấy chứng nhận đó đã thực hiện chuyển quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất theo quy định của pháp luật đất đai”.
Tại khoản 2 Điều 133 Bộ Luật dân sự năm 2015 quy định về Bảo vệ quyền
lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu như sau:
“2 Trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng tài sản đã được đăng ký tại
cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sau đó được chuyển giao bằng một giao dịch dân
sự khác cho người thứ ba ngay tình và người này căn cứ vào việc đăng ký đó mà xác lập, thực hiện giao dịch thì giao dịch đó không bị vô hiệu”.
Như vậy, theo quy định trên thì kể cả trường hợp giao dịch trước đây của ôngMạnh Hà và bà Đỗ Thị Thu Trang với ông Lê Hữu có bị vô hiệu nhưng thửa đất đãđược đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sau đó được chuyển giao bằngmột giao dịch khác cho người thứ ba ngay tình (ông Lê Ngọc) căn cứ vào việc đăng
ký đó mà xác lập, thực hiện giao dịch với ông Duy Tuấn, bà Thúy thì giao dịch đó
không bị vô hiệu theo quy định tại Điều 133 Bộ Luật dân sự 2015.
Do đó, việc văn phòng ĐKĐĐ Quận D từ chối hồ sơ đăng ký biến động củangười khởi kiện khi dựa vào văn bản của cơ quan cảnh sát điều tra (không phải là cơquan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai, nội dung không hề liên quan đếngiao dịch của ông Lê Ngọc và ông Duy Tuấn, bà Thúy) là hoàn toàn không có căncứ
Chính vì lẽ trên, quyền lợi của những người thứ ba ngay tình - ông Duy Tuấn,
bà Thúy - người nhận chuyển nhượng QSDĐ hợp pháp đã bị xâm phạm nghiêm
Trang 10trọng vì sự thiếu khách quan, vi phạm pháp luật của Văn phòng ĐKĐĐ Sở TNMT
4 Chứng cứ chứng minh cho yêu cầu khởi kiện là hợp pháp
- Thông báo về việc trả lại hồ sơ đăng ký biến động đất đai, tài sản gắn liền vớiđất;
- Đơn khiếu nại đối với Thông báo yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện ngày04/3/2022;
- Giấy chứng nhận QSDĐ số BU 520848;
- Hợp đồng ủy quyền;
- Biên bản giao nhận tiền đất ngày 25/12/2020;
- Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ ngày 25/10/2020;
- Thông báo số 104/TB-UBND của UBND Quận D ngày 08/6/2021 về việc tạmdừng các hoạt động liên quan đến thửa đất;
- Thông báo số 04/TB-UBND của UBND Quận D ngày 07/1/2022 về việc thuhồi Thông báo số 104/TB-UBND;
- Công văn số 147/UBND-TNMT của UBND Quận D ngày 18/1/2022 về việcliên quan đến Đơn trình báo của ông Lê Hữu;
- Biên bản về việc cung cấp thông tin và tài liệu có liên quan đến thửa đất ngày22/6/2022;
- Chứng minh thư, sổ hộ khẩu của người khởi kiện (bản sao công chứng);
- Đơn đề nghị không hòa giải tại Tòa án theo Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án;
- Thông báo số 85/VPĐKDĐ ngày 16/11/2021 của Văn phòng ĐKĐĐ chi nhánhQuận D
VI XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HỎI
1 Định hướng hỏi
Định hướng hỏi nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho Người khởikiện là ông Duy Tuấn và bà Hoàng Thị Thúy Chứng minh hành vi từ chối hồ
Trang 11sơ đăng ký biến động đất đai của Văn phòng ĐKĐĐ chi nhánh Quận D là tráipháp luật Buộc văn phòng ĐKĐĐ chi nhánh Quận D thực hiện việc đăng kýbiến động cho ông Duy Tuấn và Bà Hoàng Thị Thúy theo đúng quy định củapháp luật Bên cạnh đó, làm rõ hành vi không thực hiện việc thu hồi Thông báo
số 85/VPĐKDĐ ngày 16/11/2021 về việc trả hồ sơ đăng ký biến động đất đaicủa Văn phòng ĐKĐĐ chi nhánh Quận D là trái pháp luật
2 Câu hỏi cụ thể
Người khởi kiện: Ông Duy
Tuấn và Bà Hoàng Thị Thúy
Vợ chồng Ông Tuấn và Bà Thúy cho HĐXX biết,
vợ chồng Ông Bà nhận chuyển nhượng QSDĐđối với thửa đất số 837, tờ bản đồ số 9 tại địa chỉTDP số 09, phường Hòa Nghĩa, Quận D, thànhphố H từ Ông Lê Ngọc khi nào? ở đâu?
Vợ chồng Ông Bà nhận chuyển nhượng QSDĐtrên thông qua hợp đồng hay không?
Hợp đồng nhận chuyển nhượng QSDĐ trên củaÔng Bà đã được công chứng hay chưa?
Ông Bà đã nhận được đầy đủ giấy chứng nhậnQSDĐ và các giấy tờ liên quan chưa?
Ông Bà đã nộp thuế sử dụng đất chưa?
Ông Bà đã tiến hành đăng ký biến động đất đaihay chưa?
Ông Bà đã tiến hành đăng ký biến động đất đaibao nhiêu lần?
Ông Bà được tiếp nhận hồ sơ biến động đất đaikhi nào?
Ông Bà nhận được thông báo trả hồ sơ đăng kýbiến động đất đai khi nào? Lý do trả hồ sơ trên làgì?
Người có quyền lợi và nghĩa
vụ liên quan: Văn phòng
ĐKĐĐ Chi nhánh Quận D.
Văn phòng ĐKĐĐ cho HĐXX biết, Văn phòng
đã nhận được hồ sơ đăng ký biến động đất đaicủa Ông Tuấn và Bà Thúy khi nào?