1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

TIỂU LUẬN: VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC KẾT HỢP TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VỚI CÔNG BẰNG XÃ HỘI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY potx

93 793 1

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 93
Dung lượng 721,58 KB

Nội dung

Chức năng của xã hội dân sự, như tác giả khẳng định, bao gồm: thứ nhất, là cầu nối các cá nhân với nhà nước; thứ hai, tham gia hoạch định và phối hợp với nhà nước thực hiện các chủ trươn

Trang 1

Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Trang 2

sự phát triển kinh tế, tạo động lực cho sự phát triển kinh tế

Kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội là một trong những chủ trương chủ yếu trong đường lối và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới Chủ trương đó không chỉ thể hiện tính định hướng nhân văn, định hướng xã hội chủ nghĩa, mà còn phản ánh nhu cầu phát triển xã hội theo mô hình tiến bộ, phù hợp với thiên niên kỷ mới

Tăng trưởng kinh tế là đòi hỏi bức xúc trong thời kỳ đổi mới ở nước ta Nếu không tăng trưởng kinh tế, chúng ta sẽ bị gạt ra ngoài lề của đời sống kinh tế quốc tế, không thể tồn tại được chứ đừng nói đến phát triển, tiến bộ Nhưng tăng trưởng kinh tế mà

dẫn tới sự phân hoá giàu nghèo một cách quá đáng, dẫn tới sự phân cực, một mặt, sẽ nẩy sinh những mâu thuẫn, xung đột xã hội cản trở sự phát triển kinh tế; mặt khác, sẽ

không đảm bảo được sự phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa Do đó, cùng với việc đẩy mạnh phát triển kinh tế, Đảng ta chủ trương “giải quyết tốt các vấn đề

xã hội, coi đây là một hướng chiến lược thể hiện bản chất ưu việt của chế độ ta Thực hiện chính sách xã hội hướng vào phát triển và lành mạnh hoá xã hội, thực hiện công bằng trong phân phối, tạo động lực mạnh mẽ để phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động, thực hiện bình đẳng trong quan hệ xã hội, khuyến khích nhân dân làm giàu hợp pháp”(1)

Sự thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội là một yêu

Trang 3

cầu khách quan trong sự phát triển của nước ta hiện nay Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa là sự thống nhất đó tự nó sẽ diễn ra Ở đây, vai trò của chủ thể, của nhân tố chủ quan, mà trước hết phải nói đến vai trò của nhà nước có tầm quan trọng đặc biệt trong việc “kết hợp”, đảm bảo sự thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội Khẳng định vai trò to lớn của nhà nước trong điều kiện hiện nay liệu có chủ quan, duy ý chí hay không? Câu trả lời là không, bởi mấy lẽ sau đây:

Một là, thực tiễn phát triển của lịch sử đương đại không phủ nhận, mà ngược lại,

ngày càng khẳng định sự cần thiết của “bàn tay hữu hình”của nhà nước

Cũng có người cho rằng, chỉ đứng trên quan điểm mácxít và ở các nước xã hội chủ nghĩa mới khẳng định vai trò của nhà nước trong quản lý, điều tiết nền kinh tế, còn đối với các nước tư bản chủ nghĩa thì ngược lại Điều đó không hoàn toàn đúng Lược qua lịch sử phát triển của chủ nghĩa tư bản chúng ta thấy, chủ nghĩa tư bản trong thời kỳ tự do cạnh tranh, khi nhà nước còn đứng bên ngoài kinh tế, bảo vệ cho

tự do cạnh tranh dưới sự chi phối của thị trường, đã dẫn đến khủng hoảng và tổng khủng hoảng kinh tế – xã hội trong những năm 20, 30 của thế kỷ XX Đó là một trong những nguyên nhân của cuộc Chiến tranh thế giới thứ II Sau Chiến tranh thế giới thứ II, chủ nghĩa tư bản cũng đã thấy được sự cần thiết của “bàn tay hữu hình” của nhà nước đối với sự phát triển kinh tế nói riêng và sự phát triển xã hội nói chung Chủ trương xây dựng “nhà nước phúc lợi” ở các nước tư bản đã chứng tỏ điều đó Nhờ sự can thiệp của nhà nước vào lĩnh vực kinh tế, chủ nghĩa tư bản đã vượt qua những cơn khủng hoảng triền miên, thay đổi được bộ mặt của mình và tạo đà cho sự phát triển Tuy nhiên, do bản chất và cơ sở kinh tế của chủ nghĩa tư bản, vào cuối những năm 70, 80 của thế kỷ XX, sự can thiệp của nhà nước theo mô hình “nhà nước phúc lợi” bắt đầu cản trở sự phát triển kinh tế Chủ nghĩa tư bản rơi vào tình trạng khủng hoảng mới - khủng hoảng về cơ cấu Trước tình trạng đó, các đảng bảo thủ cầm quyền đề xuất mô hình “chủ nghĩa tự do mới” (bắt đầu từ luận thuyết của Rigân

- cựu Tổng thống Mỹ và Thátchơ - cựu Thủ tướng Anh vào những năm 80) Thực chất của chủ nghĩa tự do mới là đề cao thị trường tự do Những người theo thuyết này cho rằng, mọi quyết sách phải theo mệnh lệnh của thị trường và phản đối sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế

Trang 4

Sau gần 10 năm thực hiện luận thuyết đó, một số nước phương Tây đã phải gánh chịu những hậu quả tai hại: nạn đầu cơ tiền tệ; tăng tỉ suất lợi nhuận, nhưng tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm; cắt xén chi tiêu phúc lợi, nhưng gánh nặng tài chính của nhà nước không giảm; sự phân cực xã hội diễn ra rất nặng nề, sự căng thẳng xã hội trở nên gay gắt…

Các nước phương Tây dần dần đã cảnh tỉnh trước chủ nghĩa tự do mới và có sự thay đổi Họ thấy rằng, nếu phó mặc cho “bàn tay vô hình” của thị trường thì những gì được coi là tốt lành của chủ nghĩa tư bản có thể sẽ tiêu tan Các nước thuộc thế giới thứ ba cũng nhận thấy là, nếu đem toàn bộ việc phân bổ tài nguyên, phân phối thu nhập và sự điều tiết của nhà nước giao cho thị trường quản lý, thì chỉ có thể mang lại tình trạng hỗn loạn, vô chính phủ, thất nghiệp và bần cùng

Đặc biệt, khi tiến trình toàn cầu hoá trở nên mạnh mẽ, khi sự hình thành hệ thống kinh

tế toàn cầu đang “phá vỡ” những biên giới quốc gia của các nền kinh tế, những tranh luận về nhà nước và khả năng của nó trong việc thực hiện các chức năng của mình đã diễn ra ngày càng sôi nổi

Khi đưa ra thuyết “Toàn cầu hoá quyết định”, chủ nghĩa tự do mới cho rằng, trong tiến trình toàn cầu hoá, nhà nước không có cách gì quyết định vận mệnh của mình Việc phân bổ tài nguyên, phân phối thu nhập và đề ra các quyết sách chỉ có thể tiến hành theo mệnh lệnh của thị trường; đối mặt với toàn cầu hoá tư bản thì quốc gia, dân tộc có xu hướng tiêu vong, duy nhất còn lại là chủ quyền của thị trường

Có quan điểm lại cho rằng, sự phát triển của toàn cầu hoá đã làm nổi lên vai trò

“quản lý toàn cầu” Bởi lẽ, toàn cầu hoá về kinh tế làm xuất hiện sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế, giữa các quốc gia, dân tộc Thời cơ, thách thức, rủi ro, khủng hoảng, nghèo đói, khủng hoảng sinh thái, ô nhiễm môi trường… đều đã trở thành những vấn đề có tính chất toàn cầu; việc giải quyết chúng đòi hỏi phải có sự nỗ lực toàn cầu, nỗ lực của mọi quốc gia dù lớn hay nhỏ Trong khi đó, theo quan điểm này, biện pháp thị trường đã mất linh nghiệm, nhà nước quốc gia đã trở nên bất lực

và do đó, cần thiết phải đề cao sự “quản lý toàn cầu”

Quan điểm tuyệt đối hóa vai trò của thị trường, coi thị trường quyết định tất cả đã bị thực tiễn đương đại bác bỏ Còn việc phải có sự quản lý toàn cầu nhằm chế định, duy trì trật tự kinh tế toàn cầu và thúc đẩy nỗ lực chung của mọi quốc gia để giải quyết

Trang 5

các vấn đề toàn cầu là cần thiết Nhưng từ đó mà coi nhẹ hoặc phủ nhận vai trò của nhà nước quốc gia thì lại là một sai lầm

Quả thực, chủ quyền quốc gia trong bối cảnh toàn cầu hoá đang bị ảnh hưởng mạnh

mẽ, quyền và hoạt động của nhà nước đang bị hạn chế: khai thác tài nguyên cũng chịu sự ràng buộc quốc tế, thị trường toàn cầu chế ước tính tự chủ về chính sách của chính phủ, tự do hoá đã làm giảm quy mô can thiệp trực tiếp của nhà nước vào các quá trình kinh tế, sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước đang ngày càng tăng lên… Tuy nhiên, không vì thế mà vai trò của nhà nước bị suy giảm Trên thực tế, nhà nước vẫn đóng vai trò quan trọng, kể cả ở các nước đang phát triển, cũng như các nước phát triển

Cũng phải thừa nhận rằng, toàn cầu hoá đang làm nẩy sinh những vấn đề mới và việc giải quyết chúng sẽ trở nên vô cùng khó khăn nếu không có sự tham gia của nhà nước Chẳng hạn, vấn đề điều tiết dân cư, ngăn chặn buôn bán các chất ma tuý, tình trạng gia tăng tội phạm… Chính vì vậy, nhiều nhà nghiên cứu đương đại cho rằng, cần phải có nhiều hơn sự quản lý của nhà nước, chứ không phải là ít hơn so với trước kia và nhà nước cần phải có sự cải cách, điều chỉnh cho thích ứng với điều kiện mới

Như vậy, không chỉ quan điểm mácxít mà ngay cả quan điểm của các nhà quản lý học, chính trị học phương Tây và thực tiễn phát triển của chủ nghĩa tư bản trong thời

kỳ toàn cầu hoá cũng khẳng định vai trò không thể thiếu được của nhà nước trong điều kiện hiện nay, nhất là đối với lĩnh vực kinh tế

Hai là, nhà nước “kết hợp” tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội là thực hiện một

đòi hỏi khách quan của sự phát triển, tiến bộ trong thời đại hiện nay

Sự gắn bó mật thiết, rằng buộc, quy định lẫn nhau giữa “cái kinh tế” và “cái xã hội”

là biện chứng khách quan của sự vận động, phát triển của lịch sử, nhất là trong thời

kỳ hiện đại Không có “cái kinh tế” tồn tại thuần tuý, tách rời “cái xã hội” Theo quan điểm mácxít, phát triển kinh tế không có mục đích tự thân, mà suy cho cùng là nhằm mục đích phát triển xã hội, phát triển con người Vả lại, kinh tế cũng không thể phát triển, càng không thể phát triển bền vững nếu xem nhẹ hay bỏ qua các vấn đề, các khía cạnh xã hội Tuy nhiên, giải quyết các vấn đề xã hội phải dựa trên cơ sở sự phát triển kinh tế, phải lấy sự phát triển kinh tế làm giá đỡ Những giải pháp giải

Trang 6

quyết các vấn đề xã hội xuất phát từ mong muốn, khát vọng chủ quan thuần tuý thì chỉ là những ý định tốt đẹp, không có tính khả thi, hoặc sẽ làm mất động lực phát triển kinh tế, kìm hãm sự phát triển kinh tế Như vậy, theo biện chứng của sự phát triển lịch sử, “cái kinh tế” là một thực thể kinh tế - xã hội và “cái xã hội” cũng phải

là thực thể xã hội - kinh tế Lịch sử phát triển đương đại chứng tỏ tính đúng đắn, khoa học của quan điểm mácxít đó

Chủ nghĩa tư bản trong thời kỳ tự do cạnh tranh để cho thị trường chi phối, thao túng, nhà nước đứng bên ngoài kinh tế và ít chú ý đến các vấn đề xã hội Điều này đã làm xuất hiện những xung đột gay gắt trong xã hội, cản trở sự phát triển kinh tế, đẩy nền kinh tế rơi vào tình trạng khủng hoảng và tổng khủng hoảng Trước những hậu hoạ

đó, các nhà kinh tế học tư sản đã ý thức được vấn đề và dần dần thấy được vai trò của “bàn tay hữu hình” của nhà nước trong điều tiết nền kinh tế và giải quyết các vấn

