1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Một số giải pháp nhằm phát triển củng cố quan hệ kinh tế thương mại giữa 2 nước việt nam singapore

108 2 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Một Số Giải Pháp Nhằm Phát Triển Củng Cố Quan Hệ Kinh Tế Thương Mại Giữa 2 Nước Việt Nam - Singapore
Người hướng dẫn Thạc Sĩ Nguyễn Thu Thủy
Trường học Hà Nội
Thể loại khóa luận
Năm xuất bản 2002
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 108
Dung lượng 1,12 MB

Cấu trúc

  • Chương 1.....................................................................................................................................................................................3 (0)
    • I. Vài nét về điều kiện tự nhiên, chính trị, xã hội của Singapore (3)
      • 1. Điều kiện địa lý, tự nhiên (3)
        • 1.1. Vị trí địa lý (3)
        • 1.2. Khí hậu (4)
      • 2. Môi trường văn hoá xã hội (4)
        • 2.1. Đặc điểm dân cư (4)
        • 2.2. Đặc điểm ngôn ngữ và tôn giáo (5)
      • 3. Hệ thống chính trị, pháp luật (6)
    • II. Nền kinh tế Singapore trong những năm qua (8)
      • 1. Thành tựu trong phát triển kinh tế của Singapore (8)
        • 1.1. Singapore - trung tâm lọc dầu (8)
        • 1.2. Singapore - trung tâm chế tạo và lắp ráp các đồ điện tử (9)
        • 1.3. Singapore - trung tâm dịch vụ thương mại thế giới (10)
        • 1.4. Singapore - trung tâm dịch vụ hàng hải, cảng biển quốc tế (12)
        • 1.5. Singapore - trung tâm dịch vụ hàng không quốc tế (13)
        • 1.6. Singapore - trung tâm dịch vụ viễn thông (14)
        • 1.7. Singapore - trung tâm tài chính ngân hàng (15)
      • 2. Những thành công, hạn chế và nguyên nhân (17)
    • III. Kinh nghiệm phát triển kinh tế của Singapore đối với Việt Nam (22)
      • 1. So sánh (23)
      • 2. Bài học kinh nghiệm (24)
        • 2.1. Sớm "mở cửa" nền kinh tế, chủ động thực hiện hội nhập (24)
        • 2.2. Chính sách cơ cấu kinh tế hợp lý (25)
        • 2.3. Chính sách thị trường và thương mại (26)
        • 2.4. Chính sách khoa học công nghệ (27)
        • 2.5. Chính sách đào tạo nhân lực (28)
        • 2.6. Chính sách cạnh tranh (30)
  • Chương 2...................................................................................................................................................................................31 (0)
    • I. Vị trí của nền kinh tế Singapore (31)
      • 1. Vị trí của kinh tế Singapore trong kinh tế thế giới và ASEAN (31)
      • 2. Vị trí của kinh tế Singapore trong quan hệ với Việt Nam (36)
    • II. Hiện trạng quan hệ thương mại giữa Việt Nam - Singapore giai đoạn 1995 - 2001 (38)
      • 1. Tình hình xuất khẩu từ Việt Nam vào Singapore (40)
        • 1.1. Kim ngạch (40)
        • 1.2. Cơ cấu xuất khẩu (41)
      • 2. Tình hình nhập khẩu (47)
        • 2.1. Kim ngạch nhập khẩu (47)
        • 2.2. Cơ cấu nhập khẩu (49)
      • 3. Đánh giá chung về quan hệ thương mại giữa Việt Nam - Singapore (55)
    • II. Hợp tác đầu tư và trên các lĩnh vực khác giữa Singapore và Việt Nam (61)
      • 1. Hiện trạng đầu tư của Singapore vào Việt Nam (61)
        • 1.1. Hình thức và lĩnh vực đầu tư (64)
        • 1.2. Đánh giá chung về hiện trạng đầu tư của Singapore vào Việt Nam (68)
      • 2. Hợp tác trên các lĩnh vực khác (73)
  • Chương 3...................................................................................................................................................................................72 (0)
    • I. Những khó khăn và thuận lợi trong quan hệ hai nước việt nam - singapore (75)
      • 1. Thuận lợi (75)
      • 2. Khó khăn (79)
    • II. Các biện pháp nhằm thúc đẩy quan hệ kinh tế thương mại giữa việt nam - singapore (82)
      • 1. Các biện pháp nhằm thúc đẩy quan hệ thương mại (82)
        • 1.1. Hỗ trợ sản xuất và đẩy mạnh tiêu thụ nông sản (84)
          • 1.1.1. Thưởng theo kim ngạch xuất khẩu (84)
          • 1.1.2. Ký hợp đồng tiêu thụ sản phẩm với nông dân (84)
          • 1.1.3. Tiếp tục hạ chi phí đầu vào cho sản xuất nông nghiệp (85)
          • 1.1.4 Công tác bảo đảm an toàn thực phẩm (86)
        • 1.2. Hạ giá thành, nâng cao sức cạnh tranh cho hàng xuất khẩu (87)
          • 1.2.1. Rà soát để hạ chi phí đầu vào xuống mức hợp lý (87)
          • 1.2.2. Hoàn thiện các giải pháp tài chính nhằm thúc đẩy xuất khẩu (88)
        • 1.3. Một số biện pháp thị trường và xúc tiến thương mại (92)
          • 1.3.1. Đẩy mạnh sự ra đời của các sàn giao dịch hàng hoá (92)
          • 1.3.2. Đẩy mạnh các chương trình xúc tiến thương mại (92)
      • 2. Chính sách thu hút đầu tư (94)
        • 2.1. Sự ổn định về kinh tế, chính trị xã hội (95)
        • 2.2. Sự mềm dẻo, hấp dẫn của hệ thống chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài (95)
        • 2.3. Sự phát triển của cơ sở hạ tầng (97)
        • 2.4. Sự phát triển của đội ngũ lao động, của trình độ khoa học, công nghệ và hệ thống doanh nghiệp trong nước (98)
        • 2.5. Sự phát triển của nền hành chính quốc gia và hiệu quả của các dự án FDI đã triển khai (99)
  • tài liệu tham khảo (106)

Nội dung

Vài nét về điều kiện tự nhiên, chính trị, xã hội của Singapore

1 Điều kiện địa lý, tự nhiên 1.1 Vị trí địa lý

Singapore là một quốc đảo nhiệt đới bao gồm một đảo chính và 60 đảo nhỏ, với đảo chính có chiều dài khoảng 42 km và chiều rộng 23 km.

Quần đảo Singapore có tổng diện tích 647,5 km², trong đó đảo chính dài 23 km chiếm khoảng 556 km² Các hòn đảo còn lại đều nhỏ, với đảo lớn nhất là Pulauteking có diện tích 24,4 km², tiếp theo là Pulanubin 10,2 km² và đảo Sentosa 3,5 km².

Singapore nằm giữa tọa độ 1°09' đến 1°9' độ vĩ bắc và 103°36' đến 104°25' độ kinh đông, cách xích đạo khoảng 137 km về phía Bắc Eo biển Johor phân tách Singapore với bán đảo Malaysia, trong khi eo biển Singapore tạo thành biên giới với quần đảo Indonesia.

Singapore có vị trí địa lý lý tưởng, nằm trên trục đường vận tải biển quan trọng giữa châu Á và châu Âu, cũng như giữa Đông và Tây Là đầu cầu và cửa ngõ vào châu Á, Singapore kết nối các châu lục như Á, Âu, Phi, Úc và Bắc, Nam Mỹ Sự kết hợp giữa vị trí tự nhiên thuận lợi và nguồn nhân lực chất lượng đã giúp Singapore trở thành điểm đến hấp dẫn nhất trong khu vực.

Tính đến năm 1998, Singapore đã thu hút hơn 10.500 công ty nước ngoài đầu tư và liên doanh, với tổng vốn đầu tư đạt trên 8 tỷ USD Hơn 5.000 công ty thương mại và tài chính đa quốc gia đã thiết lập trụ sở, chi nhánh và văn phòng đại diện tại đây, cùng với hơn 150 cơ quan đầu não của các tổ chức quốc tế Singapore cũng nổi bật là một trong những trung tâm lọc dầu lớn nhất thế giới, với sự hiện diện của các tập đoàn dầu khí lớn như BP, ESSO, Shell, Caltex và Mobil, có công suất lọc dầu vượt quá 1 triệu thùng mỗi ngày Sự hiện diện của những tập đoàn kinh tế khổng lồ này đã mang lại lợi ích lớn cho Singapore thông qua nguồn thu thuế, dịch vụ và việc làm cho người dân.

2 Báo cáo thị trường Singapore, Vụ Châu á Thái bình dương - Bộ Thương mại

Địa hình Singapore chủ yếu là bình nguyên với các gò, đồi thấp và đầm lầy, trong đó gần 2/3 diện tích đảo không cao quá 15m so với mực nước biển Đỉnh cao nhất, Bukit Panjang, chỉ đạt 177m Phần phía Đông của đảo có một cao nguyên thấp đã bị bào mòn, tạo thành đồng bằng và một số thung lũng nhỏ Với địa hình gần như phẳng, Singapore không có khả năng phát triển thủy điện, do đó phải phụ thuộc vào nguồn dầu nhập khẩu.

Singapore có khí hậu xích đạo với nhiệt độ và độ ẩm cao Nhiệt độ trung bình hàng ngày đạt 26,7 độ C, trong đó nhiệt độ cao nhất vào buổi chiều là 30,8 độ C và thấp nhất lúc hoàng hôn là 23,9 độ C Tháng 12 và tháng 1 thường là thời gian mát mẻ nhất, trong khi tháng 5 là tháng nóng nhất trong năm.

Lượng mưa hàng năm tại khu vực này đạt 2.344mm, với mưa thường xuyên suốt cả năm Thời điểm mưa nhiều nhất rơi vào tháng 11 đến tháng Giêng, trong khi tháng 7 là tháng có lượng mưa thấp nhất Độ ẩm không khí trung bình hàng năm cao, khoảng 84,3%.

2 Môi trường văn hoá xã hội 2.1 Đặc điểm dân cư

Singapore là một quốc gia trẻ, đa dạng về dân tộc và văn hóa, hình thành chủ yếu từ cộng đồng nhập cư đến từ Trung Quốc, Malaysia, Ấn Độ và châu Âu.

Vào năm 1819, khi Stamford Raffles phát hiện ra Singapore, chỉ có khoảng 150 người dân sinh sống dọc bờ sông Đến tháng 6/2001, dân số Singapore đã tăng lên 3.319.000, bao gồm cư dân và người cư trú lâu dài Trong đó, cộng đồng người Hoa chiếm 76,7%, người Malaysia 13,9%, và người Ấn Độ 7,9%, trong khi 1,5% còn lại là người châu Âu, người Ả Rập và các tộc người khác Cơ cấu dân cư của Singapore đã có nhiều thay đổi đáng kể theo thời gian.

Vào năm 1824, Singapore có dân số 10.683 người, trong đó người Malaysia chiếm 60% và người Trung Hoa chiếm 31% Sự thống trị của người Anh tại Singapore, Trung Quốc và Hồng Kông đã thúc đẩy làn sóng nhập cư của người Trung Hoa, dẫn đến sự thay đổi đáng kể trong cơ cấu dân cư của quốc gia này.

Tỷ lệ nam nữ trong cơ cấu dân cư Singapore hiện nay gần như cân bằng, với xu hướng ngày càng gia tăng sự đồng đều Cụ thể, vào năm 1995, tỷ lệ nam/nữ là 1,013, cho thấy sự thay đổi tích cực trong sự cân bằng giới tính qua các năm.

Tính đến năm 1999, mật độ dân số của Singapore đạt 1,006 người/km², theo số liệu từ Uỷ ban Thống kê Singapore Trong giai đoạn 1995-2000, dân số Singapore tăng trưởng trung bình khoảng 1,9% mỗi năm, hiện nay mật độ dân số đã lên tới 5.900 người/km² Đặc biệt, tuổi thọ của người dân Singapore rất cao, với nam giới đạt 75,6 năm và nữ giới đạt 79,6 năm vào năm 1999.

2.2 Đặc điểm ngôn ngữ và tôn giáo

Singapore sử dụng bốn ngôn ngữ chính: tiếng Malaysia, tiếng Trung Quốc phổ thông, tiếng Anh và tiếng Tamil Trong đó, tiếng Malaysia là ngôn ngữ quốc gia, còn tiếng Anh là ngôn ngữ chính trong công sở và giao tiếp Tiếng Anh không chỉ giúp giảm thiểu xung đột giữa các sắc tộc mà còn mang lại lợi thế cạnh tranh cho Singapore, vì nó là ngôn ngữ giao dịch và khoa học quốc tế Hầu hết người dân Singapore hiện nay đều thông thạo cả tiếng Anh và tiếng mẹ đẻ, với tỷ lệ biết đọc biết viết từ 10 tuổi trở lên đạt 92% nhờ vào nền giáo dục phát triển.

Singapore là một quốc gia đa tôn giáo với tỷ lệ người theo đạo Phật và Khổng giáo chiếm 53,8% trong cộng đồng người Hoa Ngoài ra, đạo Thiên Chúa có 12,9%, đạo Hồi 14,9% và đạo Hindu 3,3% Tại Singapore, không có tôn giáo nào được công nhận là quốc giáo.

4 Singapore Yearbook 2001 - http://www.sg/

3 Hệ thống chính trị, pháp luật

Nền kinh tế Singapore trong những năm qua

1 Thành tựu trong phát triển kinh tế của Singapore

Singapore là một tấm gương sáng về phát triển kinh tế, với nền công nghiệp quốc gia được xây dựng dựa trên đầu tư từ các tổ chức đa quốc gia Sau hơn ba thập kỷ thực hiện chính sách quản lý kinh tế hiệu quả, quốc gia này đã chuyển mình từ một nền kinh tế phụ thuộc vào buôn bán chuyển khẩu thành một trung tâm chế biến - chế tạo hiện đại, cùng hệ thống dịch vụ thương mại tài chính và du lịch cạnh tranh toàn cầu Thành công này đã giúp Singapore gia nhập danh sách các nước mới công nghiệp hóa (NIEs) vào đầu thập niên 80 và trở thành quốc gia đầu tiên ở Đông Nam Á được OECD công nhận là nước phát triển vào năm 1996 Hiện tại, Singapore tiếp tục nỗ lực củng cố vị thế là một trung tâm kết nối thương mại và đầu tư, đồng thời là một điểm phân phối hàng hóa, dịch vụ và thông tin thành công trên toàn cầu.

1.1 Singapore - trung tâm lọc dầu

Cuối thập niên 70, ngành công nghiệp dầu tại Singapore đã phát triển mạnh mẽ, chuyển mình từ kho chứa và trạm buôn bán thành trung tâm tinh chế dầu hàng đầu Đến thập niên 90, Singapore đạt tổng năng suất tinh chế 1,2 triệu thùng mỗi ngày, trở thành trung tâm tinh chế dầu lớn thứ ba thế giới, chỉ sau Houston và Rotterdam Đồng thời, Singapore cũng là trung tâm thương mại dầu lớn thứ ba, sau New York và London, và là thị trường nhiên liệu xăng dầu lớn về số lượng toàn cầu Từ năm 1993, hòn đảo này đã có 18 nhà máy lọc dầu, với sự hiện diện của các tập đoàn dầu khí lớn như BP, ESO, Shell, Caltex, Mobil, và British Petroleum, cùng công suất lọc dầu vượt một triệu thùng mỗi ngày.

Trong thập kỉ 70, ngành công nghiệp lọc dầu Singapore rất phát đạt nhưng từ giữa những năm 80 hoạt động của ngành này có giảm sút Từ chỗ chiếm 20% -

25% tổng giá trị xuất khẩu giảm xuống còn tương ứng là 15% - 16% vào năm

Năm 1989, ngành lọc dầu của Singapore gặp khó khăn do sự thiếu ổn định của thị trường xăng dầu toàn cầu và sự cạnh tranh từ các nước láng giềng như Malaysia và Indonesia Tuy nhiên, từ năm 1993 đến nay, ngành này đã dần hồi phục và có xu hướng phát triển tích cực.

T6/02 T7/02 T8/02 T6/02 T7/02 T8/02 Đơn vị: triệu S$ Tăng giảm so với cùng kỳ năm trước (%)

* Nguồn: http://www.iesingapore.gov.sg

1.2 Singapore - trung tâm chế tạo và lắp ráp các đồ điện tử

Chính sách đổi mới công nghệ và thu hút đầu tư nước ngoài vào các ngành kỹ thuật cao được triển khai từ cuối những năm 70 đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của ngành công nghệ điện tử, bán dẫn và vi mạch điện tử tại Singapore Nhờ đó, Singapore đã trở thành trung tâm sản xuất và lắp ráp các sản phẩm công nghệ như ti vi và máy vi tính lớn nhất Đông Nam Á.

Chính sách đầu tư ưu việt đã giúp Singapore thu hút nhiều công ty hàng đầu thế giới như Sony, Sharp, và Siemens vào các lĩnh vực công nghệ tiên tiến Ngành điện tử chiếm 50% giá trị sản xuất chế tạo và đóng góp 22% vào GDP quốc nội của Singapore Xuất khẩu điện tử của quốc gia này chiếm 40% tổng kim ngạch xuất khẩu, với sản lượng công nghiệp điện tử từ thập kỷ 90 đạt 5,2% tỷ trọng toàn cầu, tỷ trọng này vẫn ổn định trong những năm gần đây.

Trước xu hướng phát triển kinh tế tri thức toàn cầu, Singapore đã thể hiện sự năng động trong việc đầu tư vào các ngành công nghệ cao Quốc gia này đang chuyển dịch cơ cấu từ sản xuất truyền thống với tay nghề thấp sang các quy trình sản xuất tiên tiến, bao gồm cả nghiên cứu và phát triển (R&D) cũng như chế tạo trọn gói các sản phẩm điện tử.

Hewlett-Packard, công ty máy tính lớn của Mỹ và là một trong những nhà đầu tư nước ngoài đầu tiên tại Singapore từ năm 1968, vừa khai trương nhà máy sản xuất lát bán dẫn trị giá 100 triệu USD Đây là nhà máy sản xuất lát bán dẫn thứ hai của hãng tại Singapore, chuyên sản xuất lát bán dẫn silicon phục vụ cho ngành in ấn Dự kiến, nhà máy sẽ đóng góp 2 tỷ S$ (1,1 tỷ USD) cho nền kinh tế Singapore vào năm 2004 Trước đó, vào tháng 4/2000, tập đoàn Dupont của Mỹ cũng đã khai trương nhà máy sản xuất Lycra, nguyên liệu hóa học tổng hợp cao cấp, tại Singapore.

1.3 Singapore - trung tâm dịch vụ thương mại thế giới

Singapore, với vị trí chiến lược trên tuyến đường biển từ đông sang tây, đã trở thành trạm trung chuyển hàng hóa lớn nhất khu vực từ thời kỳ thuộc địa Anh Chính phủ Singapore đã tận dụng lợi thế này để phát triển dịch vụ buôn bán chuyển khẩu, biến nơi đây thành trung tâm thương mại quốc tế.

Khi mới giành độc lập, nền kinh tế Việt Nam chủ yếu dựa vào các hoạt động buôn bán chuyển khẩu và dịch vụ tái xuất khẩu, đóng góp lớn vào nguồn thu nhập quốc gia Sự phát triển này đã hình thành nền tảng vững chắc cho nền kinh tế trong giai đoạn tiếp theo.

9 Tạp chí Kinh tế Châu á Thái bình dương số1 (31) T2/2002

Tạp chí Kinh tế Châu Á Thái Bình Dương số 2 (37) T2/2002 chỉ ra rằng sự phát triển của các ngành công nghiệp có hàm lượng kỹ thuật cao đã dẫn đến sự thay đổi trong cơ cấu xuất khẩu Năm 1960, hàng tái xuất chiếm 90% giá trị kim ngạch xuất khẩu, trong khi hàng xuất khẩu trực tiếp chỉ chiếm 10% Đến năm 1991, tỷ lệ hàng tái xuất giảm đáng kể, và hàng xuất khẩu trực tiếp tăng nhanh chóng, với tỷ lệ hàng tái xuất vào năm 1998 chỉ còn khoảng 50% Vào tháng 07/2000, kim ngạch xuất khẩu trực tiếp của Singapore đạt 10.667 triệu S$, cho thấy sự chuyển mình mạnh mẽ của nền kinh tế này.

Singapore, với đặc điểm là nền kinh tế "hướng ngoại", đóng vai trò là đầu cầu trung chuyển lớn hàng hóa trong khu vực và toàn cầu Nơi đây không bị hạn chế về cơ cấu xuất khẩu, nhờ vào sự tham gia của nhiều công ty đa quốc gia có tiềm lực tài chính mạnh mẽ Thị trường Singapore đa dạng với các mặt hàng từ công nghiệp kỹ thuật cao đến nguyên liệu nông, lâm, khoáng sản thô và thủ công mỹ nghệ, phục vụ cho nhiều mục đích như chế biến tại chỗ và tái xuất Năm 1998, xuất khẩu các mặt hàng chủ lực như cơ khí, điện tử, tin học, hóa chất và thực phẩm chế biến chiếm 73% kim ngạch xuất khẩu, đạt 134,4 tỷ S$, trong khi nhập khẩu các mặt hàng này cũng chiếm 62%, đạt 122,6 tỷ S$ Một lượng lớn sản phẩm từ Malaysia, Indonesia và các nước trong khu vực như gạo, cà phê, cao su, hạt tiêu, hải sản và thủ công mỹ nghệ được vận chuyển qua các kho cảng của Singapore trước khi xuất khẩu đi các thị trường Âu, Mỹ và Trung Quốc Ngoài ra, Singapore cũng nhập khẩu hàng công nghiệp từ Châu Âu và vải lụa từ Ấn Độ, Trung Quốc để xuất khẩu đi khắp Châu Á.

Singapore đã liên tục nằm trong top 10 quốc gia hàng đầu thế giới về tổng kim ngạch xuất nhập khẩu, nhờ vào các hoạt động xuất khẩu sôi động, đặc biệt là với những thị trường lớn như Mỹ, Nhật Bản, EU, Malaysia và Đài Loan.