đề xã hội Ở đây phải nói tới sự đóng góp của J.M.Keynes Trong luận thuyết của mình, Keynes coi sự mất cân đối giữa sản xuất và tiêu dùng là nguyên nhân chính của sản xuất thừa Do đó, theo ông, để đạt được sự cân đối giữa cung và cầu nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cần phải có các biện pháp can thiệp trực tiếp của nhà nước vào đời sống kinh tế - xã hội Theo luận thuyết này, chủ nghĩa tư bản sau Chiến tranh thế giới thứ II đã tiến hành xây dựng mô hình “nhà nước phúc lợi” Với mô hình đó, ở các nước phương Tây, ngân sách của nhà nước cấp cho các mục tiêu xã hội (chi cho giáo dục, y tế, đảm bảo xã hội, ưu tiên cho những đối tượng dễ bị tổn thương…) có xu hướng gia tăng Chính vì vậy, cuộc đấu tranh của nhân dân lao động

vì các quyền và lợi ích của mình đã không còn mang tính chất quyết liệt như trước Chủ nghĩa tư bản phần nào đã làm dịu được những xung đột xã hội, tạo đà cho sự tăng trưởng kinh tế

Vào những năm 80 của thế kỷ XX, sự can thiệp của “nhà nước phúc lợi” theo kiểu cũ

đó đã bắt đầu đẩy nền kinh tế tư bản chủ nghĩa lâm vào cuộc khủng hoảng mới: khủng hoảng về cơ cấu và nền kinh tế rơi vào sự suy thoái Để khắc phục tình trạng

đó, họ lại truyền bá và vận dụng luận thuyết về chủ nghĩa tự do mới, nhấn mạnh sự tăng trưởng kinh tế, ít chú ý đến các vấn đề xã hội Sau gần một thập kỷ thực hiện luận thuyết đó, sự phân cực xã hội trở nên nặng nề hơn bao giờ hết, xung đột xã hội ngày càng gay gắt dẫn đến cản trở sự phát triển của kinh tế Chủ nghĩa tư bản lại rơi

Trang 7

vào vũng lầy mới do không quan tâm giải quyết những vấn đề xã hội Nhiều nước tư bản đã thấy được tác hại của luận thuyết này và họ tiếp tục thực hiện mô hình “nhà nước phúc lợi” nhưng có sự cải biến, hiện đại hoá nó

Đối với các nước chủ trương phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa và con đường xã hội chủ nghĩa, việc kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội càng trở nên cần thiết hơn Đó là một yêu cầu khách quan, không chỉ để tăng trưởng kinh tế, mà còn đảm bảo cho mục tiêu chính trị đã lựa chọn

Thực tiễn của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội mang tính đặc sắc của Trung Quốc là một minh chứng cho sự cần thiết phải “kết hợp” này

Sau một thời gian dài phát triển đất nước theo mô hình chủ nghĩa xã hội cũ, từ cuối thập niên 70, Trung Quốc quyết định thực hiện cải cách quản lý nền kinh tế theo cơ chế thị trường, mở cửa ra bên ngoài Trong những năm đầu của công cuộc cải cách, Trung Quốc thực hiện chính sách tập trung cao cho tăng trưởng kinh tế với quan điểm cho rằng, chỉ cần tăng trưởng kinh tế là có thể giải quyết được mọi vấn đề Kết quả là nền kinh tế Trung Quốc đã phát triển với tốc độ cao nhất, nhì thế giới Tuy nhiên, do tập trung cao độ cho sự tăng trưởng kinh tế, hàng loạt vấn đề xã hội đã không được quan tâm Hậu quả là phần lớn người lao động ít được hưởng lợi từ tăng trưởng kinh tế, hệ thống chăm sóc sức khoẻ và y tế cộng đồng ở vào tình trạng đáng

lo ngại, hầu hết số người nghèo không có khả năng chi trả các dịch vụ y tế; đầu tư cho giáo dục thấp (2% GDP) làm cho hàng chục triệu trẻ em không thể tiếp tục đi học vì những khó khăn về kinh tế, nguồn nhân lực bị giảm sút, tình trạng phân hoá giàu nghèo giữa các vùng miền, giữa các tầng lớp dân cư quá lớn đe doạ sự ổn định

và phát triển, nạn thất nghiệp có xu hướng tăng cao Tình hình xã hội trở nên căng thẳng, cản trở quá trình phát triển kinh tế - xã hội trước mắt và đe doạ sự phát triển kinh tế bền vững

Đảng Cộng sản Trung Quốc đã ý thức được những khiếm khuyết trong chủ trương của mình và bắt đầu thi hành những giải pháp cần thiết để đảm bảo công bằng xã hội Nghị quyết Trung ương 3 khoá XVI của Đảng Cộng sản Trung Quốc đã nhấn mạnh rằng, phải coi con người vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự tiến bộ; xuất phát từ lợi ích căn bản của quần chúng nhân dân để xây dựng chính sách phát triển kinh tế -

xã hội

Trang 8

Để đảm bảo cho sự phát triển của đất nước, từ đầu năm 2004, Trung Quốc đã tích cực thực hiện những biện pháp nhằm giảm bớt những mâu thuẫn gay gắt giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội: chuyển chính sách ưu tiên cao độ cho tăng trưởng kinh tế sang ưu tiên cho đảm bảo công bằng xã hội, thực hiện việc kết hợp tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội Chính phủ chuyển trọng tâm từ phát triển kinh tế, sang giải quyết các vấn đề xã hội như: khắc phục tình trạng nghèo đói, sự tụt hậu về y tế, giáo dục, nạn thất nghiệp… Ngân sách nhà nước tăng cho các dịch vụ công cộng, cho hệ thống an sinh xã hội Chính sách ưu tiên phát triển nông nghiệp, nông thôn… được triển khai rộng khắp

Như vậy, gắn tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội là biện chứng khách quan của

sự phát triển xã hội trong thời kỳ hiện đại; hơn nữa, là sự phát triển xã hội theo hướng nhân văn, theo định hướng xã hội chủ nghĩa

Tuy nhiên, như thực tế đã chỉ ra, điều đó không được thực hiện một cách tự động, mà phải có sự tác động chủ động của kiến thức thượng tầng chính trị, trước hết là nhà nước Nhà nước là công cụ chủ yếu thực hiện sự kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội Nhà nước xã hội chủ nghĩa, theo bản chất của minh, là nhà nước

cộng đồng quốc tế cùng tham gia, trong đó nhà nước đóng vai trò nòng cốt

Để không rơi vào ảo tưởng, chủ quan duy ý chí khi giải quyết các vấn đề xã hội như trước đây, các chủ trương, chính sách, biện pháp… của nhà nước phải đáp ứng hai yêu cầu chủ yếu sau:

1 Phải có quan niệm đúng đắn, khách quan trên quan điểm lịch sử cụ thể về công

bằng xã hội

Công bằng xã hội là khát vọng, là mục tiêu đấu tranh của nhân loại tiến bộ từ bao đời nay Trong thực tế lịch sử nhân loại, công bằng xã hội biểu hiện như một xu hướng, một quá trình lịch sử phát triển tiến bộ Công bằng xã hội là một phạm trù mang tính

Trang 9

nó chỉ thực thi và có tác dụng tích cực đối với sự phát triển kinh tế - xã hội khi phù hợp với điều kiện lịch sử - cụ thể của thời đại, của đất nước

Hiện nay, nước ta đang ở trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế Quan niệm về công bằng xã hội, cũng như những chủ trương, chính sách, biện pháp… của nhà nước nhằm giải quyết các vấn đề xã hội, thực hiện công bằng xã hội phải phù hợp với cơ sở kinh tế và định hướng chính trị đó Mặc dù không phải là duy nhất, song cần phải thấy rằng, công bằng trong phân phối là cốt lõi của công bằng xã hội Nhấn mạnh nội dung này, Đại hội lần thứ IX của Đảng khẳng định: chúng ta cần

“thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh

và thông qua phúc lợi xã hội”(3) nhằm “tạo động lực mạnh mẽ phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động xã hội, thực hiện bình đẳng trong các quan hệ xã hội”(4) Đây là một nguyên tắc phân phối công bằng, phù hợp với điều kiện nước ta hiện nay

và do đó, mọi chính sách, biện pháp thực hiện đều phải dựa trên nguyên tắc đó mới

có tính khả thi, đảm bảo đúng định hướng và kích thích được sự phát triển kinh tế, tiến bộ xã hội

Trang 10

2 Giải quyết các vấn đề xã hội, thực hiện công bằng xã hội phải hướng vào sự phát triển kinh tế, tạo động lực phát triển kinh tế

Kinh tế thị trường, kể cả nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, không có

“cơ chế tự điều tiết” và giải quyết các vấn đề xã hội Ngược lại, nó còn làm nẩy sinh những vấn đề xã hội bức xúc, mà nếu thiếu sự can thiệp tích cực của nhà nước thì không thể giải quyết được Tuy nhiên, sự can thiệp của nhà nước chỉ là tích cực, có hiệu quả khi dựa trên thực lực của nền kinh tế và tạo động lực cho sự tăng trưởng kinh

tế

Việc xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta trong thời gian vừa qua, ngoài mặt tích cực, đã làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội đòi hỏi nhà nước phải can thiệp, giải quyết Ở đây, chúng tôi chỉ đề cập tới hai vấn đề xã hội nổi bật liên quan trực tiếp tới sự phát triển kinh tế

Trước hết, đó là vấn đề phân hoá giàu nghèo Trong điều kiện nước ta hiện nay, sự

phân hoá giàu nghèo do phát triển kinh tế thị trường là điều không tránh khỏi Song, tình trạng phân hóa giàu nghèo ở mức độ nào đó cũng biểu hiện sự công bằng xã hội

đang được thiết lập lại Chính vì vậy, một mặt, nhà nước phải chấp nhận sự phân hoá giàu nghèo, phải bảo vệ và khuyến khích nhân dân làm giàu một cách hợp pháp; mặt

khác, phải tiến hành một loạt các chủ trương, chính sách, biện pháp để xoá đói giảm

nghèo và kiềm chế sự phân hoá giàu nghèo không để gia tăng đến mức quá đáng, đến mức phân cực Tuy nhiên, các chính sách xoá đói giảm nghèo không nên hiểu như là những chính sách nhân đạo thuần tuý nhằm mục đích cứu trợ cho người nghèo, mà phải tạo động lực cho sự phát triển kinh tế Đồng thời, phải làm trong sạch bộ máy nhà nước, đẩy mạnh đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, cải cách nền hành chính quốc gia, nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý và điều tiết của nhà nước đối với sự phát triển kinh tế và xã hội

Hai là, vấn đề cơ hội tham gia và hưởng lợi từ tăng trưởng kinh tế.Kinh nghiệm ở

nhiều nước cho thấy, nếu phần lớn người dân không có cơ hội tham gia và do đó, không được hưởng lợi (sinh lợi bằng lao động của mình chứ không phải chỉ thuần tuý bằng sự phân phối lại, phúc lợi xã hội) từ quá trình tăng trưởng kinh tế sẽ làm nẩy sinh những bức xúc, căng thẳng gây mất ổn định xã hội; đồng thời, ảnh hưởng đến chất lượng nguồn lực con người, cản trở sự phát triển theo hướng bền vững của

Trang 11

cơ hội Nên nhớ rằng, giao những quyền ngang nhau cho những người thực ra là không ngang nhau chỉ là bình đẳng hình thức, còn thực tế là bất bình đẳng Điều đó

lý giải tại sao quan điểm mácxít lại coi vấn đề phân phối như nội dung cốt lõi trong công bằng xã hội

Để tạo cơ hội cho phần lớn nhân dân tham gia và hưởng lợi từ tăng trưởng kinh tế, nhà nước phải thực hiện công bằng xã hội ở cả khâu phân phối hợp lý tư liệu sản xuất, lẫn ở khâu phân phối kết quả sản xuất Công bằng trong phân phối tư liệu sản xuất không phải là cào bằng, bình quân, mà phải lấy hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội làm căn cứ Hiệu quả xã hội không chỉ được hiểu theo nghĩa mang tính chất “xã hội thuần tuý”, mà bao chứa trong nó hiệu quả kinh tế Nhà nước cần tạo cơ hội cho mọi người, mọi vùng, miền có thể tham gia và hưởng lợi từ tăng trưởng kinh tế Chẳng hạn, cần đầu tư mạnh cho giáo dục, y tế, xây dựng kết cấu hạ tầng, đặc biệt là

ở những vùng, miền có nhiều khó khăn, ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa

Tác động qua lại giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội là biện chứng khách quan của sự phát triển, tiến bộ xã hội trong thời đại hiện nay Kết hợp một cách hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội sẽ tạo nên động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển của đất nước Sự “kết hợp” này được thực hiện bởi nhân tố chủ quan, trong đó nhà nước đóng vai trò chủ yếu Trọng trách ấy đã, đang đặt ra cho Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ở nước ta.r

(*) Phó giáo sư, tiến sĩ, Viện trưởng Viện Triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh

(1) Đảng Cộng sản Việt Nam Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Nxb

Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr 33

(2) Đảng Cộng sản Việt Nam Sđd., tr 88

Trang 12

NGUYỄN MINH PHƯƠNG (*)