12 Báo cáo tổng quan thị trường Singapore, Vụ Châu á Thái bình dương, Bộ Thương mại

1.4 Singapore - trung tâm dịch vụ hàng hải, cảng biển quốc tế

Singapore, nằm ở cuối cực Nam của eo biển Malacca, đã trở thành một điểm chiến lược quan trọng trong thương mại hàng hải giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương Kể từ khi Cơ quan Cảng Singapore (PSA) được thành lập vào năm 1964, cảng này đã phát triển thành một trong những cảng hàng đầu thế giới Đến năm 1998, đội tàu buôn của Singapore đã đạt 3.412 chiếc với tổng trọng tải 22.025 triệu tấn, trong đó gần 5 triệu tấn chuyên chở dầu Cảng Singapore hiện là một trong ba cảng lớn nhất thế giới về năng lực thông qua và đứng thứ ba về bốc rót dầu, với 26 cầu cảng container có khả năng bốc xếp 50 triệu TEU vào năm 2000 Ngoài ra, cảng còn cung cấp nhiều dịch vụ hàng hải, bao gồm hoa tiêu, tàu kéo, cung ứng nhiên liệu và lưu kho Hệ thống cảng biển của Singapore đã được tự động hóa, cho phép tiếp nhận 800 tàu cùng lúc và đạt 140.922 lượt tàu mỗi năm.

858 triệu tấn Cảng Singapore còn là một trong những trung tâm chế tạo và sửa chữa tầu hàng năm tiếp nhận khoảng 2.500 đến 3.000 chiếc tầu đến sửa chữa 14

Singapore đã xây dựng cảng container đầu tiên ở Đông Nam Á và nỗ lực biến Terminal Tanjong Pagon thành một trong những terminal hiệu quả nhất thế giới Chương trình mở rộng cảng container Pasin Paijang với tổng vốn đầu tư 7 tỷ USD, hoàn thành vào năm 2002, đã nâng cao vai trò của cảng Singapore thành trung tâm trung chuyển khu vực Với diện tích kho có mái che 500.000 m² và 1,5 triệu m² bãi container, cảng thu hút 400 hãng tàu hoạt động, kết nối với 700 cảng biển toàn cầu Trong 11 năm liên tiếp, cảng Singapore được Hiệp hội Hàng hải Quốc tế xếp hạng là cảng tốt nhất khu vực Châu Á.

14 Tổng quan thị trường Singapore, Vụ Châu á Thái bình dương, Bộ Thương mại

15 Tổng quan thị trường Singapore - Vụ Châu á Thái bình dương - Bộ Thương mại

1.5 Singapore - trung tâm dịch vụ hàng không quốc tế

Kinh tế Singapore nổi bật với sự phát triển vượt bậc của hệ thống dịch vụ, đặc biệt là ngành dịch vụ vận chuyển hàng không Ngành này không chỉ có quy mô lớn mà còn ứng dụng công nghệ hiện đại, mang lại sức cạnh tranh hàng đầu trên thế giới.

Kinh nghiệm phát triển kinh tế của Singapore đối với Việt Nam

Việt Nam và Singapore, hai quốc gia thuộc khu vực Đông Nam Á, đã duy trì mối quan hệ truyền thống lâu đời Tuy nhiên, sự phát triển của các yếu tố tác động đã ảnh hưởng đến mối quan hệ này.

Sau khi "chiến tranh lạnh" kết thúc và Hiệp định Paris về Campuchia được ký kết vào tháng 10/1991, quan hệ Việt Nam - Singapore bước vào giai đoạn phát triển mới Năm 1995, Singapore hoàn toàn ủng hộ Việt Nam gia nhập ASEAN, điều này đã thúc đẩy mối quan hệ hợp tác đa phương và song phương giữa hai nước Singapore nhanh chóng trở thành đối tác hàng đầu về thương mại và đầu tư trực tiếp vào Việt Nam Sự phát triển này là kết quả của nỗ lực từ cả hai phía, với Việt Nam nhìn thấy Singapore như một mô hình thành công trong khu vực, cung cấp những kinh nghiệm quý báu cho quá trình cải cách kinh tế của Việt Nam.

Việt Nam và Singapore, mặc dù có những điểm tương đồng về tự nhiên và xuất phát từ nền kinh tế thuộc địa, nhưng lại có sự khác biệt rõ rệt trong chính sách phát triển kinh tế.

Singapore giành được độc lập từ năm 1959, sớm hơn Việt Nam, và đến năm 1965, đất nước đã ổn định để bắt tay vào xây dựng kinh tế Chính phủ Singapore chủ động hội nhập với thế giới, phát triển nền kinh tế gắn chặt với thị trường toàn cầu, lấy yếu tố bên ngoài làm nền tảng cho sự phát triển bền vững Ngược lại, Việt Nam sau chiến tranh tự đóng cửa với quan điểm "tự lực cánh sinh" Điều kiện tài nguyên hạn chế và diện tích nhỏ bé đã định hình chiến lược của Singapore là phát triển liên minh kinh tế và mở rộng mối quan hệ Kinh tế Singapore phụ thuộc vào các công ty đa quốc gia, trong khi vai trò của nhà nước chủ yếu là điều tiết quan hệ kinh tế vĩ mô, tạo điều kiện cho tư bản phát triển.

Việt Nam hiện đang trong giai đoạn chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, nhưng thái độ đối với sự phát triển của khu vực tư nhân vẫn còn thiếu nhất quán so với các doanh nghiệp nhà nước Việc hoạch định và thực thi chiến lược dài hạn, trung hạn và ngắn hạn chưa thực sự hiệu quả, dẫn đến sự phụ thuộc lớn vào các doanh nghiệp nhà nước được bảo hộ, vốn kém hiệu quả và có tính độc quyền Điều này cho thấy cần thiết phải có cơ chế cạnh tranh mạnh mẽ hơn để khuyến khích sự phát triển của khu vực tư.

Quá trình đổi mới kinh tế của Việt Nam và Singapore diễn ra trong hai giai đoạn khác nhau của nền kinh tế thế giới, mang đến những khó khăn và thuận lợi riêng Do đó, việc hoạch định chiến lược phát triển không thể chỉ là sao chép Singapore được xem là hình mẫu lý tưởng cho các quốc gia đang phát triển như Việt Nam Với mục tiêu tạo ra môi trường thuận lợi cho công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa, những kinh nghiệm của Singapore là bài học quý giá cho Việt Nam.

2 Bài học kinh nghiệm 2.1 Sớm "mở cửa" nền kinh tế, chủ động thực hiện hội nhập

Sau khi giành độc lập, Singapore nhận thức rõ ràng về tình trạng đất chật người đông và tài nguyên thiên nhiên hạn chế, do đó đã thực hiện chiến lược công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu để phát triển kinh tế Báo cáo của Uỷ ban Kinh tế Singapore vào những năm 1980 chỉ ra rằng nền kinh tế nước này gắn liền với ngoại thương và đầu tư nước ngoài Để hiện đại hóa nền kinh tế, Singapore cần một lượng vốn lớn và đã chú trọng đến nguồn vốn bên ngoài, đặc biệt là đầu tư trực tiếp Quốc gia này khuyến khích các nhà đầu tư quốc tế tham gia qua nhiều hình thức, trong đó liên doanh được ưu tiên nhằm xây dựng nền tảng cho ngành công nghiệp Singapore không phân biệt đối tác đầu tư, tập trung vào việc tận dụng nguồn vốn từ nhiều nguồn khác nhau, đặc biệt là các đối tác có công nghệ cao.

Singapore đã xác định rõ hướng đầu tư qua các thời kỳ, bắt đầu từ việc thu hút FDI vào các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động như dệt may và lắp ráp thiết bị điện Khi ngành công nghiệp điện tử và kỹ thuật cao phát triển mạnh mẽ, chính phủ chuyển hướng thu hút đầu tư vào sản xuất hàng điện tử, máy vi tính và lọc dầu Nhà nước cũng đã triển khai các chính sách ưu tiên cho những ngành nghề mũi nhọn của nền kinh tế, kèm theo các chính sách ưu đãi hợp lý để thúc đẩy sự phát triển này.

Trong giai đoạn đầu của đổi mới kinh tế, Việt Nam đã áp dụng chiến lược công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu, thay vì mô hình công nghiệp hóa cổ điển kéo dài hàng trăm năm Mô hình này không chỉ đảm bảo tính bền vững cho quá trình công nghiệp hóa mà còn mang lại những thành tựu kinh tế và xã hội ấn tượng, được ví như một "kỳ tích" Singapore là một ví dụ điển hình cho nền kinh tế thành công nhờ vào chiến lược này, và bài học từ sự phát triển của họ rất quý giá cho Việt Nam trong thời kỳ hội nhập kinh tế hiện nay.

2.2 Chính sách cơ cấu kinh tế hợp lý

Khi mới giành độc lập, nền kinh tế Singapore chủ yếu dựa vào buôn bán chuyển khẩu và dịch vụ tái xuất khẩu, mang lại nguồn thu lớn cho quốc gia Để phát triển, Singapore đã chủ động hoạch định chiến lược cơ cấu ngành, khai thác các ngành truyền thống để tạo việc làm và tích lũy vốn, đồng thời hướng tới các ngành sử dụng công nghệ mới, mang lại thu nhập cao Sau 20 năm thực hiện chính sách này, kết quả khả quan đã xuất hiện: tỷ lệ xuất khẩu trực tiếp gia tăng, thay thế dần cho mậu dịch quá cảnh, và sự chủ động trong hoạt động kinh tế cũng được nâng cao.

Việt Nam có thể học hỏi từ kinh nghiệm phát triển làng nghề truyền thống để cải thiện sản xuất công nghiệp ở nông thôn Điều này không chỉ giúp giải quyết việc làm mà còn nâng cao tỷ trọng đóng góp của khu vực nông thôn vào nền kinh tế, phù hợp với tiềm năng sẵn có của khu vực này.

2.3 Chính sách thị trường và thương mại

Singapore, với truyền thống là trung tâm buôn bán chuyển khẩu quốc tế, đã thực hiện chiến lược công nghiệp hóa tập trung vào xuất khẩu, điều này phản ánh rõ nét trong chính sách thị trường, một phần quan trọng của chính sách kinh tế quốc gia.

Chủ trương của Singapore là giữ vững và mở rộng thị trường bằng cách kết hợp sự hỗ trợ của chính phủ với việc nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ Trong chiến lược thị trường, Singapore đặc biệt chú trọng đến việc đa dạng hóa thị trường và phát triển các thị trường quan trọng có lợi thế về địa lý và dung lượng như ASEAN, Mỹ và EU.

Singapore, với điều kiện tự nhiên hạn chế, phải nhập khẩu hầu hết nguyên liệu phục vụ đời sống và sản xuất, bao gồm cả nước ngọt từ Malaysia Chính phủ Singapore luôn thúc đẩy tự do hoá thương mại và mở cửa thị trường, thể hiện qua việc thiết lập mối quan hệ ngoại giao với 152 quốc gia và tổ chức quốc tế Quốc gia này tham gia vào nhiều tổ chức lớn như UN, APEC, ASEAN, WTO, NAM và đã ký Hiệp định Đảm bảo đầu tư với 22 nước cùng các thỏa thuận Tránh đánh Thuế hai lần với 38 quốc gia, tạo điều kiện cho một thị trường xuất khẩu và nhập khẩu phong phú, góp phần vào sự phát triển kinh tế.

Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và xu thế toàn cầu hóa, Việt Nam đang tích cực tìm kiếm thị trường và xây dựng các liên kết kinh tế Singapore đã hỗ trợ Việt Nam trong việc gia nhập ASEAN, đồng thời Việt Nam cũng kỳ vọng nhận được sự giúp đỡ từ Singapore trong quá trình gia nhập WTO, tổ chức thương mại lớn nhất thế giới.

2.4 Chính sách khoa học công nghệ

Vị trí của nền kinh tế Singapore

1 Vị trí của kinh tế Singapore trong kinh tế thế giới và ASEAN

Trong ba thập kỷ qua, Singapore đã trở thành một trung tâm kinh tế sôi động và là hình mẫu cho sự phát triển kinh tế Từ một nền kinh tế bị tàn phá vào giữa những năm 60, chính phủ Singapore đã nỗ lực không ngừng để biến đất nước này thành một điểm đến hấp dẫn cho đầu tư và thương mại.

Quốc gia độc lập có khả năng kết nối thương mại và đầu tư với các nước công nghiệp hàng đầu, đồng thời đóng vai trò là trung tâm phân phối hàng hóa, dịch vụ và thông tin hiệu quả trong khu vực.

Kinh tế chủ yếu dựa vào thương mại và dịch vụ, theo báo cáo của WTO, năm

1997, Singapore là nước có kim ngạch thương mại đứng thứ 13 trên thế giới.

Theo thống kê của TDB - Cục Phát triển Thương mại Singapore, kim ngạch ngoại thương của Singapore gấp 3 lần GDP và chiếm 80% kim ngạch thương mại của Trung Quốc Mặc dù vào năm 2001, vị trí này có giảm sút, Singapore vẫn duy trì vị thế hàng đầu thế giới về kim ngạch ngoại thương.

30 Lý Quang Diệu, Bí quyết hoá rồng, lịch sử Singapore 1965-2000, NXB trẻ T6/2001

Bảng 2.1: Thương mại hàng hoá thế giới năm 2001:

Các nước xuất, nhập khẩu chính

(đơn vị: tỷ USD và %)

(a) Giá trị nhập khẩu giữ lại được tính bằng tổng giá trị nhập khẩu trừ đi giá trị phần tái xuất.

Nguồn: http://www.wto.org

Bảng 2.2: Thương mại dịch vụ thế giới năm 2001:

Các nước xuất, nhập khẩu chính

(Đơn vị: tỷ USD và %)

Nguồn: http://www.wto.org

Theo thống kê của WTO, năm 2001, xuất khẩu dịch vụ của Châu Á đạt 302,6 tỷ đô la, trong đó Singapore chiếm 26,4 tỷ đô la, tương đương 8,7%, đứng thứ 5 toàn Châu Á Tỷ trọng nhập khẩu của Singapore là 20 tỷ/355 tỷ USD, chiếm 5,6% Singapore hiện đang nằm trong top 10 quốc gia hàng đầu thế giới về công nghệ thông tin và nỗ lực trở thành quốc gia số 1 ở Châu Á về cơ sở hạ tầng và kinh doanh điện tử Từ thập kỷ 90, sản lượng công nghiệp điện tử của Singapore chiếm 5,2% tỷ trọng toàn cầu và tỷ trọng này hầu như không thay đổi trong những năm gần đây.

Kinh tế Singapore gắn liền với nền kinh tế toàn cầu, đặc biệt là các trung tâm kinh tế lớn như Mỹ, Nhật Bản và EU, trong hệ thống phân công lao động quốc tế Là quốc gia đầu tàu trong phát triển kinh tế khu vực Đông Nam Á, Singapore đóng vai trò cầu nối giữa khu vực này và nền kinh tế thế giới Quốc gia này luôn chiếm tỷ trọng đáng kể trong kim ngạch xuất nhập khẩu của các nước ASEAN và là nhà đầu tư lớn trong khu vực.

Vào năm 1990, đầu tư của Singapore tại Đông Nam Á chỉ chiếm dưới 1%, nhưng đến năm 1997, quốc gia này đã trở thành một trong những nhà cung cấp vốn lớn nhất trong khu vực, bên cạnh các cường quốc như Mỹ, Nhật Bản và một số nước châu Âu Trong năm 1997, tổng vốn đầu tư của Singapore vào ASEAN đạt 8,1 tỷ USD, chiếm 60,3% tổng vốn đầu tư nội bộ khu vực Kim ngạch xuất nhập khẩu của Singapore luôn duy trì tỷ trọng khoảng 30% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của toàn khu vực, vượt xa các nước như Malaysia, Thái Lan và Indonesia.

Bảng 2.3: Xuất khẩu hàng hoá của các nước ASEAN

Nguồn: http://www.aseansec.org

Bảng 2.4: Nhập khẩu hàng hoá của các nước ASEAN

31 Tạp chí Kinh tế Châu á - Thái bình dương số 2 (31) 4-2001

ASEAN 359 560 358 910 266 841 290 688 357 470 317 679 - Nguồn: http://www.aseansec.org

Quan hệ kinh tế song phương giữa Singapore và các nước ASEAN ngày càng phát triển mạnh mẽ Singapore hiện là bạn hàng lớn thứ 3, thị trường xuất khẩu lớn thứ 3 và thị trường nhập khẩu lớn thứ 2 của Malaysia, với tổng vốn đầu tư lên tới 9,7 tỷ USD tính đến giữa năm 1997 Trong quan hệ với Indonesia, Singapore không chỉ là bạn hàng truyền thống mà còn là nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất, với 13,3% tổng đầu tư nước ngoài vào Indonesia trong năm 1999, trong đó khu vực Batam nhận 44% vốn đầu tư Sự hợp tác chặt chẽ giữa Singapore, Malaysia và Indonesia còn được thể hiện qua kế hoạch xây dựng "vùng tam giác tăng trưởng" Singapore - Johor - Riau, trong đó Johor và Batam sẽ được Singapore đầu tư cơ sở hạ tầng và công nghệ tiên tiến, tận dụng nguồn tài nguyên và lao động giá rẻ tại đây.

Lãnh thổ Philippines đang thu hút sự chú ý của các công ty quốc tế, đặc biệt là từ Singapore Một ví dụ điển hình là công ty CSE (System and Engineering) đã đặt mục tiêu mở rộng hoạt động tại đây.

32 Tạp chí Kinh tế Châu á - Thái bình dương số 2 (31) 4-2001 mua 43% cổ phần của công ty Internet Infinite Information của Philippin với giá

2 triệu USD CSE là công ty sản xuất và lắp đặt phần mềm Internet, hiện đang có mức thu nhập bán hàng với Mỹ chiếm 90%.

Trong mối quan hệ thương mại với Thái Lan, Singapore đã trở thành nhà đầu tư lớn thứ hai tại đây vào năm 1994, chiếm 21,1% tổng vốn đầu tư nước ngoài Các dự án đầu tư của Singapore đa dạng trong nhiều lĩnh vực, trong đó nổi bật là lĩnh vực tài chính Một ví dụ điển hình là ngân hàng lớn nhất của Singapore, DBS Bank, đã đầu tư vào cổ phiếu của Thái Lan.

Với Campuchia, những năm gần đây, Singapore đã tăng cường hoạt động thương mại và đầu tư Vào năm 1998, tổng kim ngạch buôn bán giữa 2 nước là

Singapore đã cam kết đầu tư 595 triệu S$ (tương đương 345 triệu USD) để khuyến khích Campuchia xuất khẩu gạo Đồng thời, quốc gia này cũng là một trong những nhà đầu tư lớn tại Campuchia, tập trung vào các lĩnh vực như xây dựng cơ sở hạ tầng, nông nghiệp và sản xuất ống dẫn.

Với Lào và Mianma cũng vậy, năm 1997 Singapore là nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất của Mianma 33

2 Vị trí của kinh tế Singapore trong quan hệ với Việt Nam

Trong suốt 30 năm qua, quan hệ thương mại và đầu tư giữa Việt Nam và các nước đã có sự phát triển mạnh mẽ, đặc biệt từ năm 1991 Từ 1993 đến 1997, kim ngạch ngoại thương giữa Việt Nam và các đối tác đã tăng hơn 1,5 lần Gần đây, Singapore và Nhật Bản đã trở thành những bạn hàng lớn nhất của Việt Nam, thể hiện sự phát triển tích cực trong quan hệ thương mại giữa hai nước.

Singapore đóng vai trò quan trọng trong việc trung chuyển hàng hoá từ Việt Nam sang các nước khác, đồng thời cung cấp nguyên liệu cho sản xuất và tiêu dùng nội địa Theo thống kê từ hải quan Việt Nam, trong tháng 5/2001, Singapore đã xuất khẩu hàng hóa trị giá 243,6 triệu USD sang Việt Nam, chiếm gần 60% tổng kim ngạch xuất khẩu của ASEAN vào thị trường Việt Nam.

Trong tháng 5 năm 2001, trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam đạt 107,1 triệu USD, chiếm 39% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang khối ASEAN.

Bảng 2.5: Xuất nhập khẩu của Việt Nam sang các nước ASEAN 6T/ 2002

Nguồn: Tạp chí Ngoại thương số 21 ngày 31/08/2002, trang 9

Chú thích: *** không có số liệu

Sau khi Việt Nam gia nhập ASEAN, đầu tư từ các nước trong khu vực vào Việt Nam đã tăng trưởng mạnh mẽ, cả về số lượng dự án lẫn tổng vốn đầu tư Hiện tại, vốn đầu tư của ASEAN chiếm gần 30% tổng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, với Singapore luôn đứng đầu về cả số dự án lẫn giá trị đầu tư.

Năm 1996, Singapore lần đầu tiên vượt qua Đài Loan để trở thành nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất tại Việt Nam, với tổng vốn đạt 4,82 tỷ USD tính đến ngày 8/5/1997 Đến năm 1998, vốn đầu tư của Singapore tăng lên 6,4 tỷ USD, khẳng định vị trí dẫn đầu trong số các quốc gia đầu tư vào Việt Nam.

Hiện trạng quan hệ thương mại giữa Việt Nam - Singapore giai đoạn 1995 - 2001

Trước đây, quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Singapore không phát triển do một số nguyên nhân khách quan Tuy nhiên, kể từ khi hai nước chính thức thiết lập quan hệ hợp tác, thương mại giữa hai quốc gia đã có những bước tiến đáng kể.

Mối quan hệ hợp tác kinh tế giữa Việt Nam và Singapore đã được cải thiện đáng kể kể từ khi thiết lập cơ quan đại diện ngoại giao vào năm 1991 Sự kiện Việt Nam gia nhập ASEAN vào năm 1995 đánh dấu một bước phát triển mới trong quan hệ thương mại giữa hai nước, khi Singapore trở thành một trong những đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam.

Quan hệ thương mại giữa Singapore và Việt Nam đã có sự phát triển mạnh mẽ, với kim ngạch xuất nhập khẩu từ 1.152,2 triệu USD vào năm 1991 tăng lên 3.173 triệu USD vào năm 1995 và duy trì sự ổn định trong những năm tiếp theo Mặc dù vào năm 1999, kim ngạch giảm xuống còn 2.705 triệu USD do khủng hoảng tài chính khu vực, nhưng đến năm 2001, con số này đã phục hồi lên 3.535 triệu USD Tổng quan, kim ngạch thương mại giữa hai nước có sự biến động nhưng vẫn theo xu hướng tăng trưởng Trong 6 tháng đầu năm 2002, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam với Singapore đạt 1.742,994 triệu USD.

Bảng 2.7: Kim ngạch buôn bán của Việt Nam với Singapore Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu với thế giới

KNXK với Singapore (1) 3.173 3.034 3.280 3.240 2.705 3.645,7 3.535 1.742,94 Tổng KNXNK

Nguồn: (1) Thống kê của Tổng cục Hải quan Việt Nam

(2) Theo http://www.vneconomy.com.vn

Singapore vẫn giữ vị thế là đối tác thương mại hàng đầu của Việt Nam, với tỷ trọng trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu luôn vượt 10% qua các năm Mặc dù tỷ trọng này đã giảm từ 23,32% năm 1995 xuống 11,37% năm 2001, Singapore vẫn là một trong những bạn hàng lớn của Việt Nam trong bối cảnh kinh tế đang tăng trưởng.