Xã hội dân sự là một vấn đề mới, thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu lý luận Trong bài viết này, tác giả đã phân tích vai trò quan trọng của xã hội dân sự

Chức năng của xã hội dân sự, như tác giả khẳng định, bao gồm: thứ nhất, là cầu nối các cá nhân với nhà nước; thứ hai, tham gia hoạch định và phối hợp với nhà nước thực hiện các chủ trương, chính sách của Nhà nước; thứ ba, tổ chức phản biện xã

hội đối với các chủ trương, chính sách và giám sát hoạt động của đội ngũ công chức

nhà nước; thứ tư, góp phần phát huy các nguồn lực nhằm thúc đẩy sự phát triển

kinh tế – xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống của con người Đồng thời, tác giả cũng đề xuất và luận giải một số phương hướng, biện pháp cơ bản để thúc đẩy sự phát triển của xã hội dân sự ở Việt Nam hiện nay

1- Nhận thức về vai trò của xã hội dân sự hiện nay

Trong những năm gần đây, vấn đề xã hội dân sự được giới nghiên cứu lý luận quan tâm, chú ý Nhiều ý kiến cho rằng, trong thời đại ngày nay, xã hội dân sự là một trong ba khu vực cơ bản của xã hội, là “một đỉnh của tam giác” phát triển xã hội Theo đó, kinh tế thị trường là điều kiện cần thiết cho sự phát triển, nhà nước pháp quyền là yếu tố quyết định trực tiếp đến sự phát triển và xã hội dân sự đảm bảo cho

sự phát triển cân bằng và bền vững của xã hội

Nội dung, phạm vi và các yếu tố cấu thành của xã hội dân sự hiện vẫn được hiểu theo nhiều cách khác nhau, nhưng nội dung cốt lõi nhất của nó chính là hệ thống các tổ chức xã hội của công dân được gắn kết bởi những nhu cầu, lợi ích chung, các giá trị hoặc truyền thống chung để tiến hành nhiều hoạt động khác nhau nhằm phối hợp với nhà nước, bổ sung cho những khiếm khuyết của nhà nước, đảm bảo sự ổn định, cân

Trang 13

bằng và phát triển bền vững của xã hội Xã hội dân sự là một khu vực “phi nhà nước”, bao gồm các liên hiệp, hiệp hội, hội, tổ chức cộng đồng, nhóm tình nguyện, tổ chức phi chính phủ,… thực hiện các chức năng, vai trò xã hội hoặc mục đích nghề nghiệp, từ thiện, nhân đạo… nhất định; hoạt động chủ yếu dựa trên tính tự chủ về tài chính, tự quản trong tổ chức quản lý và sự tự nguyện của các thành viên, hội viên với mục tiêu phi lợi nhuận, đa dạng về hình thức tổ chức, phong phú về mục tiêu cụ thể Trong lịch sử, các hình thức liên hiệp đã xuất hiện từ xa xưa, thậm chí còn có trước khi xuất hiện nhà nước Nhưng phải đến thời đại tư bản chủ nghĩa, khi mối quan hệ giữa các cộng đồng đó được xác lập trên cơ sở chính trị - pháp lý nhất định, lúc đó xã hội dân sự mới thực sự ra đời

Ngày nay, kinh tế thị trường đã tỏ rõ ưu thế và trở thành khuynh hướng chủ đạo trong sự phát triển của nền kinh tế thế giới Mặc dầu vậy, nền kinh tế thị trường không phải là chìa khóa vạn năng để giải quyết mọi vấn đề của sự phát triển xã hội

Do bản chất của nó, kinh tế thị trường có những nhược điểm và giới hạn nhất định, nhất là trong các lĩnh vực chính trị, văn hóa, xã hội và môi trường sống Vì vậy, để khắc phục những hạn chế đó, cần phải có sự tham gia phối hợp của nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự

Nhà nước pháp quyền trong xu thế phát triển ngày càng có tính phổ biến của nền chính trị hiện đại đã thể hiện những ưu thế, tính hiệu quả trong việc tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước, dân chủ hóa xã hội Nhưng, nhà nước cũng không phải là chìa khóa vạn năng để giải quyết mọi vấn đề của sự phát triển xã hội Bản thân nhà nước pháp quyền cũng gặp phải những giới hạn và thách thức nhất định, như nguồn lực cần thiết để tổ chức và vận hành khá lớn, phải có những điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội nhất định và việc xây dựng nhà nước đó là một quá trình lâu dài, khó khăn và phức tạp Mâu thuẫn giữa tính bắt buộc, quy chuẩn có giới hạn của pháp luật

và sự phong phú, sinh động, đa dạng của nhu cầu mọi mặt của cá nhân cũng như của

xã hội bắt đầu xuất hiện Pháp luật là tối thượng, nhưng trong không ít trường hợp, khi đã nắm được quyền lực công, các tổ chức và cá nhân được trao quyền trở nên quan liêu, tha hóa, tự đặt mình lên trên xã hội Thậm chí, những người cai trị "bảo đảm quyền này của họ bằng những đạo luật đặc biệt, những đạo luật khiến cho họ trở thành đặc biệt thần thánh và đặc biệt bất khả xâm phạm"(1) Trong tình huống này,

Trang 14

tính tối thượng của pháp luật có thể lại là mối nguy hiểm cho xã hội

Quá trình phát triển của xã hội hiện đại cho thấy một thực tế hiển nhiên là các cơ quan nhà nước và đội ngũ công chức nhà nước, dù hết sức tận tụy cống hiến hay có tinh thần vì công chúng như thế nào đi chăng nữa, thì cũng không thể dự kiến trước được tất cả các hàng hoá công cộng và dịch vụ mà các công dân muốn có Việc xuất hiện những biện pháp thay thế của các tổ chức quần chúng, tổ chức phi chính phủ và

tư nhân có thể giúp lấp đi những khoảng trống trong việc cung cấp hàng hoá công cộng, cũng như cung cấp những hàng hoá và dịch vụ công nào mà các cá nhân muốn trả bằng tiền của riêng họ Các đoàn thể nhân dân, các hội có thể vừa là những cộng

sự, vừa là những đối thủ cạnh tranh trong việc cung cấp các dịch vụ công

Hơn nữa, trong điều kiện ngày nay, do nhu cầu cá nhân tăng lên, sự liên kết giữa các

cá nhân và cộng đồng trở nên đa dạng hơn, phạm vi hoạt động của xã hội ngày càng phát triển phong phú và mở rộng Nhà nước không thể và không nên trực tiếp đáp ứng tất cả nhu cầu đó, mà cần phải chuyển giao dần một phần công việc này cho các

tổ chức thuộc khu vực xã hội dân sự Trên thực tế, nhiều việc giao cho các tổ chức xã hội - nghề nghiệp quản lý lại có hiệu quả hơn vì tính chất linh hoạt, năng động, sát thực

tế công việc và đảm bảo tính khách quan hơn, ví dụ như chức năng tư vấn, phản biện, giám định xã hội đối với các lĩnh vực chuyên môn nghề nghiệp…

Những giới hạn của nhà nước nêu trên chỉ có thể được khắc phục một cách hiệu quả khi xây dựng và phát triển xã hội dân sự, tức là phát huy vai trò của xã hội dân sự, huy động sự tham gia rộng rãi của người dân và cộng đồng vào công việc xã hội, mà tựa hồ như đã trao cho nhà nước và được coi là chức năng cơ bản, cơ sở của sự thống trị chính trị của nhà nước

Chức năng của xã hội dân sự bao gồm: thứ nhất, là cầu nối, kênh truyền dẫn tiếng

nói, nguyện vọng của người dân đến với nhà nước hay nói cách khác, là xã hội hóa

các cá nhân, nối cá nhân với hệ thống xã hội; thứ hai, tham gia hoạch định các chủ

trương, chính sách của nhà nước, phối hợp với nhà nước trong hoạch định, thực hiện

và giám sát thực hiện các chính sách, góp phần xây dựng và hoàn thiện hệ thống

pháp lý; thứ ba, tổ chức phản biện xã hội đối với các chủ trương, chính sách cũng

như việc thực hiện chính sách, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, kiểm soát

và giám sát phẩm chất, hành vi của đội ngũ công chức nhằm góp phần chống quan

Trang 15

liêu, tham nhũng, nâng cao hiệu lực và hiệu quả của nhà nước; thứ tư, phát huy các

nguồn lực và tính năng động, sáng kiến của các tầng lớp dân cư, tham gia hoạt động cung cấp dịch vụ công như giáo dục, y tế, văn hoá, khoa học, bảo vệ môi trường, xoá đói giảm nghèo,… tạo điều kiện nâng cao chất lượng cuộc sống của mỗi người và của toàn xã hội

Cả bốn chức năng trên đều quan trọng và có quan hệ chặt chẽ với nhau Việc xem nhẹ một trong các chức năng đó biểu hiện sự nhận thức không đúng về vai trò, chức năng của xã hội dân sự và ảnh hưởng đến sự ổn định, phát triển của xã hội

Mục tiêu của xã hội dân sự hiện đại là phát triển và hoàn thiện con người, coi đó là điều kiện để phát triển cộng đồng, xã hội và nhân loại Sự phát triển của xã hội dân sự hướng tới những giá trị tiến bộ chung của nhân loại; đồng thời, phụ thuộc vào tính giai đoạn, đặc điểm lịch sử cụ thể của từng nước cũng như hình thức, kiểu nhà nước và hệ thống chính trị của mỗi quốc gia

Tuy nhiên, xã hội dân sự là một khu vực không thuần nhất, tính đồng thuận không cao và thiếu tính nhất quán Mặt khác, bản thân xã hội dân sự cũng có những giới hạn và gặp phải một số thách thức nhất định, đó là khi các hiệp hội, hội, tổ chức cộng đồng chỉ chăm lo đến lợi ích cục bộ của mình mà không quan tâm đến lợi ích toàn xã hội Khi đó, tính tự chủ, tự nguyện và tự quản của xã hội dân sự sẽ có nguy cơ tạo ra các “lệ” riêng, cản trở việc thực thi chính sách và pháp luật của Nhà nước, hạn chế sự phát triển chung của xã hội Vì vậy, các thể chế của xã hội dân sự cần phải được quản lý và định hướng bằng pháp luật của nhà nước, nhằm tạo ra một môi trường dân chủ, lành mạnh cho sự phát triển hài hoà của toàn xã hội Nói cách khác, điều kiện để hình thành một xã hội dân sự lành mạnh là phải có một nhà nước pháp quyền vững mạnh, có hiệu lực và hiệu quả để xây dựng khung pháp luật, tạo môi trường thuận lợi, bảo vệ và trợ giúp cho xã hội dân sự, phục vụ xã hội dân sự

2- Vai trò của xã hội dân sự và phương hướng thúc đẩy sự phát triển của xã hội dân sự ở Việt Nam

Ở nước ta, trong công cuộc đổi mới, cùng với sự phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và dân chủ hoá đời sống xã hội, Nhà nước đã từng bước chuyển sang thực hiện chức năng định hướng, bảo trợ, tạo lập môi trường và điều kiện thuận lợi cho người dân được tự do phát triển sản xuất kinh doanh, tổ chức cuộc

Trang 16

sống Nhờ đó, khu vực xã hội dân sự ngày càng có điều kiện phát triển, quan hệ xã hội của người dân được tự do, cởi mở hơn; nhu cầu giao tiếp, liên hệ giữa các cá nhân có điều kiện được thoả mãn; tính tích cực xã hội của người dân, của các đoàn thể nhân dân, các hội, tổ chức phi chính phủ, các nhóm xã hội có tư cách pháp nhân

và không có tư cách pháp nhân được phát huy mạnh mẽ, góp phần vào sự phát triển của đất nước

Mặt khác, xu thế đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng đa phương hoá, đa dạng hoá trong quan hệ quốc tế đòi hỏi các quan hệ đối ngoại không chỉ được thực hiện theo con đường của Nhà nước, mà còn bằng các hình thức đối ngoại nhân dân thông qua các đoàn thể nhân dân, các hội, tổ chức phi chính phủ

Nhận thức sâu sắc về vị trí, vai trò của các đoàn thể nhân dân, các tổ chức quần chúng, các hội trong sự nghiệp đổi mới đất nước, ngay từ năm 1990, trong Nghị quyết số 8B-NQ/ HNTW (khoá VI), Đảng ta đã chủ trương: “Trong giai đoạn mới, cần thành lập các hội đáp ứng nhu cầu chính đáng về nghề nghiệp và đời sống nhân dân hoạt động theo hướng ích nước, lợi nhà, tương thân, tương ái Các tổ chức hội quần chúng được thành lập theo nguyên tắc tự nguyện, tự quản và tự trang trải về tài chính trong khuôn khổ pháp luật” Nghị quyết Đại hội IX của Đảng tiếp tục khẳng định: “Mở rộng và đa dạng hoá các hình thức tập hợp nhân dân tham gia các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội, các hội nghề nghiệp, văn hoá, hữu nghị, từ thiện - nhân đạo…”(2)