35 Tạp chí Ngoại thương số 21, 31/08/2002

1 Tình hình xuất khẩu từ Việt Nam vào Singapore 1.1 Kim ngạch

Singapore, với diện tích nhỏ và tài nguyên thiên nhiên hạn chế, phải nhập khẩu toàn bộ nguyên liệu phục vụ cho sản xuất hàng hóa xuất khẩu và tiêu dùng nội địa Nhờ vào vị trí địa lý thuận lợi và cơ sở hạ tầng phát triển, Singapore còn đóng vai trò là trung tâm trung chuyển hàng hóa từ khu vực sang các nước khác Trong những năm qua, hàng hóa Việt Nam xuất khẩu sang Singapore không ngừng gia tăng để đáp ứng nhu cầu thị trường Từ năm 1995 đến 2001, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa từ Việt Nam sang Singapore đã tăng trưởng ổn định qua từng năm.

Bảng 2.8: Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Singapore

* Nguồn: (1) Thống kê tổng cục hải quan Việt Nam

(2) Theo htt p ://www.vneconomy.com.vn

Theo thống kê của Tổng cục Hải quan Việt Nam, kim ngạch xuất khẩu sang Singapore đã tăng mạnh từ 636 triệu USD năm 1995 lên 1.043 triệu USD vào năm 2001, tương ứng với mức tăng gần 64% Năm 1997 ghi nhận mức tăng trưởng cao nhất với 31,43%, tuy nhiên, năm 1998 xuất khẩu giảm 12,14% do khủng hoảng tài chính khu vực, dẫn đến tỷ trọng xuất khẩu sang Singapore giảm từ 8,79% xuống 7,57% Từ năm 1999, xuất khẩu sang Singapore phục hồi với mức tăng trung bình gần 12%/năm, mặc dù tỷ trọng có xu hướng giảm do kim ngạch xuất khẩu toàn cầu tăng mạnh hơn Trong nửa đầu năm 2002, xuất khẩu sang Singapore giảm 81,4% so với cùng kỳ năm trước, chủ yếu do khó khăn trong khâu chuẩn bị hàng hóa của doanh nghiệp xuất khẩu, như trường hợp gạo, nơi thiếu sự phối hợp giữa doanh nghiệp và nông dân Biến động giá cả nông sản như cà phê cũng góp phần làm giảm kim ngạch xuất khẩu trong quý I và II năm 2002.

Singapore phụ thuộc vào việc nhập khẩu nguyên liệu để chế biến hàng hóa cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa Với hạ tầng thuận lợi, quốc gia này cũng là điểm trung chuyển hàng hóa từ khu vực sang các nước khác Trong những năm qua, hàng Việt Nam xuất khẩu sang Singapore chủ yếu là nguyên liệu thô và sơ chế, được chia thành hai nhóm: nguyên liệu phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu và tiêu dùng, bao gồm dầu thô, tinh dầu, lạc nhân, hải sản, hàng dệt may, giày dép, và đá xây dựng; và hàng hóa phục vụ chuyển khẩu sang nước thứ ba như gạo, tinh bột sắn, lạc, và thủ công mỹ nghệ Sự đa dạng trong chủng loại hàng hóa Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Singapore phản ánh nhu cầu tiêu dùng và sản xuất tại đây.

Báo cáo số 2/2002 về thông tin kinh tế xã hội cho thấy rằng lượng hàng hóa nhập khẩu từ Việt Nam vào Singapore vẫn còn khiêm tốn, chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong tổng kim ngạch Một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam cần được đánh giá để hiểu rõ hơn về tiềm năng và cơ hội trong thị trường này.

Dầu thô là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam sang Singapore, chiếm khoảng 1/3 kim ngạch xuất khẩu trong những năm gần đây Kim ngạch xuất khẩu dầu thô đã tăng trưởng đáng kể, từ 252,6 triệu S$ năm 1995 lên 413,78 triệu S$ năm 1999 Năm 2000, mặc dù khối lượng xuất khẩu chỉ đạt 2.206,5 nghìn tấn, nhưng nhờ lợi thế về giá dầu toàn cầu, kim ngạch đạt 959,22 triệu S$ Đến năm 2001, xuất khẩu dầu thô tiếp tục tăng mạnh với 3.355,33 nghìn tấn và kim ngạch đạt 1,1 triệu S$, tăng 23,9% so với năm trước.

Tương lai, đây là mặt hàng chủ lực trừ khi nhà máy lọc dầu Dung Quất của ta đi vào hoạt động 37

Lạc nhân : Lượng tiêu thụ nội địa không nhiều, chủ yếu tái xuất sang

Trong những năm 80 và đầu 90, sản lượng lạc của Việt Nam cao, chất lượng ổn định và giá cả cạnh tranh, với lượng tiêu thụ tại Singapore đạt khoảng 30.000 tấn mỗi năm, giá trung bình từ 600 - 700 USD/tấn, có lúc lên tới 850 USD/tấn Tuy nhiên, trong những năm gần đây, xuất khẩu lạc sang thị trường Singapore đã giảm mạnh do nhu cầu khu vực và chất lượng lạc không đồng đều, thường xuyên gặp vấn đề về độ ẩm và mốc trong quá trình vận chuyển, dẫn đến sự phát sinh của Aflatoxin - chất gây ung thư Điều này khiến các công ty ngần ngại mua lạc Việt Nam, vì nếu Aflatoxin vượt quá 5 PPB, hàng sẽ không được nhập khẩu vào Singapore và nếu đã nhập sẽ bị tịch thu và tiêu hủy.

Năm 1998, Việt Nam chỉ xuất khẩu được 7.275 tấn với giá chào thấp nhất là 560 USD Tuy nhiên, vào năm 1999, khối lượng xuất khẩu tăng lên 11.113 tấn, mang về kim ngạch 6,129 triệu S$; năm 2000, con số này tiếp tục tăng lên 12.345 tấn và đạt 6,640 triệu S$ Đến năm 2002, mặc dù khối lượng xuất khẩu đạt 12.053 tấn, nhưng kim ngạch lại giảm xuống còn 5,664 triệu S$ do ảnh hưởng của giá cả không thuận lợi.

37 Cục phát triển thương mại SGP - SGP Trade Development Board - TDB

38 Thống kê Tổng cục hải quan

Singapore nhập khẩu cao su sơ chế hoặc có phẩm chất thấp để sản xuất và tái chế, sau đó xuất khẩu sang các quốc gia công nghiệp phát triển như Nhật Bản, Mỹ và Tây Âu.

Giá giao dịch cao su trên Sở giao dịch hàng hoá Singapore (SICOM) chủ yếu phụ thuộc vào giá Hội cao su Malaysia, với sự biến động hàng ngày và theo từng loại sản phẩm Trong những năm 80 và đầu 90, cao su Việt Nam chủ yếu được xuất khẩu sang thị trường này hoặc qua đây đến nước thứ ba Kim ngạch xuất khẩu cao su từ năm 1995 đến nay chiếm tỷ lệ đáng kể trong tổng kim ngạch xuất khẩu, với sự biến động phức tạp Năm 1995, kim ngạch đạt 22,032 triệu S$, nhưng giảm xuống còn 8,083 triệu S$ vào năm 1996, tương đương mức giảm 63,3% Năm 1997, xuất khẩu phục hồi lên 16,117 triệu S$, tăng 99,4%, nhưng lại giảm xuống 10,401 triệu S$ vào năm 1998, giảm 35,5% Chu kỳ tăng giảm này tiếp tục diễn ra, với kim ngạch đạt đỉnh 32,08 triệu S$ vào năm 1999, tăng 208,4%, nhưng sau đó tiếp tục giảm mạnh trong các năm tiếp theo.

2000 là 16,046 triệu S$ giảm tới 50%, năm 2001 chỉ đạt xấp xỉ 7,01 triệu S$ giảm hơn 56% 39

Singapore phụ thuộc vào việc nhập khẩu hầu hết các loại thịt, hải sản và rau quả để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng nội địa Cục Quản lý Sản xuất Cơ bản thuộc Bộ Phát triển quốc gia chịu trách nhiệm kiểm soát hoạt động xuất nhập khẩu thực phẩm, bao gồm cả động vật sống, hoa và cây cối Quốc gia này có các quy định và quy chế nghiêm ngặt về việc nhập khẩu thực phẩm nhằm đảm bảo an toàn và chất lượng.

Để xuất khẩu thực phẩm vào Singapore, các loại thịt gia cầm, gia súc, trứng và sản phẩm sữa phải được kiểm tra bởi Cục Quản lý Sản xuất Cơ bản Cục này sẽ đánh giá hệ thống chăn nuôi và chuồng trại nhằm đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, không có dịch bệnh và độc tố Chỉ những quốc gia được cấp giấy phép sau khi kiểm tra mới được xuất khẩu vào Singapore, hiện có 27 quốc gia đã được cấp phép Do đó, để xuất khẩu thực phẩm sang thị trường này, Việt Nam cần quy hoạch và tổ chức lại sản xuất trong nước, sau đó mời Cục Quản lý tiến hành kiểm tra tại chỗ.

Hợp tác đầu tư và trên các lĩnh vực khác giữa Singapore và Việt Nam

1 Hiện trạng đầu tư của Singapore vào Việt Nam Đầu tư trực tiếp là một lĩnh vực đặc biệt quan trọng trong quan hệ kinh tế giữa hai nước Việt Nam và Singapore Trong thập kỷ 70 Singapore đã bắt đầu thăm dò khả năng đầu tư vào Việt Nam Tuy vậy khi xẩy ra vấn đề Campuchia, Singapore đã ban hành lệnh cấm đầu tư vào nước ta Năm 1991, sau khi Hiệp định hoà bình về Campuchia được kí kết, Singapore bãi bỏ lệnh cấm đầu tư vào Việt Nam Từ năm 1991, đầu tư trực tiếp từ Singapore vào Việt Nam tăng lên nhanh chóng; đặc biệt từ năm 1995, sau khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN, cùng với các nước ASEAN khác, đầu tư của Singapore vào Việt Nam tăng rất nhanh cả về số dự án lẫn khối lượng vốn đầu tư

Bảng 2.13: FDI theo đối tác nước ngoài 1988 - 2001

(Tính tới ngày 31/12/2001 - chỉ tính các dự án còn hiệu lực) Đơn vị: USD

STT Nước, vùng, lãnh thổ

Số dự án Tổng vốn đầu tư Vốn pháp định Đầu tư thực hiện

Nguồn: Vụ Quản lý Dự án - Bộ Kế hoạch và Đầu tư

Singapore luôn dẫn đầu trong khu vực ASEAN về đầu tư vào Việt Nam Chỉ sau 2 năm gỡ bỏ lệnh cấm đầu tư, Singapore đã trở thành một trong 10 nhà đầu tư lớn nhất tại Việt Nam với tổng vốn đăng ký đạt 225,3 triệu USD tính đến tháng 10/1993 Đến năm 1996, Singapore lần đầu tiên vượt qua Đài Loan để trở thành nhà đầu tư nước ngoài hàng đầu tại Việt Nam.