Hiện nay, ở nước ta, bên cạnh các đoàn thể nhân dân có truyền thống lịch sử gắn với quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc, các hội, tổ chức phi chính phủ đã, đang được thành lập và hoạt động trong tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội với nhiều mô hình rất đa dạng, phong phú Tính đến tháng 6 – 2005, đã có 320 hội hoạt động trên phạm

vi toàn quốc, hơn 2.150 hội có phạm vi hoạt động tại các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và hàng chục vạn hội, tổ chức cộng đồng tự quản, tổ hoà giải có phạm vi hoạt động tại các quận, huyện, thị xã, thị trấn, xã, thôn, làng, ấp, bản… Đồng thời, hiện có khoảng 600 tổ chức phi chính phủ nước ngoài có quan hệ với Việt Nam, trong đó có gần 350 tổ chức có chương trình, dự án đối tác với Việt Nam Nhiều tổ chức đang đề nghị Chính phủ Việt Nam cho lập các văn phòng đại diện, văn phòng

dự án…

Trang 17

Ngoài các hội, tổ chức phi chính phủ được thành lập theo quy định của pháp luật, có

tư cách pháp nhân, còn có các hội quần chúng, tổ chức cộng đồng có tính truyền thống hoặc do người dân tự nguyện thành lập, không có tư cách pháp nhân (hay còn gọi là hội không chính thức), như tổ, nhóm tự quản, hội đồng hương… và các câu lạc

bộ

Tuỳ tính chất và chức năng, nhiệm vụ của mỗi loại hình tổ chức, bên cạnh việc bảo

vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các hội viên, thành viên, các tổ chức này đã có nhiều đóng góp cho sự phát triển của đất nước trên nhiều phương diện:

- Các tổ chức có tính chất chính trị - xã hội đã tập hợp, giáo dục và phản ánh yêu cầu, nguyện vọng cũng như bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của quần chúng nhân dân, thực sự là cầu nối giữa nhân dân và nhà nước; tham gia có hiệu quả vào việc xây dựng và thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, phát huy và thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa, giám sát đối với các cơ quan nhà nước và đội ngũ cán

bộ, công chức; tư vấn và phản biện xã hội đối với các chủ trương, chính sách của Nhà nước

Trong điều kiện hệ thống chính trị do một Đảng duy nhất lãnh đạo và đóng vai trò hạt nhân, dễ xảy ra nguy cơ đội ngũ cầm quyền sẽ xa dân, quan liêu, lạm quyền… Vì vậy, các tổ chức chính trị – xã hội là những thể chế thích hợp để vừa đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng, vừa tránh được mọi nguy cơ nói trên, tức là thực hiện sự giám sát và phản biện xã hội đối với Đảng và Nhà nước Với ý nghĩa đó, các tổ chức chính trị –

xã hội không chỉ có chức năng tập hợp, động viên quần chúng, phản ánh tâm tư, nguyện vọng của đoàn viên, hội viên, mà còn có chức năng thực hành dân chủ, giám sát, phản biện xã hội nhằm bảo đảm cho sự lãnh đạo và điều hành đất nước tránh được những sai lầm, khuyết điểm do tình trạng quan liêu, chủ quan duy ý chí gây nên

- Các tổ chức xã hội - nghề nghiệp được thành lập nhằm mục đích phối hợp sức mạnh sản xuất kinh doanh, tăng cường khả năng cạnh tranh, góp phần xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, tư vấn thẩm định, phản biện xã hội đối với các chính sách, công trình kinh tế của nhà nước, bảo vệ hàng hoá, chất lượng sản phẩm; tìm hiểu và nắm bắt nhu cầu thị trường, bảo vệ người tiêu dùng, thương lượng giải quyết các tranh chấp thương mại Vụ kiện áp đặt Luật chống bán phá giá cá Basa và

Trang 18

cá da trơn, bán tôm vào thị trường Hoa Kỳ… của Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam (VASEP) là ví dụ điển hình Đồng thời, nhiều tổ chức này đã bước đầu đảm nhiệm tương đối có hiệu quả việc cung ứng một số dịch vụ công phục vụ xã hội, góp phần thực hiện chủ trương xã hội hoá của Đảng và Nhà nước

- Các hội, tổ chức phi chính phủ đã góp phần khai thác mọi nguồn lực để phát triển kinh tế, văn hoá - xã hội; vận động hội viên tích cực tham gia vào nhiệm vụ xây dựng xã hội, phát triển kinh tế; phát huy tính năng động, tính tích cực xã hội của mỗi công dân; góp phần cùng Nhà nước giải quyết những khó khăn về kinh tế - xã hội do chiến tranh, do nền kinh tế chậm phát triển cũng như do sự phân hoá giàu nghèo trong quá trình phát triển kinh tế thị trường gây nên

- Mặt khác, các tổ chức đó còn góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại nhân dân, tăng cường sự hiểu biết, hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau giữa các quốc gia trong việc giải quyết các vấn đề có tính chất toàn cầu, như bảo vệ môi trường sinh thái, chống đói nghèo, giảm nhẹ hậu quả do thiên tai…

Tuy nhiên, hiện vẫn còn một số cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức cũng như người dân chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng và tác dụng của khu vực xã hội dân sự trong đời sống xã hội; có biểu hiện xem nhẹ vai trò, tác dụng của các đoàn thể nhân dân, các hội; chậm ban hành, sửa đổi các văn bản quy phạm pháp luật về tổ chức, hoạt động và quản lý hội cho phù hợp với tình hình mới Mặt khác, bản thân các đoàn thể nhân dân, các hội chưa phát huy đầy đủ chức năng đại diện cho lợi ích của quần chúng nhân dân và hội viên của mình Một số tổ chức đoàn thể nhân dân, hội còn mang tính hình thức, hoạt động kém hiệu quả, chưa đáp ứng được nguyện vọng và lợi ích của đoàn viên, hội viên, hoặc có biểu hiện trông chờ vào sự tài trợ của nhà nước; “hành chính hoá” về mặt tổ chức và hoạt động Do đó, khả năng thu hút quần chúng của các tổ chức này còn hạn chế; việc tham gia cung cấp dịch vụ công chưa được triển khai đúng với tôn chỉ và mục đích, thậm chí có trường hợp chạy theo lợi nhuận kinh tế đơn thuần

Để có thể thúc đẩy sự phát triển của xã hội dân sự ở nước ta hiện nay, trước hết cần nhận thức đúng về vai trò, vị trí của của các đoàn thể nhân dân, các hội, tổ chức phi chính phủ trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế quốc tế và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

Trang 19

Bối cảnh và xu thế phát triển mới của đất nước đòi hỏi Nhà nước phải thực hiện ngày càng tốt hơn vai trò, chức năng chủ yếu của mình là định hướng và tạo lập môi trường, điều kiện thuận lợi cho người dân được phát huy mọi khả năng và nguồn lực

để phát triển sản xuất, làm giàu cho bản thân và đất nước; đồng thời, ngăn chặn, hạn chế những mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo đảm công bằng xã hội, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người dân

Điều đó đặt ra đòi hỏi cấp bách là phải mở rộng và đa đạng hóa các hình thức tập hợp nhân dân, phát huy vai trò của các đoàn thể nhân dân, cộng đồng dân cư, các hội trong việc thực hiện đại đoàn kết dân tộc, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, tham gia các hoạt động quản lý sản xuất, kinh doanh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của thành viên, hội viên Mục tiêu cơ bản của các đoàn thể nhân dân, cộng đồng dân cư, các hội là đáp ứng nhu cầu chính đáng và hợp pháp của thành viên, hội viên; đồng thời, phải lấy hiệu quả xã hội và nâng cao dân trí làm thước đo sự phát triển và đóng góp của mình cho đất nước

- Nâng cao vai trò của các hội, tổ chức phi chính phủ trên các mặt: tham gia quản lý nhà nước, tư vấn, phản biện xã hội đối với các chủ trương, chính sách của Nhà nước, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước và đội ngũ cán bộ, công chức; tư vấn, phản biện đối với các lĩnh vực chuyên môn, nghề nghiệp; khai thác các nguồn lực phục vụ phát triển kinh tế - xã hội; phục vụ lợi ích của các thành viên, hội viên; cung ứng một số dịch vụ công trong các lĩnh vực y tế, giáo dục, văn hoá, vệ sinh môi trường…; góp phần thực hiện xoá đói, giảm nghèo, khắc phục hậu quả thiên tai; mở rộng các hoạt động đối ngoại nhân dân

- Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện thể chế, tạo môi trường pháp lý cho hoạt động của khu vực xã hội dân sự Trước hết là khẩn trương ban hành Luật Hội và các văn bản hướng dẫn việc thi hành Luật để tạo hành lang pháp lý thống nhất, đồng bộ, có hiệu lực cao về quản lý nhà nước đối với các hội, tổ chức phi chính phủ; đồng thời, tạo thuận lợi cho việc thành lập và hoạt động của các tổ chức đó

- Đẩy mạnh xã hội hoá dịch vụ công, xác định rõ những loại việc Nhà nước cần phải làm và chuyển giao cho khu vực xã hội dân sự những loại việc mà Nhà nước không nhất thiết phải đảm nhiệm Đồng thời, hỗ trợ các nguồn lực và tạo điều kiện cho các đoàn thể nhân dân, các hội, tổ chức phi chính phủ thực hiện tốt nhiệm vụ cung cấp các

Trang 20

dịch vụ công cần thiết cho xã hội

- Thực hiện nguyên tắc dân chủ, tự nguyện, tự quản, tự trang trải về tài chính của các hội, tổ chức phi chính phủ trong khuôn khổ pháp luật Tạo môi trường và khung pháp

lý phù hợp để thúc đẩy các đoàn thể nhân dân, tổ chức xã hội, các hội đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, khắc phục tình trạng “nhà nước hoá”, “hành chính hoá”, hoạt động không đúng mục đích, tôn chỉ của tổ chức và xa rời đoàn viên, hội viên; đảm bảo chế độ công khai, minh bạch các hoạt động và chi tiêu tài chính của các đoàn thể nhân dân, các hội, tổ chức phi chính phủ /

(*) Tiến sĩ triết học, Viện Khoa học Tổ chức nhà nước, Bộ Nội vụ

(1) C.Mác và Ph.Ăngghen Toàn tập, t.21 Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995,

tr.254

(2) Đảng Cộng sản Việt Nam Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Nxb

Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.130 – 131

LIÊN HỆ MẬT THIẾT VỚI QUẦN CHÚNG NHÂN DÂN CỘI NGUỒN SỨC MẠNH CỦA ĐẢNG TA

ĐOÀN VĂN KHÁI (*)

Quan tâm xây dựng, củng cố và không ngừng tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng Cộng sản với nhân dân là một nguyên tắc cơ bản trong xây dựng Đảng của chủ nghĩa Mác - Lênin, là cội nguồn tạo nên sức mạnh của Đảng Để nâng cao sức mạnh và giữ vững vai trò lãnh đạo của mình, trong mối quan hệ với nhân dân, Đảng Cộng sản Việt Nam cần: luôn chăm lo đầy đủ đến lợi ích, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thật sự tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; đồng thời, tiếp tục xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh Đó là cơ sở tạo nên sức mạnh

để Đảng vượt qua mọi khó khăn, thách thức; lãnh đạo nhân dân thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội

V.I.Lênin - lãnh tụ kiệt xuất của giai cấp vô sản Nga và giai cấp vô sản thế giới - khẳng định rằng, Đảng Cộng sản là đội tiên phong của giai cấp vô sản, nhưng Đảng

Trang 21

Cộng sản cũng "chỉ là một bộ phận nhỏ của giai cấp vô sản và giai cấp vô sản lại cũng chỉ là một bộ phận nhỏ trong quần chúng nhân dân"(1); nó chỉ làm tròn sứ mệnh lịch sử của mình khi biết gắn bó chặt chẽ với quần chúng và dẫn dắt toàn thể quần chúng tiến lên Nói về vai trò của quần chúng nhân dân đối với sự nghiệp của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra một mệnh đề chứa đựng tư tưởng lớn và rất sâu sắc: Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong

Thật vậy, nếu không có sự đồng tình ủng hộ, chung sức, chung lòng của quần chúng nhân dân thì Đảng Cộng sản không thể có được sức mạnh, cách mạng vô sản không thể thành công và nếu không có sự lãnh đạo, tổ chức của Đảng Cộng sản thì quần chúng nhân dân cũng không có được đường hướng chính trị đúng đắn để chỉ đạo, dẫn dắt cuộc đấu tranh cách mạng của mình Lịch sử phong trào cộng sản và công nhân quốc tế cho thấy, một trong những nguyên nhân dẫn đến sự thành công của Đảng Cộng sản và các cuộc cách mạng vô sản là nhờ đã thắt chặt được mối liên hệ giữa Đảng và quần chúng Nói tóm lại, sự gắn bó máu thịt, liên hệ mật thiết với quần chúng nhân dân lao động là quy luật tồn tại, phát triển và hoạt động của Đảng Cộng sản, là cội nguồn sức mạnh vô địch của Đảng, là nhân tố bảo đảm cho sự thành công của toàn bộ sự nghiệp cách mạng Vì vậy, không ngừng củng cố mối quan hệ mật thiết giữa Đảng cầm quyền và quần chúng nhân dân là một nguyên tắc bất di bất dịch của chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng Đảng V.I.Lênin đã nhiều lần nhấn mạnh tính tất yếu khách quan cũng như sự cần thiết phải tăng cường, mở rộng mối liên hệ giữa Đảng và quần chúng, đặc biệt là sự cần thiết phải lôi cuốn đông đảo quần chúng nhân dân vào công cuộc xây dựng xã hội mới, xã hội xã hội chủ nghĩa Ông cho rằng, đối với một Đảng Cộng sản đang lãnh đạo đất nước thực hiện bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, "một trong những nguy hiểm lớn nhất và đáng sợ nhất là tự cắt đứt liên

hệ với quần chúng" và "đó là một tai hoạ thực sự"

Đáng tiếc là, vào những năm cuối thập niên 80, đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, tai hoạ mà V.I.Lênin từng cảnh báo đã xảy ra với Đảng Cộng sản Liên Xô - một Đảng lớn với 20 triệu đảng viên Như nhiều nhà nghiên cứu đã phân tích, lý giải, Đảng Cộng sản Liên Xô lúc đó, trên thực tế, đã dường như chia thành hai Đảng: một Đảng thuộc "đẳng cấp thượng lưu" của tầng lớp quan liêu, tham nhũng, đặc quyền, đặc lợi

"ăn trên, ngồi trốc", bị nhân dân oán ghét; một Đảng của những đảng viên thường đã

Trang 22

trở thành một khối thờ ơ, thụ động, mất niềm tin vào chủ nghĩa xã hội, vào Đảng Cộng sản Vì mất niềm tin, đông đảo đảng viên thường và quần chúng nhân dân Liên Xô đã thờ ơ với Đảng, không đứng lên bảo vệ Đảng khi Đảng lâm nguy, khi Đảng bị giải tán, bị cấm hoạt động Bài học thất bại vì mất dân, mất chỗ dựa vững chắc của Đảng Cộng sản Liên Xô thật quá đắt giá, rất đáng để cho tất cả các Đảng Cộng sản đã mất quyền lãnh đạo, chưa cầm quyền hoặc đang cầm quyền trên thế giới phải suy ngẫm để tự rút ra bài học cho chính mình

Nhìn lại quá trình Đảng ta lãnh đạo nhân dân thực hiện thành công cuộc trường chinh giành lại độc lập tự do cho đất nước, cho dân tộc, chúng ta thấy Đảng đã luôn gắn bó máu thịt với nhân dân, tạo thành một khối thống nhất không gì lay chuyển được và

đó chính là cội nguồn sức mạnh vô địch của Đảng ta Tuy nhiên, trong thời kỳ hoà bình, xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa với mục tiêu cụ thể là "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh", bên cạnh những thành tựu không thể phủ nhận, ở nơi này nơi kia, lúc này lúc khác, Đảng cũng đã phạm những sai lầm, khuyết điểm không nhỏ trong quan hệ với dân Đại hội Đảng lần thứ IX đã nhận đinh: "Tình trạng mất dân chủ, tệ quan liêu, cửa quyền, tham nhũng, sách nhiễu dân, lãng phí còn nặng, đang là lực cản của sự phát triển và gây bất bình trong nhân dân"(2) "Tình trạng tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên là rất nghiêm trọng Nạn tham nhũng kéo dài trong bộ máy của hệ thống chính trị và trong nhiều tổ chức kinh tế là một nguy

cơ lớn đe doạ sự sống còn của chế độ ta Tình trạng lãng phí, quan liêu còn khá phổ

Đảng và mối dây liên hệ giữa Đảng với dân cũng không khỏi bị ảnh hưởng xấu

Vấn đề đặt ra là, làm thế nào và bằng cách nào để duy trì, tăng cường, củng cố mối liên hệ gắn kết giữa đảng cầm quyền với quần chúng nhân dân cho thật bền vững? Thực ra, Đảng và dân là hai chủ thể trong một mối quan hệ, nên muốn quan hệ bền chặt thì cả hai chủ thể đều phải hết sức cố gắng, tự giác xây đắp mối quan hệ đó Nhưng, với tư cách là đội tiên phong, là đảng cầm quyền, trách nhiệm xây dựng mối liên hệ bền vững giữa Đảng với quần chúng nhân dân trước hết thuộc về Đảng

Trong những năm qua, Đảng ta cũng đã và đang tích cực thực hiện nhiệm vụ then

chốt được đề ra từ Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ ba (khoá VII) là xây

Trang 23

dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, thật sự xứng đáng là đội tiên phong, là người lãnh đạo nhân dân thực hiện sự nghiệp xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa Kết quả mà Đảng đạt được là khả quan, nhưng còn chưa đáp ứng được kỳ vọng của nhân dân Vì vậy, để duy trì, củng cố và tăng cường mối liên hệ giữa Đảng với nhân dân, Đảng phải chú trọng làm thật tốt những việc chủ yếu sau đây:

Thứ nhất, Đảng cần chăm lo đầy đủ đến lợi ích, đời sống tinh thần và vật chất của

quần chúng nhân dân; nhận thức sâu sắc hơn ý nghĩa quan trọng của vấn đề này Trong hoàn cảnh hoà bình, việc chăm lo cải thiện đời sống của nhân dân lao động là một trong những hoạt động trọng tâm của Đảng cầm quyền, là vấn đề quyết định sự tín nhiệm và sự gắn bó của quần chúng đối với Đảng Một khi đời sống được cải thiện về chất, lợi ích hợp pháp và chính đáng của nhân dân lao động được tôn trọng, được bảo vệ, người lao động sẽ gắn bó mật thiết với Đảng và Nhà nước, với chế độ,

sẽ cố gắng lao động, sản xuất, công tác tốt hơn Đáng tiếc là, những năm gần đây, do tác động tiêu cực của cơ chế thị trường và xu thế toàn cầu hoá, tình trạng phân hoá giàu - nghèo gia tăng nhanh chóng; trong khi một bộ phận không nhỏ dân cư nước ta chưa được bảo đảm những nhu cầu thiết yếu và tối thiểu (nước sạch, lương thực, nhà ở, ) thì số lượng những cán bộ có chức quyền, có tài sản nhiều tỷ đồng và cuộc sống vương giả lại ngày càng nhiều lên; số lượng các vụ tham nhũng, làm thất thoát tài sản công trị giá hàng chục, hàng trăm tỷ đồng cũng nhiều thêm nhưng lại chưa có biện pháp ngăn chặn, trừng trị có hiệu quả Điều đó làm cho quần chúng nhân dân

cảm thấy thật sự xót xa và đau lòng Vì vậy, một mặt, Đảng phải có những biện pháp

cụ thể, thiết thực và tích cực để cải thiện đời sống cho nhân dân, từ việc tạo việc làm cho người lao động đến việc chăm lo bảo vệ, nâng cao sức khoẻ, bảo đảm giáo dục,

thực hiện an sinh xã hội, an toàn, công bằng xã hội, Mặt khác, phải trừng trị

nghiêm khắc những kẻ tham nhũng, làm giàu bất chính, xâm phạm lợi ích của nhân dân, bất kể chúng là ai, giữ chức vụ gì Nếu Đảng làm được như vậy thì quần chúng

sẽ tin tưởng, gắn bó, ủng hộ Đảng nhiều hơn và do đó, sức mạnh của Đảng sẽ được nhân lên nhiều lần

Thứ hai, thật sự tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, coi đây là một

chủ trương mang tầm chiến lược của Đảng Có thể hình dung xã hội như một cơ thể sống; trong đó, mỗi cá nhân vừa là thành viên, là bộ phận cấu thành, lại vừa là chủ

Trang 24

thể hành động Những chủ thể này hoạt động có hiệu quả nhiều hay ít phụ thuộc vào các nhân tố chủ quan và khách quan, trong đó có hệ thống các cơ chế, chính sách, biện pháp, phát huy quyền làm chủ, tính tích cực, chủ động và sáng tạo của mỗi thành viên Do đó, vấn đề quan trọng đặt ra là, không để quyền làm chủ của nhân dân trở thành lời nói suông, khẩu hiệu suông, mà phải tạo điều kiện thực tế, có cơ chế cụ thể cho nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ ba (khoá VIII) chỉ rõ: "Tiếp tục phát huy tốt hơn và nhiều hơn quyền làm chủ của nhân dân qua các hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp; tiếp tục hoàn thiện Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo đảm trong sạch, vững mạnh và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng

và quản lý Nhà nước"(4) Cụ thể hoá tinh thần đó, Bộ Chính trị (khoá VIII) đã chỉ ra Chỉ thị số 30-CT/TW "Về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở” (18 – 2 – 1998) Qua tám năm thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng và quản lý Nhà nước đã được tôn trọng và phát huy, mang lại nhiều thành tựu quan trọng về nhiều mặt Chính vì vậy, Chỉ thị trên được đánh giá là "khâu đột phá của quá trình phát huy dân chủ ở nước ta trong thời kỳ mới"(5)

Tuy nhiên, phải thẳng thắn thừa nhận rằng, quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng và quản lý đất nước còn chưa được thật sự tôn trọng ở một số cấp, ngành và địa phương Chẳng hạn, chủ trương "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" đã thực

sự trở thành khẩu hiệu hành động chưa? Đã mấy ai biết được thu nhập, tổng giá trị tài sản của các cán bộ trung, cao cấp của Đảng và gia đình họ, những người cư trú trên địa bàn mình? "Việc công khai về tài chính, hợp đồng kinh tế, chương trình dự

án, đấu thầu, mua bán vật tư có giá trị cao vẫn còn hình thức, thiếu công khai, minh bạch Quy định về lấy ý kiến nhân dân trước khi ban hành các chủ trương, chính sách, các dự án đầu tư quan trọng ở cơ sở chưa được thực hiện nghiêm túc Việc tổ chức cho nhân dân tham gia xây dựng Đảng, chính quyền, đoàn thể và góp ý cho cán

bộ, đảng viên ở không ít nơi tiến hành một cách hình thức Đội ngũ cán bộ chủ chốt chưa thực hiện đều đặn việc đối thoại trực tiếp, tự kiểm điểm trước dân và nghe dân góp

nghĩa là chúng ta còn rất nhiều việc phải làm, phải chấn chỉnh để Đảng gần dân hơn, dân

Trang 25

gắn bó với Đảng hơn

Thứ ba, điều quan trọng nhất là vấn đề xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh Là

Đảng duy nhất cầm quyền, Đảng ta luôn ý thức sâu sắc trách nhiệm của mình trước đất nước, dân tộc và nhân dân Để làm tròn trách nhiệm, Đảng phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức mạnh về mọi mặt Ngay từ Đại hội VI (12 - 1986), Đảng đã đề chủ trương phải đổi mới tư duy, đổi mới

tổ chức, đổi mới cán bộ và đổi mới phong cách công tác Đến Đại hội VII (6 - 1991), Đảng tiếp tục đề ra chủ trương tự đổi mới, tự chỉnh đốn Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ ba (khoá VII) họp vào tháng 6 năm 1992 đã cụ thể hoá chủ

trương trên và nhấn mạnh: lúc này, xây dựng kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là

then chốt Từ đó đến nay, Đảng ta đã rất chú trọng thực hiện nhiệm vụ xây dựng

Đảng trong sạch, vững mạnh Thực tế cho thấy, quần chúng nhân dân nhìn nhận về Đảng, đánh giá về Đảng trước hết và phần nhiều là thông qua phẩm chất, đạo đức, tư cách, lối sống của cán bộ, đảng viên, chứ chưa phải là năng lực công tác hay sự tài giỏi của họ Có thể nói, phẩm chất đạo đức, tư cách, lối sống của cán bộ, đảng viên là vấn đề có ảnh hưởng quyết định đến uy tín, đến danh dự của Đảng và tác động trực tiếp đến mối liên hệ giữa Đảng và nhân dân Chính vì vậy mà Đảng ta luôn nhấn mạnh rằng, việc nâng cao phẩm chất, đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên, đấu tranh kiên quyết chống tệ quan liêu, cửa quyền, nạn tham nhũng, hối lộ là một trong những nhiệm vụ cấp bách và chủ yếu của công tác xây dựng Đảng

Trong nhiều năm qua, cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng nói chung, cuộc đấu tranh chống tệ quan liêu, nạn tham nhũng và ngăn chặn tình trạng thất thoát, lãng phí nói riêng đã tạo được một số chuyển biến tích cực Nhiều vụ án lớn liên quan đến sự thoái hoá, biến chất, đến tham nhũng của một số cán bộ Đảng cao cấp đã được đưa ra xét xử công khai Tuy nhiên, nếu như Đại hội IX đánh giá rằng, trong công tác xây dựng Đảng, chúng ta "chưa ngăn chặn và đẩy lùi được sự suy thoái về tư tưởng, chính trị và đạo đức, lối sống", "tình trạng tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên là rất nghiêm

nghị kiểm điểm nửa nhiệmkỳ đầu thực hiện Nghị quyết Đại hội IX - họp vào tháng 01 năm 2004 vẫn phải đánh giá rằng, "tình trạng suy thoái về đạo đức, lối sống, tệ quan

Trang 26

liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa được ngăn chặn

dân bất bình, lo lắng

Tóm lại, sự gắn bó máu thịt, liên hệ mật thiết với quần chúng nhân dân là cội nguồn sức mạnh của Đảng, là quy luật tồn tại, phát triển và hoạt động của Đảng Cộng sản,

là nhân tố đảm bảo sự thành công của toàn bộ sự nghiệp cách mạng Để nuôi dưỡng

và phát huy nguồn sức mạnh đó, Đảng phải giải quyết một loạt nhiệm vụ, trong đó cần làm tốt ba việc lớn kể trên Đó là một trong những điều kiện quan trọng để Đảng luôn có sức mạnh và vượt qua những nguy cơ, thách thức; đồng thời, lãnh đạo nhân dân thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới, đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.r

(*) Tiến sĩ, Trường Đại học Ngoại thương

(1) V.I.Lênin Toàn tập, t.43 Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1978, tr.274

(2) Đảng Cộng sản Việt Nam Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Nxb

Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.156

(4) Đảng Cộng sản Việt Nam Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung

ương khoá VIII Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997, tr.41 - 42

(5) Tòng Thị Phóng Khâu đột phá của quá trình phát huy dân chủ ở nước ta trong

thời kỳ mới Tạp chí Cộng sản, số 21, 11 - 2004, tr.3

(6) Tòng Thị Phóng Sđd., tr.7

Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.76, 138

ương khoá IX Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004, tr.64

TƯ TƯỞNG CỦA C.MÁC, PH.ĂNGGHEN VỀ CÁCH MẠNG VÔ SẢN VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ TRONG THỜI ĐẠI NGÀY NAY

Trang 27

NGUYỄN ĐÌNH HOÀ (*)

Với quan niệm duy vật về lịch sử, trong “Hệ tư tưởng Đức”, C.Mác và Ph.Ăngghen

đã xây dựng cơ sở lý luận vững chắc cho sự phát triển tư tưởng về cách mạng vô sản Theo các ông, cách mạng vô sản là một quy luật tất yếu mà lịch sử phải trải qua trong tiến trình vận động, phát triển của nó Những tiền đề vật chất của cuộc cách mạng đó là sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự hình thành giai cấp vô sản Về tính chất, nó là cuộc cách mạng triệt để, toàn diện và sâu sắc nhất trong lịch sử nhân loại Có thể khẳng định rằng, cho đến nay, những tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen trong “Hệ tư tưởng Đức” về cách mạng vô sản vẫn còn nguyên giá trị lý luận và ý nghĩa thực tiễn.

Hệ tư tưởng Đức là một trong những tác phẩm do C.Mác và Ph.Ăngghen viết chung

vào cuối năm 1845 đầu năm 1846, đánh dấu một mốc quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển của triết học Mác Đây không chỉ là tác phẩm lý luận quan trọng trong thời kỳ hình thành triết học Mác, mà còn là tác phẩm đầu tiên thể hiện sự

trưởng thành đến độ chín muồi của chủ nghĩa Mác Trong Hệ tư tưởng Đức,các ông

đã đề cập đến một loạt vấn đề lý luận quan trọng; đặc biệt, ở đây, lần đầu tiên, quan

niệm duy vật về lịch sử - một trong hai phát kiến vĩ đại của C.Mác, được trình bày

một cách tương đối toàn diện và sâu sắc Với quan niệm duy vật về lịch sử, C.Mác và

Ph.Ăngghen đã tạo cơ sở lý luận khoa học vững chắc cho sự phát triển tư tưởng về

cách mạng vô sản và đặt nền móng cho chủ nghĩa cộng sản khoa học.

Như chúng ta đã biết, cho đến trước khi triết học Mác ra đời, lĩnh vực đời sống xã hội vẫn là nơi “ẩn náu”, là địa hạt chịu sự chi phối, thống trị của chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo Tất cả mọi vấn đề xã hội, con người đều được nhìn nhận và giải thích qua lăng kính duy tâm và đầy mầu sắc thần bí Một số nhà triết học duy vật có tư tưởng tiến bộ, chẳng hạn như L.Phoiơbắc, rốt cuộc cũng không lý giải được một cách chính xác, khoa học về lịch sử Phái Hêgen trẻ đã hiểu lệch lạc rằng, ý thức tôn giáo là nguyên nhân của những áp bức xã hội, coi thủ tiêu tôn giáo và “sự phê phán có tính phê phán” là con đường giải phóng xã hội Phê phán một cách quyết liệt quan niệm duy tâm về xã hội nói chung, về động lực phát triển của xã hội nói riêng trước đó,

Trang 28

trong Hệ tư tưởng Đức, xuất phát từ quan niệm duy vật về lịch sử, C.Mác và

Ph.Ăngghen khẳng định rằng, cần phải xoá bỏ một cách thực tiễn những quan hệ xã hội hiện thực đã sản sinh ra những điều nhảm nhí, duy tâm; rằng, “không phải sự phê phán mà cách mạng mới là động lực của lịch sử, của tôn giáo, của triết học và của mọi lý luận khác”(1)

Theo các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác, cơ sở nền tảng của xã hội là sản xuất vật chất

Sự sản xuất ra đời sống biểu hiện ra là một quan hệ kép, “song trùng”: một mặt, là quan hệ giữa con người với tự nhiên - biểu đạt qua khái niệm lực lượng sản

xuất; mặt khác, là quan hệ giữa con người với con người - biểu đạt qua khái

niệm quan hệ sản xuất (trongHệ tư tưởng Đức, các ông gọi đó là những hình thức

giao tiếp) Giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có mối quan hệ biện chứng

và sự tác động qua lại Khi quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất, nó tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của lực lượng sản xuất và do vậy, thúc đẩy sự phát triển của xã hội; ngược lại, khi quan hệ sản xuất không còn phù hợp với lực lượng sản xuất, tức là giữa chúng đã xuất hiện mâu thuẫn, nó sẽ trói buộc, kìm hãm

sự phát triển của lực lượng sản xuất, cản trở sự phát triển của xã hội Phân tích sự tiến triển theo khuynh hướng đi lên của lịch sử, các ông cho rằng, quá trình đó bao hàm một chuỗi có sự gắn bó chặt chẽ những hình thức giao tiếp mà mối liên hệ giữa chúng là ở chỗ “người ta thay thế hình thức giao tiếp cũ đã trở thành một trở ngại bằng một hình thức mới phù hợp với những lực lượng sản xuất đã phát triển hơn, và

do đó phù hợp với phương thức hoạt động tiên tiến hơn của cá nhân; hình thức này đến lượt nó lại trở thành trở ngại và lại được thay thế bằng một hình thức khác”(2).Như vậy, sự phát triển của lịch sử đồng thời là sự thay thế kế tiếp nhau của các quan

hệ sản xuất, được quy định bởi trình độ phát triển của lực lượng sản xuất xã hội

Trong Hệ tư tưởng Đức, khi phân tích mối quan hệ và tác động biện chứng của lực

lượng sản xuất với “hình thức giao tiếp”, C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng, mâu thuẫn

giữa chúng là nguồn gốc sâu xa của cách mạng xã hội Các ông khẳng định: “Theo

quan điểm của chúng tôi, tất cả mọi xung đột trong lịch sử đều bắt nguồn từ mâu thuẫn giữa những lực lượng sản xuất và hình thức giao tiếp”(3) Khi lực lượng sản

xuất mâu thuẫn với “hình thức giao tiếp”, người ta phải tiến hành “thay thế hình thức

Trang 29

có thể nói, cách mạng xã hội là giá đỡ cho sự ra đời của một quan hệ sản xuất mới,

một phương thức sản xuất mới và một hình thái kinh tế - xã hội mới

Theo lôgíc trên thì sự ra đời, phát triển của hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa không phải là đỉnh cao nhất, càng không phải là điểm tận cùng trong tiến trình vận động, phát triển của lịch sử loài người Trái lại, đến một lúc nào đó, cũng giống như hiện tượng đã từng xảy ra trong các hình thái xã hội trước đây, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa sẽ trở nên chật hẹp so với sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội

và mâu thuẫn giữa chúng bắt đầu xuất hiện Thực tế, khi vận dụng quan điểm duy vật

về lịch sử để phân tích xã hội tư bản, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đã chỉ rõ rằng, “cho đến nay, xã hội luôn phát triển trong khuôn khổ đối lập: thời cổ đại là sự đối lập giữa người tự do và người nô lệ, thời trung cổ là sự đối lập giữa quý tộc và nông nô, thời cận đại là sự đối lập giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản Điều đó, một mặt, nói lên phương thức “phi nhân” không bình thường mà giai cấp bị áp bức dùng để thoả mãn những nhu cầu của mình; mặt khác, nói lên phạm vi nhỏ hẹp mà trong đó sự giao tiếp và cùng với nó toàn bộ giai cấp thống trị phát triển ”; rằng,

“[Sự phát triển của nó] (tức của công nghiệp lớn – N.Đ.H) đã tạo ra một khối lượng lớn những lực lượng sản xuất mà [sở hữu] tư nhân đã cản trở, cũng như trước kia chế

độ phường hội đã cản trở công trường thủ công và kinh doanh tiểu nông đã cản trở thủ công nghiệp đang phát triển Dưới sự thống trị của sở hữu tư nhân, những lực lượng sản xuất ấy chỉ phát triển phiến diện ”(4) Cũng như trước đây, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong xã hội tư bản chủ nghĩa, mà biểu hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản - đại diện cho lực lượng sản

xuất đang lên và giai cấp tư sản - đại biểu cho quan hệ sản xuất thống trị,chỉ có

thể được giải quyết thông qua một cuộc cách mạng xã hội mới -cách mạng vô sản

Như vậy, cách mạng xã hội chủ nghĩa là một quy luật tất yếu, xét cả từ phương diện

lý luận lẫn phương diện thực tiễn, mà lịch sử phải trải qua trong tiến trình vận động,

Trang 30

phát triển của mình

Một điểm khác cần lưu ý là, trong Hệ tư tưởng Đức, khi luận chứng cho quan điểm

về cách mạng vô sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã nhắc nhở những người cộng sản rằng, cần phải làm cho ý thức cộng sản chủ nghĩa nảy sinh trong đông đảo quần chúng lao động, tức là tạo nên một sự biến đổi của chính lực lượng xã hội đó Sự biến đổi ấy chỉ có thể được thực hiện trong thực tiễn phong trào đấu tranh,

trong cách mạng Điều đó một lần nữa chứng minh rằng, sự tất yếu của cách mạng

vô sản không những thể hiện ở chỗ, nó là phương thức duy nhất để giai cấp vô sản và

nhân dân lao động lật đổ “thế lực của phương thức sản xuất và của sự giao tiếp trước

đó và cả của cơ cấu xã hội cũ , phát triển tính phổ biến của giai cấp vô sản và nghị lực mà giai cấp vô sản cần có ”, mà còn vì “cuộc cách mạng này sẽ làm cho giai cấp

vô sản trút bỏ được mọi cái rơi rớt lại từ địa vị xã hội cũ của mình”(5) và chỉ có

trong cuộc cách mạng đó, giai cấp vô sản “mới có thể quét sạch mọi sự thối nát của

chế độ cũ đang bám chặt lấy mình và trở thành có năng lực xây dựng cơ sở mới cho

xã hội”(6)

Không dừng lại ở việc luận chứng cho tính tất yếu của cách mạng vô sản trên

phương diện lý luận, trong Hệ tư tưởng Đức, C.Mác và Ph.Ăngghen còn chỉ

rõ những tiền đề vật chất, nghĩa là chỉ rõ những cơ sở thực tiễn, những điều kiện hiện thực, khách quan của cuộc cách mạng ấy Các tiền đề đó là: 1/ Sự phát triển của lực

lượng sản xuất và 2/ Sự hình thành giai cấp vô sản cách mạng Các ông khẳng định

rằng, “nếu không có những yếu tố vật chất ấy của một cuộc cách mạng toàn diện - những yếu tố bao gồm một mặt là những lực lượng sản xuất hiện có và mặt khác là

sự hình thành một khối đông đảo quần chúng cách mạng đang nổi dậy không những chống lại những điều kiện riêng biệt của xã hội cũ mà còn chống lại bản thân “sự sản xuất ra đời sống” trước đây, chống lại “toàn bộ hoạt động” làm cơ sở cho xã hội cũ

đó, thì lịch sử của chủ nghĩa cộng sản đã chứng tỏ, ý niệm về cuộc cách mạng này dù

có được phát biểu hàng trăm lần đi nữa, cũng hoàn toàn chẳng có ý nghĩa gì đối với

sự phát triển thực tế cả”(7)

Như chúng ta đều biết, trong xã hội tư bản chủ nghĩa, lực lượng sản xuất đã phát triển đến trình độ xã hội hoá rất cao, song chế độ sở hữu tư nhân trong quan hệ sản

Trang 31

xuất tư bản chủ nghĩa cũng đã trở thành xiềng xích cản trở sự phát triển hơn nữa của lực lượng sản xuất xã hội Sự “giải phẫu” một cách khoa học hiện thực xã hội tư bản chủ nghĩa đã dẫn C.Mác và Ph.Ăngghen đến kết luận khái quát rằng, dưới sự thống trị của sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, những lực lượng sản xuất chỉ phát triển một cách phiến diện; rằng, sự phát triển thành một tổng thể xác định của lực lượng sản xuất chỉ tồn tại trong khuôn khổ của sự giao tiếp phổ biến Như vậy, sự phát triển của lực lượng sản xuất trong xã hội tư bản chủ nghĩa đặt ra nhu cầu khách quan là phải xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ, hay theo cách diễn đạt của C.Mác và Ph.Ăngghen, thay thế hình thức giao tiếp cũ bằng một “sự giao tiếp phổ biến” có tính chất hiện đại;

triển ngày càng trở nên gay gắt của mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ

sản xuất tư bản chủ nghĩa, tiền đề thứ nhất của cách mạng vô sản đã được xác lập.