Tính đến năm 1997, Singapore đã đăng ký đầu tư 5 tỷ USD với 155 dự án, trong đó 99 dự án đã hoạt động, mang lại doanh thu 522 triệu USD và tạo ra gần 8.000 việc làm Đến năm 1998, tổng vốn đầu tư của Singapore vào Việt Nam đã tăng lên 6,4 tỷ USD, trở thành quốc gia dẫn đầu trong lĩnh vực đầu tư Đầu tư của Singapore chủ yếu tập trung vào việc xây dựng khách sạn, văn phòng và hạ tầng khu công nghiệp.

Cuộc khủng hoảng tài chính khu vực đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến đầu tư từ các nước ASEAN vào Việt Nam, đặc biệt là Singapore, dẫn đến sự giảm sút về số lượng và tiến độ thực hiện nhiều dự án Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, số dự án FDI từ ASEAN vào Việt Nam đã tăng từ 34 dự án năm 1999 lên 422 dự án vào tháng 4 năm 2000 Năm 2001, các nước ASEAN có 47 dự án đầu tư tại Việt Nam với tổng vốn đăng ký hơn 330 triệu USD, trong đó Singapore đóng góp 19 dự án và 271 triệu USD Đến tháng 8 năm 2002, ASEAN có khoảng 500 dự án đầu tư tại Việt Nam, tổng vốn đăng ký đạt khoảng 9.460 triệu USD, với 4.085 triệu USD đã được giải ngân Singapore là nhà đầu tư lớn nhất trong ASEAN tại Việt Nam, chiếm hơn 50% số dự án và 73,02% vốn đầu tư, vượt xa Thái Lan và Malaysia.

Trong số các dự án đầu tư của các nhà đầu tư ASEAN tại Việt Nam, có 287 dự án đã đi vào sản xuất kinh doanh, chiếm 16% tổng số dự án đầu tư nước ngoài hoạt động tại đây Tổng vốn đăng ký cho các dự án này đạt trên 6.060 triệu USD, tương đương 25% tổng vốn đầu tư nước ngoài Bên cạnh đó, hơn 80 dự án vẫn đang trong quá trình xây dựng cơ bản, chiếm 12,9%.

Những số liệu tương ứng của Singapore là 158 dự án/287 dự án của ASEAN, với

44 Tạp chí kinh tế Châu á - Thái Bình Dương số 2 (37) tháng 4/2002 vốn đăng kí 4.729 triệu USD/6.060 triệu USD và 45 dự án/80 dự án với vốn đăng kí 748 triệu/920 triệu USD 45

1.1 Hình thức và lĩnh vực đầu tư

Trong những năm gần đây, Singapore đã đầu tư vào Việt Nam chủ yếu thông qua hình thức xí nghiệp liên doanh Bên cạnh đó, còn có các xí nghiệp 100% vốn nước ngoài và hợp đồng hợp tác kinh doanh.

Trong 3 hình thức đầu tư, thì hình thức liên doanh hiện có tỉ trọng lớn nhất, với tổng vốn đăng kí trên 5,61 tỉ USD; tuy đến nay vốn đầu tư thực hiện đạt khoảng 29% tổng vốn đăng kí nhưng là nơi đem lại cho nhà đầu tư doanh thu rất lớn bằng 1,53 lần vốn thực hiện 46

Công ty Liên doanh nhà máy bia Heineken tại thành phố Hồ Chí Minh là một trong những dự án đầu tư hiệu quả của Singapore, với vốn đầu tư đăng ký 93 triệu USD Đến nay, doanh thu của Heineken đã đạt 924 triệu USD, đồng thời tạo ra 528 việc làm cho lao động Việt Nam.

Liên doanh Hanoi Heritage Hotel đã ghi nhận tổng doanh thu gần 6 triệu USD sau gần 9 năm hoạt động, trong khi vốn đầu tư thực hiện chỉ khoảng 2,7 triệu USD, cho thấy kết quả khả quan Dự án này được cấp giấy phép vào tháng 2 năm 1993 với vốn đăng ký 3,5 triệu USD Một liên doanh khách sạn khác là Việt-Sing tại TP Hồ Chí Minh, với vốn đăng ký 3,2 triệu USD, đã đạt doanh thu trên 11 triệu USD Dầu thực vật Cái Lân ở Quảng Ninh, với vốn đăng ký 39,1 triệu USD và vốn thực hiện 29,6 triệu USD, đã đạt doanh thu luỹ kế 223,7 triệu USD, tạo việc làm cho 550 lao động Đây là những dự án không chỉ mang lại hiệu quả kinh tế mà còn có ý nghĩa xã hội lớn.

45 Vụ Quản lý Dự án Bộ kế hoạch và Đầu tư

Công ty Natsteel Vina tại Thái Nguyên có vốn đăng ký và đầu tư hơn 21 triệu USD, đạt doanh thu 155 triệu USD và sử dụng 190 lao động Việt Nam Trong khi đó, Mercedes-Benz Việt Nam có vốn đăng ký 70 triệu USD, vốn đầu tư thực hiện 31,3 triệu USD, doanh thu 126 triệu USD và 310 lao động Công ty Sơn Nippon Paint với vốn đầu tư thực hiện 4,7 triệu USD đã đạt doanh thu lũy kế 32 triệu USD và sử dụng 200 lao động Đây là các dự án liên doanh, trong đó các tập đoàn và công ty đa quốc gia đầu tư vào Việt Nam thông qua chi nhánh và công ty con tại Singapore.

Cùng với sự tham gia của các công ty đa quốc gia, các doanh nghiệp nội địa Singapore cũng tích cực đầu tư vào Việt Nam Một ví dụ điển hình là Công ty TNHH Kinh doanh Bất động sản Straits Steamship Land Limited, đã hợp tác với Công ty Khách sạn và Du lịch Công đoàn Hà Nội từ năm 1995 để xây dựng khu nhà nghỉ tổng hợp Hoàng Viên tại Quảng Bá, Hồ Tây, với nguồn vốn do phía Singapore cung cấp lên tới 70%, tương đương 51 triệu USD.

Dự án cung cấp 300 phòng nghỉ đạt tiêu chuẩn quốc tế, bao gồm 155 căn hộ cao cấp và 20 biệt thự, tất cả đều được trang bị đầy đủ tiện nghi giải trí và thông tin liên lạc.

Tại TP Hồ Chí Minh, Straist Steamship Land Limited đã hợp tác với First Pacific Davies của Hongkong và hai công ty Việt Nam để xây dựng Trung tâm thương mại Sài Gòn trên đường Lê Lợi, một trong những khu thương mại lớn nhất Việt Nam, bao gồm toà nhà 11 tầng và khách sạn 5 sao 19 tầng Ngoài ra, khách sạn West Lake tại Hà Nội được đầu tư 50 triệu USD bởi một công ty Singapore, trong khi công ty Burton Engineering cải tạo khu Hoả Lò thành Hanoi Tower với vốn đầu tư 33,2 triệu USD Công ty Carmand Metalbox cũng đã xây dựng nhà máy sản xuất đồ uống với công suất 460 triệu hộp/năm.

47 Vụ Quản lý Dự án Bộ Kế hoạch và Đầu tư

Hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài đã tăng trưởng mạnh mẽ trong những năm gần đây, thu hút hơn 1,01 tỷ USD vốn đăng ký Tỷ lệ vốn đầu tư thực hiện đạt 56%, cho thấy hiệu quả đầu tư cao, trong khi doanh thu gần như đạt mức vốn đầu tư thực hiện.

Trong số các dự án đầu tư tại Việt Nam, công ty KenKen đạt doanh thu xuất khẩu 10,54 triệu USD với vốn đầu tư 4,5 triệu USD trong lĩnh vực chế biến thực phẩm Bên cạnh đó, công ty Mino đầu tư 105 triệu USD vào sản xuất sản phẩm nhôm, và công ty Rajshree với vốn đầu tư 29 triệu USD chuyên sản xuất đường.

Những khó khăn và thuận lợi trong quan hệ hai nước việt nam - singapore

Trong những năm gần đây, quan hệ thương mại và đầu tư giữa Việt Nam và Singapore đã có những bước phát triển mạnh mẽ nhờ vào sự bổ sung lẫn nhau giữa hai thị trường Sự tương thích về cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu, nguồn nhân lực, tài nguyên thiên nhiên và công nghệ kỹ thuật đã góp phần làm cho mối quan hệ này ngày càng khăng khít Tuy nhiên, những biến động của kinh tế toàn cầu và tình hình kinh tế của hai nước cũng đã ảnh hưởng trực tiếp đến mối quan hệ này, tạo ra cả thách thức lẫn cơ hội cho sự phát triển trong tương lai.

Sự thành công của Singapore trong phát triển kinh tế những năm qua phần lớn nhờ vào chính sách thương mại tự do, với khoảng 96% hàng hóa nhập khẩu không bị đánh thuế Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà xuất khẩu, đặc biệt là trong bối cảnh thị trường toàn cầu gặp nhiều rào cản thương mại và vấn đề về lao động, môi trường Singapore nổi lên như một thị trường lý tưởng cho các sản phẩm xuất khẩu từ Việt Nam, giúp tăng cường mối quan hệ thương mại giữa hai nước.

Singapore áp dụng mức thuế nhập khẩu khoảng 5% đối với mặt hàng quần áo và tạo điều kiện cho các công ty xuất nhập khẩu Việt Nam mở văn phòng đại diện tại đây Từ năm 1998, Công ty Xăng dầu Việt Nam đã thiết lập văn phòng tại Singapore, cùng với Việt Nam Airlines có công ty con hoạt động trong lĩnh vực bán vé và dịch vụ liên quan Singapore cũng chú trọng đến chiến lược phát triển kinh tế toàn cầu thông qua chương trình đầu tư trực tiếp, tập trung vào xây dựng các khu công nghiệp tại các quốc gia như Trung Quốc, Ấn Độ và Việt Nam Với lợi thế về diện tích, nguồn lao động và tài nguyên thiên nhiên, Việt Nam trở thành thị trường tiềm năng cho Singapore Để thu hút đầu tư, các cơ quan tài chính Singapore hỗ trợ vay vốn cho các công ty tại Việt Nam, đồng thời cho phép nhà đầu tư tự do đầu tư vào mọi lĩnh vực.

Kể từ năm 1985, Việt Nam đã bắt đầu công cuộc đổi mới, chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước nhằm xây dựng một nền kinh tế phát triển Chính sách kinh tế đối ngoại của Việt Nam tập trung vào việc đa dạng hoá và đa phương hoá quan hệ kinh tế với các quốc gia và tổ chức kinh tế, dựa trên nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi Việt Nam củng cố vị trí ở các thị trường truyền thống, đồng thời tích cực thâm nhập và tạo chỗ đứng trên các thị trường mới, từng bước gắn kết nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế thế giới và kết nối thị trường trong nước với thị trường quốc tế.

Thực hiện chủ trương trên, Việt Nam đã ký kết hiệp định thương mại với trên

Việt Nam có quan hệ thương mại với 65 quốc gia và vùng lãnh thổ trên toàn cầu, trong đó Singapore là một trong những đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam.

Quan hệ giữa Việt Nam và Singapore đang ngày càng phát triển mạnh mẽ, thể hiện qua nhiều hiệp định quan trọng như Hiệp định hợp tác kinh tế, Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, và Hiệp định tránh đánh thuế hai lần Uỷ ban hợp tác kinh tế Việt Nam - Singapore, với sự chủ trì của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Xuân Giá, đã tổ chức 5 kỳ họp nhằm thảo luận và thúc đẩy quan hệ kinh tế thương mại giữa hai nước Để tăng cường hợp tác thương mại, Việt Nam và Singapore đã tích cực thành lập các Nhóm công tác chung.