Gắn liền với sự phát triển của lực lượng sản xuất là sự xuất hiện của một giai cấp mới trong xã hội Giai cấp đó, theo nhận định của C.Mác và Ph.Ăngghen, buộc phải chịu đựng mọi gánh nặng của xã hội nhưng lại không được hưởng một chút gì, dù là nhỏ nhất, từ những phúc lợi xã hội Nó bị chủ nghĩa tư bản gạt ra ngoài xã hội, do đó, đối lập một cách kiên quyết với các giai cấp khác; đồng thời, là giai cấp hợp thành từ

đa số thành viên của xã hội và là giai cấp sản sinh ra ý thức tất yếu của một cuộc

cách mạng triệt để, ý thức cộng sản chủ nghĩa Giai cấp đó chính là giai cấp vô sản -

con đẻ của nền sản xuất đại công nghiệp Các ông viết: “Trong khi giai cấp tư sản của mỗi dân tộc còn duy trì những lợi ích dân tộc riêng biệt thì công nghiệp lớn lại tạo ra một giai cấp cùng có những lợi ích như nhau trong tất cả các dân tộc; một giai cấp không còn tính riêng biệt dân tộc nữa, một giai cấp thật sự đoạn tuyệt với toàn bộ thế giới cũ và đồng thời đối lập với thế giới cũ Công nghiệp lớn làm cho người công nhân không những không chịu đựng nổi mối quan hệ của họ với nhà tư bản, mà còn không chịu đựng nổi cả bản thân lao động nữa”(9) Như vậy, sự phát triển của lực

lượng sản xuất, của đại công nghiệp trong chủ nghĩa tư bản, một mặt, thúc đẩy nền sản xuất xã hội và mặt khác, tạo nên giai cấp vô sản - giai cấp cách mạng nhất của xã hội Công nghiệp lớn có thể không phát triển đồng đều ngay trong một nước, song

Trang 32

theo quan điểm của các ông, điều ấy “không ngăn cản phong trào có tính chất giai cấp của giai cấp vô sản”, vì trong cuộc đấu tranh cách mạng, những người vô sản do công nghiệp lớn sản sinh ra sẽ “đứng đầu phong trào đó và lôi cuốn tất cả khối đông đảo

quần chúng theo mình” Với ý nghĩa như vậy, tiền đề vật chất thứ hai của cách mạng

vô sản cũng trở thành một hiện thực không thể phủ nhận

Tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen về những tiền đề vật chất, về mối quan hệ giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan của cách mạng vô sản đã được V.I.Lênin sau này kế thừa, phát triển một cách sâu sắc và sáng tạo trong học thuyết về nhà

nước và cách mạng, mà cụ thể là về tình thế cách mạng và thời cơ cách mạng.

Trong Hệ tư tưởng Đức, C.Mác và Ph.Ăngghen còn chỉ ra sự khác nhau căn bản giữa

cách mạng vô sản và các cuộc cách mạng trước đó Lịch sử cho thấy, tất cả các cuộc cách mạng trước kia không làm thay đổi chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, mà chỉ là sự thay thế hình thức của chế độ chiếm hữu tư nhân, thay thế hình thức người bóc lột người Trái lại, cách mạng vô sản là cuộc cách mạng do giai cấp công nhân lãnh đạo, mục tiêu của nó là nhằm lật đổ toàn bộ xã hội cũ, xây dựng xã hội mới; giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động khỏi mọi sự áp bức, bóc lột, xoá bỏ tình trạng tha hoá của lao động, biến lao động - vốn là một phương thức tồn tại của con người - thành lao động tự giác Do vậy, điểm khác biệt căn bản giữa chúng, theo C.Mác và Ph.Ăngghen, là ở chỗ, nếu trong hết thảy các cuộc cách mạng trước đây, tính chất hoạt động bao giờ cũng vẫn nguyên như cũ, - và bao giờ vấn đề cũng vẫn chỉ là phân phối hoạt động ấy một cách khác, chỉ là một sự phân phối lao động cho người khác thì trái lại, cách mạng cộng sản chủ nghĩa “nhằm

chống lại tính chất hoạt động trước đây, nó xoá bỏ lao động và thủ tiêu sự thống trị

của mọi giai cấp cùng với bản thân các giai cấp” và “ở chỗ nó đảo lộn cơ sở của mọi quan hệ sản xuất và giao tiếp trước kia ”(10)

Với những đặc trưng căn bản đó và trong quan hệ so sánh với các cuộc cách mạng

khác mà loài người đã biết đến trước đây, cách mạng vô sản trở thành cuộc cách

mạng triệt để, toàn diện và sâu sắc nhất trong lịch sử nhân loại Trong cuộc cách

mạng ấy, giai cấp vô sản “trước hết phải chiếm lấy chính quyền để đến lượt mình, có

thể biểu hiện lợi ích của bản thân mình như là lợi ích phổ biến”; đồng thời, chứng tỏ

Trang 33

bằng thực tiễn cái “khả năng đạt tới sự tự mình hoạt động đầy đủ, không hạn chế, đó

là sự chiếm hữu tổng thể những lực lượng sản xuất và do đó, phát triển tổng thể các năng lực”(11)

Thực tiễn phong trào đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân trong những thập

kỷ đầu thế kỷ XX, mà đỉnh cao là Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, đã chứng minh tính đúng đắn, khoa học trong tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen về tính tất yếu của cách mạng vô sản Như chúng ta đã biết, nước Nga - vào đêm trước của cuộc cách mạng vô sản, đứng trước một thời điểm lịch sử: là khâu yếu nhất trong hệ thống

đế quốc chủ nghĩa, là nơi tập trung những mâu thuẫn xã hội và dân tộc gay gắt nhất; đồng thời, là nơi hội tụ đầy đủ nhất những điều kiện khách quan và chủ quan cho một cuộc cách mạng vô sản Với những điều kiện hiện thực đó, cách mạng vô sản không

còn thuần tuý là một học thuyết lý luận, mà đã trở thành một nhu cầu bức thiết của

thực tiễn Được soi sáng bằng học thuyết khoa học do C.Mác, Ph.Ăngghen xây dựng

nên và được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Nga, đứng đầu là V.I.Lênin, Cách mạng Tháng Mười Nga đã thực sự làm “rung chuyển thế giới”, “mở ra một thời đại mới trong lịch sử thế giới”(12), và mang lại “con đường giải phóng cho các dân tộc và cả loài người…”(13)

Mặc dù chỉ tồn tại 70 năm, song với hàng loạt giá trị nhân văn sâu sắc, những cống hiến vô giá, mang tầm vóc và ý nghĩa lịch sử toàn nhân loại, chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô - con đẻ của Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga, đã và mãi mãi trở thành niềm tự hào của nhân dân Xôviết cũng như của cả loài người tiến bộ

Phải thừa nhận rằng, sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và các nước Đông Âu là một tổn thất to lớn đối với phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản thế giới, là một sự đáng tiếc đối với nhân loại yêu chuộng hoà bình và tiến bộ xã hội Nhưng, nếu viện vào cái “khúc quanh” này của lịch sử để cho rằng lịch sử nhân loại đang tiến theo một hướng khác, nếu viện vào sự đổ vỡ này để phủ nhận tính tất yếu của cách mạng vô sản với tính cách một học thuyết khoa học, một phương thức duy nhất để thực hiện bước chuyển lịch sử từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội thì lại

là một sai lầm nghiêm trọng, cả về phương diện nhận thức lẫn thực tiễn.

Trang 34

là chủ nghĩa tư bản đang trong quá trình “tự lột xác”; cũng không phải là chủ nghĩa

tư bản phát triển càng cao thì chủ nghĩa xã hội càng lớn dần lên trong lòng chủ nghĩa

tư bản và do đó, cách mạng xã hội đang dần trở thành “cái bướu thừa” của lịch sử Những cuộc chiến tranh đẫm máu ở Irắc, Apganixtan…, những bất ổn chính trị ở các nước cộng hoà thuộc Liên Xô trước đây, những cuộc nội chiến tranh giành quyền lực tại một số nước hoặc vùng lãnh thổ hiện nay bắt nguồn từ đâu nếu không phải là từ

sự chủ động can thiệp dưới nhiều hình thức của chủ nghĩa đế quốc? Vì sao Mỹ, một trong những nước tư bản phát triển nhất, vẫn đẩy mạnh cuộc chạy đua vũ trang, thực hiện chiến lược “diễn biến hoà bình” mà đối tượng trước hết là nhằm vào các nước phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa?

Thêm nữa, cần nhớ là, trước đây, khi đấu tranh chống hai khuynh hướng thoát ly chủ nghĩa Mác trong phong trào công nhân châu Âu (chủ nghĩa xét lại và chủ nghĩa vô

chính phủ), V.I.Lênin, một mặt, nhấn mạnh rằng, chủ nghĩa tư bản tự nó tạo ra người đào huyệt chôn nó, tự nó tạo ra những nhân tố của một chế độ mới; mặt khác, ông

cảnh tỉnh những người cộng sản: “nếu không có một “bước nhảy vọt”, thì những nhân tố riêng lẻ đó không làm thay đổi được một tí gì trong tình hình chung của sự vật, không đụng chạm gì đến nền thống trị của tư bản”(14) “Bước nhảy vọt” đó không thể là cái gì

khác hơn sự bùng nổ và thắng lợi của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Ngược dòng lịch sử, chúng ta thấy giai cấp phong kiến không tự nguyện dâng ngai vàng của nó bằng hai tay cho giai cấp tư sản, mặc dù vào giai đoạn cuối của chế độ phong kiến, giai cấp phong kiến đã suy tàn Khi đó, giai cấp tư sản với tất cả sức mạnh vật chất và tinh thần của nó đã phủ định giai cấp phong kiến và chủ nghĩa tư

Trang 35

bản là kết quả trực tiếp của cách mạng tư sản Bởi vậy, sẽ là ảo tưởng, hão huyền nếu nghĩ rằng giai cấp tư sản sẽ tự từ bỏ quyền lợi giai cấp của mình Tính tất yếu của cách mạng vô sản trong bước chuyển từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là

lôgíc phát triển tự thân của lịch sử được các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác rút ra

từ chính sự vận động của lịch sử, chứ không phải là một “nguyện vọng chủ quan”

Và do đó, dù người ta thừa nhận hay cố tình tìm cách phủ nhận, lịch sử vẫn tiếp tục vận động theo những quy luật không thể đảo ngược Mặc dù có nhiều biến động và thay đổi nhanh chóng, song thời đại hiện nay vẫn là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới Quá độ lên chủ nghĩa xã hội là

cả một quá trình cải biến cách mạng lâu dài và không ít khó khăn, trong đó không loại trừ những bước thụt lùi, dích dắc của lịch sử Chủ nghĩa xã hội, như khẳng định

của C.Mác và Ph.Ăngghen, không phải là một khuôn mẫu đúc sẵn, mà là một phong

trào hiện thực Điều đó đòi hỏi giai cấp vô sản phải luôn tỉnh táo và ý thức rõ ràng về

sứ mệnh lịch sử của mình Và, trong cuộc đấu tranh để cải biến xã hội, giai cấp vô sản không được giáo điều, mà phải sáng tạo; đổi mới sách lược, hình thức và phương pháp đấu tranh nhưng không xa rời những yêu cầu có tính nguyên tắc

Bản chất của nghĩa tư bản, của giai cấp tư sản là luôn tìm đủ mọi phương kế, kể cả những cách phi nhân tính nhất; thậm chí sẵn sàng “chui vào giá treo cổ” để có được lợi nhuận tối đa Với bản chất cố hữu ấy, nó không bao giờ tự nguyện rời bỏ vũ đài chính trị, hy sinh quyền lợi giai cấp của mình Đó là điều mà các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác căn dặn giai cấp vô sản cần ghi nhớ để thực hiện trọng trách do lịch

sử trao cho Lịch sử luôn vận động, phát triển theo các quy luật khách quan, theo lôgíc tự thân của mình Với mọi toan tính nào đó, những thế lực đi ngược lại với lợi ích của quảng đại quần chúng nhân dân có thể làm chậm bước tiến, nhưng không bao giờ có thể đảo ngược được quy luật vận động và phát triển của lịch sử Nói cách khác, cuộc cách mạng vô sản do giai cấp công nhân và nhân dân lao động tiến hành luôn là một tất yếu để thực hiện bước chuyển lịch sử từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới Theo đó, những tư tưởng vượt thời đại của

C.Mác và Ph.Ăngghen về cách mạng vô sản trong Hệ tư tưởng Đức vẫn còn nguyên

giá trị lý luận và ý nghĩa thực tiễn đối với cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản và quần

Trang 36

chúng nhân dân lao động hiện nay vì một xã hội tốt đẹp, nhân đạo hơn./

(*) Tiến sĩ, Trưởng phòng Biên tập – Trị sự, Tạp chí Triết học, Viện Triết học, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam

(13) Hồ Chí Minh Toàn tập, t 12 Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tr 301

(14) V.I.Lênin Toàn tập., t.20, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr 78.

QUAN ĐIỂM CỦA C.MÁC, PH.ĂNGGHEN VỀ NGUỒN GỐC VÀ BẢN CHẤT CỦA Ý THỨC TRONG HỆ TƯ TƯỞNG ĐỨC

NGUYỄN NGỌC TOÀN (*)

Trong Hệ tư tưởng Đức, C.Mác và Ph.Ăngghen đã phê phán quan niệm sai lầm của phái Hêgen trẻ và đưa ra quan niệm của mình về nguồn gốc và bản chất của ý thức

Trang 37

Theo các ông, ý thức là của con người, được con người sản sinh ra trong quá trình lao động Nói cách khác, ý thức có nguồn gốc từ trong xã hội và là sản phẩm của xã hội, không phụ thuộc vào ý chí hay tư tưởng của bất kỳ cá nhân nào Bản chất của ý thức chính là “sự tồn tại được ý thức” Với những tư tưởng đúng đắn đó, C.Mác và Ph.Ăngghen không những khắc phục được quan điểm duy tâm, siêu hình trước đó về vấn đề nguồn gốc và bản chất của ý thức, mà còn đặt cơ sở ban đầu cho sự ra đời của một thế giới quan mới, khoa học và tiến bộ.

1 Cuối 1845 - đầu 1846, C.Mác và Ph.Ăngghen đã cho ra đời tác phẩm viết chung

thứ hai của mình - Hệ tư tưởng Đức Tuy nhiên, do chế độ kiểm duyệt thời bấy giờ,

khi tác phẩm ra đời, các ông đành phải chấp nhận để nó “cho sự phê phán gặm nhấm của chuột” Mặc dù, trong thời gian các ông còn sống, tác phẩm này đã không được công bố, nhưng việc soạn thảo nó đã góp phần không nhỏ trong việc giúpcác ông trao đổi và thống nhất với nhau những nhận thức đã có, đồng thời vận dụng những quan

điểm này vào nghiên cứu nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội Do vậy, Hệ tư

tưởng Đức đã thực sự trở thành một tác phẩm, mà như sau này các nhà nghiên cứu chủ

nghĩa Mác đánh giá, hàm chứa những tư tưởng quan trọng đánh dấu sự ra đời của một thế giới quan mới

Hệ tư tưởng Đức bao gồm rất nhiều nội dung quan trọng, trong đó nổi bật nhất là

quan niệm duy vật về lịch sử Để trình bày tư tưởng lớn này, C.Mác và Ph.Ăngghen

mở đầu bằng việc phê phán phái Hêgen trẻ và những ảo tưởng của họ mà trước đó,

các ông đã phê phán trong Gia đình thần thánh Các ông khẳng định rằng, “cuốn

sách này nhằm mục đích vạch mặt cuộc đấu tranh triết học chống cái bóng của hiện thực và làm cho cuộc đấu tranh đó mất tín nhiệm”(1) Bằng việc phê phán quan niệm của phái Hêgen trẻ về nguồn gốc của ý thức, các ông đã trình bày tư tưởng của

mình về nguồn gốc, bản chất của ý thức và thông qua đó, phát biểu tư tưởng duy vật

về xã hội xuất phát từ những “tiền đề hợp lý” mà như các ông khẳng định “không phải

là những tiền đề tùy tiện, không phải là giáo điều”, mà là “những tiền đề hiện thực”

Đó là “những cá nhân hiện thực, là hoạt động của họ và những điều kiện sinh hoạt vật chất của họ” mà người ta “có thể kiểm nghiệm được bằng con đường kinh nghiệm

thuần túy”(2)

Trang 38

2 Nhìn lại lịch sử tư tưởng nước Đức, từ khi Hêgen qua đời, các môn đồ của ông chia thành hai phái: phái Hêgen già và phái Hêgen trẻ Trong khi phái Hêgen già chủ trương bám sát các học thuyết của Hêgen, thì phái Hêgen trẻ bao gồm những người đại diện cho bộ phận cấp tiến, theo tư tưởng tự do của giai cấp tư sản Đức lại chủ trương sử dụng phép biện chứng duy tâm của Hêgen nhằm phê phán thần học và chế

độ phong kiến thời bấy giờ Tuy nhiên, phái Hêgen trẻ không những không tiến xa hơn Hêgen, mà thậm chí, còn phản động hơn Hêgen khi chuyển dần từ lập trường duy tâm khách quan của Hêgen sang lập trường duy tâm chủ quan Trong hệ thống lý luận của mình, Hêgen cho rằng, chính những ý niệm, tư tưởng, khái niệm nằm bên ngoài con người, bên ngoài thế giới của con người đã sản sinh ra, quyết định và thống trị đời sống hiện thực của con người, thế giới vật chất và cả những quan hệ hiện thực của họ Song, “những môn đồ phản nghịch” của ông không chỉ tiếp thu điều này, mà còn đẩy nó lên một mức độ cực đoan hơn Họ cho rằng, những quan niệm, ý niệm, khái niệm, v.v nói chung là những sản phẩm của ý thức, có sự tồn tại độc lập và chúng đều là những xiềng xích thực sự đối với con người Với quan niệm như vậy, họ không kêu gọi cần đến một “Ý niệm tuyệt đối” hay một Thượng đế nào

đó tồn tại bên ngoài con người, mà dựa vào ý thức của con người, họ tuyên bố rằng,

ý thức của con người là thần thánh duy nhất có thể làm biến đổi cả thế giới vật chất lẫn xã hội của con người Đối với họ, khi đề cao vai trò của sự tự ý thức và tự nhận thức thế giới của con người thì thế giới chỉ có thể được cải tạo nhờ vào ý thức của con người mà thôi Và, khi xem xét các vấn đề xã hội, họ cho rằng, đấu tranh lý luận cao hơn về chất so với đấu tranh thực tiễn của quần chúng lao động; rằng, con người chỉ có thể biến đổi xã hội bằng một cuộc cách mạng trong tư tưởng chứ không có con đường nào khác Họ coi tư tưởng, ý thức là động lực chính của sự phát triển lịch sử

và đó chính là hoạt động tinh thần của những nhà phê phán xuất sắc Phủ nhận vai trò tích cực của quần chúng lao động trong sự phát triển lịch sử, họ khẳng định động lực cho sự phát triển của xã hội loài người nằm trong những người có năng lực và có đầu

óc phê phán Thực chất quan điểm của họ là dùng tư tưởng, dùng ý thức của con người để cải tạo xã hội Tuy nhiên, hệ thống quan điểm này không những làm họ ngày càng xa dần Hêgen để đi vào chủ nghĩa duy tâm chủ quan, mà còn trực tiếp dẫn dắt họ đến với chủ nghĩa thầy tu, do đã cố tình đem “tự ý thức” hay “tinh thần” của

Trang 39

từ những con người chỉ tồn tại trong lời nói, trong ý nghĩ, trong tưởng tượng, trong biểu tượng của người khác, để từ đó mà đi tới những con người bằng xương bằng thịt”(3) Các ông khẳng định: “Chính con người là kẻ sản xuất ra những quan niệm, ý niệm, v.v của mình, song đây là những con người hiện thực, đang hành động, đúng như họ bị quy định bởi một sự phát triển nhất định của những lực lượng sản xuất của

họ và bởi sự giao tiếp phù hợp với sự phát triển ấy, kể cả những hình thức rộng rãi nhất của những sự giao tiếp ấy”(4) Ngay cả những ảo tưởng, những tưởng tượng do con người tạo ra trong đời sống của mình, theo các ông, cũng chỉ là những sản phẩm tất yếu của quá trình đời sống vật chất của xã hội chứ không phải do “sự mặc khải” của Chúa hay sự áp đặt của bất kỳ một thế lực siêu nhiên nào khác

Khi tiến hành những hoạt động tác động vào tự nhiên, con người đã tạo nên những biến đổi to lớn không chỉ đối với tự nhiên, mà cả những quan hệ xã hội của mình, góp phần hình thành và thúc đẩy sự phát triển của xã hội Chính ở đây, con người đã làm biến đổi cả tư duy lẫn những sản phẩm của tư duy của mình Thực hiện quá trình cải tạo tự nhiên và xã hội, con người đi sâu vào tìm hiểu những quy luật hoạt động và phát triển của thế giới và thông qua đó, tư duy của con người cũng được bổ sung nhiều yếu tố mới, có khả năng tự hoàn thiện, trở nên thích ứng với điều kiện, hoàn cảnh mới Và, đôi khi, hoạt động lao động của con người cũng góp phần hình thành nên những điều kiện, những cơ sở vật chất cần thiết giúp tư duy, ý thức của họ không những phát triển phù hợp với điều kiện cụ thể, mà còn đưa ra được những dự báo

Trang 40

chính xác cho sự phát triển trong tương lai của xã hội Chính vì vậy mà ý thức không thể là một lực lượng tồn tại bên ngoài con người; nó nằm bên trong con người và bị những hoạt động sống của con người chi phối, “không phải ý thức quyết định đời sống mà chính đời sống quyết định ý thức”(5) Sai lầm cơ bản của phái Hêgen trẻ là

đã không thấy được nguồn gốc thực sự của ý thức, không thấy ý thức là của con người, được hình thành một cách khách quan trong quá trình lao động cải tạo tự nhiên và xã hội của con người C.Mác và Ph.Ăngghen đã khắc phục điều này và khẳng định rằng, ý thức của con người không phải xuất phát từ những con người trừu tượng, cố định và bất biến “Đời sống quyết định ý thức” có nghĩa là ý thức là sản phẩm của những con người hiện thực, được hình thành nên trong quá trình con người tiến hành lao động sản xuất nhằm tạo ra của cải vật chất phục vụ xã hội, phục vụ công cuộc chinh phục tự nhiên của con người trong những điều kiện và hoàn cảnh nhất định Mọi hình thái ý thức xã hội, như hệ tư tưởng, tôn giáo, triết học, đạo đức, v.v đều được hình thành và phát triển trong đời sống lao động sản xuất của con người, ngay cả cơ cấu xã hội và nhà nước cũng nảy sinh từ trong quá trình sinh sống của những cá nhân nhất định chứ không phải nảy sinh trong quan niệm hay tư tưởng của cá nhân này hay khác Nói cách khác, ý thức là ý thức của những con người hiện thực, chúng nảy sinh từ hiện thực xã hội mà không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan,

vào ý chí hay tư tưởng của bất kỳ cá nhân nào Bản chất của ý thức, như C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ, không phải là cái gì khác hơn là “sự tồn tại được ý thức” Ý

thức có nguồn gốc từ trong xã hội và ngay từ đầu, ý thức đã là một sản phẩm của xã hội; nó cũng vẫn là như vậy chừng nào mà con người còn tồn tại(6) (Chúng tôi nhấn

mạnh - N.N.T)

Sự hình thành và phát triển của ý thức trong quá trình hoạt động lao động sản xuất của con người, theo C.Mác và Ph.Ăngghen, trải qua ba giai đoạn chính, xuất phát từ

ý thức về tự nhiên để đi đến ý thức về xã hội

Ban đầu, ý thức được hình thành với tư cách là những nhận thức đơn giản về những

hoàn cảnh, những điều kiện sống và sinh hoạt xung quanh mỗi cá nhân mà họ có thể cảm nhận được Đó cũng chính là những cảm nhận về mối quan hệ của họ đối với những người xung quanh, với những điều kiện vật chất, các sự vật bên ngoài bản thân

để con người có thể dựa vào và hoạt động tạo ra của cải vật chất nuôi sống bản thân

Ngày đăng: 24/03/2014, 00:20

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w