Nhóm công tác Thương mại và phân phối giữa Việt Nam và Singapore, cùng với Nhóm công tác về chuyển đổi ngoại hối được thành lập vào năm 1998, và Nhóm công tác về nông, lâm, ngư nghiệp thành lập năm 1999, đã đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy hợp tác kinh tế giữa hai quốc gia.

Chính phủ Việt Nam đang nỗ lực thu hút đầu tư nước ngoài với nhiều giải pháp quan trọng nhằm cải thiện môi trường đầu tư FDI được xem là một phần thiết yếu trong nền kinh tế quốc dân, thể hiện sự quan tâm cao độ của chính phủ đối với lĩnh vực này.

Việt Nam nổi bật với sự ổn định chính trị và xã hội, không có xung đột tôn giáo hay sắc tộc, cùng với nguồn lao động chất lượng và chi phí thấp Các nhà đầu tư Singapore đánh giá cao sự thanh bình và an toàn, xem đây là yếu tố quyết định khi lựa chọn thị trường đầu tư Điều này tạo thuận lợi cho việc thu hút đầu tư từ Singapore, đặc biệt trong bối cảnh thế giới đang đối mặt với nhiều bất ổn về an ninh và chính trị.

Một thuận lợi khác cho việc phát triển kinh tế thương mại Việt Nam - Singapore là Việt Nam và Singapore cùng nằm trong khối hợp tác kinh tế

56 http://www.mpi-oda.gov.vn

Việc thành lập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và Khu vực đầu tư ASEAN (AIA) đánh dấu bước tiến quan trọng trong hợp tác kinh tế giữa các nước thành viên ASEAN, với Singapore là quốc gia tiên phong trong việc triển khai AFTA Nhờ Hiệp định thuế quan ưu đãi CEPT, 98,6% hàng hóa tại Singapore được áp dụng mức thuế từ 0% đến 5%, tạo điều kiện thuận lợi cho hàng Việt Nam thâm nhập thị trường với giá cạnh tranh Singapore, nơi có hơn 5.000 công ty đa quốc gia, có khả năng tiêu thụ lớn hàng xuất khẩu của Việt Nam, giúp doanh nghiệp Việt tận dụng lợi thế này để gia tăng xuất khẩu các mặt hàng như gạo, cà phê, cao su, hạt tiêu và hải sản Việc mở rộng quan hệ kinh tế với các nước ASEAN không chỉ có lợi cho Singapore mà còn khẳng định chính sách hội nhập kinh tế đúng đắn của họ trong suốt hơn 30 năm qua Sự cắt giảm thuế quan và gỡ bỏ hàng rào phi thuế sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp Singapore mở rộng thị trường với chi phí tối thiểu Singapore hiện là nước dẫn đầu khu vực về công nghệ, và việc thực hiện AIA sẽ tiếp tục thúc đẩy đầu tư ra nước ngoài của các công ty Singapore vào các thành viên ASEAN.

Mối quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam và Singapore đang phát triển mạnh mẽ nhờ vào những thuận lợi khách quan và chủ quan Việc tận dụng những cơ hội này sẽ gia tăng lợi ích kinh tế cho cả hai nước trong tương lai.

Mặc dù quan hệ kinh tế - thương mại giữa Việt Nam và Singapore đã có sự tăng trưởng nhanh chóng trong những năm gần đây, nhưng tỷ trọng kim ngạch thương mại của Việt Nam trong tổng kim ngạch của Singapore với thế giới chỉ chiếm hơn 1% Singapore là một thị trường khó tính, yêu cầu hàng hóa chất lượng cao từ các thương hiệu nổi tiếng toàn cầu như Mobil Oil, Caltex, và Mercedes Dù Việt Nam có lợi thế về lao động rẻ và giá thành thấp, nhưng chất lượng sản phẩm vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường Singapore, nơi mà người tiêu dùng đã quen với các sản phẩm từ các thương hiệu danh tiếng.

Nền kinh tế Singapore đang trải qua sự suy thoái nghiêm trọng nhất trong 15 năm qua, do tính chất nhạy cảm và phụ thuộc vào sự phát triển kinh tế toàn cầu, đặc biệt là từ Mỹ, Nhật Bản và EU Sự giảm sút nhu cầu hàng điện tử từ các đối tác chiến lược đã dẫn đến xuất khẩu giảm, thất nghiệp tăng, và tiêu dùng nội địa cũng giảm theo Mặc dù Singapore có tỷ lệ tiết kiệm cao, chiếm tới 49,8% GDP, nhưng tình hình kinh tế khó khăn sẽ làm thu hẹp nhu cầu tiêu dùng Chính phủ đã thực hiện các biện pháp như giảm 2% thuế thu nhập cá nhân để kích thích tiêu dùng, nhưng khả năng tăng kim ngạch xuất khẩu hàng Việt Nam vào thị trường Singapore vẫn gặp nhiều khó khăn.

Bảng 3.1: Tốc độ tăng trưởng kinh tế các quốc gia và các khu vực 1999 - 2003

Nước và khu vực 1999 2000 2001 2002 2003 ĐÔNG á 7,6 8,3 3,9 5,2 6,2

Mông Cổ 3,2 1,1 1,5 3,0 4,9 Đài Loan 5,4 5,9 -1,9 2,8 4,0 ĐÔNG NAM á 3,8 5,9 1,9 3,4 4,3

*Nguồn: ASIAN Development Outlook 2002, ADB, 4/2002 Chú thích ***: chưa có số liệu

Đầu tư tại Việt Nam gặp phải một số thách thức phổ biến, bao gồm cơ sở hạ tầng chưa phát triển đầy đủ và hệ thống pháp lý còn nhiều bất cập.

Trong quá trình hoàn thiện, chính sách thuế và tài chính ở châu Á Thái Bình Dương vẫn chưa đồng bộ, dẫn đến tình trạng hối lộ và quan liêu Thủ tục hành chính còn phức tạp và thiếu quy chế thống nhất, trong khi hiểu biết giữa các đối tác bị hạn chế do thiếu thông tin.

Các biện pháp nhằm thúc đẩy quan hệ kinh tế thương mại giữa việt nam - singapore

1 Các biện pháp nhằm thúc đẩy quan hệ thương mại

Xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam trong 6 tháng đầu năm 2002 ước đạt 7.327.243 nghìn USD, giảm 3,6% so với cùng kỳ năm 2001, chủ yếu do kinh tế các nước nhập khẩu chưa hồi phục và nhu cầu tiêu dùng thấp Giá xuất khẩu nhiều mặt hàng giảm, trong đó mặt hàng chủ lực giảm 6,7%, cùng với chất lượng sản phẩm thấp và mẫu mã kém đa dạng Xuất khẩu sang Singapore cũng giảm, chỉ đạt 81,4% so với năm trước Để thúc đẩy xuất khẩu, cần thực hiện các biện pháp như đơn giản hoá thủ tục, ký hợp đồng bao tiêu nông sản, giảm phí đầu vào, và nâng cao chất lượng sản phẩm Đồng thời, cần nâng cao khả năng cạnh tranh và đầu tư vào các ngành có lợi thế, hình thành các công cụ hỗ trợ xuất khẩu như ngân hàng xuất nhập khẩu và bảo hiểm xuất khẩu.

1.1 Hỗ trợ sản xuất và đẩy mạnh tiêu thụ nông sản

1.1.1 Thưởng theo kim ngạch xuất khẩu

Chỉ thị số 31/2001 và Nghị quyết số 05/2002 của Chính phủ đã mở rộng đối tượng được thưởng theo kim ngạch xuất khẩu năm 2002 Ngày 21/05/2002, Bộ Tài chính ban hành quyết định số 63/2002/QĐ-BTC công bố mức thưởng cho các mặt hàng cụ thể.

- Gạo các loại: 180 đồng/USD; Cà phê, trong đó: Cà phê nhân 220 đồng/USD;

Cà phê hòa tan và cà phê bột có giá 100 đồng/USD, trong khi thịt gia súc và gia cầm cũng được bán với mức giá tương tự Các loại chè có giá cao hơn, khoảng 220 đồng/USD Lạc nhân có giá 100 đồng/USD.

Thủ công mỹ nghệ: 100 đồng/USD; Đồ nhựa: 100 đồng/USD; Hàng cơ khí: 100 đồng/USD;

Trong số 13 nhóm mặt hàng được thưởng, có 11 nhóm thuộc khu vực nông nghiệp nông thôn, cho thấy nỗ lực lớn của nhà nước trong bối cảnh ngân sách hạn chế Do đó, các doanh nghiệp cần sử dụng tiền thưởng một cách hiệu quả Để phát huy tác dụng tích cực của chế độ thưởng và tạo thuận lợi cho thương nhân, việc thẩm định hồ sơ đã được phân cấp cho các tỉnh UBND các tỉnh cần chỉ đạo sát sao để đảm bảo quy trình thực hiện đúng quy định của Nhà nước, đồng thời quy định thời gian giải quyết hồ sơ cụ thể cho tất cả các cấp tham gia thẩm định.

1.1.2 Ký hợp đồng tiêu thụ sản phẩm với nông dân Biện pháp này được đề cập từ nhiều năm nay nhưng chưa phát huy được tác dụng trong sản xuất hàng xuất khẩu vì 3 lý do Một là, sản xuất nông nghiệp của ta còn khá manh mún Để có đủ hàng hoá, doanh nghiệp phải ký hợp đồng và theo dõi tiến độ thực hiện hợp đồng của rất nhiều hộ nông dân, đòi hỏi nhiều thời gian và chi phí Hai là, doanh nghiệp chỉ có thể ký hợp đồng tiêu thụ sản phẩm dài hạn với nông dân khi bản thân họ đã có đầu ra ổn định Trong bối cảnh kinh doanh còn nhiều thụ động như hiện nay, những trường hợp "có đầu ra ổn định" như vậy rất ít Cuối cùng, nếu nông dân không làm đúng theo hợp đồng đã ký, sản xuất hàng không đúng chất lượng hoặc từ chối giao hàng cho doanh nghiệp để bán thẳng ra thị trường với giá cao hơn thì doanh nghiệp thường phải gánh chịu toàn bộ hậu quả Đây là lý do quan trọng nhất làm cho không ít doanh nghiệp nản lòng Tuy nhiên để xuất khẩu thực phẩm sang Singapore, vấn đề tiêu chuẩn an toàn về thực phẩm phải được đặt lên hàng đầu Trong điều kiện hiện nay, người nông dân khó có thể tự mình đảm bảo được những quy định đó thì việc các doanh nghiệp trực tiếp kiểm soát ngay từ khâu nuôi trồng là hợp lý Để triển khai hình thức ký hợp đồng tiêu thụ sản phẩm với nông dân, trước hết cần có cơ chế ràng buộc trách nhiệm thật rõ ràng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cần nghiên cứu soạn thảo một số hợp đồng mẫu, trong đó nêu rõ các hình thức chế tài để doanh nghiệp và người nông dân tham khảo UBND các tỉnh cần tham gia sâu hơn vào việc giám sát và đôn đốc thực hiện hợp đồng Nếu cần, UBND tỉnh có thể trở thành trung gian bảo lãnh Trường hợp nông dân không tuân thủ hợp đồng đã ký thì UBND tỉnh đền bù cho doanh nghiệp Ngược lại, nếu doanh nghiệp không thực hiện đúng hợp dồng đã ký thì UBND tỉnh sẽ đền bù cho nông dân trước, truy đòi từ doanh nghiệp sau Tóm lại, nếu không có sự tham gia sâu của UBND các tỉnh để giải quyết vấn đề "tin tưởng lẫn nhau" thì việc tổ chức sản xuất theo hợp đồng sẽ rất khó thành công. Để hỗ trợ cho các tỉnh và các doanh nghiệp, Nhà nước có thể đưa ra một số ưu đãi như dành một phần chỉ tiêu xuất khẩu theo hợp đồng bao tiêu sản phẩm với nông dân hoặc cho các doanh nghiệp này được tiếp cận tín dụng của Quỹ hỗ trợ phát triển, xem xét xử lý khó khăn về tài chính do biến động giá cả Tuy nhiên, không nên quá ỷ lại vào những ưu đãi này bởi trên thực tế đã có một số trường hợp bao tiêu sản phẩm thành công mà không cần đến ưu đãi của Chính phủ.

1.1.3 Tiếp tục hạ chi phí đầu vào cho sản xuất nông nghiệp Để hạ chi phí đầu vào cho sản xuất hông nghiệp, có thể xem xét bãi bỏ toàn bộ các khoản thu tại cửa khẩu đối với phân bón và thuốc bảo vệ thực vật nhập khẩu trong đó có thuế VAT Trên thế giới đã có nước làm việc này Cụ thể là vào tháng 2/2001 Côlômbia đã bỏ thu thuế VAT tại của khẩu đối với nguyên liệu sản xuất thuốc bảo vệ thực vật Ngân sách của họ dự kiến bị giảm khoảng 26 triệu USD/năm nhưng việc làm này sẽ rất có ích cho sản xuất nông nghiệp tại nước họ, đặc biệt là cà phê Đối với phân bón, không nên nâng thuế suất nhập khẩu 59 1.1.4 Công tác bảo đảm an toàn thực phẩm

Singapore đã ban hành Đạo luật Bán hàng Thực phẩm nhằm quản lý chất lượng và vệ sinh thực phẩm nhập khẩu Nhờ vào việc kiểm soát an toàn thực phẩm chặt chẽ từ nguồn cung cấp, quốc gia này chưa ghi nhận các bệnh dịch lớn liên quan đến thực phẩm Để hàng hóa Việt Nam có thể thâm nhập vào thị trường Singapore, cần phải giải quyết triệt để các vấn đề liên quan đến an toàn thực phẩm.

Cấm sử dụng và quy định tiêu chuẩn cho chế biến nông thủy sản xuất khẩu là cần thiết để nâng cao năng lực kiểm tra dư lượng hóa chất Các loại kháng sinh và hóa chất trong danh mục cấm của Bộ Thủy sản và Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn bị nghiêm cấm từ nhập khẩu đến vận chuyển sản phẩm Việc xử lý nghiêm các vi phạm, ngay cả khi chưa gây hậu quả nghiêm trọng, là rất quan trọng Cần điều chỉnh và bổ sung pháp luật để quy định rõ các hình thức chế tài cho các vi phạm này.

- Các cơ quan hải quan, biên phòng cần tăng cường kiểm tra, kiểm soát ở các cửa khẩu đối với loại hàng này.

Các nhà máy chế biến thực phẩm xuất khẩu cần tuân thủ các tiêu chuẩn an toàn thực phẩm nghiêm ngặt Để đảm bảo chất lượng, có thể xem xét đưa chế biến nông sản, đặc biệt là nông sản xuất khẩu, vào danh mục kinh doanh có điều kiện, thay vì để tự do như hiện nay.

59 Thông tin kinh tế xã hội số 1/2002

Nhà nước cần tăng cường đầu tư vào năng lực kiểm tra chất lượng hàng hóa, đặc biệt là đối với hàng xuất khẩu Để nâng cao hiệu quả, có thể mời các doanh nghiệp giám định uy tín từ nước ngoài hợp tác với Chính phủ trong việc thực hiện kiểm tra chất lượng Tỷ lệ nông thủy sản xuất khẩu phải qua kiểm tra chất lượng của nhà nước cần được nâng cao, với một số mặt hàng có thể đạt đến 100%.

Các bộ ngành trung ương cần phối hợp chặt chẽ để nâng cao quản lý vệ sinh an toàn thực phẩm, công khai danh mục các chất kháng sinh và hóa chất Đồng thời, cần quản lý nghiêm ngặt việc nhập khẩu và ngăn chặn hiệu quả tình trạng nhập lậu kháng sinh, thuốc bảo vệ thực vật vào Việt Nam.

Kể từ năm 1997, chính phủ Singapore đã thực hiện chính sách cấp phép cho các cơ sở chế biến hải sản từ các quốc gia xuất khẩu sang Singapore Điều này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đảm bảo an toàn thực phẩm như một biện pháp thiết yếu để thúc đẩy xuất khẩu thực phẩm vào thị trường này.

1.2 Hạ giá thành, nâng cao sức cạnh tranh cho hàng xuất khẩu Đây là vấn đề mang tính cốt lõi, có tác dụng về lâu dài, phục vụ đồng thời nhiều mục tiêu, trong đó có nhiệm vụ đẩy mạnh xuất khẩu Có những việc ở tầm nhà nước nhưng cũng có những việc mà doanh nghiệp phải tự làm là chính để nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm do doanh nghiệp sản xuất ra.

1.2.1 Rà soát để hạ chi phí đầu vào xuống mức hợp lý

Nghị quyết số 05/2002 của Chính phủ giao Bộ Tài chính phối hợp rà soát chi phí dịch vụ đầu vào cho hàng xuất khẩu Theo điều tra của Ngân hàng Thế giới, phí tại cảng Sài Gòn, tính theo sức mua ngang giá, cao hơn mức trung bình khu vực tới 146%.

Cảng Hải Phòng có mức phí cao hơn 64% so với cảng Sài Gòn, tuy nhiên, cảng Thượng Hải lại có chi phí cao hơn cả hai cảng này nhưng lại đạt năng suất vượt trội Mức phí cao tại cảng Sài Gòn và cảng Hải Phòng đã tạo ra một loại "thuế xuất khẩu vô hình" cho hàng hóa xuất khẩu Khi tính thêm chi phí kho bãi và hiệu suất cảng thấp, mức "thuế vô hình" này lên tới 50 USD cho mỗi container 20 feet tại cảng Sài Gòn và 29 USD cho mỗi container 20 feet tại cảng Hải Phòng.

Ngày đăng: 15/10/2022, 09:29

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Bảng 1.1: Ngoại thương Singapore - Một số giải pháp nhằm phát triển  củng cố quan hệ kinh tế thương mại giữa 2 nước việt nam   singapore
Bảng 1.1 Ngoại thương Singapore (Trang 9)
Bảng 2.1: Thương mại hàng hoá thế giới năm 2001: - Một số giải pháp nhằm phát triển  củng cố quan hệ kinh tế thương mại giữa 2 nước việt nam   singapore
Bảng 2.1 Thương mại hàng hoá thế giới năm 2001: (Trang 32)
Bảng 2.3: Xuất khẩu hàng hoá của các nước ASEAN - Một số giải pháp nhằm phát triển  củng cố quan hệ kinh tế thương mại giữa 2 nước việt nam   singapore
Bảng 2.3 Xuất khẩu hàng hoá của các nước ASEAN (Trang 34)
Bảng 2.5: Xuất nhập khẩu của Việt Nam sang các nước ASEAN 6T/2002 - Một số giải pháp nhằm phát triển  củng cố quan hệ kinh tế thương mại giữa 2 nước việt nam   singapore
Bảng 2.5 Xuất nhập khẩu của Việt Nam sang các nước ASEAN 6T/2002 (Trang 37)
II. Hiện trạng quan hệ thương mại giữa Việt Nam -Singapore giai đoạn 1995-2001 - Một số giải pháp nhằm phát triển  củng cố quan hệ kinh tế thương mại giữa 2 nước việt nam   singapore
i ện trạng quan hệ thương mại giữa Việt Nam -Singapore giai đoạn 1995-2001 (Trang 38)
Bảng 2.6: Ba nhà đầu tư lớn nhất của ASEAN tại Việt Nam - Một số giải pháp nhằm phát triển  củng cố quan hệ kinh tế thương mại giữa 2 nước việt nam   singapore
Bảng 2.6 Ba nhà đầu tư lớn nhất của ASEAN tại Việt Nam (Trang 38)
1. Tình hình xuất khẩu từ Việt Nam vào Singapore 1.1. Kim ngạch - Một số giải pháp nhằm phát triển  củng cố quan hệ kinh tế thương mại giữa 2 nước việt nam   singapore
1. Tình hình xuất khẩu từ Việt Nam vào Singapore 1.1. Kim ngạch (Trang 40)
Bảng 2.9: Nhóm mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam sang Singapore - Một số giải pháp nhằm phát triển  củng cố quan hệ kinh tế thương mại giữa 2 nước việt nam   singapore
Bảng 2.9 Nhóm mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam sang Singapore (Trang 46)
2. Tình hình nhập khẩu 2.1. Kim ngạch nhập khẩu - Một số giải pháp nhằm phát triển  củng cố quan hệ kinh tế thương mại giữa 2 nước việt nam   singapore
2. Tình hình nhập khẩu 2.1. Kim ngạch nhập khẩu (Trang 47)
Bảng 2.11: Nhóm mặt hàng nhập khẩu chủ lực của Việt Nam từ Singapore - Một số giải pháp nhằm phát triển  củng cố quan hệ kinh tế thương mại giữa 2 nước việt nam   singapore
Bảng 2.11 Nhóm mặt hàng nhập khẩu chủ lực của Việt Nam từ Singapore (Trang 51)
Bảng 2.12: Xuất nhập khẩu của Singapore sang Việt Nam giai đoạn 1995-2001 - Một số giải pháp nhằm phát triển  củng cố quan hệ kinh tế thương mại giữa 2 nước việt nam   singapore
Bảng 2.12 Xuất nhập khẩu của Singapore sang Việt Nam giai đoạn 1995-2001 (Trang 60)
Hình thức 100% vốn đầu tư nước ngồi, tuy mới gia tăng trong những năm gần đây, đến nay đã thu hút hơn 1,01 tỷ USD vốn đăng kí, đạt tỷ lệ vốn đầu tư thực hiện khá cao (56%) và doanh thu đã xấp xỉ vốn đầu tư thực hiện. - Một số giải pháp nhằm phát triển  củng cố quan hệ kinh tế thương mại giữa 2 nước việt nam   singapore
Hình th ức 100% vốn đầu tư nước ngồi, tuy mới gia tăng trong những năm gần đây, đến nay đã thu hút hơn 1,01 tỷ USD vốn đăng kí, đạt tỷ lệ vốn đầu tư thực hiện khá cao (56%) và doanh thu đã xấp xỉ vốn đầu tư thực hiện (Trang 66)
Bảng 2.14: Một số dự án của Singapore kinh doanh hiệu quả - Một số giải pháp nhằm phát triển  củng cố quan hệ kinh tế thương mại giữa 2 nước việt nam   singapore
Bảng 2.14 Một số dự án của Singapore kinh doanh hiệu quả (Trang 69)
VĐTĐK (triệu - Một số giải pháp nhằm phát triển  củng cố quan hệ kinh tế thương mại giữa 2 nước việt nam   singapore
tri ệu (Trang 69)
Ảnh 3.21: Hình ảnh vi thể lách chuột lô chứng sinh học - Một số giải pháp nhằm phát triển  củng cố quan hệ kinh tế thương mại giữa 2 nước việt nam   singapore
nh 3.21: Hình ảnh vi thể lách chuột lô chứng sinh học (Trang 99)

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w